Học phần: GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Chủ đề: BÌNH ĐẲNG TRONG GIÁO DỤC VÀ Y TẾ
I.
Thực trạng về bình đẳng giới trong giáo dục và y tế:
Trong những năm qua, vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn: khoảng cách bất bình đẳng giới trong lao động, việc làm, thu nhập
không ngừng được rút ngắn; số phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực kinh tế chính trị,
văn hoá, xã hội tăng lên nhiều. Đặc biệt, bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và
y tế được quan tâm chú trọng nhiều hơn, điều kiện học tập và chăm sóc sức khỏe ở
các giới được cải thiện công bằng:
- Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao
trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người
biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả
các cấp bậc học được thu hẹp. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa
bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015.
- Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là vai
trò của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện tương đối
tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã
khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ: “Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành , giới
nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghệp Giáo dục và Đào tạo nước
nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại học
Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí phó Hiệu Trưởng. Nhiều nữ nhà giáo
được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức danh phó Giáo sư.
Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định vai trò của giới mình bằng
cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả suất sắc. Trong các kì tuyển sinh
vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ. Còn trong các kì thi tốt
nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất sắc: thủ khoa.
- Trong 10 năm qua, nước ta đã có nhiều nỗ lực trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ,
SKSS và kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ), nên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
+ Tuổi thọ trung bình của phụ nữ là 675%, tương đương với nhiều quốc gia có
trình độ kinh tế và mức sống cao hơn rất nhiều.
+Tỷ lệ sinh đẻ có sự chăm sóc của cơ sở y tế tăng từ 55% trong giai đoạn 19901994 lên tới 71% trong giai đoạn 1995-1997.
+ Tỷ lệ tử vong do tai biến trong sinh sản đã giảm trên quy mô toàn quốc. Tỷ lệ
các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai có xu hướng tăng nhanh. Giải
thưởng Dân số của Liên Hợp Quốc trao cho Việt Nam năm 1999 là một sự ghi
nhận những nỗ lực đó.
- Trong những năm gần đây, vấn đề SKSS và các biện pháp tránh thai đã được
ngành y tế đầu tư một cách thích đáng để nhằm cung cấp các dịch vụ SKSS có chất
lượng cao cho phụ nữ, đặc biệt là đối với nhóm phụ nữ sống ở các vùng nông thôn,
miền núi và hải đảo.
Mặc dù chúng ta đã đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực giáo dục và y tế,
song thách thức vẫn còn nhiều. Vẫn còn có sự bất bình đẳng trong hưởng thụ các
dịch vụ y tế giữa các vùng, miền và giữa các nhóm xã hội. Kết quả điều tra cho
thấy, 62% phụ nữ nông thôn được chăm sóc trước sinh so với 81% phụ nữ thành
thị. Gần 1/3 (31%) tổng số phụ nữ sinh con ở bệnh viên; 1/3 sinh con tại trung tâm
y tế xã; còn lại sinh con tại nhà, chủ yếu là phụ nữ nông thôn vùng sâu vùng xa. Có
tới 44% phụ nữ nông thôn sinh con tại nhà, trong khi đó chỉ có 7% phụ nữ thành
thị làm như vậy.
Có thể giải thích điều này từ vấn đề học vấn. Học vấn của phụ nữ có ảnh hưởng
và tác động rất lớn đến việc quyết định sử dụng các dịch vụ SKSS. Nhóm phụ nữ
có trình độ học vấn cao hơn thường có kinh nghiệm và ý thức cao hơn trong chăm
sóc sức khoẻ tiền sinh sản và sử dụng các biện pháp tránh thai để trì hoãn việc
mang thai lần đầu, giảm tỷ lệ và tăng khoảng cách giữa các lần sinh.
II.
Biểu hiện của bình đẳng trong giáo dục và y tế:
1. Trong giáo dục:
1.1.
Biểu hiện của bình đẳng giới trong giáo dục:
- Hiến pháp Việt Nam công nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong giáo dục
và đào tạo. Trẻ em trai và trẻ em gái, phụ nữ và nam giới đều có quyền tham gia
vào tất cả các cấp giáo dục của xã hội.
- Cơ hội học tập của các em là như nhau, các em được tham gia học tập và hoạt
động ngoại khóa như nhau.
1.2.
Biểu hiện của bất bình đẳng giới trong giáo dục:
-, Trong sách giáo khoa có rất nhiều hình ảnh gây bất bình đẳng: có rất nhiều bài
viết, hình ảnh mang nặng định kiến giới: Nói về việc lau nhà, rửa bát, đi chợ thì vẽ
hình ảnh mẹ và con gái, việc đá bóng, vi phạm luật giao thôngchơi bời, xem ti vi
thì nhất thiết là hình bé trai và bố. Hay sách văn học cũng vậy, các câu ca dao tục
ngữ nói về thân phận hẩm hiu, khổ sở của phụ nữ quá nhiều, truyện Kiều thì đưa
các đoạn thơ nói về việc Kiều an phận, chịu khổ với tần suất lớn; Sách lịch sử thì
dày đặc những câu chuyện về vị anh hùng này, anh hùng kia là nam giới trong khi
đó nữ giới cũng có rất nhiều nhân vật anh hùng…
- Các hiện tượng bỏ học cũng chủ yếu tập trung vào trẻ em gái và trong gia đình
nghèo, cơ hội đến trường của các em gái còn thấp hơn nhiều so với các em trai
- Một số thầy cô, vẫn ưu tiên cho học sinh nam hơn học sinh nữ về sách vở, cách
giảng dạy.
2. Trong y tế:
2.1.
Biểu hiện của bình đẳng giới trong y tế:
- Là nam hay nữ đều được thăm khám và chăm sóc sức khỏe khi cần thiết cũng
như đáp ứng các nhu cầu về y tế.
- Xét về mặt giới tính thì phụ nữ có đặc điểm cơ thể cũng như sinh lý yếu hơn nam
giới, vì vậy họ cũng được ưu tiên trong một số hoạt động cũng như chăm sóc sức
khỏe khi mang thai, chăm sóc con nhỏ.
- Phụ nữ và nam giới đều tham gia vào công tác y tế một cách bình đẳng và có
đóng góp tích cực cho ngành y tế.
2.2.
Biểu hiện của bất bình đẳng giới trong y tế:
- Thông thường khi đề cập đến bác sĩ người ta vẫn gắn vào đó là hình ảnh người
con trai, còn phụ nữ thì gắn liền với người y tá đi sau hỗ trợ cho bác sĩ. Cũng chính
vì vậy mà phụ nữ ít được thăng tiến cũng như được đề bạt cho các chức vụ cao
trong ngành y tế.
-Chức vụ viện trưởng thường sẽ do người nam đảm nhận.
- Phụ nữ phải chịu trách nhiệm về việc tránh thai vẫn còn tồn tại khá phổ biến, mặc
dù trên thực tế, nam giới cũng có cố gắng trong lựa chọn biện pháp kế hoạch hóa
gia đình
- Các gia đình có tư tưởng trọng nam khinh nữ, khi người phụ nữ không mang thai
được con trai thì họ phải sử dụng cách phá bỏ, điều này là một phần gây nên tỷ lệ
nạo phá thai cao ở nước ta.
III.
Nguyên nhân của bất bình đẳng trong giáo dục và y tế:
1. Bất bình đẳng giới trong giáo dục:
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ xuất hiện trong gia đình và xã hội. ( Các mối quan
hệ giới ngay từ đầu đã được định hình qua quá trình xã hội hóa cá nhân và còn
truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến giới của cha
mẹ biểu hiện như: quan niệm cho rằng các em gái không cần phải học nhiều mà
cần phải làm việc nội trợ giúp gia đình. Điều này khiến cho cơ hội học tập của trẻ
em gái bị hạn chế và còn tác động đến nhận thức của trẻ, trẻ tự mặc định cho mình
về vị trí,vai trò trong gia đình cũng như xã hội..)
- Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục.
Tình trạng đói nghèo của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các nghiên
cứu xã hội học về giáo dục cho thấy một tỉ lệ bỏ học rất đáng kể của những trẻ em
xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ ít học thậm chí là không biết chữ sống ở vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo ra những
kết cục phân biệt về giới. Các chính sách, cùng với các chuẩn mực xã hội hay phân
công đồng đều có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực không đồng đều giữa
nam và nữ. Việc không nhận thức được hoặc bỏ qua sự khác biệt về giới khi thiết
kế các chính sách có thể có hại cho hiệu lực của các chính sách đó, xét cả trên khía
cạnh công bằng lẫn hiệu quả.
=> Như vậy, các thể chế xã hội, thể chế kinh tế, hộ gia đình và các chính sách
phát triển sẽ cùng nhau quyết định các cơ hội cuộc sống – xét trên khía cạnh giới –
của con người, chúng cũng thể hiện những điểm đột phá quan trọng cho chính sách
công cộng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng giới.
2. Bất bình đẳng giới trong y tế:
- Do định kiến về việc lựa chọn nghề nghiệp đẫn đến sự phân bổ nguồn lực không
đồng đều trong ngành y tế ( đối với nghề hộ sinh hay y tá,.. thì lực lượng nữ chiếm
phần lớn so với nam; số lượng bác sĩ nữ còn thấp hơn nhiều so với bác sĩ nam,..)
- Các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe dành cho nữ nhiều hơn so với nam. (Trong
nhiều năm qua, chỉ mới có các dịch vụ CSSKSS dành cho nữ giới mà chưa có dự
án chuyên biệt nào dành riêng cho nam giới. Đối với nam giới chỉ là sự tuyên
truyền, kêu gọi sự chia sẻ với nữ giới trong vấn đề thực hiện các biện pháp
KHHGD )
- Do sự khác biệt về giới tính nên nam giới và phụ nữ có những nhu cầu về việc
chăm sóc sức khỏe khác nhau, điều này dẫn đến việc phần lớn nam giới thường
quan niệm sức khỏe sinh sản và chuyện sinh đẻ là chuyện riêng của người phụ nữ.
(nữ thường là người chịu trách nhiệm về sử dụng các biện pháp tránh thai hay kế
hoạch hóa gia đình, nam giới ít quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ
em…)
IV.
Giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong giáo dục và y tế:
Bên cạnh việc bình đẳng giới trong giáo dục và y tế đang được diễn ra theo
hướng tích cực thì chúng ta không nên xem nhẹ những mặt hạn chế vẫn còn tồn tại
gây ra sự bất bình đẳng. Bởi vậy, là một nhân viên công tác công xã hội cần đề
xuất những giải pháp để giúp cho mọi người trong xã hội đều được hưởng sự bình
đẳng giới.
- Thứ nhất, thể hiện bình đẳng giới trong các chính sách, chủ trương của Đảng và
Nhà nước, tạo mọi điều kiện cho trẻ em nam và nữ đều được học hành và phát
triển. Ví dụ Nghị quyết số 11 của Bộ chính trị- BCHTW Đảng khóa X về công tác
phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
- Thứ hai, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: đổi mới và phát triển mạng lưới
tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản; giáo dục giới tính và tình dục an toàn
tuổi vị thành niên. Vận động nam nữ sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn,
tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân để phòng
trừ các loại bệnh dịch.
- Thứ ba, đẩy mạnh hơn việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học trong các
nhà trường.
- Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông nâng cao nhận
thức về bình đẳng giới.
- Thứ năm, để phụ nữ có quyền bình đẳng hơn cần chú trọng vào việc đào tạo nghề
nghiệp để phụ nữ có thể tìm được công việc phù hợp tăng thu nhập. Đồng thời cân
bằng nam nữ trong bộ máy quản lý nhà nước cũng như bộ máy lãnh đạo tại các địa
phương.
- Thứ sáu, Nhà nước cần tiến hành việc phân bổ kinh phí cho các hoạt động về
bình đẳng giới, đầu tư vào y tế, giáo dục chất lượng cao. Sớm xây dựng và ban
hành bộ chỉ số về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và y tế để tiến hành thống
kê, theo dõi hàng năm nhắm đánh giá sát tình trạng bình đẳng giới.
- Thứ bảy, bản thân các chị em phụ nữ cũng cần có ý chí tự vươn lên, phấn đấu rèn
luyện theo các tiêu chí: có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng
tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.