Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Báo cáo thực tập về tội giết người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.79 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Đề tài: Thực trạng xét xử tội “Giết người” tại Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng

Thời gian: 01.12.2013 – 24.01.2014
Địa điểm: Tòa án nhân dân Tp Đà Nẵng
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Linh
Khóa K34

1


Huế, 2/2014Nhận xét của giáo viên
……………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………...
Điểm

Chữ kí giáo viên

2


1.

Nội dung
1.1.

Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân
dân thành phố Đà Nẵng

ỦY BAN THẨM PHÁN

TÒA

TÒA

TÒA

TÒA

TÒA

PHÒN
G


PHÒN
G

HÌNH

DÂN

KINH

LAO

HÀNH

TỔ

GIÁM

VĂN

CÁC

SỰ

SỰ

TẾ

ĐỘNG


CHÍN
H

CHỨC

ĐỐC

PHÒN
G

QUẬN

CÁN

THẨM

TAND

HUYỆ
N

ỦY BAN THẨM PHÁN
1. Ông Nguyễn Văn Quận – Chánh án
2. Ông Nguyễn Thành – Phó Chánh án
3. Ông Đặng Ánh – Phó Chánh án
4. Bà Lê Thị Ngọc Hà – Chánh tòa Hình sự
5. Ông Lê Tự - Chánh tòa Kinh tế
6. Ông Trương Chí Trung – Chánh tòa Dân sự
7. Ông Trần Đình Quảng – Thẩm phán, Chánh văn phòng


3


Hiện nay, Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng có 5 Toà chuyên trách, 03
Phòng nghiệp vụ và 07 Toà án quận huyện với tổng số 202 biên chế. Trong
đó có 82 thẩm phán, 98 thư ký, và 22 chức danh khác
2.2. Nhận xét về việc áp dụng pháp luật
Vấn đề áp dụng pháp luật của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng được thực hiện chính xác, cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật
cũng như các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
Riêng đối với các vụ án “Giết người” Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng chú trọng đặc biệt, vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cả bị
hại và bị cáo, vừa trừng trị thích đáng, đúng pháp luật kẻ phạm tội, bởi lẽ
khung hình phạt cao nhất có thể áp dụng là tử hình. Đảm bảo thời hạn chuẩn
bị xét xử theo quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự; đảm bảo đúng thủ tục
bắt đầu phiên tòa, giải thích quyền của bị cáo, bị hại và những người tham
gia tố tụng khác; đối với tội giết người, cũng như bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà họ hoặc
người đại diện hợp pháp không mời được luật sư hoặc không có điều kiện để
mời thì Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng chỉ định luật sư
tham gia tố tụng tại Tòa để đảm bảo quyền lợi cho họ theo đúng quy định tại
Điều 57 hoặc hoãn phiên tòa nếu không có mặt của luật sư theo điều 190 bộ
luật hình sự. Đồng thời Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng cũng đảm bảo
thực hiện theo đúng pháp luật các trường hợp hoãn phiên tòa do không có
mặt của bị cáo (Điều 187); người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp
pháp của họ (Điều 191); người làm chứng (Điều 192). Đảm bảo đúng thời
hạn hoãn phiên tòa không quá ba mươi ngày đối với phiên tòa sơ thẩm (Điều
194)…
4



Tuy nhiên trong báo cáo tổng kết Toàn ngành Tòa án thành phố Đà
Nẵng qua các năm thì vẫn còn có các sai sót như án hủy, sữa vẫn xảy ra.
Ngoài những nguyên nhân khách quan là có tình tiết mới sau khi xét xử sơ
thẩm, thì trong xét xử án hình sự các sai sót còn lặp lại như: Điều tra không
đầy đủ, định tội danh không đúng; xác định tư cách người tham gia tố tụng
không đúng, không đầy đủ, giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự trong vụ án
hình sự chưa chính xác nên bị cấp phúc thẩm hủy, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ
thẩm xét xử lại. Ngoài ra, còn có sai sót trong quyết định hình phạt: một số
trường hợp xử phạt nhẹ, không đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Một số trường hợp lại xử phạt quá nghiêm khắc không cần thiết.
Nguyên nhân áp dụng pháp luật không đúng: Chưa cập nhật kịp thời các
văn bản pháp luật sửa đổi bổ sung, hướng dẫn nghiệp vụ của Tòa án nhân
dân tối cao, do vậy đã áp dụng pháp luật không đúng. Việc tiến hành các
hoạt động điều tra thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ trong một số trường
hợp còn chưa thật sự toàn diện nên quyết định của bản án thiếu tính thuyết
phục. Một số trường hợp không giao các quyết định của Tòa án đúng thời
hạn quy định theo Điều 182; bị cáo khi đưa ra xét xử vẫn chưa nhận được
quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án của mình…Việc xét
xử phúc thẩm, xét xử gộp một buổi từ bốn đến năm vụ án gây áp lực thời
gian cho những người tiến hành tố tụng và cả những người tham gia tố tụng.
Vấn đề định tôi danh, cụ thể đối với các vụ án “Giết người” nhưng hậu quả
không gây chết người thì việc xác định là “Cố ý gây thương tích” hay “Giết
người” là vấn đề cực kì quan trọng. Bởi trên thực tiễn xét xử, việc xác định ý
thức chủ quan của bị cáo là rất khó khăn trong trường hợp không xác định ý
thức chủ quan của bị cáo là giết người. Những trường hợp này thì hậu quả đến
đâu, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đến đấy.
Cũng có quan điểm cho rằng khi không xác định rõ ý thức chủ quan của bị
cáo, nhưng hành vi khách quan thì thể hiện rõ không phải là chỉ cố ý gây

5


thương tích mà là cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác thì bị cáo phạm tội
giết người. Ví dụ như dùng hung khí nguy hiểm như mã tấu, dao, súng nhằm
vào những bộ phận quan trọng của cơ thể người khác để chém, đấm, bắn thì
cho dù hậu quả không dẫn tới chết người thì cũng phạm tội giết người. Quan
điểm này cho rằng khi sử dụng các hung khí, phương tiện nguy hiểm đó buộc
bị cáo phải nhận thức được có thể dẫn tới tước đoạt tính mạng của người khác.
Thực tế đối với vụ án thụ lý số 61/2013/HSST ngày 29.11.2013 đối với bị cáo
Nguyễn Nghề thì bị cáo đã dùng dao dài 25 cm đâm 2 nhát vào vùng ngực, khi
nạn nhân la lên thì bị cáo tiếp tục đâm 4 nhát vào tay và bụng của nạn nhân cho
đến khi vợ của nạn nhân kêu cứu thì bị cáo mới dừng lại. Trong trường hợp này
hậu quả gây ra cho bị hại là thương tích 38%, tuy nhiên bị cáo vẫn bị Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng khởi tố tội “Giết người” theo khoản 1,
Điều 93 Bộ luật hình sự. Tòa án nhân dân Đà Nẵng cho rằng cáo trạng của
Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đây là một trong
những trường hợp điển hình về việc xử phạt tội “Giết người” khi không có hậu
quả là chết người, quan điểm mà Tòa án và Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng
đưa ra là vị trí đâm của bị cáo là vùng ngực, là vùng trọng yếu của cơ thể; con
dao dùng làm hung khí dài 25cm là vũ khí nguy hiểm có khả năng làm chết
người, bị cáo còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ” nên Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Nghề phạm tội
“Giết người”, xử phạt 12 năm tù.
Trong một vụ án khác bị cáo Phạm Tấn Vũ bị Tòa án nhân dân huyện Hòa
Vang thành phố Đà Nẵng xét xử tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 104 Bộ
luật hình sự do có hành vi dùng dao gây thương tích cho anh Lê Viết Hùng với
tỉ lệ thương tích là 46%. Sau đó bản án đã bị kháng nghị do Tòa án nhân dân
huyện Hòa Vang xác định sai tội danh, quan điểm mà Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng đưa ra là bị cáo Phạm Tấn Vũ phải phạm tội “Giết người”

6


theo Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
hủy bản án sơ thẩm xét xử lại theo quy định tại Điều 250. Theo quan điểm tại
bản án số 54/2013/HSST ngày 26.12.2013 thì bị cáo Phạm Tấn Vũ đã dùng dao
phay là hung khí nguy hiểm đâm nhiều nhát vào vùng ngực, vùng ngực là vùng
xung yếu của cơ thể, bị cáo phải ý thức được hậu quả có thể xảy ra là tước đoạt
sinh mạng của người bị hại do đó đã tuyên phạt 7 năm tù về tội “Giết người”.
Theo tôi, việc định tội danh giết người trong những trường hợp này là
đúng pháp luật mặc dù hậu quả chưa xảy ra, do việc xác định ý thức chủ quan
của bị cáo là rất khó, do đó trong các vụ án không có hậu quả chết người xảy ra
cơ quan tiến hành tố tụng nên xem xét thêm về vị trí đâm, hung khí, tính chất
của hành vi…để xác định tội danh cho chính xác đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật để tránh sai sót như Tòa án nhân dân Huyện Hòa Vang đã làm.
Về tình hình phạm tội “Giết người” thụ lý tại Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng được thống kê qua bảng sau:


SỐ VỤ
SỐ BỊ CÁO
M
2009
11
39
2010
17
23
2011
5

7
2012
15
31
2013
14
32
Thống kê số vụ án và số bị cáo phạm tội giết người thụ lý tại Tòa án nhân
dân thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 – 2013
1.2.

Những vấn đề học tập được tại Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Trong thời gian thực tập tôi được sự hướng dẫn nhiệt tình của cán bộ
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, thời gian thực tập từ ngày 1/12/2013 –
24/1/2014 tôi đã học hỏi được rất nhiều, được ôn lại các kiến thức đã được
7


học tại trường, việc áp dụng pháp luật, các kĩ năng, phương pháp làm việc…
bước đầu có thể định hình được công việc của những chức danh tại Tòa án.
Thứ nhất, về kiến thức. Trong thời gian thực tập cán bộ hướng dẫn cho
tiếp xúc, đọc các hồ sơ vụ án đã xét xử, các vụ trọng án, đặc biệt là hồ sơ các
vụ án mới vừa thụ lý chưa đưa ra xét xử. Việc tiếp xúc hồ sơ vụ án giúp tôi
có thể tổng quát được quá trình giải quyết một vụ án hình sự từ giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử…nắm vững các thủ tục, trình tự giải quyết vụ án.
Nắm chắc các trình tự tố tụng theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giải quyết
khiếu nại của đương sự...Trong quá trình tiếp xúc hồ sơ, thực tập tại tòa giúp
nắm vững hơn việc xác định vấn đề mấu chốt, cấu thành tội phạm của các

tội được quy định ở bộ luật hình sự 2003.
Biết soạn thảo các văn bản trong quá trình thụ lý vụ án: giấy triệu tập bị
cáo, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm hoãn phiên tòa, quyết
định đình chỉ vụ án, quyết định tạm hoãn xét xử vụ án hình sự…
Được tham gia tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các bị cáo
đang bị tạm giam tại trại giam Hòa Sơn, tống đạt cho người làm chứng trong
vụ án Giết người tại đường Phan Thanh, TP Đà Nẵng. Các việc làm thực tế
này giúp nhớ hơn kiến thức về thời hạn giao quyết định của Tòa án và cách
xử lý các sự việc phát sinh từ người nhận quyết định.
Đối với các vụ án xét xử lưu động, được cùng tham gia chuẩn bị xét xử,
được nghe phân tích về vụ án…đây là một trong những công việc giúp một
thực tập sinh học hỏi được nhiều kiến thức nhất từ thực tế làm việc, xét xử
của Tòa án nhân dân.
Thứ hai, về tổ chức: Được tham gia góp ý dự thảo sửa đổi Luật tổ chức
Tòa án nhân dân 2002, được góp ý kiến của mình trong việc sửa đổi cơ cấu
tổ chức của tòa án nhân dân cho phù hợp với tình hình mới, đảm bảo công
tác xét xử được thực hiện một cách tốt nhất. Về việc xét xử các vụ án lưu
động, mỗi năm Tòa Hình sự đều có chỉ tiêu xét xử số vụ cụ thể nào đó, thực
8


tế trong thời gian qua ngoài các vụ án xảy ra với mức độ đặc biệt nghiêm
trọng hoặc gây bức xúc, xôn xao trong dư luận thì việc đưa ra xét xử lưu
động là hết sức hợp lý, tạo cho người dân cái nhìn hết sức nghiêm minh, bên
cạnh đó răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, để đảm bảo chỉ tiêu xét xử
lưu động được giao, đến cuối năm Tòa án tổ chức xét xử lưu động các vụ án
hình sự đơn giản, kể cả các vụ phúc thẩm, vừa gây lãng phí vừa không mang
đúng ý nghĩa cả nó.
Đối với các vụ án xét xử sơ thẩm, đội ngũ Hội thẩm nhân dân hầu như
chưa thể hiện hết được vai trò của mình, thể hiện ngay trong việc đầu tư cho

thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án. Đối với việc xét xử phúc thẩm, vụ án chủ
yếu do Chủ tọa phiên tòa đảm nhiệm nghiên cứu, các Thẩm phán còn lại ít
thể hiện vai trò của mình, hầu như không tham gia phần xét hỏi.
Đối với vai trò của luật sư, theo quan sát luật sư ít được mời tham gia
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo cũng như bị hại tại tòa. Đối với
các vụ án có khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc đối với người chưa
thành niên phạm tội được Tòa án chỉ định luật sư bào chữa thì vai trò của
luật sư được coi như “cho có” hoặc “đảm bảo thủ tục”. Vì việc bào chữa của
luật sư rất chung chung, hầu như không đưa được các quan điểm, chứng cứ
cũng như các quy định của pháp luật có lợi cho thân chủ. Hầu hết là nêu các
tình tiết giảm nhẹ hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đã nêu, không có gì
mới để Hội đồng xét xử có thể xem xét. Do đó cần nâng cao hơn nữa vai trò
của Hội thẩm nhân dân và vai trò của luật sư tranh tụng tại tòa để xét xử
được khách quan, công bằng nhất.
Những kiến nghị đề xuất
Thứ nhất, cần nhanh chóng hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ
1.3.

chức Tòa án nhân dân năm 2002 để phù hợp với tình hình mới, giúp kịp thời
đấu tranh, phòng chống có hiệu quả đối với tội phạm. Đảm bảo tổ chức Tòa
án mang lại hiệu quả cao nhất trong việc xét xử. Quan tâm cải thiện cơ sở
9


vật chất, phương tiện làm việc, chế độ chính sách; bổ sung kinh phí hoạt
động cho Toà án các cấp để tổ chức xét xử tốt các vụ án hình sự, đặc biệt là
các vụ án điểm; đồng thời, tăng cường công tác xét xử lưu động, góp phần
nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân.
Thứ hai, về công tác cán bộ. Để nâng cao chất lượng xét xử, phải đi từ
vấn đề gốc là công tác cán bộ của ngành tòa án, lực lượng cán bộ đóng vai

trò quyết định đến chất lượng xét xử, do vậy cần phải đào tạo được đội ngũ
có năng lực, phẩm chất, đạo đức, tinh thông nghiệp vụ, hạn chế đến mức
thấp nhất những vụ oan sai, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức đối với
cán bộ của ngành tòa án. Giải pháp cụ thể để tổ chức tốt công tác đào tạo là
sát hạch, nâng cao năng lực, khuyến khích việc tự học, tự đào tạo trong cán
bộ công chức của ngành; thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm qua các vụ
án; tạo điều kiện cho cán bộ được nâng cao trình độ ở trong và ngoài nước.
Đồng thời, thực hiện tốt Nghị quyết của Đảng về công tác quy hoạch, luân
chuyển, đánh giá cán bộ; nghiên cứu tổ chức thi tuyển mang tính chất cạnh
tranh, đề cử cán bộ có năng lực vào những vị trí có chức danh tư pháp hoặc
lãnh đạo.
Thứ ba, về đội ngũ Thẩm phán. Cần tăng cường số lượng Thẩm phán có
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ xét xử cao. Theo quy định của pháp luật
nhiệm kì của Thẩm phán là 5 năm, có thể nói là quá ngắn nên dễ gây nên
tiêu cực trong việc xét xử do đó kiến nghị nên tăng thời gian nhiệm kì của
Thẩm phán lên 10 – 15 năm hoặc nhiệm kì suốt đời. Tổ chức các lớp nghiệp
vụ, hội thảo thường xuyên để các Thẩm phán có cơ hội gặp gỡ trao đổi kinh
nghiệm xét xử…
Thứ tư, về đội ngũ Hội thẩm nhân dân. Hiện nay trình độ Hội thẩm nhân
dân chưa được đảm bảo, hội thẩm nhân dân hiện nay còn mang tính kiêm
nhiệm nhiều. Quá trình cơ cấu hội thẩm theo từng lĩnh vực (như giáo dục, y
tế, khoa học công nghệ, tài chính, hưu trí…) với mục đích khi có các vụ án
10


mà đương sự, bị cáo tại phiên tòa có liên quan đến các lĩnh vực nào, thì sẽ
được mời đến tham gia nghiên cứu hồ sơ để xét xử. Theo lý luận, thì hội
thẩm nhân dân là người đem hơi thở của nhân dân vào trong quá trình phán
quyết các bản án, khi các vụ án có liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ của
mình thì trong nhiều trường hợp, hội thẩm sẽ am hiểu về lĩnh vực đó hơn

thẩm phán. Tuy nhiên, hội thẩm mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng
còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp lý, đây là vấn đề bất cập trong thực
tiễn hiện nay, nên có quy định cụ thể về trình độ của Hội thẩm nhân dân ít
nhất phải là trung cấp luật để đảm bảo cho công tác xét xử. Nhiều trường
hợp hội thẩm nhân dân được thẩm phán gửi lịch xét xử trước cả tháng nhưng
đến ngày xét xử lại bận công việc đột xuất không tham gia phiên tòa, khi đó
thư ký rất bị động trong việc sắp xếp hội thẩm khác thay thế để mở phiên tòa
đúng thời gian. Bởi vì, các hội thẩm nhân dân hiện nay chủ yếu làm việc
theo cơ cấu, cho nên việc tuân thủ lịch xét xử, cũng như công tác nghiên cứu
hồ sơ các hội thẩm thường xem nhẹ. Tại phiên tòa, chủ tọa hỏi là chính, các
hội thẩm tham gia phiên tòa rất ít hỏi, nếu có hỏi thì không đúng trọng tâm,
do đó cần quy định cụ thể thời gian nghiên cứu hồ sơ để tránh trường hợp
hội thẩm không đọc hồ sơ vụ án cũng tham gia xét xử. Trách nhiệm của hội
thẩm nhân dân được Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy
định rất rõ, nhưng thực tiễn trong quá trình xét xử, nếu oan sai, án bị sửa, thì
chỉ có thẩm phán chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Chánh án, chính vì sự
lỏng lẻo giữa cơ quan tòa án và hội thẩm nhân dân dẫn đến các hội thẩm
chưa phát huy hết trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Vì hội thẩm hoạt động
theo chế độ kiêm nhiệm, thu nhập của hội thẩm chủ yếu là từ lương ở cơ
quan, nên ý thức trách nhiệm trong quá trình xét xử không áp dụng theo việc
thi hành công vụ như ở cơ quan được; tổng kết cuối năm ở cơ quan không
xem hoạt động của cán bộ, công chức kiêm nhiệm là hội thẩm làm tiêu chí
11


đánh giá năng lực công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì thế,
không phát huy được tinh thần trách nhiệm của hội thẩm trong công việc xét
xử. Do đó kiến nghị quy định thêm về trách nhiệm của Hội thẩm nhân để
nâng cao tính trách nhiệm khi tham gia xét xử. Bên cạnh đó hiện nay chế độ
bồi dưỡng cho Hội thẩm nhân dân là quá thấp, cần phải tăng mức bồi dưỡng

để khuyến khích họ tham gia nghiêm túc, có tinh thần làm việc cao nhất với
trọng trách của mình.
Thứ năm, kiến nghị về tổ chức thực tập cho sinh viên. Hiện nay Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tổ chức tiếp nhận và hướng dẫn thực tập
cho sinh viên rất tốt. Cuối đợt thực tập nơi tiếp nhận sinh viên thực tập cho
điểm vào sổ thực hành nghề nghiệp nhưng không có các tiêu chí hay hướng
dẫn cụ thể, kiến nghị trong sổ thực hành nghề nghiệp nhà trường nên đưa ra
các tiêu chí để chấm điểm cho sinh viên để Thủ trưởng cơ quan nơi nhận
sinh viên thực tập có căn cứ để đánh giá sinh viên thật chính xác và khoa
học.
2.

Danh mục các tài liệu

STT

TÊN TÀI LIỆU

01

Bản án số
16/2013/HSPT
Bản án số
14/2013/HSPT

02

03
04


Bán án số
12/2013/HSST
Bản án số
22/2013/HSST

THỜI
GIAN
22/01/2013

BỊ CÁO
Nguyễn Văn Tường

22.01.2013

Trần Phương Thy

17/04/2013

Trần Quốc Tuấn

28/06/2013

Phạm Văn Cát và
đồng bọn

TỘI DANH
Trộm cắp tài
sản
Chống
người thi

hành công
vụ
Hiếp dâm
trẻ em
Mua bán trái
phép chất
ma túy
12


05
06
07
08

09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22


Bản án số
27/2013/HSST
Trích lục bản án
hình sự
Bản án số
31/2013/HSST
Bản án số
91/2013/HSST

22,23/07/20
13
22,23/07/20
13
03/08/2013

Nguyễn Tuấn Vũ

Trần Văn Lưu

Trộm cắp tài
sản
Trộm cắp tài
sản
Giết người

25/10/2013

Nguyễn Văn Ron,
đồng bọn


Cướp giật
tài sản

Bản án số
204/2013HSPT
Bản án số
246/2013/HSPT

12/11/2013

Lâm Quang Đạt

26/11/2013

Phạm Đức Thành

Bản án số
247/2013/HSST
Bản án số
248/2013/HSPT
Bản án số
249/2013/HSPT
Bản án số
257/2013/HSPT
Bản án số
258/2013/HSPT
Bản án số
259/2013/HSPT

26/11/2013


26/11/2013

Nguyễn Hữu Thảo,
đồng bọn
Ngô Văn Trí, đồng
bọn
Nguyễn Thị Bích

28/11/2013

Phạm Thanh Quang

28/11/2013

Nguyễn Văn Tứ,
đồng bọn
Huỳnh Đức Thanh,
đồng bọn

Bản án số
53/2013/HSST
Bản án số
54/2013/HSST
Bản án số
55/2013/HSST
Bản án số
271/2013/HSPT
Bản án số
272/2013/HSPT

Bản án số

14/12/2013

Hoàng Văn Tài

Cướp giật
tài sản
Lừa đảo
chiếm đoạt
tài sản
Trộm cắp tài
sản
Cố ý gây
thương tích
Trộm cắp tài
sản
Trộm cắp tài
sản
Hủy hoại tài
sản
Tổ chức
đánh bạc,
đánh bạc
Giết người

26.12.2013

Phạm Tấn Vũ


Giết người

26.12.2013

Nguyễn Phú Tường

27/12/2013

Phạm Xuân Tình

27/12/2013

Nguyễn Thanh Sơn,
đồng bọn
Nguyễn Chánh Hòa

Trộm cắp tài
sản
Trộm cắp tài
sản
Đánh bạc

26/11/2013

28/11/2013

30/12/2013

Nguyễn Tuấn Vũ


Mua bán trái
13


276/2013/HSPT
23

Bản án số
277/2013/HSPT
Bản án số
278/2013/HSPT

30/12/2013

Nguyễn Biên Thùy

30/12/2013

Phùng Tấn Vương

Bản án số
57/2013/HSST
Bản án số
03/2014/HSPT

31/12/2013

Nguyễn Nghề

10.01.2014


Phạm Trung Hiếu

Bản án số
04/2014/HSPT
Bản án số
01/2014/HSST
Bản án số
07/2014/HSPT

10.01.2014
11/01/2014

Nguyễn Phú Lâm
và đồng bọn
Phan Minh Tuấn

13/01/2014

Võ Ngọc Văn

Bản án số
08/2014/HSPT
Bản án số
09/2014/HSPT

13/01/2014

Lê Văn Tuấn


13.01.2014

Hà Trung Hưng

32

Bản án số
11/2014/HSPT

13.01.2014

Trần Viết Vũ

33

Bản án số
12/2014/HSPT

13.01.2014

Nguyễn Bá Quang

34

Bản án số
13/2014/HSPT
Bản án số
16/2014/HSPT

14/01/2014


Đinh Văn Nước,
đồng bọn
Trần Huy Hậu,
đồng bọn

24
25
26

27
28
29
30
31

35

14/01/2014

phép chất
ma túy
Trộm cắp tài
sản
Tàng trữ trái
phép chất
ma túy
Giết người
Vi phạm quy
định về điều

khiển
phương tiện
giao thông
đường bộ
Đánh bạc
Giết người,
cướp tài sản
Công nhiên
chiếm đoạt
tài sản
Trộm cắp tài
sản
Chống
người thi
hành công
vụ
Mua bán trái
phép chất
ma túy
Chống
người thi
hành công
vụ
Cố ý gây
thương tích
Lạm dụng
tín nhiệm
14



chiếm đoạt
tài sản, tiêu
thụ tài sản
do người
khác phạm
tội mà có

15



×