CHƯƠNG I
ĐẠI CƯƠNG
I. PHÊ XÉT ĐÁNH GIÁ GIA SÚC
- Phê xét đánh giá là một công việc có tính chất căn bản đầu
tiên của công tác giống. Việc đánh giá bao gồm: đánh giá
ngoại hình thể chất (ngoại hình, thể trạng, thể chất), đánh
giá sinh trưởng phát dục (đánh giá qua các chiều đo của cơ
thể và đánh giá bằng các chỉ số cấu tạo), đánh giá các sức
sản xuất (đo lường sức sản xuất thịt, đo lường sức sinh sản)
và đo lường các chỉ tiêu bên trong (sinh lý, sinh hóa…)
- Ta cần hiểu rõ 3 khái niệm: ngoại hình, thể chất và thể
trạng để việc chọn lọc heo đực hậu bị được đúng với mục
tiêu chọn lọc.
• Ngoại hình được phê xét, đánh giá qua việc dùng mắt
quan sát, dùng tay sờ nắn toàn bộ hay một số bộ phận
của cơ thể thú, nhất là những bộ phận liên quan mật
thiết đến tính chất sản xuất của con vật, sau đó nhận
xét tổng thể giá trị ngoại hình theo một tiêu chuẩn quy
định.
Bảng 1: Tính điểm ngoại hình của heo đực giống và heo cái
giống Yorkshire (theo TCVN 3666 – 3667 – 89)
STT
1
2
3
4
5
6
7
Cơ quản, bộ phận
Điểm cho tối
đa
5
Hệ số
Điểm x hệ
số
25
Đặc điểm giống, thể
5
chất lông da
Đầu và cổ
5
1
5
Vai ngực, đùi trước
5
2
10
Lưng, sườn, bụng
5
3
15
Mông và đùi sau
5
3
15
Bốn chân
5
3
15
Vú và bộ phận sinh
5
3
15
dục
Bảng 2: Thang điểm dùng để xếp cấp ngoại hình thể chất
của heo đực giống và heo cái giống Yorkshire ( theo TCVN
3666 – 3667 – 89)
Đặc cấp
•
Cấp 1
70 - 84
Cấp 2
60 - 69
Cấp 3
50 -59
Thể chất là chất lượng của cơ thể là một cách tổng
quát liên quan đến sức khỏe và sức sản xuất. Phân loại
thể chất dựa vào cấu tạo cơ thể
+ Phần cứng ( xương): được chia ra làm thanh và thô
+ Phần mềm ( cơ mỡ): được chia ra gồm săn và sổi
- Kết hợp phần trên, người ta chia thể chất theo cấu tạo cơ
thể gồm 4 loại:
thanh săn, thanh sổi, thô săn và thô sổi.
- Như vậy để phù hợp với mục tiêu chọn đực hậu bị, nái
hậu bị ta cần chọn những thú có thể chất thanh săn có
biểu hiện xương nhỏ nhưng chắc, xương dài, cơ dài, rắn
rõ rệt dưới da, lớp mỡ dưới da mỏng, khả năng trao đổi
chất dồi dào, thần kinh linh hoạt.
•
Thể trạng: nếu thể chất của con vật là bẩm sinh, biểu
hiện từ lúc con thú mới sinh ra cho đến lúc chết thì thể
trạng là tình trạng sức khỏe, độ mập ốm hình dáng
bên ngoài và tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển
cảu con vật hay phù hợp với mục đích nhất thời. Hiểu
được thể trạng và phát hiện những đặc điểm của thể
trạng đó chính là dễ phân biệt khi chọn lọc.
- Như vậy đối với đực hậu bị, nái hậu bị ta cần chú ý đến thể
trạng phối giống và thể trạng huấn luyện
+ Thể trạng phối giống: thú sẽ có đặc điểm đầy đặn, không
béo mập hoặc ốm quá. Con vật đi đứng nhnah nhẹn, biểu
hiện có sức khỏe tốt.
+ Thể trạng làm việc: thú có biểu hiện cơ thể thịt không
nhão, các cơ săn chắc, luôn luôn có tư thế hiếu động, hang
hái tinh nhanh, vành tai lắc lư, nhỏng chân.
II. CHỌN GIỐNG
II.1. Cơ sở lý luận khoa học của chọn giống
- Cường độ chọn lọc (intensity selection): Là một sự chọn lọc
cao hay thấp hay việc thực hiện một áp lực chọn lọc do con
người áp đặt trên một quần thể thú ở một thời điểm nào đó
để lọai hoặc tuyển chọn bao nhiêu thú để lại làm giống. Có 2
cách để mô tả cường độ chọn lọc
+ Tỉ lệ chọn lọc (%): (số cá thể có tính trạng định lượng
đang xét ở múc độ cao hơn trong đàn / tổng số cá thể của
đàn) x 100
+ Hiệu số chọn lọc (selection differential): là hiệu số giữa
trung bình một tính trạng nào đó giữa thú được lựa chọn và
của thú trước khi chọn lọc
-Hệ số di truyền (: hệ số di truyền của một tính trạng là một
đại lượng, biểu thị khả năng di truyền của tính trạng đó cho
đời sau, được xác định bằng cách tính tỉ lệ của phần di
truyền trong việc tạo nên giá trị kinh tế kiểu hình.
- Tiến bộ di truyền (Genetic progress): tiến bộ di truyền còn
được gọi là hiệu quả chọn lọc ( selection response), là sự
khác nhau về giá trị kiểu hình giữa đời con của cha mẹ đã
được chọn lọc và toàn bộ quần thể thuộc thế hệ cha mẹ
trước chọn lọc.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến các thông số chọn giống như:
loài, chính sách chăn nuôi, kỹ thuật chăn nuôi, hệ số di
truyền của tính trạng ( cao, thấp, trung bình), điều kiện
ngoại cảnh…
II.2. Phương pháp chọn giống
II.2.1. Phương pháp chọn giống theo tính trạng
- Có nhiều phương pháp như: đơn tuyển (tandem selection),
đồng tuyển tuyệt đối (independent culling level selection),
đồng tuyển tương đối (index method).
- Ngày nay trên thế giới, ở các nước có ngành chăn nuôi
phát triển, index method được sử dụng như một công cụ đắc
lực trong việc chọn giống.
- Index method là một phương pháp chọn lọc cùng một lúc
nhiều tính trạng, nhưng mỗi tính trạng được đánh giá khác
nhau tùy theo sự tương quan giữa những tính trạng được
chọn lọc , hệ số di truyền và giá trị kinh tế của mỗi tính
trạng để đem lại kết quả cao nhất trên đàn thú sau khi chọn
lọc. Phương pháp này còn gọi là phương pháp chọn giống
theo chỉ số (selection index)
- Theo phương pháp này, chỉ số chọn lọc sẽ được tính toán
cho từng con vật thành ra một dạng điểm tổng hợp từ đó dễ
dàng xếp hạng thứ tự các thú đang được chọn lọc và căn cứ
vào chỉ số này, những con vật nào có kết quả cao nhất là
những con vật có giá trị gây giống cao nhất và ngượ lại.
- Chỉ số chọn lọc được chia ra làm 2 loại: chỉ số chọn lọc
theo phương pháp cổ điển và chỉ số chọn lọc theo phương
pháp BLUP
+ Chỉ số chọn lọc theo phương pháp cổ điển
I = b1X1 + b2X2 +…+bnXn =
Trong đó:
I: là chỉ số chọn lọc
Xi: là chênh lệch giữa giá trị kiểu hình tính trạng i của cá thể
so với trung bình của quần thể.
bi: là hệ số hồi quy riêng phần của tính trạng i, phản ánh
mức độ di truyền, giá trị kinh tế và tương quan giữa các tính
trạng được chọn lọc.
+ Chỉ số chọn lọc theo phương pháp BLUP ( best linear
unbiased prediction)
I = a1EBV1 + a2EBV2 +…+ anEBVn =
Trong đó:
I: là chỉ số chọn lọc
EBVi ( Estimated Breeding Value) : là giá trị giống của tính
trạng i được tính bằng phương pháp BLUP
ai : là giá trị kinh tế của tính trạng thứ i
- Viêc xây dựng chỉ số chọn lọc rất phức tạp, đòi hỏi phải có
hệ thống sổ sách ghi chép dữ liệu lớn về các tính trạng sản
xuất cảu các con thú có quan hệ thân tộc với thú đang được
chọn lọc và bên cạnh đó cần phải có sự hỗ trỡ của máy tính,
các phần mềm chuyen dụng và đội ngũ làm công tác giống
có trình độ. Tuy nhiên, nếu thực hiện được rõ ràng phương
pháp chọn giống theo chỉ số chọn lọc có nhiều ưu điểm và
mang lại kết quả cao hơn so với đơn tuyển và đồng tuyển
tuyệt đối.
II.2.2. Phương pháp chọn giống theo liên hệ thân tộc
Là phương pháp dựa vào các tính trạng kiểu hình của bản
thân cá thể thú được dự tuyển và các thú có quan hệ thân
tộc huyết thống với thú dự tuyển để chọn lọc thú dự tuyển
làm giống. Gồm có :
- Chọn lọc theo đời trước.
- Chọn lọc theo đời sau.
- Chọn lọc theo anh chị em.
- Chọn lọc theo bản thân.
CHƯƠNG II
NUÔI DƯỠNG VÀ CHĂM SÓC ĐỰC HẬU BỊ
I.
II.
KHÁI NIỆM
Là heo được tuyển chọn để làm giống, đang trong thời gian
nuôi để đánh giá khả năng sản xuất tinh, chưa được chính
thức công nhận là đực giống.
CHỌN ĐỰC HẬU BỊ VÀ HUẤN LUYỆN ĐỰC HẬU BỊ
II.1 Chọn đực hậu bị
a. Một thú đực giống tốt phải có các điều kiện sau:
- Rõ về lý lịch và huyết thống để dễ dàng ghép đôi giao phối.
- Ngoại hình thể chất, sinh trưởngphát dục phải từ cấp I trở
lên.
Chân tốt (good legs), dục tính cao (good libido) và cặp
dịch hòan cân đối, chỉ số tiêu tốn thức ăn thấp, mạnh khỏe
(healthy)
Nếu chọn đực để sản xuất heo thương phẩm chú ý tăng
trọng ngày (ADG: average daily gain), rộng mông (Wide of
the ham)
Nếu đực dùng làm giống cha mẹ thì chọn chủ yếu khả
năng sinh sản (mắn đẻ, sai con) và chiều dài của cơ thể
cũng như số lượng vú cũng phải được xem xét.
- Trong quá trình sử dụng chúng ta cần phải kiểm tra phẩm
chất giống qua đời sau và so sánh các đực giống để có thể
tuyển lựa được các đực giống tốt nhất.
- Chọn theo ngoại hình thần kinh: ngoài các yêu cầu chọn
lựa đực giống kể trên người ta còn chọn lựa đực giống theo
loại hình thần kinh phù hợp, giúp dễ huấn luyện, nâng cao
được hiệu suất sử dụng, đồng thời bảo đảm an toàn cho
người chăn nuôi và cả gia súc. Người ta dựa vào 3 căn cứ
sau đây để phân biệt 3 loại hình thần kinh:
Cường độ xuất hiện các quá trình hưng phấn và ức chế
(nhanh hay chậm) Hưng phấn hay ức chế chiếm ưu thế.
Tính linh hoạt về sự chuyển hoá lẫn nhau giữa 2 quá trình
hưng phấn và ức chế
- Các loại hình thần kinh (tính tình):
Loại hình thần kinh mạnh, thăng bằng, linh hoạt (nhanh
nhẹ). Hưng phấn, ức chế đều mạnh, cân đối, sự chuyển đổi
giữa 2 quá trình xảy ra nhanh, con vật thuộc loại hình thần
kinh này sẵn sàng tấn công kẻ thù một cách mãnh liệt,
nhưng cũng dễ dàng bỏ chạy tùy theo sự so sánh lực lượng.
Khi thay đổi hoàn toàn điều kiện sống thì thích nghi mau lẹ.
Loại hình thần kinh mạnh, thăng bằng, lầm lì (chậm chạp,
bình thản). Hưng phấn, ức chế đều mạnh, cân đối nhưng
thay thế nhau chậm. Vật thuộc loại hình thần kinh này tùy
lúc có thể rất liều lĩnh hoặc rất thận trọng, đã đánh nhau
thìđánh chí tử nhưng một khi đã phớt lờ thì dù bị khiêu khích
đến đâu cũng chỉ phản ứng vừa phải. Thú thuộc loại này khó
huấn luyện nhưng khi huấn luyện được thì kết quả bền,
thường dùng để huấn luyện những thú khác.
Loại hình thần kinh mạnh, không thăng bằng, hung hăng
hưng phấn và ức chế đều mạnh nhưng không cân đối, hưng
phấn lấn át ức chế, dễ bộc phát những phản ứng, dễ bị kích
thích bởi các yếu tố ngoại lai, gặp kẻ thù mạnh vẫn tấn công
bừa. Con vật thuộc loại hình thần kinh này thì các phản xạ
dễ bị hỗn loạn và thường có những phản ứng bất ngờ mà
người chăn nuôi khó lường trước được.
Loại hình thần kinh yếu đuối (nhu nhược, và đần độn).
Hưng phấn và ức chế đều yếu, ức chế lấn át hưng phấn, rất
khó huấn luyện và thường bị đào thải sớm trong quá trình
chọn giống.
b. Thời điểm chọn lọc
- Trọng lượng sơ sinh cao trong đàn. Lúc cai sữa (28 – 30
ngày tuổi) phải đạt 8 – 9 kg. Lúc 60 ngày tuổi đạt ≥ 20 kg.
- Chọn lọc tiếp theo ở các tháng 4, 6, 8… chọn lọc theo các
yêu cầu của mục tiêu chọn lọc cắn cứ vào các đặc điểm
ngoại hình, thể chất, thể trang, bệnh lý…
II.2. Huấn luyện đực hậu bị
- Một số nguyên tắc khi tiếp xúc với ổ giống:
+ Khi tiếp xúc với đực giống nên cầm roi để hướng dẫn thú
đi, không được đánh đập hoặc vung roi khi không cần thiết
vì như vậy sẽ làm cho con vật thủ thế hoặc hung hăng, roi
phải mảnh vừa phải
+ Khi thật cần thiết thì phải nhanh chóng tránh xa con vật
và dùng roi tự vệ bằng cách đánh mạnh vào tai của thú,
tuyệt đối không được dùng roi để đánh mạnh vào dịch hoàn
hoặc chọc vào bụng bên của thú.
+ Không nên đứng trực diện với thú, khi thú chực đánh đuổi
thì phải chạy sang ngang, không nên chạy theo hướng đuổi
của thú.
+ Chuồng phải xây sao cho khi cần người lấy tinh có thể
thoát ra nhưng thú thì không.
- Cách can thiệp khi thú đực đánh nhau:
+ Dùng vòi nước
+ Dùng vách ngăn
+ Dùng lửa
+ Dùng roi điện
+ Dùng vợt, thúng, bao...
- Các phản xã giao phối: Giao phối là phản xạ phức tạp, thú
đực và thú cái đều tham gia, là bản năng tích lũy trong quá
trình tiến hóa của động vật nó chịu ảnh hưởng vào chức
năng của các tuyến sinh dục. Khi giao phối thì sự tiếp xúc
giữa ổ giống do thính, thị, khướu, xúc, vị giác làm cho con
vậy hưng phấn đến cao độ. Cơ sở của sự giao phối là các
phản xạ không điều kiện dưới đây
+ Phản xạ cương cứng (Erection reflex): Dương vật cương
lên do thể xốp + niệu đạo xung huyết, hiện tượng xung
huyết là do mạch quản ở dương vật dãn ra khi thần kinh
chậu bị hưng phấn. Phản xạ cương cứng của con cái làm âm
hạch (chtorus) và phần trước âm đạo nở to ra, tử cung + cổ
tử cung xung huyết.
+ Phản xạ bao ôm (nhảy) (Copulation reflex): Con đực nhảy
lên mình con cái ôm chặt lấy con cái trong thời khì lên giống
có gaiai đạon con cái nhảy lên lưng con khác cùng bầy cũng
được coi là phản xạ nhảy của con cái.
+Phản xạ giao phối (thúc giá, cò cựa) (mating reflex): Con
đực đưa dương vật vào âm đạo con cái. Phản xạ này thực
hiện được là do quy đầu tiếp xúc với màng nhày âm đạo: ấm
trơn và nhu động lúc này mông của con cái co giật làm cho
dương vật + âm đạo cọ sát nhau. Phản xạ giao phối của con
cái biểu hiện ở chổ đuôi cong lên, lưng lõm xuống, 2 chân hạ
thấp + xoạc ra (tiền treo hậu hạ mắt lim dim). Đồng thời các
cơ của cơ quan sinh dục co bóp mạnh.
+ Phản xạ bắn tinh ( Ejaeulation reflex): Khi dương vật cọ
sát với màng nhày của âm đạo thì các thụ quan ở quy đầu
đều hưng phấn truyền về trung tâm của phản xạ bắn tinh ở
tủy sống (phần xương thiêng của tủy sống) xung động từ
trung tâm tuyến rạ làm cho tuyến sinh dục và dịch hoàn phụ
cùng các cơ đường tiết niệu co bóp mạnh để bắn tinh. Đối
với thú giao phối ở tử cung như heo, ngựa khi bắn tinh hưng
phấn toàn thân cao nhất, các yếu tố áp lực, nhiệt độ, độ
nhày của vách âm đạo kích thích chủ yếu đến thụ quan của
quy đầu và gây phản xạ bắn tinh. Khi lấy tinh nhân tạo ta
phải chụ động tạo ra các yếu tố này.
- Trong lúc này con cái cũng biểu hiện: Tuyến phần trước âm
đạo (tuyến Bartholin) tiết dịch để làm trơn và trung hòa độ
pH. Tính dục đạt đến mức cao nhất, cổ tử cung, tử cung co
bóp mạnh, dịch nhầy trong cổ tử cung thải ra âm đạo.
- Thời gian giao phối của Heo: 5–15 phút.
- Cách huấn luyện thú nhảy giá.
Nguyên tắc: Giao phối là phản xạ bẩm sinh không điều kiện,
việc huấn luyện ở nhảy giá là chúng ta làm cho chúng tiếp
thu một loạt các phản xạ có điều kiện trên cơ sở các phản
xạ không điều kiện. Thực chất việc huấn luyện này là chúng
ta cho con đực nhảy giá trong 1 điều kiện không gian, thời
gian và 1 quy trình nhất định tạo cho chúng 1 động hình
thần kinh (tập quán), một chuỗi các phản xạ có điều kiện
xảy ra theo một trình tự hợp lý. Cụ thể là trang phục, thao
tác, giá nhảy, dụng cụ, trang thiết bị, màu sắc không đổi
III.
trong quá trình huấn luyện, thời gian huấn luyện phải đảm
bảo đúng quy trình
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH SINH
TINH VÀ PHẨM CHẤT TINH DỊCH
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh và
phẩm chất tinh dịch như: loài, giống, cá thể, dinh dưỡng,
chăm sóc quản lý, môi trường… thường các nguyên nhân
sau đây được lưu ý:
+ Dinh dưỡng: Thức ăn là yếu tố quan trọng nhất trong việc
giữ gìnđể con vật cho tinh tốt, nếu thiếu sẽ làm thiếu những
yếu tố sinh dục từ Hypothalamus đến hypophyse. Chú ý
rằng hiệu quả thức ăn đối với đực giống không phải một
sớm một chiều. Bằng phương pháp nguyên tử đồng vị phóng
xạ đánh dấu (cho C và P đánh dấu vào thức ăn) rồi kiểm tra
sự hiện diện của các nguyên tử C đánh dấu trong ADN của
tinh dịch ta thấy rằng: Heo sau 38-41 ngày Bò sau 49-51
ngày
+ Cách cho ăn
Đối với heo đực hậu bị có thể chia làm 2 giai đoạn.
a. Giai đoạn 1: (từ khoảng 30 – 50 kg)
Giai đoạn này cần cho heo đực lớn nhanh, phát triển tốt khung xương và các cơ
quan sinh dục. Vì vậy đòi hỏi thức ăn phải có chất lượng cao, cho ăn tự do.
Giai đoạn này cần chú ý đến nhiều các khoáng chất của thức ăn (một số khoáng
có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển tính dục của heo đực giống như:
selen, kẽm, mangan, iot).
b. Giai đoạn 2: (từ khoảng 50 kg đến khi phối giống)
Giai đoạn này heo đực giống phát triển nhanh các mô mỡ gây nhiều bất lợi
trong quá trình sử dụng đực giống như: sự di chuyển để phối giống hoặc lấy tinh gặp
khó khăn, mỡ dư sẽ tích tụ quanh các cơ quan nội tạng dẫn đến quá trình tiêu hóa và
sử dụng thức ăn kém gây thiếu dưỡng chất cho quá trình hình thành tinh dịch và sản
sinh tinh trùng, và mỡ dư này cũng sẽ tích tụ quanh các tuyến nội tiết, trong đó có
tuyến não thùy và tuyến thượng thận ( 2 tuyến nội tiết có liên quan trực tiếp đến các
hoạt động tính dục của đực giống), mỡ ức chế hoạt động của các tuyến này, gây ảnh
hưởng đến khả năng làm việc của đực giống. Vì vậy để phòng ngừa mập mỡ thì ở giai
đoạn này cần phải cho ăn định lượng, bên cạnh đó cũng cần chú ý nhiều đến hàm
lượng và chất lượng của đạm và các acid amin.
Cho ăn đúng giờ, đúng lượng qui định cho từng con
Có thể cho ăn 2 – 3 bữa/ ngày.
Nếu trong khẩu phần có bổ sung thêm thức ăn thô xanh thì
nên cho ăn thức ăn tinh trước, thức ăn thô xanh sau.
Cần có đủ nước sạch cho heo uống
Không dùng thức ăn ôi, mốc. Không được để thức ăn, nước
uống tồn lưu trong máng dùng cho ngày hôm sau.
Theo dõi heo hàng ngày để thay đổi kịp thời khối lượng, chất
lượng thức ăn cho phù hợp.
Bảng 3: Nhu cầu dinh dưỡng của đực hậu bị và đực giống.
Nguồn TCVN 1974 – 1994
Heo hậu bị
ME (kcal/ kg)
Protein (%)
Lysine (%)
Methionine (%)
Ca (%)
P (%)
Xơ thô (%)
3000
17
1
0.5
0.7
0.5
7
Heo đực giống
3000
15.9
0.8
0.4
0.7
0.5
7
+ Một số dưỡng chất cần lưu ý:
a) Nước: Nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với các sinh
vật, nó là một dung môi không thể thiếu được để cho sự
sống được tiến hành. Trong dinh dưỡng nước có vai trò:
+Tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong thức ăn. Quá trình
tiêu hóa diễn ra nhờ vào phản ứng thủy phân, phản ứng
thủy phân là phảnứng cần sự kết hợp giữa: dịch tiêu hóa,
nước bọt, men tiêu hóa, dịch vị,… và nước. +Vận chuyển
vật chất, nước giúp mang các chất dinh dưỡng cung cấp
cho các tế bào sống và đem các chất cặn bả đến cơ quan
bài tiết để đào thải ra ngoài cơ thể.
+Tham gia vào các phản ứng hóa học khác của sự sống.
+Điều hòa áp suất thẩm thấu, thực hiện việc trao đổi
chất giữa các tế bào và dịch thể.
+Giữ cho thể hình thúđược ổn định; giảm tác dụng của
ma sát trong cơ thể thú.
+Tham gia quá trìnhđiền tiết thân nhiệt của cơ thể thú.
Cứ 1g hơi nước bay hơi sẽ mang theo 580 calo.
+Tham gia vào quá trình tạo sản phẩm chăn nuôi: trong
thịt, sữa, trứng đều có chứa tỷ lệ nước khá cao (Thịt chứa
80% nước, sữa 85% và trứng là 70%).
Với vai trò thiết yếu của nước cho nên thú nuôi cần phải đảmbảo
được cung cấp đầy đủ nước hằng ngày theo đúng nhu cầu của từng
loài thú. Heo cần 3–6 lít/ngày.
b) Chất đạm (protein): phải đầy đủ giúp gia súc phát triển
được cân đối, bản thân chất đạm giúp quá trình hình
thành nhân bào của tinh trùng, giúp sự phát triển và
thành thục nhanh chóng.Trong dinh dưỡng chất đạm
(protein) có các vai trò như sau:
+ Tham gia cấu trúc của tế bào, đơn vị quan trọng của
sự sống.
+ Cấu tạo nên các chất xúc tác sinh học, chất điều khiển
sinh học: enzyme, hormore, tế bào thần kinh.
+ Cấu tạo nên hệ thống đệm (giữ pH ổn định), hệ thống
vận chuyển, dịch gian bào. Phần lớnγ-glubolin là các
protein vận chuyển.
+ Cấu tạo nên các chất kháng thể đặc hiệu và không đặc
hiệu
+ Cấu tạo nên chất thông tin di truyền, chủ yếu là các
nucleoprotein DNA. + Cấu tạo nên hệ thống tế bào sinh
dục để thực hiện chức năng sinh sản duy trì nòi giống.
+ Chuyển hóa protein tạo ra năng lượng tương đương
năng lượng của tinh bột
+ Protein củng chuyển hóa thành các chất khác cung cấp
cho cơ thể bảo đảm thú sinh trưởng, đồng thời cũng là
nguyên liệu chính cấu tạo nên sản phẩm chăn nuôi (thịt,
sữa, trứng, lông, len). Nhu cầu đạm của các loài gia sức là
khác nhau, đối với heo cần đảm bảo trong thức ăn có
chứa 14-16 % đạm, Gà là 18-20 %.
- Khi cung cấp thiếu đạm thú sẽ có những triệu chứng
như sau:
+Thú chậm lớn, còi cọc, thành thục chậm, mọc lông kém,
chịu lạnh kém.
+ Thú giảm tiết sữa, đẻ trứng, chu kỳ lên giống dài, tỉ lệ
đậu thai kém. +Sức đề kháng kém, hiệu giá kháng thể
sau chủng vaccine không cao.
+ Thú hay cắn mổ, ăn thịt lẫn nhau.
-Tuy nhiên, khi cung cấp đạm dư hơn so với nhu cầu cần
thiết sẽ gây nên một số ảnh hưởng như sau:
+ Dư Protein sẽ làm cho nồng độ acid amin trong máu
cao dẫn đến giảm tính thèm ăn của thú, từ đó làm thú
giảm tăng trọng.
+ Đạm nhiều, dư thừa, cơ thể thú tiêu hóa không hết làm
cho lượng sản phẩm trung gian cao dẫn đến lên men thối
ở ruột già, manh tràng có thể dẫn đến tình trạng tiêu
chảy.
+ Thừa đạm dẫn đến phản ứng deamin hóa xảy ra mạnh,
thải ra nhiều urea, uric, gây hại cho thận, gan và gây ra
bệnh “gout ”. Dư protein + dư Ca + thiếu vitamine A dễ
gây bệnh gout do urat tích đầy xoang bụng, bao tim, mô
cơ dưới da gây đau đớn.
+ Thải chất chứa Nitrogen gây ô nhiễm môi trường.
c) Chất béo: quan trọng trong việc phối hợp với các vitamine tan
trong dầu A, D, K, E. Nếu thiếu năng lực thụ thai giảm.
- Vitamine A: Ảnh hưởng đến sức khỏe chung của gia súc, nó góp
phần trong việc bảo vệ biểu mô của cơ quan sinh dục. Nếu thiếu, số
lượng tinh trùng giảm (do ống sinh tinh bị thoái hóa) tinh trùng
không hoạt động. Ngoài tác dụng với phản ứng quang hóa ở mắt,
vitamine A còn có vai trò quan trọng với lớp niêm mạc thượng bì
trong việc chống bệnh truyền nhiễm, khi thiếu vitamine A hoạt động
tái tạo trong lớp thượng bì bị ngăn cản dẫn đến sừng hóa (viêm giác
mạc, thiếu miễn dịch) => tạo kẻ hở cho vi khuẩn và virus xâm nhập,
tấn công vào cơ thể giảm sức đề kháng do việc tạo ra γ-glubolin bị
giảm. Trong sinh sản, khi thiếu loại vitamine này thì lớp tế bào mầm
bị thoái hóa làm cho khả năng sinh tinh kém; niêm mạc tử cung, ống
dẫn trứng bị thoái hóa, sừng hóa, thai khô, nhiễm trùng, gây hội
chứng MMA.
! Lưu ý: Ngoài ra chất carotene ( tiền vitamine A) cũng có ảnh hưởng
đến hoạt động của thể vàng (nơi có chứa nhiều caroten). Nếu
caroten bị thiếu hụt (dù đủ nhu cầu vitamine A) sự tổng hợp
progesterol sẽ bị ngăn cản. Hậu quả là gây động dục kéo dài, rối
loạn chu kỳ động dục dẫn đến vô sinh.
- Vitamine E: thiếu E việc sinh tinh gặp trở ngại. Bổ sung 400 mg E
cho heo giống thì sau 6 tháng kích thước của dịch hoàn cũng như
năng lực sinh sản hơn hẳn so với lô đối chứng, bổ sung 0,5-1 g
Vitamine E cho bò đực thì tinh dịch tăng 18%, nồng độ tinh dịch tăng
11% so với lô đối chứng.
- Vitamine D: giúp cho đực giống cứng cáp; nếu thiếu D thời gian sử
dụng không lâu, lượng tinh trùng giảm và có thể gây nguy hiểm cho
người lấy tinh, nó giúp cho sự tổng hợp Ca + P.
d) Chất khoáng: ngoài việc tham gia cấu tạo nên bộ xương, nó còn
tham gia hầu hết các hoạt động trao đổi chất trong cơ thể như hoạt
động cơ, thần kinh, hô hấp, …. Đối với đực giống các nguyên tố quan
trọng là: Ca, P, Na, Se, Zn, Mn, I2, …
- P: Tham gia cấu tạo nhân tinh trùng.
- Se: Cần thiết cho sự sinh trưởng, thụ tinh
- Mn: góp phần tham gia hoạt hóa các enzyme biến dưỡng lipid,
glucid, acid nhân và chuyển hóa năng lượng. Nếu thiếu thú chậm
lớn, chân yếu, các khớp phì đại, đực giảm tính hang, phẩm chất tinh
giảm.
- Zn: có nhiều Zn hơn bất kỳ nguyên tố nào trong cơ thể thú đực. Zn
giúp tính hăng, giúp khả năng duy trì nòi giống vì Zn là nguyên tố cơ
bản tạo nên các hormone kiểm soát sự phát triển cơ thể, đặc biệt là
hormone Testosterone. Khai thác dày có thể gây thiếu Zn, làm cho
dung lượng tinh dịch giảm và phẩm chất tinh dịch cũng giảm theo.
Ngoài ra Zn còn phòng ngừa bệnh ở tuyết tiền liệt, làm mất khả
năng sinh sản.
- I2: là thành phần cấu tạo của hormone tuyết giáp trạng, giữ vai trò
điều hòa cường độ trao đổi chất trong cơ thể. Thiếu I2 thú đực giảm
tính hăng, phẩm chất tinh kém và tỉ lệ đậu thai kém.
IV. CHĂM SÓC QUẢN LÝ
1. Chuồng nuôi: Khi thú thành thục tính dục thì nhốt riêng 1 ô/con
tránh cắn nhau và nhảy lên nhau. Chuồng phải đầy đủ ánh
sáng, thoáng mát, có sân chơi. Trong không khí thì O2 chiếm
21%, phần còn lại là N2, CO2, khí hiếm. Tuy lượng O2 dồi dào
nhưng trong thực tế môi trường chăn nuôi thường bị thiếu
dưỡng khí (O2) do: chuồng trại chật hẹp, không thông thoáng,
vệ sinh không tốt, do đó trong chuồng nuôi các khí CO2, H2S,
NH3, CH4 tăng cao làm ảnh hưởng đến sự hô hấp, làm rối loạn
đến sự cân bằng sinh trưởng bình thường của heo. Cho nên
chuồng nuôi cần phải thông thoáng, đối lưu tốt.
2. Nhiệt độ: Đối với gia súc, nhiệt độ thích hợp là 20oC, có tác
dụng tốt trong việc cho tinh. Khi nhiệt độ lên 40oC gia súc cho
tinh trùng kỳ hình nhiều.
3. Ánh sáng: Đối với heo trung bình 10 giờ chiếu sáng / ngày. Nếu
nuôi trong tối, thể tích và nồng độ tinh dịch giảm, kỳ hình tăng,
chết tăng.
4. Vận động Đực giống vận động thì trao đổi chất sẽ tăng, tính
dục phát triển, cơ thể rắn chắc. Mức độ vận động và hình thức
vận động tùy thuộc vào loài và tình trạng sức khỏe của từng đực
giống. Đối với heo: mỗi ngày cho vận động 30 phút đi vòng các
dãy chuồng cái để phát hiện nái lên giống, nên vận động vào lúc
sáng sớm hay chiều mát.
5. Chu kỳlấy tinh:
Heo < 12 tháng: 1 lần / tuần > 12 tháng:2-3 lần / tuần
- Nếu lấy dầy thì phẩm chất tinh kém, con vật giảm tính hăng hoặc
sản phẩm ra trì trệ. - Nếu lấy thưa thì không tận dụng hiệu suất của
con đực - Nếuđể quá lâu không sử dụng thì đực càng ù lì, mập
6. Bệnh lý: Blucellose, Leptospirose, Vobsiosis, Trichomoniabis làm
sưng teo dịch hoàn, cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh tinh.
- Dịch hoàn thoái hóa: làm cho các ống sinh tinh mất chức năng sinh
lý bình thường, hầu hết các hiện tượng này đều gây bất thụ, giảm
chất lượng tinh dịch, tang tỷ lệ kỳ hình, nồng độ tinh trùng giảm,
tinh trùng chưa trưởng thành. Nguyên nhân gây ra có thể là do dinh
dưỡng, thiếu vitamine A; thiếu protein trong khẩu phần.
-Viêm dịch hoàn: có thể do tổn thương hay do nhiễm trùng
-Viêm dịch hoàn phụ: hậu quả gây ra sự tắt nghẽn, ngăn chặn sự di
chuyển của tinh trùng từ dịch hoàn phụ ra ống dẫn tình, kết quả là
con đực không có khả năng thụ thai. 7. Dị tật trên bộ phận thú đực:
- Dịch hoàn ẩn: 1 bên hoặc 2 bên, thường gặp ở Heo, Chó. Nguyên
nhân thường do di truyền, kích thích tố bị xáo trộn trong quá trình
mang thai hay dịch hoàn không di chuyển từ xoang bụng xuống
vùng bẹn. Con đực vẫn biểu hiện tính dục nhưng phối giống không
đậu thai (tinh trùng bị chết) bởi vì nhiệt độ bên trong kênh bẹn cao
và dể cuốn xoắn ống dẫn tinh do nhu động ruột.
- Dịch hoàn không phát triển: Đây là một khiếm khuyết di truyền do
gen lặn. Kích thước của dịch hoàn tương quan với khả năng sản xuất
tinh trùng, dịch hoàn của Heo lúc 7 – 8 tháng tuổi có chiều dài tối
thiểu là 10 -15 cm, rộng 15 – 16,5 cm. Dịch hoàn kém phát triển sẽ
cho nồng độ tinh trùng thấp, tỷ lệ kỳ hình cao làm cho khả năng thụ
thai giảm hoặc vô sinh.
CHƯƠNG III
NUÔI DƯỠNG VÀ CHĂM SÓC NÁI HẬU BỊ
KHÁI NIỆM
Heo nái hậu bị là heo nái từ sau khi cai sữa được chọn để lại
làm giống, nuôi cho đến khi phối giống lần đầu
II.
CHỌN NÁI HẬU BỊ
Muốn có một đàn heo nái tốt, trước hết chúng ta cần phải chọn lọc và nuôi tốt heo nái
hậu bị. Vì heo nái hậu bị chưa sinh sản nên ta không thể kiểm tra qua đời sau được. Vì
vậy ta phải chọn lọc qua phả hệ và chọn lọc bản thân.
a. Chọn lọc qua tổ tiên
Phải quan tâm tới tổ tiên ông, bà, bố, mẹ nái hậu bị. Tổ tiên của cái hậu bị đó phải có
tầm vóc lớn, khả năng sinh sản cao, đặc tính này phải ổn định hoặc tăng dần qua các
thế hệ. Đời tổ tiên không bị đồng huyết, hoặc sử dụng phương pháp đồng huyết thì
không có biểu hiện bị suy thoái do cận huyết
I.
Bố mẹ của nái hậu bị phải là những đực tốt, cái tốt. Heo mẹ là những con giống cao
sản( mắn đẻ, tốt sữa, nuôi con khéo, đẻ trên 10con/ lứa). Tốt nhất là bố mẹ nó ở trong
đàn hạt nhân hoặc đã được kiểm tra qua đời sau.
Theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật thì:
+ Nếu chọn heo nái hậu bị tốt thì ít nhất con bố phải đạt từ cấp 1 trở
lên, mẹ từ cấp 2 trở lên.
+ Nếu nái hậu bị chọn để làm nái thương phẩm, thì bố, mẹ phải đạt từ
cấp 2 trở lên.
+ Nái hậu bị chọn ở những đàn mà mẹ nó đẻ từ 2 đến 5 lứa ( thông
thường tỉ lệ chọn lọc là 25%
+ Con mẹ phải là những con khỏe mạnh có truyền thống đẻ sai, đẻ mắn.
b. Chọn lọc qua bản thân
Nên ưu tiên chọn những con to trong đàn. Đối với chọn nái hậu bị nội nên chọn con
có trọng lượng trên 7kg. Đối với chọn nái ngoại có trọng lượng ở 60 ngày tuổi là lớn
hơn 20kg. Con nái được chọn phải khỏe mạnh có thể nhận biết bằng các biểu hiện tính
trạng như lông thưa và da mỏng, có ngoại hình cân đối, tai to, mõm bẹ, lưng dài,
thăng, vai mông nở chứng tỏ xương chậu lớn đẻ mắn, 4 chân cao khỏe đi bằng móng,
bụng to nhưng thon gọn, có nhiều hơn 12 vú, phàm ăn.
c. Chọn lọc trong quá trình nuôi
Trong quá trình nuôi heo nái hậu bị, thường xuyên quan sát kỹ lưỡng, đánh dấu từng
con để chọn ra những con phù hợp nhất cho heo nái sinh sản. Những biểu hiện tốt cần
chọn là phàm ăn, ngoại hình như đã nói ở trên, sinh trưởng và phát triển bình thường,
động dục đúng thời kỳ. Biểu hiện động dục càng rõ thì càng nên chọn.
Động dục lần đầu sớm (160-180 ngày tuổi) biểu hiện rõ dễ phát
hiện, khi động dục lần thứ hai trở đi mới cho phối giống (heo ngoại
trên 100kg, heo lai trên 60 -80 kg). Khi nái động dục quá trễ, trên 10
tháng tuổi, nái trở nên quá mập thường sinh sản kém nên thải loại để nuôi hậu bị
mới.
Một số nái tơ có thể nhiễm trùng xuất tiết mủ từ bộ phận sinh dục cho dù chưa phối
giống, cần thải loại sớm để tránh lây lan.
Nái quá nhút nhát, hay hoảng sợ, hoặc quá hung dữ cũng không nên chọn lọc làm
giống vì dễ bị khích cảm (stress). Một số nhà sản xuất heo giống trên thế giới đã loại
trừ những heo dễ bị stress để không làm giống sinh sản.
III.
NUÔI DƯỠNG CHĂM SÓC NÁI HẬU BỊ
a. Nhu cầu dinh dưỡng
Chế độ dinh dưỡng của heo nái hậu bị không hợp lý ảnh hưởng lớn
đến tăng khối lượng và khả năng sinh sản. Chất lượng thức ăn kém,
không đủ chất dinh dưỡng lợn sinh trưởng chậm, kéo dài ngày đạt
khối lượng phối giống lần đàu tiên, kéo dài tuổi đẻ lứa đầu. ngược lại
ăn quá mức nhất là giai đoạn lợn ngoại 80 – 120 kg, lợn nội 55kg trở
lên làm cho lợn quá béo, khó động dục hoặc động dục bất thường,
thụ thai kém.
Theo ITCPH, Phylippines, (1998) chế đọ ăn tự do và hạn chế ảnh
hưởng đến số lượng trứng rụng của lơn nái ( Phan Sỹ Tiệp, 2004)
Gia đoạn thành thục Trước phối giống
Số trứng rụng
Ăn tự do
Ăn tự do
13.9
Ăn tự do
Ăn hạn chế
11.1
Ăn hạn chế
Ăn tự do
13.6
Ăn hạn chế
Ăn hạn chế
11.1
Thức ăn cần đảm bảo cung cấp đủ năng lượng 3000 – 3200 kcal ME/
kg thức ăn. Hàm lượng protein thay đổi theo ngày tuổi: cái hậu bị
20- 50 kg: 16%; cái hậu bị lớn hơn 50kg cần 15%. Cân đối giữa Ca và
P: 0.95% và 0,85%
Heo 20 -50 kh nên được cho ăn tự do. Heo từ 50kg trở lên, cho ăn
khẩu phàn hạn chế (chỉ cho ăn 75% lượng thức ăn tự do) để heo đạt
85 – 90kg lúc 6 tháng tuổi. Tiếp tục cho ăn như vậy đến 14 ngày
trước ngày phối dự định, tăng lượng thức ăn lên 3 – 3,5 kg/ con/ngày.
Sau khi phối giảm còn 2kg/con/ngày. Việc tăng và giảm thức ăn
nhằm giúp tăng hiệu quả rụng trứng và hình thành phôi.
Giai đoạn phát triển của nái hậu bị bắt đầu từ khi ra đời đến lần phối
đầu tiên. Một quy trình dinh dưỡng tối ưu cho nái hậu bị nên được
triễn khai từ khi chúng đạt 25 kg trọng lượng, nhằm giúp cho cơ
quan sinh sản phát triển một cách tốt nhât. Trong điều kiện chăn
nuôi mà không thể chăm sóc heo nái hậu bị ngay từ 25 kg thể trọng
thì cần áp dụng chế độ khẩu phần khởi động đặc biệt sớm nhất có
thể trong thời gian sau đó. Khẩu phần từ 25kg thể trọng hoặc khẩu
phần khởi động đặc biệt cần được duy trì đến khi chúng đạt 40 -50
kg thể trọng.
Khẩu phần cho nái hậu bị 45 – 50 kg thể trọng trở lên nên cho ăn với
mức 2,5 – 3,5kg/ ngày, phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng mong
muốn, các điều kiện chuồng nuôi, sức khỏe, di truyền học và điều
kiện quản lý. Ba tuần trước khi phối lần dầu, một khẩu phần năng
lượng cao ( khoảng 2500 kcal/ kg NE) nên được cung cấp để kích
thích heo nái hậu bị có tỷ lệ trứng rụng cao.
Hàm lượng dinh dưỡng khi so với khẩu phần heo thịt gia đoạn vỗ
béo, khẩu phần nái hậu bị nên có hàm lượng dinh dưỡng ít hơn, ít
nhất là về mặt năng lượng và các axit amin nhằm đạt mức tăng
trọng lượng hằng ngày trung bình khoảng 550 – 650 gram kể từ khi
sinh ra cho tới khi phối lần đàu. Điều này nhằm đảm bảo heo nái sẽ
đủ trưởng thành trong đọ tuổi mong muốn, có kích thước cơ thể lý
tưởng với lượng mỡ dự trữ vừa đủ tại thời điểm thụ tinh đầu tiên.
Điều này nhằm đảm bảo heo nái sẽ đủ trưởng thành trong độ tuổi
mong muốn, có kích thước cơ thể lý tưởng với lượng mỡ dự trữ vừa
đủ tại thời điểm thụ tinh đầu tiên. Bởi vì tuổi tác và tình trạng cơ thể
khi nái hậu bị được phối lần đầu sẽ có một tác động đáng kể trên
năng suất trọn đời, nên kiểm soát tốc độ tăng trưởng của nái hậu bị
rõ ràng là một mục tiêu của một chương trình dinh dưỡng thành
công.
Lưu ý: việc điều chỉnh tốc độ tăng trưởng và tích mỡ phải được thực
hiện thông qua việc điều chỉnh hàm lượng dinh dưỡng chứ không
phải là điều chỉnh số lượng thức ăn cho nái ăn. Thông thường, việc
giảm hàm lượng năng lượng và axit amin nên được thực hiện bằng
cách thay thế những thực liệu giàu dinh dưỡng và năng lượng như
bắp bằng những thực liệu giàu chất xơ như cám gạo, lúa mạch đen,
lúa triticale, bã củ cải, bã mì để lượng ăn vào vẫn đảm bảo thỏa mãn
cảm giác đầy của cơ quan tiêu hóa.
Các yêu cầu canxi và phospho (phốt-pho) của heo nái hậu bị thì cao
hơn so với nhu cầu của heo thịt ở độ tuổi tương tự. Điều này là do
nái hậu bị cần phát triển xương và tích lũy tối đa trữ lượng khoáng
trong cơ thể để chuẩn bị cho quá trình mang thai và nuôi con sau
đó. Hai khoáng chất này rất quan trọng không chỉ đối với sự phát
triển xương, mà còn cho sự phát triển của thai nhi và tiết ra trong
sữa cho con bú. Do đó, sự thiếu hụt canxi và phospho sớm trong quá
trình sinh sản sẽ làm cho xương của nái bị suy yếu sớm, dẫn đến các
bệnh như sốt sữa, què, gãy chân, loại thải nái sớm hoặc gây còi cọc
trên heo con.
Tương tự như vậy, lượng vitamin cũng sẽ cao hơn so với nhu cầu cho
heo thịt cho cả hai loại vitamin tan trong chất béo và các vitamin tan
trong nước. Đặc biệt, cần có sự quan tâm đến hàm lượng vitamin A,
vì vitamin A ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của một protein tên
là ‘protein liên kết retinol’ được tiết ra trong tử cung. Vì thế, có thể
nói rằng vitamin A có liên quan đến việc thành lập và duy trì thai kỳ
một cách gián tiếp.
b. Chuồng trại
Heo nái hậu bị có thể được nuôi 4 -6 con/ô chuồng, với diện tích 2,5
- 3 m2, có sân chơi ( 0,5 – 0,6 m2/ con) và bãi vận động để điều
khiển động dục hay cho tiếp xúc với heo đực giống trong quá trình
vận động. Cần tập cho nái hậu bị ở trong chuồng cá thể trước khi
phối. Đặc biệt đối với heo nái hậu bị ngoại nhất thiết phải được vận
động với con đực. Chuồng trại hướng về đông nam và luôn luôn khô
sạch, đảm bảo đông ấm, hè mát. Nền chuồng cao so với mặt đất từ
0,3 - 0,5 m. Thời gian chiếu sáng cần thiết trong ngày của chuồng
nuôi heo hậu bị là 16 giờ. Có quạt hút đẩy cho không khí luôn thông
thoáng.
Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp : 20 - 23 cho heo 20 – 40 kg; 16 – 23
cho heo 40 – 60 kg; 17-21 cho lợn 60 kg đến phối giống.
- Có nước sạch luôn đủ cho heo uống, tốt nhất bằng vòi uống tự
động. Nước cho heo 18 – 30 kg từ 4 -8 lít. Heo 30 – 70 kg từ 8 -15 lít.
Mùa nóng nhu cầu nước uống của lợn cao hơn.
Vệ sinh chuồng trại: Hằng ngày vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi, máng
ăn, máng uống, nền chuồng, sân chơi. Tẩy uế chuồng trại 1 tuần/
lần, thông cống rãnh thoát nước, rắc vôi bột để diệt khuẩn. Chuồng
bẩn khí đôc cao, nóng hay quá lạnh có thể làm chậm tuổi động dục
lần đầu từ 25 -30 ngày
c. Vận động và vệ sinh tắm chải
Tốt nhất cho heo nái hậu bị vận động tự do trên sân bãi để nâng cao
sức khỏe và bộ xương rắn chắc hơn, đồng thời kích thích hoạt động
sinh sản. Thường cho heo nái hậu bị vận động cùng với heo đực
giống để kích thích heo nái sớm động dục. heo nái hậu bị phải được
tắm chải thường xuyên về mùa hè nóng nực. Về mùa đông heo được
tắm chải khi chuyển thành heo kiểm định. Tắm chải có tác dụng
ngăn được các bệnh ngoài da, kích thích tính thèm ăn, nâng cao sức
khoẻ và hoạt động tính dục cho heo nái. Đồng thời cũng tạo ra mối
quan hệ thân thiện giữa heo và người chăm sóc nuôi dưỡng.
d. Theo dõi và điều khiển động dục
Heo nái hậu thường được theo dõi và kiểm tinh trạng sức khoẻ và
trạng thái sinh lý. Muốn phát hiện và phối giống cho heo nái hậu bị
đúng lúc và có kết quả tốt, người chăn nuôi phải cho heo nái vận
động với heo đực giống và theo dõi các hoạt động của chúng, nếu
thấy heo nái có hiện tượng chịu đực thì chúng ta cần tách heo nái đó
ngay để phối giống. Các heo nái khác vẫn được vận động với heo
đực giống vào các buối sáng từ 30 - 45 phút để heo cái được tiếp xúc
với đực giống và được kích thích về hoạt động sinh dục. Cho vận
động cả nhóm lợn hậu bị hay heo nái chờ phối với heo đực giống.
Ghi nhận lần lên giống đầu tiên để xem xét sự lên giống vào những
lần sau có nằm trong khoảng 18 -21 ngày hay không. Tạo stress cho
nái hậu bị lớn hơn 7 tháng tuổi mà vẫn chưa lên giống ( cho nhịn ăn,
dời chuồng…)
e. Phối giống cho heo nái hậu bị
Heo nái hậu bị nên được phối giống khi có tuổi và trọng lượng thích
hợp và đã được tiêm phòng đầy đủ. Nái nội nên được phối giống ở
6- 7 tháng tuổi, khi trọng lượng của heo đạt từ 80 kg trở lên. Nái
ngoại 8 - 10 tháng tuổi, trọng lượng đạt từ 130 kg trở lên, dày mỡ
lưng 1 -20 mm. Không nên phối quá sớm hoặc quá muộn bởi vì phối
giống cho heo quá sớm sẽ làm ảnh hưởng đến tầm vóc heo mẹ hay
gầy yếu, khả năng sinh sản kém và sớm bị loại thải. Nếu phối giống
cho heo quá muộn thì mất nhiều thời gian và thức ăn để nuôi heo ở
giai đoạn hậu bị (đây là giai đoạn không sản xuất của heo), dẫn đến
hiệu quả kinh tế thấp.
- Xác định thời điểm phối thích hợp: Khi phối giống phải chú ý xác
định đúng thời điểm phối tinh thích hợp. Nguyên tắc là phối vào lúc
nào để có nhiều tinh trùng gặp được nhiều tế bào trứng rụng nhất.
Muốn vậy khi heo nái hậu bị đến tuổi phối giống, lúc động dục phải
tăng cường theo dõi để xác định thời điểm phối tinh thích hợp.
- Nếu gọi thời điểm bắt đầu đứng yên chịu đực là giờ 0 thì trứng bắt
đầu rụng từ giờ 30 và kéo dài tới giờ 40. Trứng mất khoảng 4 giờ để
di chuyển đến vị trí thụ tinh ( đoạn 1/3 trên của ống dẫn trứng).
Trứng còn khả năng thụ tinh trong vòng 8 – 12 giờ sau khi trứng
rụng.
- Tinh trùng mất khoảng 4 – 6 giờ để di chuyển đến vị trí thụ tinh.
Tinh trùng có thế sống trong đường sinh dục cái 24 – 48 giờ. Do thờ
gian sống của tinh trùng dài hơn trứng nên nhất thiết phải phối
giống trước khi trứng rụng.
- Kỹ thuật phối: Để nâng cao tỷ lệ thụ thai, ngoài việc phải xác định
đúng thời điểm phối tinh thích hợp, kỹ thuật phối tinh và chất lượng
tinh trùng cũng hết sức quan trọng. Phối vào buổi sáng sớm, lúc mát
mẻ, yên tĩnh, thao tác đúng kỹ thuật (nếu là thụ tinh nhân tạo). Có
thể áp dụng các hình thức phối lắp, phối kép để nâng cao tỷ lệ thụ
thai. Sau khi phối xong, phải ghi chép đầy đủ và theo dõi
- Nái hậu bị: lúc 5 và 7 – 8 tháng tuổi tiêm phòng dịch tả, tụ huyết
trùng, parvovirus, FMD, Aujeski và xổ lãi trước khi phối giống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng Chăn nuôi heo đại cương. Tác giả: TS. Ngyễn Thị Kim
Loan
2. Giáo tình Giống vật nuôi. Tác giả: TS. Trần Văn Chính.
3. Giáo trình Veterinary Medical Terminology. Tác giả: Dr. Janet
Romich.
4. Tài liệu từ Internet.