Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tổng hợp các yếu tố khí hậu và biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.67 KB, 23 trang )

KHÍ HẬU
Ở phần trên chúng ta đã biết qua khái niệm chung về khí hậu, những nhân tố ảnh hưởng đến
khí hậu... Trong phần này chúng ta tìm hiểu đến các vấn đề có liên quan đến khí hậu như tổng hợp
các yếu tố khí hậu và biến đổi khí hậu.
3.1 SỰ HÌNH THÀNH KHÍ HẬU
3.1.1 Những quá trình hình thành khí hậu
Trong các chương ta đã xét nhiều quá trình khí quyển thuộc thành phần của ba chu trình hình thành
khí hậu trên Trái Đất là tuần hoàn ẩm, tuần hoàn nhiệt và hoàn lưu chung khí quyển. Đồng thời ta
cũng đã nghiên cứu những hậu quả khí hậu của những quá trình này, nghĩa là nghiên cứu chế độ
nhiều năm của các yếu tố khí tượng: biến trình ngày và năm của bức xạ, nhiệt độ, giáng thuỷ và
những yếu tố khác, cũng như sự biến thiên, phân bố trung bình trên Trái Đất, sự biến đổi điển hình
theo chiều cao của chúng.
Cả ba quá trình hình thành khí hậu này tương tác với nhau. Chẳng hạn, chế độ nhiệt của mặt trải
dưới chịu ảnh hưởng của lượng mây do nó ngăn cản thông lượng trực xạ mặt trời. Sự hình thành
mây là một trong những khâu của tuần hoàn ẩm. Nhưng chính sự hình thành mây cũng phụ thuộc
vào điều kiện của mặt trải dưới và khí quyển, phụ thuộc vào bình lưu nhiệt, nghĩa là phụ thuộc vào
hoàn lưu chung khí quyển. Mặt khác, hoàn lưu chung khí quyển tạo nên sự vận chuyển độ ẩm và
lượng mây. Chính vì vậy mà ảnh hưởng đến tuần hoàn ẩm và qua đó ảnh hưởng đến điều kiện nhiệt.
Trong thực tế ta thường xuyên quan sát thấy ảnh hưởng qua lại của cả ba quá trình hình thành khí
hậu này.
Vì vậy, chế độ của mỗi yếu tố khí hậu là kết quả của sự tác động đồng thời của tất cả ba quá trình
hình thành khí hậu.
Sự phân bố tổng lượng giáng thuỷ trên Trái Đất là kết quả trực tiếp của tuần hoàn ẩm vì sự hình
thành giáng thuỷ là một trong những khâu của chu trình này. Như vậy là sự hình thành giáng thuỷ
phụ thuộc vào vị trí của nguồn ẩm (trước hết là vị trí của các đại dương) tương ứng với địa phương
nào đó và phụ thuộc vào những khâu khác của hoàn lưu ẩm như sự bốc hơi, dòng chảy, khuếch tán
rối của hơi nước ngưng kết. Chế độ giáng thuỷ cũng còn phụ thuộc vào điều kiện nhiệt của mặt trải
dưới và của khí quyển do các quá trình hình thành nhiệt tạo nên. Độ bốc hơi phụ thuộc vào điều
kiện nhiệt này. Những điều kiện nhiệt xác định sự dẫn tới trạng thái bão hoà và lượng ẩm cực đại
của không khí trong trạng thái bão hoà và như vậy là xác định cả độ nước của mây; chúng cũng xác
định vị trí mực hình thành và băng kết của mây, suy cho cùng là xác định sự hình thành giáng thuỷ.


Mặt khác, lượng ẩm và chế độ nhiệt lại chịu ảnh hưởng của tuần hoàn ẩm và nhiệt trong quá trình
hoàn lưu chung khí quyển. Như vậy, hoàn lưu chung khí quyển cũng tham gia vào việc hình thành
chế độ khí hậu chung của giáng thuỷ.
Tóm lại, cả tuần hoàn ẩm, tuần hoàn nhiệt và hoàn lưu chung khí quyển đều tham gia vào việc phân
bố giáng thuỷ trên Trái Đất.
Chính do mối liên quan qua lại giữa nguyên nhân và kết quả phức tạp đó nên
rất khó chọn trình tự thuận lợi nhất khi nghiên cứu các quá trình khí quyển. Với
trình tự bất kỳ ta cũng không thể xét chúng một cách đồng thời mà phải xét thứ
tự. Nhưng thường khi giải thích quá trình nào đó phải dẫn ra những quá trình
khác mà ở các phần sau mới nói tới.


3.1.2 Những nhân tố địa lý của khí hậu
Những quá trình hình thành khí hậu ở miền vĩ độ thấp, vĩ độ cao, trên lục địa
và biển, ở vùng đồng bằng, ở miền núi xảy ra khác nhau, nghĩa là chúng có đặc
tính địa lý riêng. Chính vì vậy, ngay cả những đặc trưng khí hậu và sự phân bố
của chúng cũng phụ thuộc vào nhân tố địa lý. Khi xét chế độ nhiều năm của
bức xạ, nhiệt độ, độ ẩm, gió ở những chương trên, ta thường nói tới tác động
địa lý đối với biến trình ngày và năm, sự biến thiên không có chu kỳ và sự phân
bố theo thời gian của chúng. Để tổng kết, ở đây nêu lên những nhân tố địa lý
của khí hậu và những hậu quả chính của chúng.
Những nhân tố địa lý chính của khí hậu là: vĩ độ địa lý, độ cao trên mực biển, sự
phân bố đại dương và lục địa trên Trái Đất, địa hình của bề mặt lục địa, các
dòng biển, lớp phủ thực vật, lớp phủ tuyết và băng. Hoạt động của con người
thông qua việc biến đổi những nhân tố địa lý nào đó đóng vai trò đặc biệt và
trong giới hạn nào đó nó ảnh hưởng đến quá trình hình thành khí hậu và cũng
do đó ảnh hưởng đến khí hậu.
Vĩ độ địa lý
Vĩ độ địa lý là nhân tố địa lý số một và rất quan trọng của khí hậu. Bức xạ mặt
trời tới giới hạn trên của khí quyển phụ thuộc rất nhiều vào vĩ độ địa lý vì nó

quy định độ cao của mặt trời buổi trưa và thời gian chiếu sáng vào thời gian
nhất định trong năm. Bức xạ hấp thụ phân bố phức tạp hơn nhiều do phụ thuộc
vào độ mây, albedo của mặt đất và độ trong suốt của không khí. Tuy nhiên, sự
phân bố bức xạ cũng vẫn có tính địa đới nhất định.
Cũng do nguyên nhân đó mà về cơ bản sự phân bố của nhiệt độ không khí cũng
có tính địa đới. Thực ra, sự phân bố nhiệt độ không chỉ phụ thuộc vào bức xạ
hấp thụ mà còn phụ thuộc vào điều kiện hoàn lưu khí quyển. Nhưng ngay hoàn
lưu chung cũng có tính địa đới vì bản thân hoàn lưu chung khí quyển cũng phụ
thuộc vào tính địa đới của sự phân bố nhiệt độ. Nhân đây nhắc lại là nhân tố
thuần tuý động học của hoàn lưu chung khí quyển như lực Coriolis, cũng phụ
thuộc vào vĩ độ địa lý.
Tính địa đới trong sự phân bố của nhiệt độ dẫn tới tính địa đới của các yếu tố
khí hậu khác, tính địa đới này không hoàn toàn rõ rệt nhưng cũng là cơ sở của
sự phân bố các yếu tố này trên mặt đất. Ảnh hưởng của vĩ độ địa lý đến sự
phân bố các yếu tố khí tượng theo chiều cao càng thể hiện rõ khi ảnh hưởng
của những nhân tố khác của khí hậu có liên quan tới mặt đất ít biểu hiện rõ.
Như vậy là khí hậu những tầng cao khí quyển có tính địa đới rõ hơn ở mặt đất.
Độ cao trên mực biển
Độ cao trên mực biển cũng là một nhân tố khí hậu. Theo chiều cao khí áp giảm,
bức xạ mặt trời, bức xạ hữu hiệu tăng, nhiệt độ thường giảm, biên độ biến trình
ngày của nhiệt độ cũng giảm, độ ẩm giảm, còn gió thì biến đổi về tốc độ và
hướng tương đối phức tạp. Những sự biến đổi này xảy ra trong khí quyển tự do,
nhưng chúng cũng xảy ra ở vùng núi tuy có nhiễu động ít nhiều (do gần mặt
đất). Ở vùng núi lượng mây và lượng giáng thuỷ cũng biến đổi đặc biệt. Lượng


giáng thuỷ thông thường ban đầu tăng theo chiều cao địa phương, song từ mực
nào đó sẽ giảm. Kết quả là ở vùng núi hình thành đới khí hậu theo chiều cao.
Tóm lại, ở vùng núi những điều kiện khí hậu có thể khác nhau tuỳ thuộc vào độ
cao của địa phương. Sự biến đổi theo chiều cao xảy ra mạnh mẽ hơn theo chiều

nằm ngang – theo vĩ độ.
Tính địa đới của khí hậu theo chiều cao
Nhận những điều kiện đã trình bày ở mục trên, ta sơ bộ xét tính địa đới thẳng
đứng của khí hậu hay tính địa đới của khí hậu theo chiều cao. Thực chất của
hiện tượng này là ở vùng núi sự biến động theo chiều cao của các yếu tố khí
tượng gây nên sự biến đổi mạnh mẽ của toàn bộ tập hợp những điều kiện khí
hậu. Ở vùng núi thường có những đới hay vành đai khí hậu nằm thứ tự tương
ứng với sự biến đổi của thực vật (sự thay thế của các đới khí hậu theo vĩ độ),
song có điểm khác là sự biến đổi theo chiều nằm ngang xảy ra trên khoảng
cách chừng vài nghìn kilômét thì ở vùng núi chỉ cần độ cao chênh lệch khoảng
vài kilômet.
Khi đó những loại thực vật ở vùng núi thay đổi theo thứ tự sau: Đầu tiên là rừng
cây lá to, nhưng ở vùng khí hậu khô rừng cây lá to không phải bắt đầu ngay từ
chân núi mà ở độ cao nào đó. Ở đây nhiệt độ giảm còn giáng thuỷ tăng đến
mức đủ để cho cây gỗ mọc. Sau đó là rừng cây lá nhọn, bụi rậm, thực vật vùng
núi, cỏ và bụi rậm có gai. Tiếp nữa, ngoài giới hạn băng tuyết là đới băng tuyết
vĩnh cửu.
Giới hạn trên của rừng ở vùng có khí hậu lục địa nằm cao hơn vùng có khí hậu
biển ẩm ướt. Ở miền xích đạo giới hạn đó nằm ở khoảng 3800m. Ở những vùng
khô hạn cận nhiệt đới giới hạn này nằm cao hơn 4500m. Nhưng từ miền ôn đới
đến miền cực, rừng cây hạ thấp xuống rất nhanh, sự phát triển của rừng bị hạn
chế bởi nhiệt độ trung bình tháng 1 (khoảng 10 – 12o). Dễ hiểu là vùng đài
nguyên nói chung không có rừng. Toàn bộ sự thay đổi của các đới khí hậu theo
chiều cao ở vùng ngoài vành đai cực biểu hiện ở sự thay thế của đới đài nguyên
sang đới băng giá vĩnh cửu.
Giới hạn trồng cây ở vùng núi gần trùng với giới hạn của rừng. Ở vùng có khí
hậu lục địa khô hạn, giới hạn này ở cao hơn vùng có khí hậu biển. Ở miền ôn
đới giới hạn này khoảng 1500m, ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới cây trồng
mọc đến độ cao khoảng 4000m, đối với cao nguyên Tây Tạng thậm chí cao hơn
4600m.

Một điều đáng chú ý là trong sự thay thế của các đới khí hậu, những quy luật
chung của khí hậu đặc trưng cho vĩ độ địa lý của vùng núi nào đó vẫn đúng. Ví
dụ như ở cao hơn giới hạn băng tuyết, miền nhiệt đới, biên độ năm của nhiệt độ
vẫn nhỏ, do đó khí hậu ở đó không hoàn toàn giống với khí hậu ở miền cực.
Sự phân bố lục địa và biển
Sự phân bố lục địa và biển là một nhân tố ảnh hưởng lớn đối với khí hậu. Do sự
phân bố của lục địa và biển nên có sự phân chia khí hậu thành khí hậu biển và
lục địa. Khi nghiên cứu sự phân bố nhiệt, lượng giáng thuỷ và các yếu tố khác
trên mặt đất ở các chương trước ta nhận thấy là tính địa đới của các đặc trưng


khí hậu này thường bị nhiễu động hay bị mờ đi do ảnh hưởng của sự phân bố
không đồng đều của lục địa và biển. Ở Nam Bán Cầu, phần lớn diện tích là đại
dương còn sự phân bố của lục địa có tính đối xứng hơn so với ở Bắc Bán Cầu,
tính địa đới trong sự phân bố của nhiệt độ, khí áp, gió biểu hiện rõ hơn. Những
trung tâm hoạt động của khí quyển trên bản đồ trung bình nhiều năm có mối
liên quan rõ rệt với sự phân bố lục địa và biển. Đới cao áp cận nhiệt mùa hè bị
chia cắt bởi lục địa nóng hơn. Ở miền ôn đới trên lục địa khí áp cao và khí áp
thấp mùa hè chiếm ưu thế biểu hiện rõ. Điều này làm cho hệ thống hoàn lưu
khí quyển và như vậy cả điều kiện khí hậu trên Trái Đất trở nên phức tạp hơn.
Bản thân vị trí của địa phương tương ứng với bờ biển cũng ảnh hưởng rất nhiều
đến chế độ nhiệt độ (cũng như đến độ ẩm, độ mây và giáng thuỷ), vì vậy cũng
xác định mức độ lục địa của khí hậu. Nhưng cũng cần phải nhớ là tính lục địa
của khí hậu không những phụ thuộc vào khoảng cách đối với biển mà còn phụ
thuộc vào những điều kiện hoàn lưu chung của khí quyển gây nên sự vận
chuyển của những khối khí biển vào sâu trong lục địa (hay khối khí lục địa ra
biển) hay ngược lại.
Địa hình
Địa hình gây tác động đáng kể đối với khí hậu. Điều kiện khí hậu ở vùng núi
không những phụ thuộc nhiều vào độ cao của địa phương so với mực biển mà

còn chịu ảnh hưởng của độ cao, hướng của những dãy núi, phương vị của sườn
đối với hướng chiếu sáng và hướng gió thịnh hành, chiều rộng của thung lũng
và độ nghiêng của sườn.v.v...
Như trên đã nói, những dòng khí có thể bị các dãy núi cản lại, làm lệch hướng
và làm front biến dạng. Tốc độ của các dòng khí thường biến đổi ở những khe
hẻm giữa các dãy núi. Ở vùng núi thường xuất hiện những hệ thống hoàn lưu
địa phương, gió núi thung lũng, gió băng.
Trên các sườn có phương vị khác nhau thường hình thành những chế độ nhiệt
khác nhau. Hình dạng của địa hình còn gây ảnh hưởng cả đối với biến trình
ngày của nhiệt độ. Khi cản sự vận chuyển của khối khí nóng và lạnh, núi gây
nên sự phân chia rất rõ trong sự phân bố nhiệt độ trên phạm vi lớn.
Do những dòng khí vượt qua các dãy núi nên ở trên sườn đón gió lượng mây và
lượng giáng thuỷ tăng. Ngược lại, ở trên sườn khuất gió xảy ra những quá trình
phơn, nhiệt độ tăng, độ ẩm giảm và lượng mây giảm. Trên những sườn núi bị
đốt nóng, đối lưu phát triển mạnh, do đó quá trình hình thành mây cũng xảy ra
mạnh mẽ hơn. Ở vùng núi thường xuất hiện những nhiễu động sóng trong các
dòng khí và những dạng mây đặc biệt.
Rất nhiều hiện tượng như đã kể trên thường thể hiện rõ cả trong chế độ nhiều
năm của khí hậu vùng núi và các vùng lân cận.
Dòng biển
Dòng biển tạo nên sự khác biệt rất rõ trong chế độ nhiệt của mặt biển và do đó
ảnh hưởng đến sự phân bố của nhiệt độ không khí và hoàn lưu khí quyển.


Sự ổn định của những dòng biển làm cho ảnh hưởng của chúng đối với không
khí trở nên có ý nghĩa khí hậu. Bản đồ chuẩn sai nhiệt độ thể hiện rõ ảnh hưởng
khác biệt của dòng biển nóng Gơnstrim đến khí hậu phía đông của Đại Tây
Dương và Tây Âu. Những dòng biển lạnh cũng thể hiện rõ ở trên bản đồ nhiệt
độ không khí thông qua những lưỡi lạnh hướng về phía vĩ độ thấp, những dạng
nhiễu động của các đường đẳng nhiệt.

Trên những vùng có dòng biển lạnh tần suất của sương mù tăng, điều này thấy
rõ ở Niufaunđơlen, nơi không khí thường chuyển động từ dòng biển nóng
Gơnstrim sang dòng biển lạnh Labrado. Trên vùng biển lạnh thuộc miền tín
phong hiện tượng đối lưu không phát triển, lượng mây giảm rõ rệt. Đó là một
nhân tố đảm bảo sự tồn tại của các vùng sa mạc gần bờ.
Lớp phủ thực vật và lớp tuyết phủ
Khi nói về nhiệt độ của thổ nhưỡng và không khí ta đã nhắc đến ảnh hưởng của
lớp phủ thực vật và lớp tuyết phủ. Lớp phủ thực vật tương đối dày làm giảm
biên độ ngày và giá trị trung bình của nhiệt độ thổ nhưỡng. Như vậy, lớp phủ
thực vật cũng làm giảm biên độ của nhiệt độ không khí. Rừng gây ảnh hưởng
phức tạp đặc biệt và đáng kể hơn đối với khí hậu. Rất có thể rừng tăng lượng
giáng thuỷ vì tăng độ gồ ghề của mặt đệm dưới các dòng khí. Tuy nhiên ảnh
hưởng của lớp phủ thực vật chủ yếu có giá trị về mặt vi khí hậu vì phần lớn ảnh
hưởng này chỉ có tác động đối với lớp không khí gần mặt đất và chỉ biến đổi
trên phạm vi nhỏ.
3.2. Sự tổng hợp các yếu tố khí hậu
Khí hậu là tên gọi chung cho tập hợp các yếu tố khí hậu. Do đó, khí hậu của một nơi không
những chỉ do một loại yếu tố khí hậu xác định mà còn do tổng hợp các loại yếu tố khí hậu xác định.
Tất cả những hiện tượng tự nhiên trên trái đất chịu ảnh hưởng của khí hậu, thực tế không phải là
ảnh hưởng của một yếu tố cá biệt nào mà là sự chi phối của tổng hợp toàn bộ các yếu tố khí hậu.
Thêm vào đó, hiện tượng tổng hợp của khí hậu còn có biến đổi, do đó chỉ dựa vào một yếu tố khí
hậu rất quan trọng, nhưng ngoài nó ra còn rất nhiều yếu tố khí hậu quan trọng khác, chẳng hạn tuy
cùng một lượng giáng thủy nhưng ảnh hưởng đối với thực vật ở vùng nhiệt độ cao và vùng nhiệt độ
thấp không giống nhau. Khi nhiệt độ cao thì lượng bốc hơi cũng cao làm cho lượng giáng thủy hữu
hiệu bị giảm nhỏ đi, còn ngược lại thì lượng giáng thủy hữu hiệu tăng lên. Còn như nhiệt độ không
khí tuy thấp, nhưng nếu tốc độ gió không lớn thì thực vật cũng sinh trưởng tốt được. Như vậy, nếu
chỉ dùng yếu tố nhiệt độ không khí thì không thể thuyết minh được đầy đủ tình hình sinh trưởng của
thực vật.
Vì vậy, sự tổng hợp khí hậu là khoa học tổng hợp các yếu tố khí hậu để nghiên cứu hoặc so
sánh các loại khí hậu khác nhau. Để biểu thị hiện tượng tổng hợp khí hậu, nếu đưa lần lượt tất cả

các yếu tố khí hậu ra tất nhiên là cũng có thể được, nhưng nếu biểu thị tất cả các yếu tố khí hậu một
cách khái quát và đơn giản thì tiện lợi, đồng thời cũng rất có tác dụng trong việc thuyết minh các
loại hiện tượng, đặc biệt là khí hậu tổng hợp có thể thuyết minh rõ được nhiều hiện tượng trong tự
nhiên như trong thực vật học, thổ nhưỡng học... Từ những ý tưởng đó, các nhà khí hậu học sử dụng
các yếu tố khí hậu đặc biệt quan trọng (như nhiệt độ, lượng mưa, độ lệch bão hòa...) qui nạp thành
một chỉ số đơn giản để tiện thuyết minh những đặc trưng khí hậu của một địa phương nào đó. Vì khí
hậu có quan hệ với nhiều nhân tố, cho nên muốn qui nạp thành một chỉ số đơn giản, tất nhiên có rất
nhiều khó khăn. Nhưng nếu dùng chỉ số đơn giản như vậy để thuyết minh một mặt nào đó của đặc
trưng khí hậu (như hiện tượng khô ẩm, nóng lạnh v.v... của khí hậu) thì vẫn còn có thể được.


Sau đây xin nêu ra một số các phương pháp tổng hợp khí hậu của các học giả như sau:
3.2.1. Chỉ số khô hạn (hoặc chỉ số ẩm ướt)
Đối với khí tượng nông nghiệp hoặc tính toán cải tạo đất thì việc đánh giá về mặt số lượng
rất có ý nghĩa vì mức ẩm ướt là số lượng căn cứ để tiến hành công việc tưới nước và trồng rừng để
bảo vệ đồng ruộng theo qui mô lớn. Độ ẩm ướt được xác định bằng tỉ số giữa lượng nước thu vào
và lượng nước chi ra trên mặt đất. Trong hoàn cảnh tự nhiên, giáng thủy đại biểu cho lượng nước
thu vào, còn bốc hơi và dòng chảy đại biểu cho lượng nước chi ra.
Xuất phát từ khái niệm trên đây một số học giả khí hậu đưa ra chỉ số khô hạn (hoặc chỉ số
ẩm ướt), bằng các hình thức khác nhau.
1. Tỉ số giữa giáng thủy và bốc hơi
D =

Trong đó:

R
E

R là tổng lượng mưa trung bình hằng năm
E là tổng lượng bốc hơi trung bình hằng năm


Nếu nơi nào đó không quan sát được lượng bốc hơi thì có thể dùng công thức kinh nghiệm
của Ivanốp để tính.
E = 0,0018(25 + t)2 – (100 – f)
Trong đó:

E - lượng bốc hơi theo tính toán
t - nhiệt độ trung bình
f - độ ẩm tương đối trung bình (%) (đã xét tới gió và khí áp)

Có học giả dùng chỉ số khô hạn D =
D < 6:
6 < D < 20:
D > 20:

R
để xác định các dạng khí hậu như khi:
E

Khí hậu ấm áp
Khí hậu thảo nguyên
Khí hậu sa mạc

Nhưng vì không thể xác định chính xác được lượng bốc hơi vì rằng nhiệt độ dùng để tính
toán các chỉ số nói trên đều do quan trắc ở độ cao 2 m (độ cao của nhiệt kế đặt trong lều khí lượng),
hơi nước thì bốc hơi từ mặt thổ nhưỡng do ảnh hưởng của nhiệt độ trên mặt thổ nhưỡng. Nhiệt độ ở
độ cao 2 m không thể đặc trưng cho tình hình thực tế của bốc hơi. Nhiệt độ ở độ cao 2 m có thể
chênh lệch rất nhiều với nhiệt độ của mặt thổ nhưỡng (trong khí hậu ẩm ướt mức chênh lệch này
nhỏ, còn trong khí hậu khô ráo thì mức chênh lệch này lớn), cho nên theo tính toán như trên thì
không thỏa đáng.

2. Tỷ số giữa lượng mưa và nhiệt độ trung bình năm (gọi là chỉ số lượng mưa R)
R =

Trong đó:

r
t

r là lượng giáng thủy năm
t là nhiệt độ không khí trung bình năm

Nhưng nếu t rất thấp hoặc dưới 0oC thì R sẽ mất ý nghĩa của nó, cho nên người ta sửa đổi
lại như sau: R =

r
t + 10


Trong đó r là lượng mưa năm và t là nhiệt độ không khí trung bình năm. Chỉ số này có ý
nghĩa rất lớn đối với địa lí tự nhiên.
Bảng 3.1. Chỉ số lượng mưa ở các địa hình khác nhau
Chỉ số R
<5
5 – 10
10 – 20
≈ 20

Tình hình thực vật
Sa mạc thuần túy, nói chung là những khu vực không có dòng chảy
Những lưu vực ở nội địa, không có sông chảy ra biển, sông bị giới hạn bởi các

phạm vi vùng lòng chảo kín của lục địa
Sa mạc lớn muốn canh tác nông nghiệp phải có hệ thống dẫn nước vào ruộng
Xuất hiện rừng rậm

3. Hệ số NS (là tỉ số giữa giáng thủy năm với độ lệch bão hòa)
Hệ số NS =
Trong đó:

r
d

r là lượng giáng thủy năm
d = E – e là độ lệch bão hòa trung bình năm
Q =

4. Hệ số vũ nhiệt Q:

100r

(

)

 t max + t min
2
. t max − t min
2




(



) 


Trong đó:

r là lượng giáng thủy trung bình năm
t max là nhiệt độ tối cao trung bình của tháng nóng nhất
t min là nhiệt độ tối thấp trung bình của tháng lạnh nhất.
5. Hệ số thủy nhiệt:
k =

r
0.1∑ t

r là lượng giáng thủy của thời kỳ có nhiệt độ t > 10oC
∑ t là nhiệt độ tích lũy trong cùng thời kỳ
Nếu k > 1: Khí hậu ẩm ướt
k < 1: Khí hậu khô hạn

Trong đó:

Trong hệ số thủy nhiệt trên đây chưa xét đến t < 10 oC. Về sau người ta cho là nhiệt độ tích
lũy tính với nhiệt độ cao hơn 0 oC và r là lượng giáng thủy trong thời kỳ đó. Vì chúng ta biết rằng
thời kỳ nhiệt độ trung bình ngày cao hơn 0 oC có thể đại biểu cho thời kỳ canh tác nông nghiệp, còn
khi nhiệt độ thấp hơn 0oC thì thổ nhưỡng bị đóng băng và giáng thủy ở thể rắn (tuyết, băng) thực
vật không thể sử dụng được nước.

6. Chỉ số khô ráo A
a) Tất cả những chỉ số trên đây đều không xét đến nhân tố vĩ độ, cho nên có học giả cho
rằng chỉ số khô ráo phải xét đến ảnh hưởng của vĩ độ và đã đưa ra công thức.
A =

Trong đó:

r
− rmin
1
cos ϕ(t max − t min ) max
3
rm

tmax – tmin là chênh lệch năm của nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất và tháng
lạnh nhất
rmax là lượng giáng thủy năm lớn nhất trong 50 năm
rmin là lượng giáng thủy năm nhỏ nhất trong 50 năm


rm là lượng giáng thủy trung bình trong 50 năm
ϕ là vĩ độ địa lí
Nếu A < 20%:
Khí hậu ôn hòa
A = 20 – 40%: Khí hậu thảo nguyên
A > 40%:
Khí hậu sa mạc
b) Có học giả coi nhiệt độ của mặt hoạt động có quan hệ mật thiết với trị số cân bằng bức xạ
và do đó trị số bốc hơi có quan hệ với cân bằng bức xạ và đã đưa ra tỷ số A =


B
làm chỉ số khô
Lr

ráo. Trong đó: B là trị số cân bằng bức xạ trung bình của mặt đất, r là lượng mưa trung bình năm và
L là tiềm nhiệt bốc hơi.
Khi

A < 0,35:
A = 0,35 ∼ 1,1:
A = 1,1 ∼ 2,3:
A = 2,3 ∼ 3,4:
A > 3,4:

Tương ứng với khí hậu đài nguyên
Tương ứng với khí hậu rừng
Tương ứng với khí hậu thảo nguyên
Tương ứng với khí hậu bán sa mạc
Tương ứng với khí hậu sa mạc

3.2.2. Công thức thực nghiệm
Căn cứ vào các số liệu quan trắc thực tế của các yếu tố khí hậu, các chuyên gia khí hậu thiết
lập các quan hệ giữa chúng với nhau bằng những công thức toán học và người ta gọi những công
thức đó là công thức thực nghiệm.
Ví du: Gọi t là nhiệt độ trung bình năm (oC) và r (cm) là lượng giáng thủy năm thì ranh giới
giữa các khu vực có khí hậu ẩm ướt và các khu vực có khí hậu khô ráo do các công thức sau đây qui
định.
Nếu quanh năm mưa nhiều thì r = 2 ( t + 7)
Nếu mùa Hè mưa nhiều thì r = 2 ( t + 14)
Nếu mùa Đông mưa nhiều r = 2 t

3.2.3. Công thức khí hậu
Vì khí hậu là kết quả của sự tập hợp các yếu tố khí hậu cho nên các nhà khí hậu muốn dùng
ký hiệu hoặc một nhóm chữ số để biểu thị khí hậu. Ví dụ người ta có thể dùng chữ cái để ký hiệu
đặc tính của các yếu tố khí hậu, sau đó kết hợp các chữ cái thành công thức dùng để biểu thị khí hậu
các nơi, đồng thời có thể dùng công thức đó để gọi tên các khu vực khí hậu. Và công thức này có
thể so sánh tình hình khí hậu các nơi mot cách đơn giản và chính xác, rõ ràng.
Cũng có học giả đề ra biểu thức khí hậu dùng để liên hệ các số liệu khí hậu. Dạng của biểu
thức khí hậu như sau:
i. Nhiệt độ không khí trung bình năm, nhiệt độ không khí trung bình tháng nóng nhất, nhiệt độ
không khí trung bình tháng lạnh nhất, nhiệt độ không khí tối thấp trung bình tháng lạnh nhất,
nhiệt độ không khí tối cao trung bình tháng nóng nhất, nhiệt độ không khí tối cao tuyệt đối,
nhiệt độ không khí tối thấp tuyệt đối.
ii. Độ ẩm tuyệt đối trung bình năm, độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng lớn nhất, độ ẩm tuyệt đối
trung bình tháng nhỏ nhất, độ ẩm tương đối trung bình năm, độ ẩm tương đối trung bình tháng
lớn nhất, độ ẩm tương đối trung bình tháng nhỏ nhất.


iii. Lượng mây trung bình năm, lượng mây trung bình tháng lớn nhất, lượng mây trung bình tháng
nhỏ nhất.
iv. Lượng mưa năm, lượng mưa tháng lớn nhất, lượng mưa tháng nhỏ nhất, số ngày mưa trong
một năm, số ngày mưa của tháng có mưa nhiều nhất, số ngày mưa của tháng có mưa ít nhất.
3.2.4. Bản đồ khí hậu
Nhiệt độ không khí là yếu tố khí hậu quan trọng nhất đối với sinh hoạt của con người, nhưng
bất luận trong trường hợp nào chúng ta không phải chỉ chịu ảnh hưởng đơn độc của nhiệt độ không
khí mà còn chịu tác động tổng hợp của các yếu tố khí hậu khác nữa. Tuy nhiệt độ không khí quan
trọng nhưng vẫn phải kết hợp với các yếu tố khác mới mang tính đại diện được tình hình khí hậu.
Kết quả của sự kết hợp giữa nhiệt độ không khí và độ ẩm phản ảnh ở sự biến đổi khí hậu rõ rệt. Ví
dụ như ở những khu vực thấp của nhiệt đới không những có nhiệt độ cao mà độ ẩm cũng cao nên
người ta cảm thấy nóng bức khó chịu. Kết quả sự tổng hợp giữa nhiệt độ không khí và độ ẩm. Căn
cứ vào các bản đồ khí hậu lập ra bằng cách dựa vào số liệu quan trắc các nơi có thể biết một cách

khái quát đặc tính khí hậu các vùng. Ví dụ như căn cứ vào bản đồ tổng hợp giữa nhiệt độ và độ ẩm
chúng ta có thể chia thành các trường hợp sau đây:
– Khu vực có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn gọi là vùng có khí hậu nóng ẩm.
– Khu vực có nhiệt độ thấp và độ ẩm nhỏ gọi là vùng có khí hậu rét lạnh.
– Khu vực có nhiệt độ cao và độ ẩm nhỏ gọi là vùng có khí hậu nóng khô.
– Khu vực có nhiệt độ thấp và độ ẩm lớn gọi là vùng có khí hậu ẩm lạnh.
3.3. Các phương pháp phân loại và phân vùng khí hậu
3.3.1. Phương pháp phân loại khí hậu
Khí hậu là kết quả của sự tác động chung của nhiều nhân tố khác nhau với khí quyển, mà
bản thân khí quyển cũng thường xuyên biến đổi. Do đó mỗi nơi trên trái đất đều có khí hậu khác
nhau và rất ít khi ở hai nơi khí hậu giống nhau. Để tiện cho việc nghiên cứu, thống kê và ghi nhớ về
khí hậu người ta phân chia thành các loại khí hậu và cách phân chia đó gọi là phương pháp phân
loại khí hậu. Nói một cách khác, phân loại khí hậu là phân chia các loại hình khí hậu mà căn cứ vào
đó để xác định các điểm giống nhau và khác nhau của tình hình khí hậu ở các nơi.
Nhiều học giả đã căn cứ vào các quan điểm khác nhau và lập ra các phương pháp phân loại
khí hậu khác nhau. Tuy nhiên vấn đề phân loại khí hậu là rất phức tạp cho nên không có phương
pháp phân loại khí hậu nào được hoàn thiện cả.
Có rất nhiều phương pháp phân loại khí hậu đã được đưa ra nhưng có thể qui nạp thành 3 tổ
phương pháp sau đây:
3.3.1.1. Phương pháp phân loại thực nghiệm
Phương pháp phân loại thực nghiệm là căn cứ vào hiện tượng tự nhiên phản ảnh sâu sắc nhất
ảnh hưởng của khí hậu để phân chia loại hình khí hậu. Về việc lựa chọn hiện tượng tự nhiên có học
giả đã dùng hiện tượng sinh lý, sinh thái thực vật, có học giả lại dùng hiện tượng thủy văn cho nên
phương pháp phân loại thực nghiệm có thể bao gồm phương pháp phân loại khí hậu thực vật và
phương pháp phân loại khí hậu thủy văn. Ngoài ra, các học giả dùng phương pháp thống kê để
chỉnh lý các số liệu thực nghiệm cho nên phương pháp phân loại thực nghiệm còn có tên gọi là
phương pháp phân loại khí hậu thống kê thực nghiệm.
• Phương pháp phân loại khí hậu thực vật: Vì thực vật tự di động được cho nên chỉ có thể
về mặt sinh thái của nó tìm cách thích ứng với các loại khí hậu khác nhau. Và như vậy các
hình khí hậu khác nhau có thể tạo thành các loại thực vật đặc trưng khác nhau. Tất cả các



ảnh hưởng của khí hậu đối với thực vật đều có thể có phản ứng rõ rệt ở sinh thái của thực
vật, nghĩa là các hình khí hậu khác nhau đều có đặc trưng thực vật khác nhau, như thế tất
nhiên có thể ứng dụng hiện tượng sinh thái thực vật làm căn cứ cho tiêu chuẩn phân loại
khí hậu.
• Phương pháp phân loại khí hậu theo thủy văn: Các học giả cho rằng sông ngòi và các hiện
tượng thủy văn khác có thể chịu sự chi phối rõ rệt của khí hậu. Ví dụ như sông dài và lưu
lượng lớn phải là vùng có nhiều mưa, và vào mùa Hè do mưa nhiều nên hay có lũ xảy ra,
hoặc vùng không có sông ngòi là vì lượng giáng thủy ít.
• Phương pháp phân loại khí hậu theo thống kê thực nghiệm: Có học giả dùng chỉ số khô
hạn (hoặc chỉ số ẩm ướt) để phân chia khí hậu thành khí hậu ẩm ướt, khí hậu ẩm ướt đầy
đủ, khí hậu ẩm ướt trung bình, khí hậu hơi ẩm, khí hậu thiếu ẩm ướt và khí hậu khô ráo
hoặc sa mạc.
3.3.1.2. Phương pháp phân loại theo nguyên nhân hình thành
Phương pháp phân loại theo nguyên nhân hình thành là phương pháp phân loại căn cứ vào
các nhân tố khống chế khí hậu như vĩ độ, địa mạo, vị trí v.v... để phân chia khí hậu. Có học giả căn
cứ vào loại hình địa lí của khí đoàn và còn chú ý đến tác dụng của độ cao, địa hình đối với sự biến
đổi của khí hậu. Các hình khí hậu chủ yếu là do tác dụng của bức xạ và quá trình biến đổi có qui
luật như độ cao có thể làm giảm nhiệt độ không khí và độ ẩm tuyệt đối cho nên các bộ phận cấu
thành cân bằng bức xạ và tình hình nhiệt lực của mặt đất đều biến đổi theo độ cao, mặt khác độ cao
có thể làm thay đổi lượng mây và lượng giáng thủy, đồng thời sự thay đổi này cũng khác nhau theo
vị trí của dốc núi.
3.3.1.3. Phương pháp phân loại theo lí luận
Phần lớn các phương pháp phân loại khí hậu nói chung đều gián tiếp hay trực tiếp dùng nhiệt
độ và giáng thủy để phân loại. Nhưng chỉ căn cứ vào nhiệt độ và giáng thủy để phân loại khí hậu thì
khu vực khí hậu không thể hoàn toàn phù hợp với khu vực tự nhiên.
Phương pháp tốt nhất để phân loại khí hậu là xuất phát từ cân bằng lượng nước và cân bằng
nhiệt lượng. Nhưng khó khăn lớn nhất của phương pháp này là bị thiếu tài liệu quan trắc bốc hơi, do
đó có nhiều học giả căn cứ vào nhiệt độ và độ ẩm không khí, giáng thủy và tốc độ gió để biểu thị

gián tiếp lượng bốc hơi, sau đó lại căn cứ vào cân bằng lượng nước để tính chỉ số khô ráo (hoặc chỉ
số ẩm ướt) để phân loại khí hậu. Vì lượng bốc hơi của chỉ số này đều căn cứ vào công thức thực
nghiệm, cho nên các phương pháp phân loại này vẫn còn nhiều khuyết điểm.
Do đó, có học giả cho rằng nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là không xuất phát từ cân
bằng bức xạ để tính lượng bốc hơi, và cho rằng nếu ở một nơi nào đó có nguồn nước vô tận thì bốc
hơi lý thuyết ở nơi đó tốt nhất là tính trực tiếp từ cân bằng bức xạ mặt trời và dùng chỉ số của cân
bằng bức xạ năm B với nhiệt cần cho bốc hơi L và lượng giáng thủy năm r để tính chỉ số khô ráo và
chỉ số này có tính chất quyết định đối với các bộ phận cấu thành cân bằng nhiệt lượng và cân bằng
lượng nước, do đó sự phân chia khí hậu theo lý luận trên đây rất phù hợp với khu vực địa lí tự
nhiên.
Hiện nay có nhiều phương pháp phân loại khí hậu cho toàn Trái đất cũng như cho từng khu
vực. Khi phân loại khí hậu, các tác giả đã xuất phát từ các chỉ tiêu khác nhau. Ở đây chỉ trình bày
hai phương pháp phân loại và phân vùng cho trái đất có giá trị khoa học và thực tiễn lớn.
Phương pháp phân loại khí hậu của Côpen


Phương pháp phân loại khí hậu Trái đất do Côpen đề xướng từ lâu đặc biệt được phổ biến và
đã được hoàn chỉnh lại nhiều lần.
Côpen phân loại khí hậu theo chế độ nhiệt và mức độ tưới ẩm. Ông phân chia mặt Trái đất ra
thành 6 đới khí hậu (không kể hai vùng cực).
Đới khí hậu nhiệt đới ẩm biểu thị bằng chữ A và nằm ở hai phía xích đạo có đặc điểm là
không có mùa đông. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất lớn hơn 18 0C còn tổng lượng giáng thuỷ
năm bằng hay lớn hơn 750mm. Đới này được phân biệt thành các loại khí hậu: rừng mưa nhiệt đới,
nhiệt đới gió mùa, nhiệt đới ẩm và ít mưa.
Về hai phía của đới nhiệt đới là hai đới khí hậu khô (B) bao quanh Trái đất. Trong các đới
này mưa ít, còn bốc hơi khả năng rất lớn do nhiệt độ cao. Đới này được phân thành hai loại khí hậu:
sa mạc (BS) và thảo nguyên bán khô hạn (BW). Giới hạn giữa chúng là tổng lượng giáng thuỷ.

Hình 3.1. Phân bố các khu vực khí hậu (Côpen)
Kế cận các đới khí hậu khô là hai đới có khí hậu ôn hoà (C), không có lớp tuyết phủ thường

xuyên. Kể từ phía xích đạo, mỗi đới được giới hạn bằng đường đẳng nhiệt 3 0C của tháng lạnh nhất.
Nhóm khí hậu C phân ra 3 loại: Cw - khí hậu ôn hoà với mùa đông khô, Cs - khí hậu ôn hoà với
mùa hè khô và Cf - khí hậu ôn hoà với sự tưới ẩm điều hoà, cận nhiệt ẩm Cfa.
Tiếp nữa, trên các lục địa bán cầu Bắc có đới khí hậu ẩm với mùa đông rất lạnh D với lớp


tuyết phủ bền vững vào mùa đông. Trong đó phân biệt hai loại khí hậu: Dw với mùa đông khô (loại
ngoại Baican giữa lục địa Châu Á trong khu vực cao áp mùa đông) và Df với sự tưới ẩm điều hoà.
Ở bán cầu Nam không có loại khí hậu này vì không có lục địa rộng lớn ở những vĩ độ tương ứng.
Cuối cùng là hai vùng có khí hậu cực E, chúng được giới hạn bằng đường đẳng nhiệt 10 0C
của tháng nóng nhất. Ở đây cũng có hai loại khí hậu: khí hậu đài nguyên ET, khí hậu này hầu như
không quan sát thấy trên lục địa bán cầu Nam.
Côpen cũng xếp khí hậu vùng núi cao ở các vĩ độ ôn đới và vĩ độ thấp vào loại khí hậu cực
này.
Côpen còn chia 11 loại khí hậu đã nói trên thành những loại phụ theo các đặc điểm khác biệt
hơn nữa trong chế độ nhiệt độ và giáng thuỷ.
Phương pháp phân vùng khí hậu của Alisôp.B.P
B.P.Alisôp đề nghị chia các đới và các khu vực khí hậu xuất phát từ những điều kiện của
hoàn lưu chung khí quyển.
Ông chia bảy đới khí hậu chủ yếu là: 1- Đới xích đạo, 2- Đới cận xích đạo, 3- Nhiệt đới, 4Cận nhiệt đới, 5- Ôn đới; 6- Cận cực; 7- Cực đới Bắc Băng Dương (ở Nam Bán Cầu là khối khí
Nam Băng Dương).
Giữa các đới này Alisôp phân biệt 6 đới chuyển tiếp, 3 đới ở mỗi bán cầu được đặc trưng bởi
sự thay đổi theo mùa của các khối khí thịnh hành. Đó là hai đới khí hậu gió mùa (khí hậu xích đạo)
trong đó vào mùa hè thịnh hành không khí xích đạo, còn mùa đông là không khí nhiệt đới; hai đới
cận nhiệt trong đó mùa hè không khí nhiệt đới còn mùa đông không khí cực thịnh hành; đới cận cực
Bắc Băng Dương hay cận cực Nam Băng Dương mùa hè không khí cực còn mùa đông không khí
Bắc Băng Dương hay không khí Nam Băng Dương thịnh hành.
Giới hạn của các đới được xác định bởi vị trí trung bình của các front khí hậu. Chẳng hạn
như đới nhiệt đới nằm giữa vị trí mùa hè của front nhiệt đới và vị trí mùa đông của front cực, vì vậy
mùa đông đới này nằm dưới tác động thịnh hành của không khí cực còn mùa hè - không khí nhiệt

đới. Giới hạn của các đới khác cũng được xác định tương tự.
Trong mỗi đới khí hậu phân biệt bốn loại khí hậu chủ yếu: khí hậu lục địa, khí hậu đại
dương, khí hậu bờ phía tây và khí hậu bờ phía đông đại dương. Sự khác biệt giữa khí hậu lục địa và
biển chủ yếu gây nên do những sự khác biệt trong các tính chất của mặt trải dưới; trong trường hợp
đầu những tính chất này tạo nên do không khí lục địa, trong trường hợp thứ hai do các khối khí
biển. Sự khác biệt giữa khí hậu bờ tây và khí hậu bờ đông của lục địa phần lớn liên quan với những
sự khác biệt trong điều kiện hoàn lưu khí quyển và một phần liên quan với sự phân bố của các dòng
biển.
3.4. Đới khí hậu và hình khí hậu
3.4.1. Đới khí hậu
3.4.1.1. Nguồn gốc của đới khí hậu
Bức xạ mặt trời là động lực cơ bản của sự hình thành và biến đổi khí hậu, mà sự phân bố
bức xạ mặt trời trên trái đất phụ thuộc vào vĩ độ, cho nên vĩ độ có ảnh hưởng lớn nhất đến khí hậu.
Trên trái đất, căn cứ vào vĩ độ có thể phân chia thành một số khu vực khí hậu có dạng đới, gọi là đới
khí hậu. Nếu trên mặt trái đất không có sự phân chia nước và đất cũng chênh lệch về địa hình thì


đới khí hậu này sẽ hoàn toàn song song với vĩ tuyến. Và người ta chia thành các đới khí hậu như
sau: nhiệt đới, ôn đới và hàn đới. Ôn đới và hàn đới đều có ở 2 bán cầu, còn nhiệt đới thì liền thành
một dải cho nên trên toàn cầu có 5 đới khí hậu.
Về sau người ta đã chú ý đến sự ảnh hưởng của độ cao đối với khí hậu và người ta cũng
nhận thức được sự phân bố của đất và nước và các dãy núi đến khí hậu nữa cho nên đới khí hậu
không phải chỉ do lượng bức xạ mặt trời quyết định mà còn do yếu tố nhiệt độ để quyết định.
3.4.1.2. Đới khí hậu toán học
Đới khí hậu toán học (hoặc đới khí hậu thiên văn) là phương pháp phân đới khí hậu xưa
nhất. Phương pháp phân đới này căn cứ vào lượng nhật xạ và độ dài ban ngày làm tiêu chuẩn và
phân thành 5 đới gồm nhiệt đới, hai đới ôn đới ở 2 bán cầu và hai đới hàn đới ở hai bán cầu.
Nếu giả định bề mặt của toàn bộ bán cầu là 100% thì diện tích tương đối của các đới là:
nhiệt đới (40%), ôn đới (52%) và hàn đới (8%).
Nhưng do ngoài sự chi phối của vĩ độ ra, nhiệt độ còn chịu ảnh hưởng của phân bố lục địa

và đại dương, địa hình và hải lưu cho nên đới khí hậu trên địa cầu có thể phân thành các đới phụ
nữa, nên bao gồm: đới xích đạo, nhiệt đới, phó nhiệt đới, ôn đới ẩm, ôn đới lạnh và hàn đới.
3.4.1.3. Đới khí hậu vật lí
Để cho sự phân chia đới khí hậu càng phù hợp với tình hình khí hậu thực tế người ta đã
dùng đường đẳng nhiệt hoặc gió làm tiêu chuẩn để phân chia đới khí hậu, đới khí hậu này gọi là đới
khí hậu vật lý và 4 cách phân đới khí hậu như sau:
a) Có học giả căn cứ vào phạm vi của Tín phong (25 độ vĩ tuyến Nam Bắc) làm ranh giới
nhiệt đới Nam và Bắc bán cầu, và 65 độ vĩ tuyến làm phân giới giữa ôn đới và hàn đới.
b) Có học giả dùng đường đẳng nhiệt để phân chia các đới khí hậu như sau:
i. Nhiệt đới ở khoảng giữa hai đường đẳng nhiệt 20oC của hai bán cầu
ii. Ôn đới ở khoảng giữa 2 đường đẳng nhiệt 20oC và 10oC
iii. Hàn đới ở bên ngoài đường đẳng nhiệt 10oC
Theo cách phân chia này, diện tích các đới khí hậu như sau:
Bảng 3.2.: Diện tích cc đới khí hậu
Nhiệt đới
Ôn đới
Hàn đới

Bắc bán cầu
10.904 × 104 km2
10.738 × 104 km2
1.855 × 104 km2

Nam bán cầu
11.521 × 104 km2
7.379 × 104 km2
6.597 × 104 km2

c) Có học giả dùng thời kỳ kéo dài của nhiệt độ 20°C và 10°C làm tiêu chuẩn phân thành 5
đới khí hậu:

i. Nhiệt đới, các tháng đều nóng bức (trên 20°C)
ii. Phó nhiệt đới, có từ 4 đến 11 tháng nóng bức (trên 20°C) và 1 đến 8 tháng ôn hòa
(10 – 20°C)
iii. Ôn đới có 4 đến 12 tháng ôn hòa (10 – 20°C)
iv. Hàn đới có 1 đến 4 tháng ôn hòa (10 – 20°C) các tháng còn lại rét lạnh (dưới 10°C)


v. Cực đới, các tháng đều rét lạnh (dưới 10 oC): Do không có một tháng nào nhiệt độ
trung bình của không khí lớn hơn 10oC nên cây cối không sinh trưởng được.
Cách phân chia này tuy gần với thực tế hơn đới khí hậu toán học trên đây, nhưng vì cách
phân chia này vẫn chỉ căn cứ vào nhiệt độ không khí nên vẫn không được hoàn thiện, vẫn là các đới
nhiệt độ mà thôi.
d) Có học giả dựa vào nhiệt độ trên mặt phẳng tiêu chuẩn (mặt biển) tức là đem nhiệt độ trên
mặt địa cầu hiệu chỉnh đến mặt biển để khử ảnh hưởng của độ cao, cho nên có thể phản ảnh ảnh
hưởng của nhân tố phân bố lục địa và đại dương và nhân tố địa mạo.
3.4.1.4. Đới khí hậu địa lý khí đoàn
Có học giả cho rằng chỉ căn cứ vào lượng nhật xạ hoặc đường đẳng nhiệt để phân chia đới
khí hậu thì không đầy đủ, vì đó chỉ là căn cứ vào một yếu tố để phân chia, đồng thời chưa xét đến
các loại nhân tố hình thành khí hậu, do vậy nên dùng loại hình địa lí khí đoàn làm cơ sở để phân
chia đới khí hậu. Vì các loại khí đoàn chủ yếu có thể phản ảnh các loại nhân tố hình thành khí hậu
(như sự vận chuyển nhiệt lượng của hoàn lưu khí quyển, hải lưu và các dòng không khí, phân bố lục
địa và đại dương v.v...), cho nên phương pháp phân chia này là hoàn thiện nhất.
Căn cứ vào đặc trưng chủ yếu về loại hình địa lí của khí đoàn, trên mỗi bán cầu phân chia
thành 4 đới khí hậu chủ yếu: đới khí đoàn xích đạo, đới khí đoàn nhiệt đới, đới khí đoàn ôn đới và
đới khí đoàn cực đới.
Dưới ảnh hưởng của lục địa và đại dương trong mỗi đới khí hậu lại phân chia thành dạng
phụ lục địa và dạng phụ hải dương của khí đoàn.
Lại do sự di động theo mùa của đới front khí hậu, giữa các đới khí hậu chủ yếu nói trên còn
có thể phân chia thành 3 đới quá độ: đới gió mùa xích đạo (hoặc đới phó xích đạo), phó nhiệt đới và
phó địa cực.

3.4.2. Hình khí hậu
3.4.2.1. Sự phân chia các hình khí hậu
Ta gọi đới khí hậu là vùng (hoặc khu vực) với phạm vi rộng lớn bao quanh địa cầu có khí
hậu đồng đều. Trong cùng một đới khí hậu, do hoàn cảnh địa lí tự nhiên khác nhau sẽ tạo ra nhiều
hình khí hậu khác nhau; mặt khác, trong các đới khí hậu khác nhau nhưng vị trí địa lí tương tự cũng
có thể xuất hiện hình khí hậu gần giống nhau. Ví dụ trong cùng một đới khí hậu có khí hậu hải
dương, khí hậu lục địa, khí hậu núi cao v.v... Nói khác đi, ngoài đới khí hậu ra, còn có thể căn cứ
vào các loại đặc trưng để phân chia thành hình khí hậu một cách tỉ mỉ hơn.
Có học giả cho rằng trong mỗi đới khí hậu phải phân chia thành 4 hình khí hậu chủ yếu, đó
là hình khí hậu lục địa, hình khí hậu hải dương, hình khí hậu bờ phía Tây và hình khí hậu bờ phía
Đông. Nhưng đới khí hậu xích đạo là ngoại lệ, vì trong đới này, hình lục địa và hình hải dương
chênh lệch nhau rất nhỏ, cho nên cũng không có hình bờ phía Tây và hình bờ phía Đông. Chênh
lệch giữa hình lục địa và hình hải dương chủ yếu là do ảnh hưởng của đặc tính mặt đất và mặt nước
tạo thành. Đặc tính của hình bờ phía Tây và hình bờ phía Đông chủ yếu có quan hệ đặc trưng của
hoàn lưu khí quyển.
3.4.2.2. Khí hậu hải dương và khí hậu bờ biển:


a) Khí hậu hải dương có các đặc trưng sau:
• Độ biến thiên ngày và năm của nhiệt độ rất nhỏ, ngoài việc chịu ảnh hưởng của phân
bố hải lục ra, chênh lệch năm của nhiệt độ còn chịu ảnh hưởng của vĩ độ;
• Pha của nhiệt độ năm tương đối chậm, thời gian xuất hiện nhiệt độ cực trị của khí hậu
lục địa so với thời gian xuất hiện trị số cực trị của nhật xạ lạc hậu trên 25 ngày, khí hậu
hải dương ở vĩ độ cao có thể lạc hậu khoảng 1 tháng rưỡi, ở vĩ độ thấp của ôn đới có thể
lạc hậu khoảng 2 tháng. Ở vĩ độ thấp ảnh hưởng của hải dương không rõ rệt, cho nên ảnh
hưởng của hải dương ở khu vực này chủ yếu chỉ có thể làm cho mức chênh lệch nhiệt độ
các tháng rất cân bằng mà thôi.
• Độ ẩm quanh năm cao và lượng mây nhiều, và nói chung tốc độ gió tương đối mạnh và
ít bụi.
Tóm lại, khí hậu hải dương là khí hậu ôn hòa và ít biến đổi, nhiều mây nhiều mưa, cho nên

ảnh hưởng đối với thực vật có khác hơn so với khí hậu lục địa khô ráo.
b) Khí hậu bờ biển: Là khí hậu lục địa ở gần bờ biển, đó là khí hậu quá độ giữa khí hậu hải
dương và khí hậu lục địa. Ở vùng vĩ độ trung bình vì hướng gió thịnh hành là gió Tây cho nên khí
hậu bờ biển phía Đông gần giống với khí hậu lục địa, còn khí hậu bờ biển phía Tây gần giống khí
hậu hải dương.
3.4.2.3. Khí hậu lục địa và khí hậu sa mạc
a) Khí hậu lục địa: Khí hậu trong nội bộ lục địa, cách xa bờ biển gọi là khí hậu lục địa. Các
đặc trưng của khí hậu lục địa gồm:
• Hầu như tất cả các yếu tố khí hậu đều có biến đổi chu kỳ hoặc biến đổi phi chu kỳ ngày
và năm rất lớn, đặc biệt là đối với nhiệt độ không khí.
• Bức xạ mặt trời và bức xạ mặt đất đều lớn, cho nên mùa Hè do nhật xạ lớn nên nhiệt
độ tăng cao, nhiều mây, nhiều mưa, còn vào mùa Đông do bức xạ mặt đất rất mạnh, nhiệt
độ không khí giảm đi rất nhiều, áp cao khống chế nên trời ít mây và ít mưa.
Vùng có khí hậu lục địa thịnh hành nhất là lục địa châu Á rồi đến lục địa Bắc Mỹ.
b) Khí hậu sa mạc: Khí hậu sa mạc là tình hình cực đoan của khí hậu lục địa. Sự phân bố
của sa mạc đều nằm trong khu vực phó nhiệt đới. Ở sa mạc mưa rất ít nên nói chung thực vật không
sống được, mặt đất bị lộ thiên, mức độ khô hạn khá rõ rệt. Vì ít mưa nên độ ẩm không khí rất nhỏ,
ban ngày nhật xạ rất mạnh, mặt đất rất nóng (đến 60 – 70 oC) và tạo thành dòng thăng mạnh, cuồng
phong rất mạnh nhưng ít khi hình thành được mây và mưa. Ban đêm do bức xạ mặt đất lạnh đi rất
nhiều, cho nên biến đổi nhiệt độ không khí trong một ngày đêm rất lớn (có khi tới trên 50oC).
Tuy sa mạc phân bố ở vào bên trong lục địa ở khoảng vĩ độ 20 – 40 oC, nhưng cũng có sa
mạc trực tiếp kéo dài đến bờ biển. Loại sa mạc bờ biển phần lớn được giới hạn ở bờ phía Tây lục
địa của đới Tín phong, ví dụ như sa mạc ven bờ Thái Bình Dương giữa Peru và Bắc Chilê. Loại khí
hậu sa mạc bờ biển là khí hậu ít mưa và nhiều mù.
3.4.2.4. gió mùa
Khí hậu gió mùa là khí hậu hỗn hợp giữa khí hậu lục địa và khí hậu hải dương: mùa Hè có
khí đoàn từ trên mặt hải dương thổi tới nên có đặc trưng của khí hậu hải dương, nóng và mưa nhiều;
mùa Đông có khí đoàn từ cực đới thổi tới, nên có đặc trưng của khí hậu lục địa, lạnh và ít mưa.
Do vị trí của các khu vực khí hậu gió mùa khác nhau, nên ngoài việc biến đổi năm về giáng
thủy bị ảnh hưởng ra, còn có thể ảnh hưởng đến biến đổi năm của các yếu tố khí hậu khác. Ví dụ

như khu vực khí hậu gió mùa của vùng vĩ độ thấp, do độ cao mặt trời của vùng này biến đổi ít nên


sự chênh lệch năm của nhiệt độ không khí rất nhỏ, cho nên sự biến đổi nhiệt độ năm do sự trao đổi
của gió mùa gây ra lớn hơn là sự biến đổi nhiệt độ năm do sự chi phối của độ cao mặt trời gây ra.
Điều này làm cho nhiệt độ nóng nhất trong một năm xuất hiện vào thời kỳ quá độ giữa gió mùa mùa
Đông và gió mùa mùa Hè.
3.4.2.5. Khí hậu đồi núi và khí hậu núi cao
Ở vùng núi do ảnh hưởng của độ cao và địa mạo có thể hình thành khí hậu đặc biệt, gọi là
khí hậu vùng núi. Và khí hậu vùng núi có thể chia thành 2 loại: Khí hậu đồi núi và khí hậu núi cao.
Khí hậu đồi núi là khí hậu ở vùng có độ cao dưới 2000 m, còn khí hậu núi cao là khí hậu ở
vùng có độ cao trên 2000 m. Khí hậu đồi núi có không khí trong sạch, mát mẻ có lợi đối với con
người, còn khí hậu núi cao thì khí áp suất thấp nên không có lợi đối với con người. Trên núi cao,
cường độ bức xạ mặt trời lớn, nhất là các tia tử ngoại sóng ngắn nhiều hơn ở vùng đồng thấp, nên
có thể làm cho sự sinh trưởng của thực vật bị trở ngại. Trên núi cao vì nhiệt độ thấp cho nên rừng
dần dần nhỏ và thấp hơn, sau cùng biến thành thảo nguyên. Trên núi cao tuy độ ẩm tuyệt đối giảm
đi theo độ cao, nhưng vì nhiệt độ giảm nên độ ẩm tương đối tăng theo độ cao, do đó trên núi cao có
nhiều mây và mưa hơn ở dưới thấp, nhất là về mùa Hè. Nhưng vì độ ẩm tuyệt đối giảm theo độ cao
nên khi lên tới một độ cao nào đó lượng mưa sẽ lớn nhất, lên cao nữa lượng mưa sẽ giảm dần đi.
Các loại gió núi – thung lũng, gió foehn là các đặc trưng của khí hậu núi cao.
Tóm lại, không khí trên núi cao trong sạch, tốc độ gió tăng. Mùa Xuân rét lạnh, mùa Thu ấm
áp, biến đổi năm của nhiệt độ không khí chậm hơn dưới đất thấp, mức chênh lệch năm và chênh
lệch ngày của nhiệt độ không khí cũng nhỏ hơn ở đất thấp, đặc trưng của khí hậu núi cao gần giống
như đặc trưng của khí hậu hải dương. Vào mùa Đông, núi cao thường ở dưới lớp nghịch nhiệt nên
tương đối ấm, có nhiều ánh sáng mặt trời. Vùng núi do độ lồi lõm rất lớn, có nhiều biến đổi địa hình
nên lượng nhật xạ, nhiệt độ không khí, lượng mưa và các yếu tố khí hậu khác có biển đổi rất lớn
trong phạm vi nhỏ, nhất là giữa sườn hướng về phía mặt trời và sườn khuất mặt trời. Những điều đó
có ảnh hưởng đến trồng trọt và sinh sống của dân cư.
3.5. CÁC HÌNH KHÍ HẬU TRÊN THẾ GIỚI
Phương pháp phân loại bất kỳ thậm chí chi tiết cũng phải đơn giản hoá sự đa dạng của khí

hậu trái đất. Hơn nữa, không thể đặc tả những loại khí hậu này trong bản trình bày ngắn với một số
ít ví dụ. Ở đây chỉ nêu lên những đặc điểm địa lý qui mô lớn chủ yếu của khí hậu theo phân vùng
khí hậu của Alisôp.
3.5.1. Khí hậu nhiệt đới nhiều mưa
Ở những vĩ độ gần xích đạo (đến 5-100C ở mỗi bán cầu) thông lượng bức xạ ít biến đổi
trong một năm, chế độ nhiệt độ rất điều hoà. Ở trên biển cũng như trên lục địa, nhiệt độ trung bình
nhiều năm của mọi tháng biến đổi trong giới hạn từ 24 0C đến 280C. Biên độ hàng năm của nhiệt độ
có thể không lớn hơn một độ và thường không vượt quá 5 0C. Biên độ nhiệt độ ngày trong loại khí
hậu này khoảng 10-150C. Do độ ẩm không khí cao, bức xạ nghịch lớn, nhiệt độ không thể giảm
nhanh, thậm chí vào những đêm quang đãng. Nhiệt độ tối cao ít khi vượt quá 35 0C, còn nhiệt độ tối
thấp thường nhỏ hơn 200C. Độ bốc hơi lớn, vì vậy độ ẩm tuyệt đối lớn (có thể vượt quá 30g/cm 3).
Độ ẩm tương đối cũng lớn, thậm chí cao hơn 70% vào những tháng khô nhất.
Giáng thuỷ trong loại khí hậu này có tổng lượng lớn và có đặc tính rào thường kèm theo
dông. Phần lớn giáng thuỷ rơi trong dải hội tụ nhiệt đới. Trên biển, giáng thuỷ không có cường độ
mạnh và tần suất lớn như trên lục địa. Nói chung trong đới này tổng lượng giáng thuỷ năm từ 1000 3000mm. Trên đại dương thuộc miền xích đạo, thậm chí có các khu vực khô hạn.


3.5.2 Khí hậu nhiệt đới khô
1) Khí hậu tín phong
Loại khí hậu nhiệt đới thứ hai và là loại chiếm diện tích lớn nhất ở miền nhiệt đới là khí hậu
tín phong, điển hình trên các đại dương ở những vĩ độ quanh năm dải hội tụ nhiệt đới không di
chuyển tới.
Ở đây, theo rìa hướng về phía xích đạo của các xoáy nghịch cận nhiệt quanh năm thịnh hành
tín phong ổn định với những điều kiện thời tiết và khí hậu đặc trưng. Các khu vực trung tâm xoáy
nghịch cận nhiệt đới gần với các khu vực gió tín phong theo điều kiện nhiệt độ và giáng thuỷ cũng
có thể xếp vào loại này.
2) Khí hậu sa mạc nhiệt đới
Dạng lục địa của khí hậu tín phong quan sát thấy ở miền Bắc và miền Nam Châu Phi, bán
đảo Arập, ở phần lớn Châu Úc, ở Mêxico, ở phần trung tâm của Nam Mỹ. Đó là những khu vực ở
hai bên xích đạo không có sự thay thế của gió mùa, nghĩa là quanh năm thịnh hành không khí nhiệt

đới. Chế độ gió ở các khu vực lục địa này không đặc trưng và ổn định như tín phong trên đại dương,
vì chúng có thể chịu ảnh hưởng không những của các xoáy nghịch mà mùa hè còn chịu ảnh hưởng
của các vùng thấp áp mờ.
3.5.3 Khí hậu ấm và nhiều mưa
1) Khí hậu lục địa cận nhiệt đới
Mùa hè, các miền cận nhiệt trên lục địa chịu tác động của các khu vực thấp áp mờ không có front.
Ở đây hình thành các khối không khí nhiệt đới lục địa với nhiệt độ cao, lượng ẩm và độ ẩm tương
đối nhỏ. Thời tiết ít mây, khô, nóng. Nhiệt độ trung bình của các tháng mùa hè khoảng 30 0C hay
hơn nữa. Mùa đông, hoạt động xoáy thuận lan tới các khu vực này vì ở đây thường hình thành front
cực hay ít nhất là có các front cực di chuyển qua. Thời tiết không ổn định với nhiệt độ và lượng
giáng thuỷ biến đổi nhiều. Lượng giáng thuỷ năm ở đây không quá 500mm và có khi ít hơn nhiều.
Đó là đới thảo nguyên và bán sa mạc.
2) Khí hậu vùng núi cận nhiệt
Dạng đặc biệt của khí hậu lục địa cận nhiệt quan sát thấy ở vùng núi cao Châu Á, Tây Tạng và
Pamia trên độ cao 3500 - 4000m. Khí hậu ở đây có tính lục địa rõ rệt; mùa hè mát còn mùa đông
lạnh. Lượng giáng thuỷ nói chung nhỏ, đó là khí hậu sa mạc trên cao.
3) Khí hậu Địa Trung Hải
Đây là loại khí hậu vùng bờ tây của lục địa trong miền cận nhiệt đới. Mùa hè vùng bờ tây thuộc
miền này nằm ở rìa phía đông của các xoáy nghịch cận nhiệt đới hay các nhánh của chúng với thời
tiết phần lớn quang đãng và khô ở đây mùa đông thường có sự di chuyển qua hay xuất hiện của
front cực với hoạt động xoáy trên đó và giáng thuỷ. Như vậy, mùa hè tương đối nóng và khô, mùa
đông mưa và ôn hoà. Hàng năm có thể có tuyết tuy lớp tuyết phủ không hình thành. Lượng giáng
thuỷ nói chung không lớn lắm, lượng giáng thuỷ lớn vào mùa hè làm cho khí hậu có đặc tính hơi
khô. Lượng giáng thuỷ lớn có thể quan sát thấy trên các sườn núi hứng gió. chẳng hạn như trên bờ
biển Ađriatich của Nam Tư.


4) Khí hậu gió mùa cận nhiệt đới
Trên miền bờ đông của lục địa thuộc miền cận nhiệt đới thường thấy loại khí hậu gió mùa. Mùa
đông, các khu vực này chịu ảnh hưởng của không khí từ biển, ở đây biến trình năm của lượng giáng

thuỷ ngược với biến trình trong loại khí hậu Địa Trung Hải. Mùa đông thời tiết quang mây và khô;
ngược lại, mùa hè lượng giáng thuỷ lớn rơi trong các xoáy thuận trên lục địa, một phần là giáng
thuỷ do đối lưu, một phần do front. Lượng giáng thuỷ lớn trên các sườn đón gió cũng đóng vai trò
đáng kể.
5) Khí hậu đại dương cận nhiệt đới
Ở các vĩ độ cận nhiệt đới của các đại dương, mùa hè thời tiết quang đãng và khô trong xoáy nghịch
với gió nhẹ chiếm ưu thế, còn mùa đông hoạt động của xoáy thuận mạnh kèm theo mưa, gió mạnh,
thường có tố. Biên độ năm của nhiệt độ ở đây dĩ nhiên nhỏ hơn trong loại khí hậu lục địa (trung
bình khoảng +100C).
Ở các miền đông đại dương, mùa hè tương đối mát vì có các dòng khí từ các vĩ độ cao hơn (theo rìa
phía đông của các xoáy nghịch) và ở đây có các dòng biển lạnh. Ngược lại, ở miền Tây Đại Dương,
mùa hè nóng, mùa đông không khí lạnh từ các lục địa thổi tới (từ Châu Á, Bắc Mỹ) nên ở đây nhiệt
độ thấp hơn ở miền đông đại dương.
3.5.4. Khí hậu lạnh
1) Khí hậu lục địa ôn đới
Loại khí hậu này thấy ở lục địa Âu, Á và Bắc Mỹ. Khí hậu ở đây đặc trưng bởi mùa hè nóng
và mùa đông lạnh với lớp tuyết phủ ổn định. Biên độ năm của nhiệt độ lớn và tăng khi vào sâu
trong lục địa. Các điều kiện tưới ẩm thay đổi từ phía nam lên phía bắc cũng như từ phía tây sang
phía đông.
Trước hết ta hãy nghiên cứu những đặc điểm điển hình của loại khí hậu này ở trên lục địa
Âu - Á. Ở phần phía nam của miền ôn đới lục địa Âu - Á, mùa đông chế độ thời tiết cao áp thịnh
hành. Trên bản đồ khí hậu vùng này có trung tâm xoáy nghịch Châu Á, mùa đông với nhánh hướng
về phía nam Châu Âu. Vì vậy, lượng giáng thuỷ càng giảm, lớp tuyết phủ không dày, mùa đông ở
đây rất khắc nghiệt.
Mùa hè ở miền này cũng có các xoáy nghịch có đặc tính cận nhiệt gây nên thời tiết nóng
khô. Lượng giáng thuỷ mùa hè lớn nhưng không đủ so với khả năng bốc hơi với nhiệt độ mùa hè
cao và vì vậy độ tưới ẩm ở phần phía nam miền ôn đới không đủ. Nói chung, trong một năm lượng
giáng thuỷ ở đây từ 200 - 450mm.
2) Khí hậu vùng núi ôn đới
Ở vùng núi lượng giáng thuỷ lớn hơn ở miền đất thấp. Trong những điều kiện địa hình thuận

lợi, lượng giáng thuỷ có khả năng vượt quá 2000mm, đi từ tây sang đông lượng giáng thuỷ giảm.
Nhiệt độ trung bình tháng 7 là +70C, tháng 1 là -50C.
3) Khí hậu miền tây lục địa ôn đới
Ở miền tây lục địa Âu - Á và Bắc Mỹ thuộc miền ôn đới vận chuyển của không khí biển
thịnh hành cả vào mùa đông và mùa hè. Vì vậy ở đây khí hậu chịu ảnh hưởng rất lớn của đại dương
và là khí hậu biển. Khí hậu được đặc trưng bởi mùa hè không quá nóng và mùa đông ôn hoà, lượng


giáng thuỷ tương đối lớn với sự phân bố theo mùa tương đối đồng đều. Điều đó quy định cảnh quan
rừng cây lá to và đồng cỏ. Lượng giáng thuỷ rất lớn ở các sườn núi phía tây.
4) Khí hậu miền đông lục địa ôn đới
Ở miền đông Châu Á, khí hậu này là khí hậu gió mùa điển hình. Gió mùa của miền ôn đới ở
đây là sự tiếp tục của gió mùa nhiệt đới và cận nhiệt đới, được biểu hiện rất rõ và còn thấy ở các vĩ
độ phía bắc đảo Sakhalin.
Tóm lại, khí hậu gió mùa miền ôn đới thấy ở miền bờ biển đông Nga, miền đông bắc Trung
Quốc, miền bắc Nhật Bản và trên đảo Sakhalin.
Mùa đông, miền bờ của lục địa nằm ở rìa của xoáy nghịch Châu Á và ở đây không khí lạnh
thâm nhập từ biển Đông Xiberi chiếm ưu thế. Vì vậy mùa đông ở đây ít mây, khô lạnh với lượng
giáng thuỷ tối thiểu. Còn mùa hè trên miền đông Châu Á hoạt động của xoáy thuận với giáng thuỷ
tương đối lớn chiếm ưu thế.
5) Khí hậu đại dương miền ôn đới
Đại Tây Dương và Thái Bình Dương chiếm những diện tích rất lớn ở miền ôn đới thuộc hai
bán cầu, còn Ấn Độ Dương ở miền ôn đới Nam Bán Cầu. Trên đại dương gió tây thịnh hành biểu
hiện rõ nét hơn trên lục địa, nhất là ở Nam Bán Cầu. Tốc độ gió ở đại dương cũng lớn hơn trên lục
địa. Ở các vĩ độ 400C và 500N giữa dải cao áp cận nhiệt và những vĩ độ cận cực thường xuyên có
các trung tâm xoáy thuận nhiệt đới đi qua, tốc độ gió trung bình 10 - 15m/s. Ở đây thường xuyên có
tố kéo dài không phải vô cớ mà các thuỷ thủ gọi vĩ tuyến 400N là vĩ tuyến “gào thét”.
Sự phân bố của nhiệt độ trên đại dương có tính địa đới rõ nét hơn lục địa trên cùng vĩ độ,
còn sự khác biệt giữa mùa đông và mùa hè ít biểu hiện hơn. Do mùa hè lạnh cảnh quan đài nguyên
ở trên các đảo giữa đại dương còn thấy ở các vĩ độ thấp hơn so với đới cảnh quan đài nguyên trên

lục địa. Ví dụ, các đảo Alêut và Cômando ở 55 - 52 0N bao phủ bởi đài nguyên; ở Nam Bán Cầu đài
nguyên bao phủ các đảo Fôcơlen ở vĩ độ 52 0C, các đảo miền nam Giêôgơri, các đảo nam Coocnhây
v.v...
Ở Bắc Bán Cầu, mùa đông miền tây đại dương lạnh hơn miền đông rõ rệt vì ở đây thường
có không khí lạnh từ lục địa tràn tới. Mùa hè sự khác biệt này ít hơn. Lượng mây ở trên các đại
dương miền ôn đới và lượng giáng thuỷ rất lớn, nhất là ở những vĩ độ cận cực thường có các xoáy
thuận sâu nhất.
Trong miền giữa 40 và 600 vĩ của hai đại dương Bắc Bán Cầu, nhiệt độ trung bình tháng 8
dao động giữa +220C và +80C vào tháng 2 ở Đại Tây Dương nhiệt độ thấp hơn (từ +10 0C đến
-100C). Nói chung, hiệu nhiệt độ giữa các vĩ tuyến 40 và 60 giảm từ mùa đông sang mùa hè. Biên
độ năm của nhiệt độ ở đây khoảng 10 - 150C.
Ở Nam Bán Cầu nhiệt độ trung bình của các đại dương giữa 40 và 60 0, nhiệt độ trung bình
tháng 2 biến đổi từ +150C đến 00C vào tháng 8 từ +100C đến -100C ở đây gió tây thịnh hành rất ổn
định, rất mạnh và thường có tố.
3.5.5 Khí hậu băng tuyết
1) Khí hậu cận cực


Các vĩ độ cận cực của miền bắc lục địa Âu - Á và Bắc Mỹ nằm trong đới đài nguyên ở đây
mùa đông kéo dài và khắc nghiệt, mùa hè lạnh và có băng giá. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất
không cao hơn +100C đến +200C, đó là giới hạn cây mọc. Mùa hè, lạnh qui định cảnh quan đài
nguyên. Lượng giáng thuỷ ở đây nhỏ hơn trong đới Taiga nhỏ hơn 300mm, còn ở miền đông Xiberi
xoáy thuận ít thâm nhập vào miền đài nguyên, lượng giáng thuỷ thậm chí nhỏ hơn 100mm.
Tuy lượng giáng thuỷ nhỏ song lượng mây và số ngày có giáng thuỷ lớn; như vậy là cường
độ giáng thuỷ nhỏ hơn do lượng ẩm của không khí nhỏ còn nhiệt độ thấp. Lượng giáng thuỷ cực đại
quan trắc được vào mùa hè. Mặc dù lượng giáng thuỷ rất nhỏ, song dưới nhiệt độ thấp vẫn vượt quá
khả năng bốc hơi; vì vậy trong vùng đài nguyên thường thì ẩm kết quả là hình thành băng vĩnh cửu
và đầm lầy.
Ở vùng đài nguyên hoàn lưu gió mùa ít nhiều biểu hiện rõ; mùa hè thịnh hành gió với thành
phần hướng về phía lục địa, còn mùa đông với thành phần hướng về phía biển.

2) Khí hậu Bắc Băng Dương
Khí hậu khu vực Bắc Băng Dương trước hết được xác định bởi sự phát xạ và lạnh đi rất
mạnh của mặt băng tuyết vào thời gian đêm vùng cực và thông lượng bức xạ mặt trời lớn vào mùa
hè. Cân bằng bức xạ năm của bề mặt các biển Bắc Băng Dương, nói chung dương; chỉ ở trên cao
nguyên băng tuyết Greenland cân bằng bức xạ âm. Tuy nhiên nhiệt độ mùa hè không cao vì bức xạ
cung cấp cho băng và tuyết tan, nhiệt độ của mặt băng tuyết và của không khí vẫn gần bằng 0 0C ở
các đảo và miền bờ biển mùa hè tuyết tan hết, tất nhiên nhiệt độ cao hơn.
Ngoài ảnh hưởng của các điều kiện bức xạ, còn có tác động rất mạnh của hoàn lưu chung
khí quyển ở khu vực Bắc Băng Dương hoạt động của xoáy thuận mạnh quanh năm. Các nhiễu động
khí quyển thường xuất hiện trên các front Bắc Băng Dương cũng như thâm nhập từ các vĩ độ thấp
hơn, hình thành trên front cực. Những khái niệm trước kia về một xoáy nghịch cố định hay ổn định
ở Bắc Băng Dương thực ra không đúng. Cao áp chỉ thịnh hành quanh năm ở trên cao nguyên
Greenland. Song ở các khu vực khác thuộc Bắc Băng Dương, khí áp từ tháng này sang tháng khác
biến đổi rất nhiều và các hệ thống xoáy nghịch trên các bản đồ trung bình chiếm một diện tích
không lớn lắm ở những phần khác nhau ở đại dương, còn mùa đông khống chế cả Alatsca và miền
đông bắc Châu Á. Lượng mây ở Bắc Băng Dương nói chung lớn, gió mạnh. Dĩ nhiên hoạt động
xoáy thuận làm cho các khối khí nóng tràn từ các đại dương miền ôn đới (còn mùa hè kể cả từ lục
địa) vào Bắc Băng Dương và do đó làm cho khí hậu Bắc Băng Dương trở nên ôn hoà.
3) Khí hậu Châu Nam cực
Đại dương Nam Bán Cầu với khí hậu cận cực như đã nói ở trên, bao quanh lục địa Châu
Nam Cực. Khí hậu của lục địa băng này khắc nghiệt nhất trên Trái đất. Nhiệt độ trung bình năm ở
đây từ -100C trên bờ biển ở vĩ độ cùng cực, đến -50 0C - 600C ở trung tâm lục địa. Tổng lượng giáng
thuỷ trung bình năm cho toàn lục địa khoảng 120mm; từ miền bờ biển vào sâu trong lục địa lượng
giáng thuỷ giảm rất nhanh.
Nhân tố chủ yếu gây nên tính khắc nghiệt và khô hạn của khí hậu Châu Nam Cực là mặt tuyết phủ
của lục địa, độ cao trên mực biển lớn (trung bình khoảng 3000m còn ở trung tâm miền đông Châu
Nam Cực đến 3500m hay hơn nữa) và chế độ hoàn lưu xoáy nghịch thịnh hành. Tuy thông lượng
bức xạ mặt trời vào mùa hè rất lớn, song albedo của mặt tuyết phủ và bức xạ hữu hiệu rất lớn làm
cho cân bằng bức xạ âm này được hoàn lại bằng thông lượng nhiệt từ khí quyển.
Hoạt động xoáy thuận ở Nam Bán Cầu phát triển rất mạnh trên đại dương bao quanh Châu Nam

Cực. Song xoáy thuận phần lớn thâm nhập vào miền tây của lục địa Nam Cực nơi bờ biển bị chia


cắt nhiều và có các vịnh ăn sâu vào trong lục địa ở miền đông Châu Nam Cực, xoáy thuận rất ít khi
thâm nhập. Trên bản đồ trung bình của mặt đẳng áp 700mb (nằm ở độ cao trung bình của lục địa)
trên miền đông Châu Nam Cực quanh năm có xoáy nghịch, ở đây thịnh hành chế độ áp cao ở những
tầng cao hơn, xoáy nghịch được thay thế bởi xoáy thuận cận cực như ở Bắc Bán Cầu.
3.6. Sự biến đổi khí hậu
Không nghi ngờ gì nữa, suốt trong lịch sử tồn tại của Trái Đất, khí hậu cùng với các hiện
tượng tự nhiên khác đều có biến đổi. Người ta xét sự biến đổi này từ hai khía cạnh, một là biến đổi
có biên độ lớn hoặc nhỏ xung quanh trị số trung bình, hai là khí hậu biến đổi dần dần biến thành
xấu hơn hoặc dần dần biến đổi thành tốt hơn. Và do đó, khí hậu biến đổi có thể mang tính chất chu
kỳ (nghĩa là biên độ lớn nhất của sự biến đổi có pha giống nhau) và có thể không mang tính chất
chu kỳ (nghĩa là pha và biên độ biến đổi không nhất định). Người ta căn cứ vào thời đại địa chất và
thời đại lịch sử để phân biệt nghiên cứu sự biến đổi của khí hậu.
3.6.1. Sự biến đổi khí hậu trong các thời đại địa chất
Ở đây sử dụng khái niệm thời đại địa chất là thời đại trước khi có lịch sử nhân loại. Thời đại
này rất dài, kéo dài hàng mấy trăm triệu năm và các số liệu về địa chất đã cho chúng ta thấy rằng sự
biến đổi trong quá trình lịch sử lâu đời của Trái Đất là rất sâu sắc. Trong khoảng thời gian dài, trên
Trái Đất đã xảy ra các quá trình phân bố lục địa và hải dương, địa hình, địa mạo, sự phân bố các
dòng hải lưu, những hoạt động của núi lửa, thành phần của khí quyển v.v... và có thể còn có ảnh
hưởng của vũ trụ lên Trái Đất nữa.
Chúng ta biết vỏ Trái Đất bao gồm các tầng lớp khác nhau, trong đó có tầng hình thành do
ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới nhiều mưa, có tầng hình thành do ảnh hưởng của khí hậu sa mạc
khô ráo, hoặc có tầng hình thành do sông băng, và đương nhiên loại cấu tạo theo địa chất này đại
biểu cho sự biến đổi của khí hậu với thời kỳ rất dài, mà thời gian càng dài thì biến đổi của khí hậu
càng lớn và càng khó xác định. Vì sự hạn chế của số liệu nên việc nghiên cứu khí hậu thời đại địa
chất càng khó khăn, do đó các học giả khí hậu thường dùng thực tế ở một nơi nào để suy luận cho
toàn bộ địa cầu, hoặc dùng nguyên nhân khí hậu để thuyết minh một dấu hiệu nào đó của địa cầu,
hoặc dùng nguyên nhân khí hậu để thuyết minh một dấu hiệu nào đó của địa chất rồi quay lại chứng

minh tình hình khí hậu của thời đại địa chất. Có học giả lấy quan hệ giữa phân bố hải lục và phân
bố nhiệt độ không khí theo vĩ độ hiện nay để ứng dụng vào thời đại địa chất, tức là căn cứ vào phân
bố hải lục tìm được trong công tác nghiên cứu về cổ địa lý học mà tính toán nhiệt độ không khí
trung bình trên toàn Trái Đất lúc bấy giờ. Đương nhiên phương pháp nghiên cứu này khó có sức
thuyết phục vì quá khứ và hiện tại có quan hệ không hoàn toàn giống nhau.
Về tình hình khí hậu của thời đại địa chất chỉ có thể căn cứ vào các dấu hiệu gián tiếp để
nghiên cứu (như động vật và thực vật hóa thạch, các loài vật vô cơ hóa thạch và các loại di tích).
Người ta so sánh động vật và thực vật hiện nay với động vật và thực vật hóa thạch của thời đại địa
chất có thể rút ra được kết luận quan trọng về khí hậu của thời đại địa chất tương ứng. Nghiên cứu
về quá trình hình thành và hình thức phong hóa của thổ nhưỡng thời xưa có thể thu được rất nhiều
điều bổ ích. Ví dụ: Cây gỗ lớn hóa thạch có thể cho chúng ta biết nhiệt độ các tháng về mùa Hè cao
hơn 10oC. Hoặc căn cứ vào động vật hóa thạch cũng có thể hiểu được tình hình khí hậu lúc đó. Ví
dụ: Ngựa hóa thạch chứng tỏ lúc đó có khí hậu thảo nguyên hay vượn hóa thạch chứng tỏ lúc đó có
khí hậu rừng. Nhưng vì tính chất di động của động vật lớn hơn của thực vật nên nếu chỉ căn cứ vào
động vật hóa thạch thì không thể phân biệt chính xác đặc trưng khí hậu lúc bấy giờ được.
Về nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu trong thời kỳ địa chất cho đến nay vẫn còn chưa
nhất trí với nhau và có nhiều giả thuyết đã được đưa ra để thuyết minh nguyên nhân gây ra sự biến
đổi khí hậu đó. Có 3 nhóm giả thuyết như sau:


1. Giả thuyết thiên văn: Giả thuyết này xuất hiện sớm nhất. Giả thuyết này cho rằng sự biến
đổi của khí hậu là do nguyên nhân vũ trụ gây ra, tức là do ảnh hưởng bên ngoài của Trái Đất.
Những nguyên nhân của vũ trụ này có thể là do biến đổi có tính chất chu kỳ của một loại yếu tố nào
của quỹ đạo Trái Đất, ví dụ như biến đổi có chu kỳ của độ nghiêng hoàng đạo, biến đổi tâm sai và
sự di động có tính chất chu kỳ của điểm Xuân phân. Giả thuyết này căn cứ vào sự biến đổi của vị trí
Trái Đất đối với mặt trời để thuyết minh sự biến đổi của khí hậu tất nhiên là có căn cứ. Đặc biệt là
cường độ và sự phân bố của bức xạ mặt trời trên Trái Đất hoàn toàn có quan hệ với vị trí của Trái
Đất đối với mặt trời, cho nên do sự biến đổi của yếu tố thiên văn mà trong thời kỳ dài khí hậu trên
Trái Đất cũng có biến đổi theo.
2. Giả thuyết địa lý: Giả thuyết này liên hệ với sự biến đổi khí hậu với địa chất học. Nó căn

cứ vào nghiên cứu sự biến đổi về phân bố hải lục và sự biến đổi hình dạng của lục địa và đại dương
cá biệt trong thời đại địa chất và tìm nguyên nhân biến đổi khí hậu ngay trên Trái Đất. Ví dụ: Sự di
động của hai địa cực, sự biến đổi của vĩ độ, sự biến đổi của phân bố hải lục và sự chuyển động theo
chiều thẳng đứng của lục địa (như sự hình thành núi non và biển hồ) v.v...
3. Giả thuyết vật lý: Giả thuyết này dùng sự biến đổi chiều của đặc tính phát xạ của bức xạ
mặt trời và tính chất hấp thụ bức xạ mặt trời của Trái Đất để thuyết minh sự biến đổi của khí hậu
trên Trái Đất. Ví dụ: Sự diễn biến của hoạt động mặt trời, độ lớn của sức chiếu xuyên của khí quyển
hoặc sự tăng giảm các tạp chất trong khí quyển (ví dụ sự tăng giảm CO 2) đều có thể ảnh hưởng đến
sự biến đổi của khí hậu.
3.6.2. Sự biến đổi khí hậu trong thời đại lịch sử
Thời đại lịch sử là thời gian kể từ khi xuất hiện loài người trên Trái Đất trở về sau. Chứng cứ
về sự biến đổi của khí hậu trong thời đại lịch sử là những ghi chép trong các văn kiện, sổ sách ghi
chép hằng ngày về tình hình thời tiết – khí hậu và số liệu quan trắc bằng máy của các yếu tố khí
tượng, hoặc sự biến đổi mực nước trên các mặt hồ, mặt sông, mặt biển, hoặc các vết tích của kiến
trúc và phố xá, thành thị, vòng tuổi của cây cối v.v...
Từ sau phát minh ra nhiệt biểu và khí áp vào thế kỷ 15 – 16, từ thế kỷ 18 có một số vùng đã
bắt đầu quan trắc khí tượng bằng máy móc. Quan trắc lâu dài của các đài trạm khí tượng này là
những tài liệu thực tế cơ bản để nghiên cứu sự biến đổi của khí hậu cận đại. Các tài liệu quan trắc
của những đài trạm khí tượng này có thể dùng phương pháp phân tích toán học chặt chẽ tiến hành
chỉnh lí để xác định biến đổi của khí hậu. Gần đây, về mặt nghiên cứu này đã có nhiều tiến bộ rõ rệt,
từ trong tài liệu quan trắc người ta đã phân tích được nhiều chu kỳ dài ngắn khác nhau về sự biến
đổi của khí hậu.
Sự nghiên cứu vấn đề biến đổi khí hậu trong thời đại lịch sử đã có rất lâu. Các học giả đưa
ra mấy loại giả thuyết, có người cho rằng mặt trời làm mất nước dần của địa cầu, có người lại cho
rằng khí hậu lạnh và khí hậu mưa nhiều có tính chất tuần hoàn. Về vấn đề này, có một số người cho
rằng trong thời đại lịch sử khí hậu có biến đổi lớn (giả thuyết biến đổi), nhưng cũng có một số
người đưa ra giả thuyết bất biến tức là khí hậu không có biến đổi rõ rệt. Về thuyết biến đổi lại chia
làm hai nhóm: Một nhóm có chủ trương khí hậu có biến đổi trực tiến, tức là khí hậu chỉ có biến đổi
theo một hướng, ví dụ từ ẩm ướt biến thành khô ráo, hoặc từ rét lạnh biến thành ấm áp. Một nhóm
khác lại chủ trương khí hậu có biến đổi theo dạng sóng luân chuyển (biến đổi mạch động), tức là từ

khí hậu ẩm lạnh biến thành khí hậu khô ấm, rồi từ khí hậu khô ấm biến thành khí hậu ẩm lạnh.
3.6.3. Vấn đề cải tạo khí hậu


Các nhà khoa học dựa vào các nhân tố khống chế khí hậu (bức xạ mặt trời, hoàn lưu chung
của khí quyển và hoàn cảnh địa lý) mà đưa ra các ý tưởng làm thay đổi đặc tính của mặt đệm (mặt
trải dưới), chẳng hạn làm các công trình tiêu tưới nước, trồng cây gây rừng hoặc những biện pháp
tương tự như thế để có thể làm thay đổi các đặc trưng của các yếu tố khí hậu của lớp không khí gần
mặt đất trong một phạm vi không rộng lắm. Tuy nhiên, những tác động mang tính cục bộ như thế
không thể gây ra sự biến đổi khí hậu một cách căn bản theo nghĩa rộng của từ khí hậu này. Vì khí
hậu phụ thuộc vào những trạng thái của bề mặt địa cầu không chỉ trong một phạm vi nhỏ hẹp mà
trong một phạm vi rộng lớn và cả vào hoàn lưu chung của khí quyển. Để cho sự biến đổi khí hậu
được thể hiện trong một phạm vi rộng lớn thì cần phải có những thay đổi rộng lớn của các nhân tố
địa lý như địa hình, hải lưu... Chỉ bằng cách đó mới có thể làm cho các đặc trưng về sự tuần hoàn
nhiệt lượng, tuần hoàn hơi nước và về hoàn lưu chung của khí quyển mới biến đổi, và từ đó sẽ dẫn
tới sự biến đổi của khí hậu.
Có những dự án phi thường về biến đổi khí hậu bằng cách thay đổi trong phạm vi rất rộng
lớn của bề mặt địa cầu. Đó là dự án thuộc kiểu đập chắn trên các đại dương, các đập chắn đó sẽ làm
cho các dòng nước biển thay đổi và sẽ dẫn đến sự thay đổi các điều kiện hoàn lưu, những dự án hạ
thấp các đỉnh núi hoặc tạo ra những tấm chắn nhân tạo để làm biến tính các khối không khí v.v...
Nhưng các tác giả của những dự án này không có cơ sở để khẳng định rằng kết quả của việc thực
hiện các dự án của họ sẽ tiến hành một cách thực sự có hiệu quả như họ mong đợi. Thậm chí những
dự kiến gì đó được thực hiện một cách tương đối tốt đi nữa thì sự biến đổi một vài yếu tố khí hậu
nào đó trong khu vực chọn sẵn chịu ảnh hưởng trực tiếp của những biện pháp đã được đưa ra mà
không lường được sự biến đổi nào của các yếu tố khác của khí hậu sẽ xuất hiện trên các nơi khác
của Trái Đất và chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào đến khí hậu trong khu vực đã chọn sẵn.
Thiên nhiên của Trái Đất luôn ở trạng thái cân bằng động đã được xác định trong lịch sử lâu
dài của Trái Đất và sự vi phạm điều kiện phức tạp của một khâu tự nhiên nào đó có thể dẫn đến sự
thay đổi sâu rộng trong toàn bộ hệ thống tự nhiên đó. Không nghi ngờ rằng, những sự thay đổi lớn
về bản chất của mặt đệm trên một phạm vi rộng lớn sẽ làm biến đổi toàn bộ cơ chế hoàn lưu chung

của khí quyển, vả lại rất khó lường trước một cách cụ thể là chúng sẽ thay đổi như thế nào. Chẳng
hạn như ở vùng này khí hậu sẽ biến đổi theo hướng tốt lên trong khi đó ở vùng khác khí hậu lại biến
đổi theo hướng xấu đi.
Như vậy, thậm chí khi mà sự cải tạo thiên nhiên mang tính toàn cầu có thể trở thành hiện
thực thì vẫn còn là một nhiệm vụ hết sức khó khăn là dự tính toàn bộ hệ quả của nó và cần phải hết
sức cẩn thận khi sự cải tạo thiên nhiên đó được thực hiện.



×