Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế việt nam khi tham gia TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.64 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA KINH TẾ HỌC

BÁO CÁO TIỂU LUẬN

Chủ đề 3: Triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong phát
triển kinh tế Việt Nam khi tham gia TPP

Giảng viên hướng dẫn:
PGS.TS. Đỗ Văn Đức

Nhóm sinh viên thực hiện:
Nhóm 3

Hà Nội 2015
1


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3

2


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I.Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
1. Sự ra đời của TPP và những nét chính
1.1. Sự ra đời của TPP
1.2. Những nét chính của TPP
2. Cơ hội cho Việt Nam khi tham gia TPP
II. Triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam


1. Thuận lợi của Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
2. Tác động hai mặt của vốn đầu tư nước ngoài tới nền kinh tế Việt Nam
2.1. Vốn đầu tư trực tiếp: (FDI)
2.1.1. Lợi ích:
2.1.2. Bất lợi:
2.2. Vốn đầu tư gián tiếp (FPI)
2.2.1. Lợi ích:
2.2.2. Bất lợi:
2.3. Vốn vay (ODA)
2.3.1. Lợi ích:
2.3.2.Tiêu cực:
3. Những triển vọng khi Việt Nam gia nhập TPP
4. Những thách thức khi Việt Nam gia nhập TPP
5. Giải pháp.
KẾT LUẬN.
3


TÀI LIỆU THAM KHẢO.

LỜI MỞ ĐẦU
Với một nước có nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển như Việt Nam thì vốn
đầu tư nước ngoài để phục vụ cho mục đích xây dựng và phát triển kinh tế là rất
quan trọng. Gần đây, Việt Nam đã kí kết hiệp định có tên là “Hiệp định kinh tế Châu Á
xuyên Thái Bình Dương (TPP)”, theo các chuyên gia cho rằng sau khi hiệp định được
kí kết cùng với các điều khoản hợp tác kinh tế giữa các nước thì đây sẽ là một cánh
cửa mới mở ra cho nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy nhóm 3 chúng em chọn chủ đề
“Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế Việt Nam khi tham gia
TPP”, nghiên cứu để làm sáng tỏ nhận định nói trên.
Bài tiểu luận của chúng em gồm 2 phần chính:

Phần I: Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
Nội dung phần này giới thiệu và sự ra đời của hiệp định và một số nét chính của hiệp
định.
Phần II: Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam
Phần này bàn về các lợi ích mà Việt Nam có được khi tham gia TPP, khi đó nguồn vốn
đầu tư rót vào Việt Nam sẽ thay đổi theo chiều hướng thế nào, đồng thời nêu lên các
bất cập gặp phải khi có sự thay đổi mới ảnh hưởng từ hiệp định.

4


I. Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương- TPP
1. Sự ra đời TPP và những nét chính
1.1. Sự ra đời của TPP
Hiệp định TPP (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) là Hiệp
định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương, là một hiệp định, thỏa thuận thương
mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico,
New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản.
1.2. Những nét chính của TPP:
Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ (chưa
bao gồm dịch vụ tài chính do được đàm phán sau), vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS),
rào cản kỹ thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ và
minh bạch hóa.
Cụ thể những nét chính ảnh hưởng của Thoả thuận Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương:
-Bỏ hẳn hoặc gỉam thuế nhập cảng: Loại bỏ hoặc giảm thuế đối với một loạt các
sản phẩm như thịt heo, hoa quả, rượu vang và rượu mạnh, cải dầu, lúa mạch, máy
móc, khoáng sản, lâm sản.
- Thay đổi lớn trong kỹ nghệ xe hơi (ô-tô): Nhiều bộ phận xe hơi nước ngoài có

thể nhập cảng vào Canada, và mang lại lợi ích công ty sản xuất và người tiêu thụ mà
sẽ có ảnh hưởng xấu đến một số người lao động.
- Quyền của người lao động: Dễ dàng di chuyển hơn cho một số công
tay nghề cao và người kinh doanh.

5

nhân có


- Bảo vệ bằng sáng chế dược phẩm lâu hơn: Dược phẩm thế hệ tiếp theo, gồm cả
sinh học tế bào cơ bản, những bằng sáng chế những dược phẩm loại đó sẽ được bảo
vệ độc quyền tám năm.
- Bảo vệ nền kinh tế kỹ thuật số: Luật bảo vệ nền kinh tế kỹ thuật số, và những kỹ
thuật mới như “điện toán trên mây”. TPP không cho phép các chính phủ thành viên
cắt giảm các luồng dữ liệu, bằng cách hạn chế luật đòi hỏi phải lưu trữ dữ liệu ở địa
phương.
- Quy định mới với các doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước sẽ được
quản lý bằng nhiều quy định hơn. Các công ty được chính phủ hỗ trợ bởi sẽ phải tuân
thủ những yêu cầu mới về sự minh bạch và các quy tắc mới khi cạnh tranh với các
công ty tư nhân.
2. Cơ hội của Việt Nam khi tham gia TPP
- Đối với lĩnh vực nông nghiệp
Việc tham gia TPP sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam gia tăng sản xuất và mở rộng thị
trường nông sản ra nước ngoài:
Thứ nhất, Việt Nam là một nước có thế mạnh trong nông nghiệp với điều kiện
thiên nhiên thuận lợi cho phép Việt Nam có thể sản xuất nông nghiệp quanh năm.
TPP sẽ mở ra cơ hội thúc đẩy đầu tư của các nước trong khối vào Việt Nam, nâng cao
trình độ sản xuất và tạo khả năng cho ngành nông nghiệp Việt Nam tham gia tốt hơn
vào chuỗi giá trị trong khu vực và trên toàn cầu.

Thứ hai, khi TPP có hiệu lực, thuế suất sẽ giảm đến 90%, thậm chí nhiều dòng
thuế về 0% nên giá hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm xuống, doanh nghiệp Việt
Nam có cơ hội tham gia cạnh tranh bình đẳng hơn. Các mặt hàng nông sản của Việt
Nam ngày càng trở nên hấp dẫn trên thị trường thế giới.
Thứ ba, sản xuất nông nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu là quy mô nhỏ, công nghệ
lạc hậu nên gia nhập TPP cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam trong thu hút đầu tư, hợp
tác với nước ngoài nhằm hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản
phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Trong 11 nước TPP còn lại, Hoa
Kỳ và Nhật Bản là 2 đối tác quan trọng của Việt Nam trong thu hút vốn FDI. Theo đó,
Nhật Bản có thể đầu tư vào Việt Nam để tận dụng những ưu thế, lợi thế về nông
nghiệp của Việt Nam, ngược lại Việt Nam sẽ tiếp thu công nghệ và đầu tư từ Nhật
6


Bản để cung cấp các sản phẩm nông nghiệp như rau quả, hoa tươi, cá ngừ, tôm…
sang Nhật Bản và các nước TPP khác.
- Dịch vụ tài chính
Dịch vụ tài chính là lĩnh vực đàm phán được các nước TPP đặc biệt quan tâm, kỳ
vọng đưa TPP trở thành hiệp định tự do hóa của thế kỷ 21 với những cam kết sâu
rộng về tiếp cận thị trường trên các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Hiện
nay, độ mở cửa của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn còn thấp, các thị
trường dịch vụ, thị trường lao động, khoa học công nghệ…
- Chính sách cạnh tranh và doanh nghiệp nhà nước
Đối với Việt Nam, DNNN hiện vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế (lĩnh
vực kinh doanh, số lượng lao động, tài sản, đóng góp NSNN, đóng góp GDP). Do đó,
tham gia TPP vừa là thách thức song cũng là cơ hội để Việt Nam thực hiện cải cách
khu vực DNNN. Khi tham gia TPP, các DNNN sẽ không còn được hưởng các ưu đãi,
không còn những đặc quyền, đặc lợi, các doanh nghiệp tư nhân sẽ có cơ hội để phát
triển và cạnh tranh bình đẳng. Đồng thời, TPP sẽ tạo sức ép thúc đẩy các DNNN chủ
động nâng cao năng lực cạnh tranh.

- Mua sắm chính phủ
Việt Nam, đến nay vẫn chưa mở cửa với mua sắm chính phủ. Với cam kết về mua
sắm chính phủ trong TPP, việc đấu thầu sẽ thuận lợi hơn, minh bạch hơn, nhiều lựa
chọn cho chủ đầu tư và tăng cường chất lượng cho công trình, cũng như thu hút
được đầu tư tư nhân. Cái lợi rõ ràng có thể nhìn thấy là dùng ngoại lực, thay đổi môi
trường bên trong. Ngoài ra khi tham gia TPP, Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để
đàm phán hiêp định mua sắm chính phủ của WTO và hoạt động đấu thầu sẽ trở nên
minh bạch, công khai hơn. Đồng thời, đấu thầu sẽ khiến cho các khoản chi tiêu ngân
sách đạt hiệu quả cao hơn.
- Quy tắc xuất xứ
Đối với những nước có nền kinh tế hướng tới xuất khẩu như Việt Nam, lợi ích
chủ yếu và trực tiếp mà Việt Nam có thể hy vọng từ việc ký FTA với các đối tác là ở
việc các đối tác sẽ loại bỏ thuế quan cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, việc
loại bỏ thuế quan cho các đối tác trong FTA chỉ áp dụng đối với “hàng hóa có xuất xứ
từ đối tác FTA”. Nếu các quy định về quy tắc xuất xứ không phù hợp với tình hình sản
xuất, cung ứng nguyên vật liệu đầu vào của nước xuất khẩu thì hàng hóa nước đó sẽ
7


khó đáp ứng được các điều kiện để được coi là “có xuất xứ” phù hợp và do đó sẽ
không được hưởng ưu đãi thuế quan theo FTA. Trong các trường hợp như vậy, lợi ích
lý thuyết mà nước xuất khẩu hy vọng có được từ FTA sẽ bị vô hiệu hóa bởi các quy
tắc xuất xứ hàng hóa không hợp lý này. Vì vậy, quy tắc xuất xứ là một nội dung quan
trọng trong bất kỳ FTA nào. Đối với Việt Nam, quy tắc xuất xứ nội khối tạo nên sức ép,
đồng thời mở ra cơ hội tăng cường thu hút FDI.

8


II. Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.

1. Thuận lợi của Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
• Các yếu tố cơ bản:

Chế độ chính trị ổn định, an toàn; Nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ; Vị
trí địa lý thuận lợi; Tài nguyên thiên nhiên phong phú. Đặt trong bối cảnh Việt Nam
đang có nhiều thuận lợi, đại diện Cục Đầu tư nước ngoài cho rằng Việt Nam đang có
nhiều thuận lợi để thu hút đầu tư:
Thứ nhất, đó là sự quan tâm chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ, bộ
ngành và địa phương trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút vốn FDI.
Thứ hai, xu thế đầu tư của thế giới vào khu vực châu Á và ASEAN cũng đang ngày
càng tăng. Đặc biệt là xu hướng chuyển dịch của các nhà đầu tư nước ngoài từ Trung
Quốc và Thái Lan sang các nước ASEAN. Trong đó Việt Nam được đánh giá là điểm
đến đầu tư hấp dẫn.
Thứ ba, Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với 55 nền kinh tế, với hơn 90% các
dòng thuế suất được giảm về 0%, được xem là lợi thế lớn cho nhà đầu tư để bỏ vốn
vào Việt Nam.
Thứ tư, nhiều dự án cơ sở hạ tầng đang được xây dựng như năng lượng, điện,
đường xá… sẽ góp phần hoàn thiện hơn điều kiện vật chất, đáp ứng nhu cầu của nhà
đầu tư.
Thứ năm, theo đánh giá của tổ chức quốc tế, Việt Nam được đánh giá có môi
trường đầu tư khá tốt, khi đứng thứ 9 về mức độ hấp dẫn đầu tư, tăng 2 bậc so với
năm 2013. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng trưởng ổn định.

9


2. Tác động hai mặt của vốn đầu tư nước ngoài tới nền kinh tế Việt Nam.
2.1. Vốn đầu tư trực tiếp: (FDI)
2.1.1. Lợi ích:
Đầu tư nước trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh

tế Việt nam tư tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực
sản xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan trọng
của đất nước như viễn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô …Trước hết chúng ta phải
khẳng định là: Đầu tư nước ngoài đem lại nhiều lợi ích cho thúc đẩy phát triển kinh
tế, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam:
- Đem lại nguồn vốn để phát triển kinh tế:
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một
nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong
nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn
FDI. Việt nam là một trong những nước đang phát triển, vì vậy mà chúng ta rất cần
nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
- Khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chúng ta còn có thể thu hút
được khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới:
Điều đó góp phần nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế trong nước,
thu hút được các chuyên gia nước ngoài vào làm việc, từ đó tạo điều kiện cho đội
ngũ kỹ sư trong nước có điều kiện học hỏi, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm tiến tới
làm chủ công nghệ.Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có
thể huy động được phần nào bằng “chính sách thắt lưng buộc bụng”. Tuy nhiên, công
nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ
các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết
quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích luỹ và phát triển qua nhiều năm và
bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết
quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu
của đất nước.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là ở các vùng kinh tế còn kém
phát triển.
Từ đó góp phần nâng cao mức sống của người dân, tránh lãng phí nguồn lực lao
động (nước ta lại là một nước có cơ cấu dân số trẻ có nguồn lực lao động dồi dào). Vì

một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản
xuất thấp, nên công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa
10


phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp
tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương.
- Giúp tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước:
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các
xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. FDI cũng
đã giúp Việt nam có một bước tiến lớn hơn vào các thị trường quốc tế, cải thiện tiềm
năng xuất khẩu của Việt nam. FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công
nghiệp chủ đạo của Việt nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong ngành
may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện.
- Học tập được kinh nghiệp quản lý, lãnh đạo điều hành doanh nghiệp công ty
chuyên nghiệp của các nước tiên tiến hơn. Từ đó góp phần nâng cao năng lực quản
lý, điều hành của các nhà lãnh đạo trong nước.
- Tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong nước.
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ công ty có vốn đầu tư của
công ty đa quốc gia mà ngay cả các công ty khác trong nước có quan hệ làm ăn với
công ty cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước
thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy
mạnh xuất khẩu
- Tạo đà phát triển cho kinh tế trong nước
Việc Việt nam đã công nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt nam trên nhiều phương
diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả năng thanh toán quốc tế, phát triển xuất khẩu,
tham gia vào các thị trường quốc tế,… FDI đã hỗ trợ Việt nam một cách tích cực trong
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để Việt nam gia nhập ASEAN, ký kết thoả

thuận khung với EU, bình thường hoá và thoả thuận thương mại song phương với
Mỹ.Trong những năm gần đây, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam đã tăng
lên đáng kể. Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường vốn cũng đồng nghĩa với việc Việt
nam sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực, nhất là khi khả năng hấp thụ vốn của nền kinh
tế Việt nam là chưa cao.

11


2.1.2. Bất lợi:
Song, trong lĩnh vực tưởng chừng toàn những điều tốt lành này, những tác động
mặt trái của FDI vẫn ẩn khuất đâu đó:
- Thứ nhất làm tăng lạm phát: Thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này
chỉ thực sự tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung những
hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ
đó làm tăng tiềm lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán,
tăng thu ngân sách cho nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực
tế. Ngược lại, nếu thiên về khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong bóng, kích
thích và thoả mãn những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ
cần thiết của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực
tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do đó làm
tăng các xung lực lạm phát tương lai của đất nước.
- Thứ hai, nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần “mềm”)
không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ lạc hậu, thì
mặc nhiên “những lợi thế tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị tước bỏ – đó là
một mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện được tình trạng
công nghệ, khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ
bỏ những công nghệ “bất cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra,
còn phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước ngoài về kinh tế –
kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận

vốn đầu tư sẽ không như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ
nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức “một tiền gà, ba tiền
thóc”.
- Thứ ba, để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của các
chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3
USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng
lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng. “Hợp lực” của
những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng”
của tăng trưởng kinh tế gây ra.
- Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tế-xã hội và môi trường tổng hợp của các dự
án FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là
nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự án xây
dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đất màu mỡ và những dự án “bán bờ biển” cho các
nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các
thế hệ tương lai.
12


- Thứ năm, chuyển giao công nghệ
Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở phần trên,chúng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ
nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao
những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể giải
thich là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho nên
máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao
những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới
sản phẩm, nâng cao chát lượng của sản phẩm của chính nước họ.Hai là, vào giai
đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sự dụng lao
động.Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết quả là giá
thánhản phẩm cao.

- Thứ sáu: phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia,
đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế của
nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty
xuyên quóc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan
trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các
nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những
bên đối tác nươc ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm
hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa
nhiều vào đầu tuu trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các
nước công nghiệp phát triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực
tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có
được bằng cái của người khác.Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc
vào chính sách và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước.
-Thứ bảy: chi phí cho thu hết FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp
• Chi phí của việc thu hút FDI

Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư
như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án
đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một
số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong
một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của
nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư
còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư
thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ
nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư
chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm
13



được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường.
Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải
mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
• Sản xuất hàng hóa không thích hợp
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho
các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại cho khỏe
con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốclá, thuốc
trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng vv...
- Những mặt trái khác
Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình
báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn
biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại
ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và
xảo quyệt. Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende ở Chile bị giật dây lật đổ năm
1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công ty xuyên quốc gia ITT (công ty viễn
thông và điện tín quốc tế) và chính phủ Mỹ cam thiệp công việc nội bộ của Chile.
Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những
nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân đối
giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây ra mất ổn
định về chính trị. Hoặc FDI cũng có thẻ gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những
người dân bản xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay
đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có thể phản bội Tổ Quốc. Các tệ nạn xã
hội cũng có thể tăng cường với FDI như mại dâm, nghiện hút....

14


2.2. Vốn đầu tư gián tiếp (FPI)
2.2.1. Lợi ích:
Một mặt, sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhất là trên thị

trường chứng khoán, tạo những tác động tích cực:
- Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn đầu
tư trực tiếp của xã hội. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài khi đổ vào Việt Nam sẽ
trực tiếp làm tăng lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước như
một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng vốn này. Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến
dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ
“nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư
gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.
- Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các
thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị
trường chứng khoán) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục
được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài
của thị trường này trong thời gian qua. Hơn nữa, điều kiện và như là kết quả đi kèm
với sự gia tăng dòng vốn này là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính –
chứng khoán, trước hết là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài
chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh
doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị
trường
- Tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng
nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Đông đảo các nhà đầu tư nước
ngoài và cả trong nước, từ người dân, các doanh nhân đến các tổ chức và pháp nhân
đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử
dụng vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua các
định chế tài chính trung gian để mua – bán các cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán
có giá khác của Việt Nam trên thị trường tài chính Việt Nam và nước ngoài.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu
cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan,
bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài

chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và
nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng
như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị
trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và thực hiện hiệu quả việc
15


quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và
hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói
riêng sẽ được cải thiện hơn.

16


2.2.2. Bất lợi:
Mặt khác, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có thể gây ra một số tác
động tiêu cực sau:
- Tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về kinh tế liên quan đến các nhân tố
nước ngoài. Khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng
đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh
khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng
và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về
nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch
và mục tiêu kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật đó cũng chính là nguyên nhân
hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuyếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế
ngoại nhập của dòng vốn này đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt
khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy”
đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn… Trong tình huống như vậy, một sự đổ
vỡ, một cuộc khủng hoảng đầu tư – tài chính – tiền tệ, lạm phát cao, thậm chí là
khủng hoảng kinh tế hết sức tệ hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối

với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa
hiệu quả.
- Gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với
các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ
chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà
đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho
phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất – kinh
doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán,
thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của
mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp.
- Tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế
quốc tế như: Hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh
doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh
phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt
trái của các dòng vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới
đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp,
trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ
tổn thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư
trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn
làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ một nội các chính phủ…

17


2.3. Vốn vay (ODA)
2.3.1. Lợi ích:
- ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển
Đối với các nước đang phát triển khoản viện trợ và cho vay theo điều kiện ODA là
nguồn tài chính quan trọng. Nhiều nước đã tiếp thu một lượng vốn ODA khá lớn như
một bổ sung quan trọng cho phát triển.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước châu Á thiếu vốn để khôi phục và phát
triển nền kinh tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn lớn, lãi suất thấp,
thời gian thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước gặp nhiều khó khăn trong việc
thu hút vốn vốn FDI vào lĩnh vực này. Nhiều nước đã tranh thủ được nguồn vốn ODA
từ các nước giàu.
- ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, và
phát triển nguồn nhân lực
Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt động nhằm giúp các
nước nhận tài trợ nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân
lực như: hợp tác kỹ thuật, cử chuyên gia, cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập… (được
thể hiển rõ trong ODA của Nhật Bản)
Hợp tác kỹ thuật là bộ phận quan trọng trong ODA (đặc biệt của Nhật Bản), bao gồm
hàng loạt hoạt động rộng rãi từ việc xuất bản và cung cấp sách, tài liệu kỹ thuật bằng
nhiều thứ tiếng, các chương trình huấn luyện, đào tạo cán bộ chuyên môn…Việc cử
chuyên gia là một hình thức hợp tác kỹ thuật đã có lịch sử lâu dài. Việc này được tiến
hành ký kết giữa hai bên và theo nhiều cách khác nhau. Trong mỗi trường hợp, mục
đích chính là chuyển giao hiểu biết, công nghệ chỗ các nước đang phát triển thông
qua định hướng, điều tra và nghiên cứu, cải tiến.
Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
các nước đang và chậm phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn
từ nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước, góp phần
thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại.
2.3.2.Tiêu cực:
Dù là nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) có điều kiện ưu đãi cao nhất, cho đến
các khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị trường tài chính quốc tế thì
18



nghĩa vụ nợ (bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng luôn luôn đặt ra cho người vay. Một cơ
cấu nợ mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay thương mại “nóng”, lãi cao, và
bằng những ngoại tệ không ổn định theo xu hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những
xung lực lạm phát mạnh. Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không
được quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các
khoản vay mới, với những điều kiện có thể ngặt nghèo hơn – chiếc bẫy nợ sập lại, con
nợ rơi vào vòng xoáy mới: Nợ-vay nợ mới-tăng nợ-tăng vay… Do vậy, sự chủ động và
tỉnh táo khống chế nợ ở mức độ an toàn, theo những dự án đầu tư cụ thể, được luận
chứng kinh tế – kỹ thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám sát của chủ nợ để
tránh hao hụt do tham nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích là những nguyên tắc hàng
đầu cần được tuân thủ trong quá trình vay nợ nước ngoài.

19


3. Những triển vọng khi VN gia nhập TPP
Mong muốn can dự của Hoa Kỳ vào mạng lưới FTA ở khu vực này cũng như đối
trọng kinh tế với Trung Quốc tạo nên lợi thế nhất định trong đàm phán TPP cho các
nước trong khu vực này về măt xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là những
nước chưa có FTA với Hoa Kỳ như Malaysia và Việt Nam (nhất là trong những vấn đề
mà Hoa Kỳ có thể đánh đổi như hạn chế các rào cản nội địa của phía Hoa Kỳ)
• Nhiều ngành sản xuất của Hoa Kỳ ủng hộ việc chính quyền tham gia đàm phán

này với hy vọng khai thác nhiều hơn những lợi ích ở thị trường các nước TPP trong
các ngành sản xuất quan trọng của Hoa Kỳ, bao gồm nông nghiệp (nhưng không bao
gồm ngành sữa), các sản phẩm công nghiệp, dệt may, giầy dép, đồ gỗ, các ngành công
nghệ cao, điện tử, các lĩnh vực dịch vụ (đặc biệt là dịch vụ y tế, bảo hiểm, đầu tư,
ngân hàng…).
• Theo giới nghiên cứu, VN là nước được hưởng lợi nhất trong TPP. Việt Nam


chưa đủ hoàn thiên và vào sân chơi này sẽ giúp tăng tính chuyên nghi êp hơn vì TPP
đòi hỏi cả Nhà nước, người dân và doanh nghiệp và toàn xã hôi phải vào cuộc.
• Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình tái

cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế liên kết kinh tế khu vực, đặc
biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đem lại.
• Việt Nam có cơ hội nâng cao khả năng xuất khẩu bởi khu vực TPP là thị trường

rất lớn, cơ hội cải thiện môi trường đầu tư, thu hút thêm đầu tư nước ngoài, hướng
các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng trong khu vực
• Việt Nam sẽ có quyền tiếp cận với thị trường trị giá 15.000 tỷ USD của Mỹ và

những thị trường như Canada, Mexico và Peru, trị giá khoảng 3.000 tỷ USD.
• Giúp thúc đẩy viêc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thực thi các

chương trình mục tiêu cụ thể và hoàn thiện dần hệ thống an sinh xã hội chính thức,...
là những giải pháp cần tiếp tục triển khai có hiệu quả.
• Trong TPP hiện nay chưa có Thái Lan, Ấn Độ cho nên các đối thủ cạnh tranh về

gạo cũng như các thứ khác của hai quốc gia này cũng là lợi thế cho Việt Nam.
• Cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn gồm Mỹ, Nhật Bản, Canada với thuế

nhập khẩu bằng 0%, kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu
tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam, nhất là của các tập đoàn lớn.
20


21



4. Những thách thức khi VN gia nhập TPP:
Về mặt thương mại hóa:
- Hàng nhập khẩu tăng, xuất khẩu không tìm được đường vào thị trường các
nước sẽ khiến nông nghiệp đứng trước những khó khăn.
- Mặc dù xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu chưa mang
tính hiệu quả.
- Xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu thô, chưa qua sơ chế hoặc gia công đã khiến việc
cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng hóa… trở nên yếu.
- Một số sản phẩm công nghiệp mà bạn hàng TPP có thế mạnh cũng có thể gây
khó khăn cho sản xuất của Việt Nam như giấy, thép, ô tô.
- Việc hạ thuế về 0% gây giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ
các nước TPP vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn.
- Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ một
thành viên của TPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ nội khối, không sử dụng
các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi thuế
suất 0%. Đây là khó khăn đối với DN sản xuất của Việt Nam, nhất là ngành xuất khẩu
hàng may mặc và da giày.
Về mặt thương mại dịch vụ đầu tư:
- Bộ Công thương cho biết, mở của thị trường dịch vụ - đầu tư sẽ không ảnh
hưởng tới quyền chủ động của Nhà nước trong quản lý, cụ thể là không ảnh hưởng
tới quyền áp dụng các biện pháp quản lý không mang tính phân biệt đối xử, theo các
tiêu chí minh bạch, áp dụng chung
- Mở cửa theo TPP chỉ làm tăng cạnh tranh thương mại, không ảnh hưởng tới
quyền quản lý của Nhà nước nhằm đáp ứng các mục tiêu công cộng, chính.
Về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế
- Bộ Công thương cho biết, các tiêu chuẩn cao về quản trị minh bạch và hành xử
khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ đặt ra thách thức lớn cho bộ máy quản lý
22



- Để thực thi cam kết trong TPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp
luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường…
Đối với xã hội : Cạnh tranh tăng lên khi tham gia TPP có thể làm cho một số
doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước,
các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu rơi vào tình trạng khó
khăn. Tuy nhiên, do phần lớn các nền kinh tế trong TPP không cạnh tranh trực tiếp
với Việt Nam, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là
có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính chất ngắn hạn.
Về thu ngân sách:
- Do tỷ trọng thu ngân sách từ thuế nhập khẩu đang giảm dần qua các năm, việc
xoá bỏ thuế nhập khẩu lại được thực hiện theo lộ trình, nên về cơ bản sẽ không gây
tác động lớn và đột ngột
- Khi xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình, thu từ thuế nhập khẩu có thể giảm
nhưng bù lại, số thu từ các sắc thuế khác sẽ tăng lên do sản xuất, kinh doanh phát
triển, không những đủ để bù đắp số thu mất đi từ thuế nhập khẩu mà còn bổ sung
thêm cho ngân sách nhà nước.

23


5. Giải pháp
Ổn định kinh tế vĩ mô là yếu tố hàng đầu trong việc thu hút FDI. Giảm lạm phát,
hạ thấp lãi suất tín dụng, ổn định tỷ giá là mối quan tâm hàng của các doanh nghiệp
FDI đang hoạt động tại Việt Nam và các nhà đầu tư tiềm năng.
Ổn định chính trị - xã hội của Việt Nam được coi là ưu thế trong hoạt động thu
hút FDI. Tuy vậy cần xử lý đúng đắn những hiện tượng mới phát sinh về xung đột lợi
ích giữa các nhóm dân cư, giữa chủ và thợ trong một số doanh nghiệp FDI, thu hẹp
khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, các khu vực và vùng kinh tế

Mở rộng thị trường nội địa để tạo ưu thế về quy mô thị trường, đặc biệt là ưu
thế về đặc tính tiêu dùng của người Việt Nam nhất là tầng lớp trung lưu đối với hàng
hóa đắt tiền, có giá trị cao.

24


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình quốc tế đang diễn biến phức tạp, kinh tế toàn cầu chưa
thật sự thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, nước ta tuy đã đặt chân vào nhóm
nước thu nhập trung bình ( thấp ) nhưng phải đương đầu với suy thoái và lạm phát
cao thì cần đánh giá đúng thành tựu, vấn đề để thống nhất nhận thức và hành động
của cả hệ thống chính trị trong việc đề ra định hướng mới, hoàn chỉnh thể chế, đổi
mới đồng bộ chính sách ưu đãi, công tác quản lý nhà nước nhằm thu hút được nhiều
hơn, có chất lượng và hiệu quả hơn vốn đầu tư quốc tế góp phần thực hiện các mục
tiêu kinh tế- xã hội của chiến lược phát triển 2011- 2020.

25


×