MỤC LỤC
1.
2.
GIỚI THIỆU CHUNG:...………………....1
1.1 Tác giả:……………………………….....1
1.1.1 Cuộc đời
1.1.2 Sự nghiệp văn chương
1.2 Tác phẩm:…………………………….....5
1.2.1 Cảm hứng sáng tác
1.2.2 Tóm tắt tác phẩm
1.3 Một số khái niệm:………………………7
1.3.1 Tính biểu tượng
1.3.2 Tính triết luận
1.4 Khái quát về tính biểu tượng và tính triết
luận trong tác phẩm:...……………………8
NỘI DUNG CHÍNH:…..…………………10
2.1 Hoàng tử bé- thế giới hồn nhiên đầy
sáng tạo của trẻ thơ………………………...10
2.2 Tính triết lý được thể hiện trong tác phẩm
thông qua các hình ảnh biểu tượng………...13
3.
KẾT LUẬN:………………………………36
4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:………………40
1. GIỚI THIỆU CHUNG:
1
1.1.
Tác giả:
1.1.1 Cuộc đời:
Văn sĩ và phi công người Pháp, một anh hùng trong đời thực, người nhìn sự phiêu lưu mạo
hiểm dưới góc độ của một thi sĩ - hoặc đôi khi với con mắt trẻ thơ. Hoàng tử bé là tác phẩm
nổi tiếng nhất của Saint-Exupéry, ra đời vào năm 1943 và đã trở thành một trong số các tác
phẩm văn học cổ điển dành cho trẻ em trong thế kỷ hai mươi. Ông tham gia Chiến tranh Thế
giới lần II với cương vị phi công chiến đấu. Máy bay của ông bị bắn rơi trên vùng trời nước
Pháp vào năm 1944.
" Những người lớn, chẳng bao giờ tự họ hiểu được cái gì cả, và thật là mệt cho trẻ con
lúc nào cũng phải giải thích cho họ. " (trích Hoàng tử bé, 1931)
Antoine de Saint-Exupéry sinh ở Lyons ngày 29 tháng 6 năm 1900 trong một gia đình quí
tộc địa phương lâu đời. Cha ông là một chuyên viên công ty bảo hiểm, mất năm 1904 vì
chứng đột quị. Mẹ ông, bà Marie de (Fonscolombe) Exupéry (1875- 1972), đưa các con đến
Le Mans vào năm 1909, tại lâu đài Saint-Maurice-de-Rémens của người dì. Tại đây, ông đã
trải qua những năm tháng tuổi thơ giữa những người thân của mình. Ông theo học các
trường dòng Jesuit ở Montgré và Le Mans, và cả trường Công giáo ở Thụy Sĩ (1915-1917).
Sau khi thi rớt trường dự bị đại học, ông đăng ký học môn kiến trúc ở trường cao đẳng
Beaux-Arts.
Bước ngoặt của cuộc đời ông xảy ra khi ông nhập ngũ vào năm 1921, và được gởi đến
Strasbourgh để dự khóa huấn luyện phi công. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1921, ông bay
chuyến đầu tiên một mình với kiểu máy bay Sopwith F-CTEE. Ông lấy bằng phi công vào
năm 1922, và sau đó định cư ở Paris nơi ông khởi sự viết văn. Tiếp theo đó là những năm
kém may mắn. Cuộc đính hôn của ông với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin bị hủy bỏ, và ông
cũng không thành công trong việc viết lách và kinh doanh. Ông phải làm hàng loạt nghề từ
quản thủ thư viện đến buôn bán động cơ. Tác phẩm đầu tay của ông là truyện ngắnNgười lái
máy bay (L'Aviateur) xuất bản vào năm 1926 trên tạp chí văn học Le Navire d'argent. Sau
đó, ông tìm thấy một công việc thực sự, là chuyên chở thư tín cho công ty thương mại hàng
không Aéropostale ở Bắc Phi trong 3 năm, với nhiều lần chết hụt. Vào năm 1928, ông làm
2
giám đốc vùng bay Cap Juby ở Rio de Oro, sâu trong sa mạc Sahara. Ông yêu thích sự cô
độc của sa mạc và mô tả vẻ đẹp hoang dã của nó trong các tác phẩm Hoàng tử bé và Thành
trì (1948). Trong vòng 3 năm, Saint-Exupéry viết tiểu thuyết Tàu thư phương nam (1929),
ngợi ca lòng dũng cảm của những phi công đầu tiên, những con người đã bất chấp hiểm
nguy trong cuộc đua tranh tốc độ, để chiến thắng các đồng nghiệp đưa thư của họ theo
đường tàu hỏa và đường thủy. Một mạch truyện khác trong tác phẩm này mô tả cuộc tình
bất thành của tác giả với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin. Tàu thư phương nam được đạo diễn
Robert Bresseo dựng thành phim vào năm 1937.
Vào năm 1929, Saint-Exupéry đến Nam Mỹ làm công việc chuyên chở thư tín qua dãy
Andes. Kinh nghiệm này làm nên cốt truyện của tiểu thuyết thứ hai, Bay đêm, đã trở thành
một bestseller trên bình diện quốc tế, đoạt giải Femina, và được được đưa lên màn ảnh vào
năm 1933, với các ngôi sao điện ảnh Clark Gable và Lionel Barrymore. Trong câu chuyện,
Rivière, người phụ trách sân bay kiên nghị, đã từ bỏ tất cả các toan tính về hưu và xem công
việc chuyên chở thư tín như là mục đích đời mình. 'Chúng ta không cần đến sự vĩnh cửu',
ông nghĩ. 'Điều mà chúng ta cần là không để những hành động và sự việc đột nhiên
mất đi ý nghĩa thực sự của chúng. Nhờ đó, thế giới xung quanh chúng ta sẽ mở toang
ra từ mọi phía.' (trích Bay đêm)
Saint-Exupéry lập gia đình năm 1931 với Consuelo Gomez Castillo, và khởi sự làm phi
công thử nghiệm cho Air France và các công ty hàng không khác. Ông viết cho tờ ParisSoir mô tả sự cố khẩn cấp ở Moscow năm 1936, và sáng tác hàng loạt bài viết về Cuộc nội
chiến ở Tây Ban Nha. Saint-Exupéry sống cuộc đời phiêu bạt, rày đây mai đó : ông mua
một máy bay hiệu Caudron Simoun (F-ANRY) với số tiền còn lại của mình, và trải qua một
tai nạn máy bay ở Libya, sau đó mua một máy bay Caudron Simoun khác vào năm 1937 và
lại gặp tai nạn chấn thương nghiêm trọng ở Guatemala trong một vụ rớt máy bay.
Với sự động viên của người bạn André Gide, Saint-Exupéry viết một quyển sách về nghề lái
máy bay. Cõi người ta, ra đời năm 1939, đoạt giải Grand Prix du Roman của Viện Hàn Lâm
Pháp 1939 và giải National Book Award ở Mỹ. Đạo diễn Jean Renoir (1894-1979) muốn
dựng thành phim và thảo luận với tác giả, chủ yếu về các chủ đề văn học mà ông ghi nhận.
3
Vào thời điểm đó Renoir làm việc ở Hollywood nơi người ta dựng phim trong phim trường.
Renoir đưa ra ý tưởng dựng phim ngay tại chính các địa điểm được mô tả trong truyện. Điều
này sẽ có lợi thế để thành công ở Mỹ, nhưng tiếc thay, không ai muốn sản xuất bộ phim.
Sau khi nước Pháp bị thất thủ trong Chiến tranh Thế giới lần II, Saint-Exupéry gia nhập
quân đội, thực hiện hàng loạt phi vụ, mặc dù ông bị xem như là không đủ khả năng lái máy
bay chiến đấu do mắc phải hàng loạt chấn thương trước đây. Tuy vậy, Saint-Exupéry vẫn
được phong tặng huân chương Croix de Guerre [Croix de Guerre : huân chương được nhà
nước Pháp trao tặng cho các cá nhân hoặc đơn vị có thành tích trong Chiến tranh Thế giới
lần II.]. Ông rời Mỹ năm 1942 và bị phê phán bởi những người đồng hương vì đã không ủng
hộ lực lượng Nước Pháp Tự Do của de Gaulle ở London. Phi công chiến tranh (1942) mô tả
chuyến bay tuyệt vọng của ông trên giới tuyến quân địch, khi nước Pháp đã thực sự bị đánh
bại. Năm 1943 ông tái gia nhập không lực Pháp đóng ở Bắc Phi (trong phi đoàn người ta gọi
ông một cách thân mật là Saint-Ex hay "thiếu tá Ex") và xuất bản tác phẩm nổi tiếng nhất
của mình, Hoàng tử bé (1943), một truyện ngụ ngôn trẻ em dành cho người lớn. Cuốn sách
đã được dịch sang gần năm mươi ngôn ngữ.
1.1.2 Sự nghiệp văn chương:
•
L'AVIATEUR, 1926 - Người lái máy bay
•
COURRIER-SUD, 1929 - Tàu thư phương nam - Southern Mail - dựng phim 1937,
đạo diễn Robert Bresseo
•
VOLE DE NUIT, 1931 - Bay đêm - Night Flight - dựng phim 1933, đạo diễn
Clarence Brown, với các ngôi sao điện ảnh John Barrymore, Clark Gable, Helen
Hayes, Myrna Loy, Lionel Barrymore
•
TERRE DES HOMMES, 1939 - Cõi người ta - Wind, Sand, and Stars
•
PILOTE DE GUERRE, 1942 - Phi công chiến tranh - Flight to Arras
•
LETTRE À UN OTAGE, 1943 - Thư gửi một con tin - Letter to a Hostage
4
•
LE PETIT PRINCE, 1943 (illust. by Saint-Exupéry) - Hoàng tử bé - The Little Prince
•
LA CITADELLE, 1948 - Thành trì - The Wisdom of the Sands
•
.UVRES COMPLÈTES, 1950 (7 vols.)
•
.UVRES, 1953
•
LETTRES DE JEUNESSE, 1923-31, 1953
•
CARNETS, 1953
•
LETTRES À SA MÈRE, 1955
•
UN SENS À LA VIE, 1956 - Cảm nhận cuộc sống - A Sense of Life
•
LETTERS DE SAINT EXUPÉRY, 1960
•
LETTRES AUX AMÉRICAINS, 1960
•
ECRITS DE GUERRE, 1939-1944, 1982 - Những ghi chép trong thời chiến Wartime Writings
1.2.
Tác phẩm:
1.2.1 Cảm hứng sáng tác:
Vào ngày 30 tháng 12 năm 1935, lúc 14:45 sau một chuyến bay dài 19 tiếng và 38 phút,
Saint-Exupéry, cùng với người bạn hoa tiêu, André Prévot, đã bị rơi máy bay ở sa mạc
Sahara ở Libya trên lộ trình tới Sài Gòn. Họ đã cố gắng bay từ Paris tới Sài Gòn nhanh hơn
những người đã từng bay trước đó để giành giải thưởng 150.000 franc. Máy bay của họ
là Caudron C-630 Simoun n°7042 (seri F-ANRY).
Địa điểm rơi máy bay được cho là Wadi Natrum. Cả hai người đều sống sót qua vụ tai nạn
và phải đối mặt với sự sợ hãi về việc mất nước nhanh chóng ở Sahara. Bản đồ họ có thì đã
quá cũ và rất mờ mịt, do đó không có ích gì. Họ không có cách gì để giải quyết tình trạng
5
này. Nho, táo và rượu đã giúp họ trụ vững được một ngày, nhưng sau đó không còn gì nữa.
Cả hai người bắt đầu bị ảo giác. Giữa ngày thứ hai và ngày thứ ba, cơ thể họ đã bị mất nước
rõ rệt và không đổ mồ hôi nữa. Cuối cùng, vào ngày thứ tư, một người Ả Rập du cư cưỡi
trên một con lạc đà đã phát hiện ra họ và tìm các biện pháp chống lại sự mất nước nên đã
cứu sống được hai người. Trong truyện Hoàng Tử Bé, khi Saint-Exupéry viết về việc bị bỏ
lại trên sa mạc trong một cái máy bay bị hỏng, ông đã liên hệ thực tế chi tiết này với kinh
nghiệm trong cuộc đời mình. Saint-Exupéry cũng nhắc đến chi tiết này trong quyển Cõi
người ta (Terre des Hommes). Ông đã gặp một con cáo (vulpes zerda, cáo sa mạc) ở đó, có
thể điều này cũng làm ông viết về con cáo trong tác phẩm.
Hoàng tử bé (tên tiếng Pháp: Le Petit Prince), được xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi
tiếng nhất của nhà văn và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Ông đã thuê ngôi biệt
thự The Bevin House ở Asharoken, New York, Long Island trong khi viết tác phẩm này.
Cuốn tiểu thuyết cũng bao gồm nhiều bức tranh do chính Saint-Exupéry vẽ. Tác phẩm đã
được dịch sang hơn 250 ngôn ngữ (bao gồm cả tiếng địa phương) và cho đến nay đã bán
được hơn 200 triệu bản khắp thế giới, trở thành một trong những sách bán chạy nhất của
mọi thời đại và được phát triển trở thành một sê ri truyện tranh có 39 chương. Truyện còn
được dùng như tài liệu cho những người muốn làm quen với ngoại ngữ.
1.2.2
Tóm
tắt
tác
phẩm:
Hoàng tử bé là câu chuyện kể về một phi công phải hạ cánh khẩn cấp trong sa mạc. Anh gặp
một cậu bé, người hóa ra là một hoàng tử từ hành tinh khác đến. Hoàng tử kể về những cuộc
phiêu lưu của em trên Trái Đất và về bông hồng quí giá trên hành tinh của em. Em thất vọng
khi phát hiện ra hoa hồng là loài bình thường như bao loài khác trên Trái Đất. Một con cáo
sa mạc khuyên em nên yêu thương chính bông hồng của em và hãy tìm kiếm trong đó ý
nghĩa của cuộc đời mình. Nhận ra điều ấy, hoàng tử quay trở về hành tinh của em.
Ngày 31 tháng 7 năm1944, Saint-Exupéry cất cánh từ đường băng hẹp ở Sardinia trong một
phi vụ trên vùng trời miền Nam nước Pháp. Và vào cái ngày định mệnh đó, "thiếu tá Ex" đã
ra đi mãi mãi, không bao giờ trở về nữa... Trường hợp của ông được xem như là mất tích.
Sau này, người ta đoán rằng, máy bay của ông bị bắn rơi trên vùng biển Địa Trung Hải hay
6
có lẽ ông đã gặp phải tai nạn. Saint-Exupéry để lại bản thảo dang dở của tác phẩm Thành
trì và một vài ghi chép mà chúng được xuất bản sau ngày ông mất.
"Tự do và áp bức là hai mặt của cùng một điều tất yếu, nơi mà tồn tại điều này thì
không thể tồn tại điều kia" (trích Thành trì, 1948). Quyển sách phản ánh sự quan tâm ngày
càng tăng của Saint-Exupéry đối với chính trị, và những tư tưởng then chốt sau cùng của
ông.
1.3.
Một
số
khái
niệm:
1.3.1 Tính biểu tượng:
Trước khi tìm hiểu về khái niệm tính biểu tượng, ta cần hiểu được khái niệm biểu tượng:
Theo từ điển TLH (Vũ Dũng- NXB KHXH - 2000 ), "Biểu tượng là hình ảnh các vật thể,
cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu
tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên
quan
đến
quá
khứ
và
tương
lai."
Theo từ điển Tiếng Việt (GS Hoàng Phê CB):"Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình
ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi
tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt".
Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của thế giới xung
quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ lại
trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ
trước. Biểu tượng không phải hoàn toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau
khi đã được tri giác. Tuy nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ
quan
xuất
phát
từ
những
hoạt
động
tâm
trí
của
chủ
thể.
Tự điển Larousse cho rằng: "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động
hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay
một điều gì đó".
Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống cũng giải thích "Tượng là
lấy hình này để tỏ nghĩa kia" tức là dùng cái "có thể hiểu biết" để nói lên cái điều "khó có
7
thể hiểu biết", hay dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng
cái hữu hình để nói cái vô hình.
Tính biểu tượng bao giờ cũng có:
-
Tính chất biểu hiện một sự vật, sự việc bằng sự vật có hình ảnh.
-
Đại diện cho một sự vật, sự việc nhằm gợi lên hình ảnh theo liên tưởng.
-
Tính ước lệ.
-
Mã (ký hiệu).
-
Biểu hiện những “giá trị” mang tính nhân văn.
Như vậy tính biểu tượng luôn hàm chứa trong nó những giá trị mà đằng sau mỗi giá
trị thường ẩn dấu một nhu cầu nào đó của con người, mang tính tượng trưng cho giá trị được
nói đến.
1.3.2 Tính triết luận:
Thuật ngữ triết luận được ghép bởi hai yếu tố “triết” và “luận”. “Triết” là sự triết lý về
những vấn đề nhân sinh xã hội, còn “luận” là cách bàn luận, hướng suy luận của nhà văn về
những vấn đề nhân sinh, xã hội ấy. Tính triết lí sẽ xuyên suốt tác phẩm, gắn liền với một tư
tưởng và một sự đánh giá nhất định. Khi đó, nhà văn tài năng có thể kéo người đọc cùng
tham gia đối thoại, bàn luận.
Với một sáng tác mang tính triết luận, việc xếp đặt nhân vật và sự kiện vào các phạm trù
rành mạch tốt - xấu, chính diện - phản diện sẽ là bất cập. Nó đòi hỏi và cho phép sự đánh
giá đa chiều. Nhân vật trong tác phẩm triết luận chủ yếu là nhân vật tư tưởng, hoặc số phận
– tư tưởng, ít khi là nhân vật tính cách.
Khái quát về tính biểu tượng và tính triết luận trong tác phẩm:
1.4.
Hoàng tử bé tuy được sáng tác với chất liệu ngôn từ trong sáng thơ mộng tựa như những câu
chuyện cổ tích dành cho trẻ thơ nhưng ẩn đằng sau những câu chữ tưởng chừng như đơn
thuẩn ngây thơ ấy là những triết lý nhân sinh sâu sắc được thể hiện thông qua các hình ảnh
mang đậm tính biểu tượng.
•
Triết lý về sự sáng tạo và thế giới hồn nhiên của trẻ thơ
8
+ Câu chuyện về con trăn nuốt con voi và chiếc mũ: theo người lớn họ cho rằng suy
nghĩ thực tế mới là đúng đắn còn trẻ con chỉ biết tưởng tượng viễn vông nhưng đối với trẻ
con thì những thứ thực tế thật nhàm chán và tầm thường, trí tưởng tượng mới là tài sản vô
giá.
+ Hình ảnh con cừu trong chiếc hộp: thể hiện tâm lí và con mắt nhìn sự vật của trẻ
nhỏ rất phong phú và giàu trí tưởng tượng.
•
Triết lý về tình yêu
+ Hình ảnh bông hoa hồng: khi phát hiện bông hoa hồng của cậu không phải là duy
nhất, cậu đau khổ, cảm thấy như bị lừa dối.
+ Hình ảnh cuộc trò chuyện của con chồn về bông hoa hồng của Hoàng tử bé: với
cách suy nghĩ đơn giản, cậu cảm hóa con chồn và rút ra được bài học về tình yêu. Tuy bông
hoa của cậu không là duy nhất nhưng nó là bông hoa cậu yêu và cậu đã cảm hóa được nó.
•
Triết lý về tính cách con người và các mối quan hệ xã hội
+ Cuộc du ngoạn của hoàng tử bé qua 6 tiểu tinh cầu: cậu bắt đầu tiếp xúc với cách
nói chuyện và cư xử của những người lớn này từ đó ta hiểu được rằng những người lớn luôn
đi tìm kiếm quyền lực, họ tự làm khổ chính bản thân mình, họ làm theo những quy tắc nhất
định và thực sự họ không biết mình cần và muốn gì.
•
Triết lý về ý nghĩa cuộc sống
+ Hình ảnh người bẻ ghi và những chuyến tàu: cuộc sống lặp đi lặp lại một cách
nhàm chán, những người lớn mệt nhoài trên những chuyến tàu ngược xuôi xuôi ngược khắp
thế gian.
+ Hình ảnh giếng nước: Hoàng tử dạy cho người phi công sự huyền diệu của cái tâm
trên sự vật. Cái giếng mà hai người tìm thấy không còn là cái giếng vô hồn. Nó sẽ là một cái
giếng đặc biệt. Từ cái kẽo kẹt của sợi thừng trên ròng rọc cũ, cho tới cái gầu trĩu tay, cho tới
cái mát trong cổ họng của ngụm nước giữa cơn nắng gắt, tất cả gắn liền với cái tâm của
ngày hôm nay làm giếng trở nên tuyệt vời.
9
+ Hình ảnh con rắn vàng sa mạc: Con rắn độc không ác, chết không phải là hết, bản
chất mọi chuyện không tốt không xấu, không sinh không diệt.
Hoàng tử bé là một câu chuyện thiếu nhi với ngôn từ hết sức đơn giản nhưng giàu tính triết
lí. Câu chuyện nêu lên những suy nghĩ của người lớn qua cách nhìn của một cậu bé từ đó
cho ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa của cuộc sống.
2. NỘI
DUNG
CHÍNH:
2.1 Hoàng tử bé- thế giới hồn nhiên đầy sáng tạo của trẻ thơ.
“Hoàng tử bé” là câu chuyện triết học giàu chất thơ được viết dưới dạng truyện dành cho
thiếu nhi, xuất bản năm 1943, tác phẩm đề cập đến những chủ đề sâu sắc như cuộc sống và
tình yêu, cái chết, tình bạn, những thái độ và những mối bận tâm trước cuộc sống, thậm chí
trước cả sự tự tử.
Chuyện mở ra bằng lời kể của tác giả về một bức tranh của mình vẽ khi còn bé. Bức tranh
số một vẽ một con trăn đã nuốt trọn một con voi vào bụng và đang nằm chờ tiêu hóa con
mồi. Đưa mọi người xem ai cũng bảo đó là một chiếc nón nỉ. Cậu bé tức giận vẽ bức tranh
thứ hai, cũng như bức tranh số một nhưng có vẽ thêm hình con voi nằm trong bụng con trăn
cho mọi người hiểu ra. Kết quả mọi người khuyên cậu thôi đừng vẽ nữa. “ Người lớn chẳng
bao giờ tự hiểu được cái gì cả, và thật là mệt cho trẻ con cứ phải giải thích cho họ”… Vậy
đó, trẻ em bao giờ cũng giàu óc tưởng tượng hơn người lớn. Chúng nhìn mọi thứ xung
quanh theo cái nhìn riêng của mình, và chúng luôn bảo vệ cho cái mà mình nhìn nhận. Và
chúng luôn bị người lớn đối xử bất công theo kiểu “cả vú lấp miệng em” làm chúng nhiều
khi tức chịu không nổi.
Từ đó tác giả đem hai bức tranh nọ ra như một bài test trắc nghiệm hết những người lớn mà
ông gặp. Ông thất vọng vô cùng vì chẳng ai nhìn ra được những gì ông vẽ. Tác giả chán nản
không thèm nói chuyện văn thơ nghệ thuật với những kẻ đó. Và để hạ mình xuống cho
ngang tầm với họ, ông chỉ nói chuyện với họ về đánh bài, đánh cầu, uống rượu hay về chính
trị, về áo quần hay trang sức… Nếu đầu óc bạn cũng đầy tưởng tượng, đầy mơ mộng như
tác giả, bạn sẽ nhiều khi thấy mình lạc lỏng như thế giữa cái thế gian này. Vậy nên tác giả
hết sức ngạc nhiên khi vẽ cho Hoàng tử bé bức tranh số một vốn có hình giống như cái mũ,
10
thì cậu bé liền nhìn ra con voi nằm trong bụng con trăn nọ. Và khi ông lúng túng không vẽ
được con cừu cho cậu, ông bèn vẽ đại một cái hộp mà bảo rằng “ Đấy,… con cừu của chú
đó” vậy mà Hoàng tử bé lại mừng rỡ kêu lên đúng rồi con cừu của tôi đó rồi, nó nằm ngoan
ngoãn trong cái hộp đây mà. Truyện bắt đầu ngộ nghĩnh như thế. Đôi khi những thứ tưởng
không là đúng với những gì người lớn nhìn nhận nhưng nó là thứ tồn tại đúng trong mắt trẻ
thơ. Chúng nhìn nhận mọi thứ hết sức tự nhiên, không cần cầu kì hay hình thức, chỉ cần là
thứ khiến cho chúng vừa lòng với nó là đủ. Từ đó, chúng ta sẽ bước vào một thế giới ngụ
ngôn triết lí đầy thơ mộng của tác giả, cái thế giới mà người ta không thể chỉ bằng mắt mà
phải nhìn bằng trí tưởng tượng, bằng trái tim mình.
"Người lớn quả thật là kỳ lạ" đó là câu mà Hoàng tử bé hay nói. Những người lớn, qua cách
nhìn của một cậu bé, qua lối kể thật sự đơn giản đến khó tin nhưng thấm thía vô cùng.
+ Người lớn là một ông vua trên một hành tinh chỉ có một mình ông nhưng lúc nào
cũng nghĩ mình là vua tuyệt đối, là người trị vì tất cả mọi thứ. Tuy nhiên, ông không thể ra
lệnh cho mọi thứ làm theo ý mình vì như ông hay nói: "Nếu trẫm ra lệnh cho một vị tướng
phải biến mình thành con chim biển và nếu như vị tướng không tuân theo thì đó không phải
lỗi của ông ta. Đó là lỗi của trẫm". Ông ra lệnh cấm ngáp rồi lại ra lệnh ngáp, rồi lại ra lệnh
lúc ngáp lúc không, đổi tới đổi lui để sao cho người ta phải tuân lệnh mình. Người lớn luôn
đi tìm kiếm quyền lực. Đó là thế giới người lớn kỳ cục.
+ Người lớn là một người huyễn tưởng. Trong mắt ông ta thì ai cũng là người hâm
mộ và người hợm hĩnh chỉ nghe được những lời tán tụng mình mà thôi. Người lớn là một
người say rượu. Uống rượu để quên, quên là mình xấu hổ, xấu hổ vì mình đã uống rượu.
Thật là một vòng luẩn quẩn. Tự làm khổ chính bản thân mình.
+ Người lớn là một thương nhân, lúc nào cũng làm ra vẻ mình rất bận rộn, luôn
thường trực câu nói "Ta là một người nghiêm túc". Hàng ngày, ông ta đếm những vì sao,
cho rằng chúng là của mình. Nhưng theo Hoàng tử bé, việc đó chẳng được lợi gì cho ông ta
và ông ta cũng không làm được gì tốt cho những vì sao.
11
+ Người lớn là một nhà địa lý, luôn tự cho rằng mình biết tất cả mọi thứ nhưng thật
ra lại chẳng biết gì. Bởi vì, "nhà địa lý quá quan trọng để đi đây đi đó, ông ta không bao giờ
rời khỏi bàn làm việc".
- Chúng tôi không ghi chép những loài hoa – nhà địa lí nói.
- Sao vậy ! Đẹp nhất đấy mà.
- Phù du nghĩa là gì ?
- ... Núi đổi sông dời là chuyện rất hiếm. Chúng tôi chỉ biết viết những gì vĩnh cửu.
Đấy, những người lớn chỉ quan tâm đến những thứ ấy. Trong khi những thứ gần gũi, bên
mình thì lại chợt bỏ qua và lãng quên.
Hoàng tử bé lang thang trong vũ trụ và toàn gặp những gã người lớn theo cậu là luôn kỳ cục
như thế. Gã khoe khoang thì lúc nào cũng tưởng người ta vỗ tay để tán tụng gã. Gã nghiện
rượu có đủ lý do để uống rượu. Gã kế toán thì suốt ngày loay hoay với những con số. Vậy
đó người lớn là vậy đó, người lớn quả thật là hoàn toàn khác thường. Và chú bé cứ phải lang
thang trong cái xứ sở lạ lùng đó, với nỗi nhớ về đóa hồng nơi chốn quê nhà mà mình đã từ
bỏ.
Tập truyện như là lời khản phán của cái thế giới ngây thơ của trẻ em chống lại cái thế giới
người lớn thực dụng, khô khan, tính toán,….
Cái quý giá nhất chúng vô hình.
+ Vô hình như đóa hồng nơi tinh cầu xa xôi mà chàng Hoàng tử giờ chỉ còn ấp ủ
trong tâm tưởng.
+ Vô hình như nguồn nước đâu đó trong xa mạc mà người ta cứ mãi mãi đi tìm trong
vô vọng.
12
+ Vô hình như tâm hồn ngây thơ trong sáng, ẩn náu trong thân hình xinh xắn của
chàng Hoàng tử bé.
+ Vô hình như kho tàng chôn giấu đâu đó trong ngôi nhà cổ.
Hành tinh của Hoàng tử bé chỉ có một ngôi nhà, mấy cái cây, một bông hoa, mấy con cừu.
Đơn giản quá! Đơn giản như tâm trí trẻ thơ và cũng mỏng manh dễ vỡ như đúng bản tính
của những đứa trẻ. Hoàng tử bé không bao giờ hiểu và cũng không cần, không muốn hiểu
về thế giới của người lớn. Hoàng tử bé chỉ cố hết sức để bảo vệ hành tinh nhỏ của cậu, thế
giới nhỏ bé của riêng cậu.
Khi đến Trái Đất, Hoàng tử bé phát hiện ra bông hoa của cậu không phải là bông hoa duy
nhất nhưng có một con cáo đã khuyên cậu: "Đó không phải là bông hoa duy nhất nhưng đó
là bông hoa của cậu, cùng cậu trò chuyện... cậu nên chịu trách nhiệm về nó". Và cậu bé
quyết định quay trở về nhà.
Hoàng tử bé đã để lại cho tác giả một món quà. Như cậu nói: "Nếu chú yêu thương một
bông hoa trên một ngôi sao nào đó, chú sẽ thấy êm đềm khi ngắm sao ban đêm. Cả bầu trời
sao sẽ nở hoa".
Do đó "Mỗi người đều có các ngôi sao của riêng mình. Với người đi xa, chúng là sao dẫn
đường. Với một số người, chúng chẳng khác gì những đốm sáng. Với những ai thông thái,
chúng là các vấn đề. Với vị thương nhân, chúng là một kho báu. Nhưng tất cả các ngôi sao
đó đều câm lặng. Chỉ riêng chú sẽ có các vì sao không ai có được... Ban đêm khi chú nhìn
trời, vì có cháu sống trên một ngôi sao nào đó, vì có cháu cười trên một ngôi sao nào đó,
cho nên với chú, tất cả các ngôi sao đều cười. Riêng chú sẽ có các ngôi sao biết cười".
Thật là một câu chuyện cảm động, chỉ là lời văn đơn giản, viết cho thiếu nhi. Nhưng có lẽ
nên gọi nó là "Viết cho những người lớn từng là trẻ con". Thật vậy, mỗi chương kể lại một
cuộc gặp gỡ của cậu hoàng tử bé lại chứa đựng một bài học đạo đức, một hay hai câu nói
đơn giản nhưng thấm thía về tình bạn và cuộc sống. Tác phẩm cũng được chính tác giả của
13
nó vẽ minh họa. Nhưng bức tranh đơn giản, được vẽ với phong cách có phần ngây thơ, song
lại nổi tiếng chẳng kém gì bản thân cuốn sách.
2.2 Tính triết lý được thể hiện trong tác phẩm thông qua các hình ảnh biểu
tượng:
2.2.1 Triết lý về tình yêu:
•
Tình yêu của chàng hoàng tử với đóa hồng kiêu sa:
Hầu như đóa hồng và câu chuyện tình yêu giữa hòang tử bé với nó là hình ảnh xuyên suốt
tác phẩm. Bởi vì đi đến đâu hòang tử cũng đều tưởng nhớ về đóa hoa bé nhỏ chốn quê nhà
của mình. Hoàng tử ở tinh cầu B612, nơi chỉ nhỏ bằng một căn nhà với ba ngọn núi lửa và
một bông hoa đẹp nhưng kiêu kỳ. Hoa yểu điệu, nũng nịu, đòi hỏi, như vai nữ chính trong
mối tình lãng mạn của một cuốn tiểu thuyết. Buổi sáng, hoàng tử chưa kịp tưới nước thì nó
đã kêu khát. Có chút gió thì nó kêu lạnh, lấy lồng kính che thì nó kêu nóng. Luôn luôn nó
than thở so bì là ngày xưa trước khi đến với hoàng tử nó đâu có khổ như thế: “ Nơi quê
tôi...” . Thường thì nó không nói hết câu, vì nhớ lại hoàng tử biết rõ gốc gác của nó. Từ khi
còn là cái nụ mới nhú, nó chỉ biết có tinh cầu này. Khi hạt giống bay tới thì nó chưa thành
hình, thậm chí chưa có cả linh hồn. Rồi quên đi, nó lại sẵn sàng than thở so bì trong một dịp
khác.
Hòang tử yêu bông hoa và đã ở bên lắng nghe, chăm sóc cho nó từng chút một nhưng cậu
không hiểu nổi tính đỏng đảnh của nó. Đến khi bối rối và mệt mỏi, cậu chọn cách rời xa đóa
hồng để khám phá thế giới và chính mình, nhưng cậu chờ mong được hoa giữ lại vì cậu vẫn
luôn quan tâm, lo lắng cho nó: “ …Còn cơn gió? …Còn những con thú vật? … ” . Tuy nhiên
đóa hồng đã buông tay, giục hòang tử nhanh chóng lên đường: “ Cũng đừng nấn ná lai rai
nữa làm chi. Con đường thôn lấm. Ngày dài chi mô. Hồ đồ mở môi kề cà, là đáng bực lắm.
Chàng đã quyết đi, thôi thì hãy đi cho trót ” . Nó trấn an bạn tình rằng chàng đi đi, thiếp biết
tự vệ, và nó khoe bốn cái gai xinh xắn của nó. “ Bởi vì nàng không muốn chàng nhìn thấy
nàng khóc” . Đó là một đoá hoa vô cùng kiêu hãnh.
14
Lúc gặp người phi công, hòang tử đã kể lại mối tình của mình ở tinh cầu B612 và những trải
nghiệm ở trái đất. Trước khi gặp Cáo, dù cậu vẫn luôn kiên trì, vững vàng với tình yêu dành
cho đóa hồng nhưng vẫn không tránh khỏi cảm giác hòai nghi, bối rối, mệt mỏi vì không
hiểu được nàng: “ Đáng lẽ ra thì tôi chả nên nghe cô ta làm chi, chả bao giờ nên nghe đóa
hoa nó nói. Chỉ nên nhìn hoa và hít mùi hương của hoa thôi ”. Rồi sau đó có thể thấy sự hối
hận, dằn vặt và những xung đột nội tâm trong lòng hòang tử: “ Đáng lẽ ra tôi chẳng nên bỏ
đi trốn. Đáng lẽ tôi phải đóan thấy tình ý yêu dấu của nàng ở phía sau những mánh khóe lai
rai kia mới phải. Hoa mang mâu thuẫn nhiều lắm ở trong mình! Nhưng xưa kia tôi còn nhỏ
quá, đâu có biết cách thương yêu đúng lối ”.
Câu chuyện nhớ lại trên đường phiêu du làm hoàng tử xót xa. Tới trái đất hoàng tử vẫn
không yên tâm, sợ một ngày kia cọp tới ăn mất bông hồng. Khi được trấn an rằng cọp không
ăn cỏ, hoàng tử bớt lo nhưng lại bực mình vì người phi công đã khi dễ bông hồng, gọi nó là
cỏ. Hoàng tử thương nhớ bông hồng. Từ sa mạc đêm nhìn lên bầu trời, hoàng tử ấm lòng vì
biết rằng trong những thiên thể vô vàn ấy, có tinh cầu của mình, một vì sao khiêm tốn nhưng
quý hơn cả trời sao bất tận vì có bông hồng mình yêu.
Đến lúc gặp vườn hoa có hàng vạn bông hồng, những bông hồng xinh đẹp thì đóa hồng bé
nhỏ ở chốn tinh cầu quê hương kia của hòang tử dường như đã trở nên lu mờ, cậu nghĩ: “ Ta
đã tưởng mình giàu sang vô hạn với một đóa hoa duy nhất, té ra mình chỉ có sở hữu một đóa
hoa hồng thông thường mà thôi ”. Cậu còn tự nhủ: “ Nàng ắt sẽ phật ý bực mình lắm, nếu
nhìn thấy cảnh này, nàng ắt sẽ húng hắng ho tràn lan ra một cách thật đồ sộ và sẽ giả bộ chết
đi để thóat khỏi lố bịch. Và ta ắt sẽ buộc lòng giả bộ chăm sóc nàng, bởi vì, nếu ta không
làm thế, ắt nàng sẽ tự để cho thân nàng chết thật sự, để mà làm nhục ta, cho ta xấu hổ một
phen…”. Hòang tử không hiểu những ẩn ý sau lời nói tưởng chừng như đầy kiêu hãnh của
đóa hồng, rằng “ nàng là cành thiên hương duy nhất trong chủng lọai của nàng ”. Vì thật ra
chẳng người con gái nào muốn nói với chàng trai yêu thương của mình rằng còn biết bao
cành thiên hương lộng lẫy ngòai kia để cho chàng ngày đêm suy tưởng và không còn dành
trọn vẹn tình cảm cho nàng nữa. Cuối cùng cậu cảm thấy những gì mình đang có thật nhỏ
nhoi, tầm thường biết là bao, và cậu bật khóc vì điều đó.
15
Qua tình yêu của hòang tử bé với đóa hồng, ta có thể thấy một triết lý giản đơn nhưng sâu
sắc. Con người bên nhau và hấp dẫn nhau vì những điều không nhìn rõ. Đến một thời điểm
nào đó, cũng xa nhau cũng vì những điều như thế. Càng lớn, người ta càng muốn giấu đi
những cảm xúc thật sự. Phải chăng vì tâm hồn là một thứ quá mong manh và dễ vỡ, nên
người ta không muốn thể hiện, bộc lộ hay chứng minh, chỉ có thể ẩn mình trong sự bao bọc
của lớp lá, sau những chiếc gai nhọn và đôi khi vô tình làm đau nhau như cách của đóa
hồng.
•
Cuộc trò chuyện với con Cáo:
Hoàng tử bé hoang mang, đau khổ vì phát hiện ra đóa hồng của mình không phải là duy
nhất, mà ở vùng đất cậu vừa đi qua này có đến cả một vườn hồng, đóa hoa nào cũng xinh
đẹp rạng rỡ như đóa hồng của cậu. Trong chính lúc đó thì con Cáo xuất hiện, hai nhân vật đã
có một cuộc trò chuyện đầy bất ngờ. Những quan niệm, triết lí về cuộc sống, về con người,
về sự tuần dưỡng, về vẻ đẹp đích thực của con Cáo đã khiến cậu Hoàng tử hiểu ra nhiều
điều và lấy lại tinh thần, tiếp tục niềm tin và tình yêu với đóa hồng của mình.
Đó là triết lí về sự tuần dưỡng. Mà như lời của con Cáo thì : “ Đó có nghĩa là tạo nên những
mối liên lạc...” “Nhưng nếu chú tuần thiện dưỡng ta, thì chúng ta sẽ cần tới nhau. Chú sẽ trở
nên duy nhất trong cõi đời, đối với ta. Ta sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với chú..."
Vậy sự “tần dưỡng” ấy chính là tạo nên những mối quan hệ, những liên kết về tình cảm,
cảm xúc của con người. Khiến cho con người ta trở nên gắng bó với nhau, tương cảm với
nhau và có sự quan tâm lo lắng cho nhau. Đây cũng là một dạng biểu hiện của tình yêu.
Chính những lí giải về sự “tuần dưỡng” ấy của con Cáo đã gợi lên trong lòng của Hoàng tử
bé những suy nghĩ về đóa hoa hồng của mình. “Có một đóa hoa...ta tưởng nàng đã tuần
dưỡng ta”. Lúc này, trong suy nghĩ của chàng Hoàng tử đang có sự dao động, Chàng luôn
nghĩ đóa hồng của mình là duy nhất, là tuyệt hảo. Thế nhưng trước sự xuất hiện của cả một
vườn hồng thì những suy nghĩ, những sự ngưỡng, sự tôn sùng của chàng dành cho bông hoa
của mình đã bị dao động. Không còn là cái duy nhất, không còn là cái tuyệt sắc, không còn
là đóa hồng kiêu ngạo trước vẻ đẹp của mình thì liệu đóa hồng của cháng sẽ ra sao?. “Nàng
16
ắt sẽ phật ý bực mình lắm, chàng tự nhủ, nếu nàng nhìn thấy cái cảnh này... nàng ắt sẽ húng
hắng ho tràn lan ra một cách thật đồ sộ và sẽ giả bộ chết đi để thoát khỏi lố bịch. Và ta ắt sẽ
phải buộc lòng giả bộ chăm sóc nàng, bởi vì, nếu ta không làm thế, ắt nàng sẽ tự để cho thân
nàng chết đi thật sự, để mà làm nhục ta, cho ta xấu hổ một phen..." rôi chàng thất vọng
trước sự tự tôn trước đây của mình: “Ta đã tưởng mình giàu sang vô hạn với một đóa hoa
duy nhất, té ra mình chỉ có sở hữu một đóa hồng thông thường mà thôi. Té ra hoa của mình
và ba ngọn hỏa sơn của mình sâu chỉ tới hai đầu gối của mình, và một ngọn thì có lẽ tắt
ngấm vĩnh viễn, té ra mọi cái đó không đủ khiến cho ta thành một vị hoàng tử lớn lao chi
cho lắm..."
Thế nhưng chàng Hoàng tử không biết rằng mình đang bị vẻ đẹp bên ngoài của vườn hồng
kia đánh lừa. Tình yêu không thể đồng hóa với sự tồn tại duy nhất, tình yêu không thể xuất
phát từ sự cảm nhận ở vẻ ngoài của sự vật. Mà tình yêu là sự cảm nhận từ bên trong, là cả
một quá trình “ tuần dưỡng” giữa hai vật thể để tạo nên sự liên kết và tương giao. Tình yêu
cần có những rung cảm xuất phát từ trái tim của con người, như việc hẹn hò mà con Cáo đã
hẹn với chàng hoàng tử “Tốt hơn là nên trở lại vào cái giờ của bữa trước, một giờ nhất định,
con chồn nói. Nếu chú đến, chả hạn, vào lúc bốn giờ chiều, thì khởi từ lúc ba giờ chiều, cõi
lòng ta đã bắt đầu sung sướng. Rồi giờ khắc càng tiến tới gần thêm, ta sẽ càng tăng thêm
sung sướng. Tới bốn giờ chiều thì, ha! ta loay hoay, e ngại, ta ngồi đứng không an; ta sẽ
khám phá được ý nghĩa vô ngần hắt hiu của phù du mênh mông hạnh phúc! Nhưng nếu chú
tới bất kể lúc nào, thì ta sẽ chẳng biết đâu vào đâu mà mò ra cho đúng cái giờ phải chuẩn bị
cho cái trái tim, cái phút phải vận y phục vào cho cái cõi lòng đón chào tươm tất... Cần phải
có những nghi thức mơ mộng, những điển lễ phôi pha." Và tình yêu thật sự cũng cần phải có
những xúc cảm luyến lưu khi chia cách, như : "A!", con chồn nói, "Ta sắp khóc mất rồi..."
"Đó là lỗi tại chú, ta không có ý đem lại khổ tâm cho chú, nhưng vì chú đã muốn rằng ta
tuần dưỡng thiện dụ chú..."
Sau cuộc trò chuyện với con Cáo, Chàng hoàng tử bé dường như đã hiểu ra mọi việc, chàng
không còn buồn khi nghĩ rằng đóa hồng của mình không còn là duy nhất. Bởi vì : "Hãy về
nhìn lại những đóa hồng đi. Chú hiểu rằng riêng cái đóa hồng của chú là đóa hoa duy nhất
17
trong cõi hồ sơn. Và suốt bình sinh của chú, bất cứ đi đâu, cách biệt nơi nào, chú vẫn đưa
tâm hồn hướng về ban sơ hồ sơn hồi tưởng mãi, đúng như lời thi sĩ xưa kia “Sa Mạc hồi
khan Thanh Cấm Nguyệt. Hồ Sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân..." Người xưa quả nhiên không
có nói dối ta đâu”. Chính cái sự thương yêu, chính những rung động dành cho đóa hồng của
chàng đã khiến nó trở nên đặc biệt và trở thành duy nhất trong lòng chàng. Hoàng tử bé
quay gót đi nhìn lại những nụ hồng:
"Các nàng không có gì giống đóa hồng của ta, các nàng hiện chẳng là cái gì ráo, chàng bảo
những đóa hồng như vậy. Chẳng có ai đã tuần dưỡng các nàng và các nàng cũng chẳng có
tuần dưỡng ai cả. Các nàng cũng như con chồn của ta trước đây. Trước đây nó chỉ là một
con chồn giống trăm nghìn con chồn khác. Nhưng ta đã biến nó nên bạn thiết của ta, và bây
giờ nó trở thành duy nhất trong cõi hồ sơn ứng mộng cho Sa Mạc trổ bông Vũ Lâm Xuân
hồi khan Thanh Cấm Nguyệt”. Và chàng tự tin khi nói với các đóa hồng rằng : "Các nàng
đẹp, nhưng các nàng trống rỗng ở bên trong", chàng còn nói thêm như thế. "Người ta không
thể vì các nàng mà chết đi trong ngậm ngùi tưởng niệm. Hẳn nhiên, đóa hồng của ta, một bộ
hành đi qua ắt tưởng là nó giống các nàng. Nhưng riêng nó, nó lại quan trọng hơn hết thảy
các nàng, bởi vì chính nó được ta tự tay tưới nước. Bởi vì chính nó đã được ta che giữ sau
một tấm bình phong. Bởi ví chính nó đã được ta bắt sâu, tỉa bọ (trừ một vài con để lại nhằm
những cánh bướm mai sau). Bởi vì chính nó đã được ta lắng tai nghe than van, hoặc nghe
tán hươu tán vượn diễm kiều tài tử, hoặc đôi lúc lại được nghe cả cái lặng im căm nín như
chiều Xuân vắng vẻ thanh hà. Bởi vì đó là đóa hồng của hồng ta tưởng nhớ."
Cuối cùng, hoàng tử chọn cách trở về với ngôi sao bé xíu của mình. Cậu nhận ra bông hoa
của mình thật đáng yêu. Nó đỏng đảnh vì muốn được cậu yêu thương, dỗ dành. Và trên thế
giới này, chỉ có mình nó là bông hoa đặc biệt nhất, bông hoa của riêng cậu. Đã đến lúc cậu
cần phải trở về, trở về để bảo vệ và yêu thương đóa hồng. Và trong suốt hành trình cuộc đời,
người ta cũng thường đi rất xa mới có thể nhận ra rằng những điều quý giá, thiêng liêng đều
ở rất gần mình.
Qua cuộc trò chuyện với con Cáo, Chàng hoàng tử bé, và cả chính người đọc đều được học
một bài học giá trị về tình yêu đích thực. Tình yêu ấy không thể bị vẻ ngoài xinh đẹp của
18
các sự vật khác chi phối, không thể vì thời gian trôi nhanh hay không gian chia cách mà mờ
nhạt. Chính những rung cảm ban đầu, những quan tâm lo lắng đã làm cho hai tâm hồn luôn
hướng về nhau, luôn trông đợi sự hội ngộ, và những cảm xúc ấy sẽ mãi luôn khiến ta nhớ về
nhau.
2.2.2
Triết lý nhân sinh từ những cuộc phiêu lưu qua các hành tinh:
Hành trình đi qua 6 hành tinh của Hoàng tử bé là một chuyến hành trình mang tính biểu
tượng. Chuyến hành trình ấy không phải là một chuyến tham quan mà là một chuyến đi của
sự trải nghiệm. Đi qua 6 hành tinh, hoàng tử bé đã gặp những loại người khác nhau, những
loại người ấy, ta có tên gọi chung là “người lớn”.
“Người lớn thật kỳ cục!”, Hoàng tử bé đã thốt lên như thế, nói như thế không phải có ý rằng
người lớn thật kỳ quặc, khác người, câu nói của hoàng tử bé có giá trị như một lời tuyên
ngôn, cho thấy mối quan hệ mâu thuẫn, xung đột giữa cái thuần khiết, đầy mộng mơ của trẻ
con và cái thực dụng, quá đỗi khô khan của người lớn. Dựa trên kết luận này, ta có thể suy
ra, 6 hành tinh mà hoàng tử bé đi qua đại diện cho một hoặc những phần tính cách của con
người.
Hành tinh của nhà vua toàn năng:
Hành tinh đầu tiên mà hoàng tử bé đến thăm là hành tinh của một vị vua, chỉ có mỗi một
nhà vua mặc áo đỏ tía đính long thú, ngồi trên một cái ngai vàng rất đỗi uy nghi mà thôi. Và
bới vì chỉ có một mình Ngài, nhà vua không có một thần dân nào cả. Tuy nhiên, khi hoàng
tử bé xuất hiện, người đã reo lên: “Ồ! Đây là một thần dân!” trong khi hoàng tử bé tự hỏi:
“Làm sao ông ta nhận ra được mình khi mà chưa gặp mình bao giờ nhỉ?”.
Ta có thể đặt ra câu hỏi: Vì sao trên một hành tinh chẳng có thần dân lại có một vị vua? Tại
sao lại là một vị vua chứ không phải một thường dân? Vì sao hoàng tử bé lại được nhà vua
xem là một thần dân của ngài?
Và nhà vua uy nghi ấy đã có một lý lẽ để giải thích cho câu hỏi trên: đối với mọi bậc đế
vương, tất cả mọi người đều là thần dân cả.
Thông qua câu chuyện, ta có thể nhận ra những chi tiết sau: hành tinh của nhà vua rất nhỏ(vì
nó đã bị cái áo choàng lộng lẫy của ngài choán hết chỗ); Ngài là một nhà vua chuyên quyền,
muốn mọi người phục tùng mình, hoặc “có vẻ” phục tùng mình(ngài liên tục ra lệnh cho
hoàng tử bé ngay cả những chuyện nhỏ nhặt nhất, cốt sao thể hiện được rằng “thần dân” của
ngài nghe lời ngài nhất nhất: “ta ra lệnh cho ngươi ngáp, ta ra lệnh cho ngươi ngừng ngáp, ta
ra lệnh cho ngươi lúc ngáp lúc không ngáp…); Ngài biết rằng, “quyền lực thì phải dựa trên
19
lẽ phải” nhưng chính ngài cũng đã lien tiếp đưa ra những mệnh lệnh kỳ quặc, không hợp với
lẽ phải chút nào.
Đi vào chi tiết, ta có thể nhận ra thông qua đoạn đối thoại rằng nhà vua tuy không xấu xa
nhưng lại nhu nhược và cô đơn, ngài biết “quyền lực thì phải dựa trên lẽ phải”, nhưng ngài
không thấu hiểu cái thuộc sở hữu và cách trị vì nó: Ngài cho rằng mình trị vì “trên tất cả”
với những hành tinh và cả những vì sao nhưng rõ ràng là ngài không thể ra lệnh cho mặt trời
lặn. Vậy, làm sao ngài có thể trị vì một cái gì đó nếu ngài không thể điều khiển chúng, ra
lệnh cho chúng?
Rõ ràng là nhà vua biết rằng mình không thể trị vì tất cả: ngài ngập ngừng khi hoàng tử bé
xin ngài được xem cảnh mặt trời lặn, nhưng niềm kiêu hãnh của một nhà vua không cho
phép ngài nói thế: “nhưng ta phải chờ đủ điều kiện”.
Triết lý được đưa ra ở đây là: Chỉ có bản thân chúng ta mới có thể nhìn thấu chúng ta nhất,
nhưng niềm kiêu hãnh đã đẩy lùi sự thấu hiểu ấy đi, biến chúng ta thành những kẻ bối rối
trước những điều chúng ta có thể và không thể, cái chúng ta sở hữu và không sở hữu, cái
chúng ta có thể chi phối và cái chúng ta không thể chi phối. Con người thà tự xây dựng
“thành trì” của mình, “vương quốc” của mình và co mình trong đó, còn hơn chấp nhận sự
bất lực trước thế giới bên ngoài.
Hành tinh của kẻ khoác lác:
Tinh cầu thứ hai là của một gã khoác lác, đối với kẻ khoác lác, những người còn lại đều
ngưỡng mộ mình. Gã bảo hoàng tử bé “vỗ tay này vào tay kia” để hắn cúi chào. Gã rõ ràng
không có gì đáng tự hào, và gã biết chắc điều đó(gã không khoe khoang về những điều gã
có, gã chỉ bảo hoàng tử bé vỗ tay như ra lệnh). Gã chuẩn bị sẵn một cái mũ để cúi chào
nhưng cũng nhận ra chẳng có ai ngang qua đây để mà tung hô gã. Rồi gã tự nhận rằng
hoàng tử bé khâm phục gã biết bao và tự định nghĩa sự khâm phục ấy.
Tóm lại, hình tượng gã khoác lác trên hành tinh này đại diện cho loại người tự huyễn hoặc
mình vào ảo tưởng của riêng họ, co mình vào ảo tưởng ấy và từ chối tiếp nhận những tác
động từ bên ngoài: “những kẻ khoác lác chỉ nghe thấy lời khen ngợi mà thôi”, “dẫu sao hãy
cứ khâm phục ta”.
Hành tinh của kẻ say rượu:
Hành tinh thứ ba hoàng tử bé ghé thăm là hành tinh của một kẻ say rượu, và hắn trong rất
buồn, khi hoàng tử bé hỏi vì sao, hắn bào rằng bới vì hắn say xỉn quá, và điều đó khiến hắn
buồn, vậy nên hắn lại say xìn. Đây là một kiểu biện hộ chối quanh, rõ rằng hắn không buồn
vì hắn say, cái làm cho hắn uống đến say mèm là vì ham muốn, hắn muốn thế.
20
Có thể nói, kẻ say rượu là đại diện cho phần tính cách ham muốn, những thói hư tất xấu của
con người, phần tính cách sa ngã của con người, hắn biết say xín là xấu, nhưng hắn vẫn tiếp
tục say xỉn, cũng như những thói hư tật xấu rõ rang là phải sửa nhưng người ta vẫn cứ lần
lữa chối quanh.
Triết lý được đưa ra ở hành tinh này là: Những thói hư tật xấu của con người không đến từ
những lý do khách quan bên ngoài mà phần lớn đến từ ham muốn, thói buông thả từ chính
bên trong con người.
Sự ra đi của hoàng tử bé chính là sự không thỏa hiệp giữa cái thuần khiết với những phần
tính cách xấu xa.
Điểm chung của các nhân vật hoàng tử bé đã gặp là họ đều biết vấn đề của chính mình,
nhưng họ từ chối đối mặt với nó. Đối với hoàng tử bé, như thế thật nhàm chán và kỳ quặc.
Triết lý rút ra: Biết được điểm yếu của mình chỉ mới là một phần trong việc hoàn thiện bản
thân, phải thẳng thắn nhìn nhận và sửa đổi nó mới là cách đúng đắn nhất.
Hành tinh của một nhà buôn:
Hành tinh thứ tư có một nhà buôn chỉ suốt ngày lẩm nhẩm đếm mọi thứ mà không quan tâm
đến bất cứ điều gì khác. Công việc quan trọng nhất và có vẻ đã chiếm hết thời gian của ông
ta là đếm những vì sao. Ông có những triết lý và nguyên tắc của riêng mình, ông co mình
trong thế giới riêng, tin rằng điều mình làm là đúng đắn và không tiếp nhận những cách suy
nghĩ nào khác từ bên ngoài. Đối với hoàng tử bé, đây là một cách sống quá đỗi nhàm chán
và kỳ lạ.
Cuộc đối thoại giữa nhà buôn và hoàng tử bé đưa đến cho chúng ta triết lý về cái vô hình và
cái hữu hình, hay nói cách khác là cái có thể sở hữu và cái không thể sở hữu. Song song đó,
một triết lý khác cũng được đưa ra dựa trên quan niệm về cái sở hữu.
Nói rõ hơn, cuộc đối thoại cho chúng ta thấy triết lý về sự khác biệt trong quan niệm về cái
sở hữu đưa đến sự khác biệt trong quan niệm về cái có thể sở hữu và cái không thể sở hữu.
Đối với nhà buôn, ông cho rằng những vì sao thuộc về mình: “thế thì chúng thuộc về ta,…”
- với lý giải: “bởi vì ta là người đầu tiên tính đến chuyện đó.”. Nhưng đối với hoàng tử bé,
ta có thể tuyên bố rằng ta sở hữu một cái gì đó chỉ là khi ta mang đến lợi ích nào đó cho vật
sở hữu ấy trong quá trình ta sở hữu nó: “tôi sở hữu một bông hoa mà ngày nào tôi cũng tưới.
Tôi sở hữu ba ngọn núi lửa ma ngày nào tôi cũng nạo vét…Mấy ngọn núi lửa của tôi được
lợi và bông hoa của tôi được lợi, chính là nhờ có tôi sở hữu chúng. Nhưng ông thì chẳng có
lợi
gì
cho
các
vì
sao…”.
Trong cuộc sống, con người luôn bị chi phối bởi thế giới vật chất xung quanh trong các mối
quan hệ phức tạp giữa người và người, giữa người và vạn vật với nhau trong vũ trụ. Các mối
21
quan hệ ấy chính là biểu hiện của những suy tư, những ước muốn về cuộc sống mà qua đó
con người tự tìm hạnh phúc riêng cho mình. Qua cuộc đối thoại giữa một ông nhà buôn và
hoàng tử bé, ta thấy được hình ảnh ông nhà buôn đại diện cho lòng tham, không có trí tuệ
của con người bởi ông nhà buôn chỉ biết sở hữu các vì sao bằng cách “viết trên một mảnh
giấy số lượng các vì sao, sau đó cất tờ giấy vào trong một ngăn kéo rồi khóa lại bằng chìa”
mà chẳng tạo ra được giá trị thực tiễn nào từ ước muốn sở hữu các vì sao của mình cả.
Không những thế ông còn phá vỡ mối quan hệ giữa ông và vạn vật vũ trụ, chỉ vì lòng tham
muốn đếm được hết các vì sao “để giàu có, để mua những sao khác”, ông “mua” trên cái
thấy hữu hạn của mình, cái số lượng mà ông đếm được, dường như ông xem chúng chỉ có
giá trị bằng số lượng; và dù ông không thể nắm bắt được nó, không thể biết được bản chất
thật của nó, không sử dụng được nó nhưng ông vẫn cho nó là của mình, là thuộc về mình.
Đây
là
bản
chất
thực
mà
ông
không
nhìn
thấy
được
nó.
Còn hoàng tử bé đại diện cho sự thật về cái được xem là vật sở hữu, là chủ nhân của sự sở
hữu trong đời sống của con người. Hoàng tử bé đã nhìn những sự vật hiện hữu trên cuộc đời
bằng chính trái tim trong sáng, thuần khiết của cậu để rồi cho chúng ta thấy được chúng
hiện hữu trên cuộc đời với chính bản chất giá trị của chúng chẳng hạn như “nếu tôi sở hữu
một cái khăn, tôi có thể quàng quanh cổ và mang nó theo. Và nếu tôi sở hữu một bông hoa,
tôi có thể hái bông hoa và mang nó đi” hay “tôi sở hữu một hoa mà ngày nào tôi cũng
tưới…”.
Hành tinh của người thắp đèn:
Người thắp đèn dù thực hiện một công việc rất đỗi bình thường là thắp sáng cây đèn đường,
thế nhưng khi thực hiện công việc ấy thì người thắp đèn lại làm với một tinh thần hết sức
trách nhiệm, sẵn sàng hy sinh thời gian nghỉ ngơi của mình chỉ để vì hoàn thành công việc
quen thuộc mà không chút phiền muộn. Còn hoàng tử bé khi đi qua hành tinh nào cũng có
những cuộc đối thoại thú vị mà qua đó hiện thực cuộc sống được hiện lên ngày một rõ nét
hơn.
Bạn có nghe đến một loại người trong xã hội được các nhân vật các trong truyện kiếm hiệp
của Kim Dung nhắc đến không? Đó là hạng người “hữu dũng vô mưu”. “Hữu dũng vô
mưu” được nói để chỉ cho một hạng người chỉ biết dùng sức lực của mình một cách vô điều
kiện mà không biết suy lường thiệt hơn khi sử dụng chúng. Và với người thắp đèn trong
hành tinh “hết sức lạ lẫm”này, có thể nói ông là hình ảnh đại diện cho một kiểu người như
thế trong xã hội hiện đại. Bởi lẽ, tuy ông làm việc hết lòng, không mưu toan, tính toán thiệt
hơn, quên mình hoàn thành tốt công việc của mình nhưng ông lại không biết sắp xếp công
việc, thời gian, sức lực của mình một cách hợp lý. Ông không lên kế hoạch cho công việc,
chỉ biết chấp nhận “mệnh lệnh” một cách vô điều kiện. Điều này được thể hiện rõ khi hoàng
tử bé vạch cho ông một kế hoạch thật cụ thể giúp ông có thời gian để nghỉ ngơi nhưng ông
22
lại từ chối và nói lên ước muốn của mình “đời tôi chỉ muốn ngủ thôi”. Rõ ràng rằng trong
sâu thẳm trái tim ông, ông chỉ muốn được ngủ nhưng vì chấp vào cái được gọi là “mệnh
lệnh” mà ông bất chấp mọi thứ, kể cả bản thân, vùi mình vào công việc, dù rằng phải công
nhận một điều là “có ông ấy mới không lố bịch. Điều đó hẳn là bởi ông ấy lo nghĩ cho một
điều gì khác ngoài bản thân mình” như hoàng tử bé đã nghĩ về ông.
Hành tinh của người nhà địa lý:
Trên hành tinh này, có một ông già tự xưng mình là một nhà địa lý nhưng ông chẳng biết
được những biển, núi, các thành phố, sông ngòi và sa mạc đâu cả bởi vì ông không phải là
nhà thám hiểm. Ông quan niệm rằng “nhà địa lý là người quan trọng nên không đi rong
làm gì”. Ông chỉ làm mỗi một việc đón tiếp các nhà thám hiểm, hỏi han bọn họ rồi ghi chép
lại theo lời họ kể mà ông cho là hợp lý và đó là khám phá mới.
Câu chuyện giữa nhà địa lý và hoàng tử bé không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa người
lớn và trẻ con mà đó còn là biểu tượng cho những mối quan hệ giữa các tầng lớp trong xã
hội; giữa những người nắm trong tay quyền lực, địa vị xã hội và những người lao động bình
thường. Bởi lẽ mối quan hệ ấy còn được thông qua những mối quan hệ trung gian, không
trực tiếp làm việc với nhau, không trực tiếp thị sát dân tình cho nên những việc bất đồng
thường xảy ra không phải là chuyện lạ như cách mà nhà địa lý đã làm đối với việc nghiên
cứu của mình.
Khi nhà địa lý yêu cầu hoàng tử bé kể về hành tinh của mình để ghi chép, thì hoàng tử bảo
rằng nó rất bé, chỉ có ba núi lửa và một bông hoa. Tuy nhiên, nhà địa lý lại không muốn ghi
chép về bông hoa, bởi nó là thứ phù du. Ông lý giải điều này rằng “núi lửa tắt hay phun lại
với chúng ta đều như nhau cả. Điều quan trọng với chúng ta là bản thân quả núi kia”, tức
là ông chỉ muốn ghi chép những gì có tính chất vĩnh cửu, ít thay đổi, và chẳng bao giờ lỗi
thời. Với ông điều này mới làm nên giá trị nghiên cứu của một nhà địa lý.
Bông hoa của hoàng tử bé dù rất mong manh, nhưng tự thân nó được bảo bọc bởi bốn cái
gai để tự vệ. Đó chính là bản lĩnh sống tự bảo vệ mình để tồn tại ngay trong cái phù du của
chính cuộc đời nó. Điều này cho ta thấy rằng một sự vật tuy nhỏ bé nhưng luôn biết cách tự
giữ gìn những giá trị của nó để sống hòa nhập với cuộc đời.
•
Triết lý về sự lãnh đạo tập thể
Đây là hành tinh đầu tiên mà hoàng tử bé đến thăm, trên hành tinh này, chỉ có mỗi một nhà
vua mặc áo đỏ tía đính long thú, ngồi trên một cái ngai vàng rất đỗi uy nghi. Nhà vua không
có thần dân nhưng khi hoàng tử bé xuất hiện, người đã reo lên: “Ồ! Đây là một thần dân!”
trong khi hoàng tử bé tự hỏi: “Làm sao ông ta nhận ra được mình khi mà chưa gặp mình bao
giờ nhỉ?”.
23
Câu hỏi được đặt ra ở đây: Vì sao trên một hành tinh chẳng có thần dân lại có một vị vua?
Vì sao hoàng tử bé lại được nhà vua xem là một thần dân của ngài?(Câu hỏi mà, đã được lý
giải rằng: đối với các bậc đề vương, tất cả mọi người đều là thần dân).
Thông qua câu chuyện, ta có thể nhận ra những chi tiết sau: hành tinh của nhà vua rất nhỏ(vì
nó đã bị cái áo choàng lộng lẫy của ngài choán hết chỗ); Ngài là một nhà vua chuyên quyền,
muốn mọi người phục tùng mình, hoặc “có vẻ” phục tùng mình(ngài liên tục ra lệnh cho
hoàng tử bé ngay cả những chuyện nhỏ nhặt nhất, cốt sao thể hiện được rằng “thần dân” của
ngài nghe lời ngài nhất nhất: “ta ra lệnh cho ngươi ngáp, ta ra lệnh cho ngươi ngừng ngáp, ta
ra lệnh cho ngươi lúc ngáp lúc không ngáp…”, nhưng đồng thời ngài cũng là một nhà vua
tốt bụng và thấu hiểu: “Quyền lực thì phải dựa trên lẽ phải.”
Đi vào chi tiết, ta có thể nhận ra thông qua đoạn đối thoại rằng nhà vua tuy tốt bụng nhưng
cũng nhu nhược và cô đơn, ngài biết “quyền lực thì phải dựa trên lẽ phải”, nhưng ngài
không thấu hiểu cái thuộc sở hữu và cách trị vì nó: Ngài cho rằng mình trị vì “trên tất cả”
với những hành tinh và cả những vì sao nhưng rõ ràng là ngài không thể ra lệnh cho mặt trời
lặn. Vậy, làm sao ngài có thể trị vì một cái gì đó nếu ngài không thể điều khiển chúng, ra
lệnh cho chúng?
Rõ ràng là nhà vua biết rằng mình không thể trị vì tất cả: ngài ngập ngừng khi hoàng tử bé
xin ngài được xem cảnh mặt trời lặn, nhưng niềm kiêu hãnh của một nhà vua không cho
phép ngài nói thế: “nhưng ta phải chờ đủ điều kiện”.
•
Hành tinh của kẻ khoác lác và triết lý về sự khiêm tốn
Tinh cầu thứ hai là của một gã khoác lác, đối với kẻ khoác lác, những người còn lại đều
ngưỡng mộ mình. Gã bảo hoàng tử bé “vỗ tay này vào tay kia” để hắn cúi chào. Gã rõ ràng
không có gì đáng tự hào, và gã biết chắc điều đó(gã không khoe khoang về những điều gã
có, gã chỉ bảo hoàng tử bé vỗ tay như ra lệnh). Gã chuẩn bị sẵn một cái mũ để cúi chào
nhưng cũng nhận ra chẳng có ai ngang qua đây để mà tung hô gã. Rồi gã tự nhận rằng
hoàng tử bé khâm phục gã biết bao và tự định nghĩa sự khâm phục ấy.
Tóm lại, hình tượng gã khoác lác trên hành tinh này đại diện cho loại người tự huyễn hoặc
mình vào áo tưởng của riêng họ, co mình vào ảo tưởng ấy và từ chối tiếp nhận những tác
24
động từ bên ngoài: “những kẻ khoác lác chỉ nghe thấy lời khen ngợi mà thôi”, “dẫu sao hãy
cứ khâm phục ta”.
Nếu không học được sự khiêm tốn, con người sẽ mãi mãi cô đơn.
•
Triết lý về sự sa ngã của con người
Hành tinh tiếp theo có một tay bợm nhậu. Đây là một chuyến viếng thăm rất ngắn, tay bợm
nhậu rõ rang trông rất buồn nhưng không ngừng biện hộ cho lý do vì sao mình lại nhậu(một
kiểu biện hộ lòng vòng không có hồi kết: Vì buồn, muốn quên nên nhậu , nhậu xong lại
buồn…).
Có thể, tay bợm nhậu đại diện cho phần tính cách sa ngã của con người, phần tính cách biết
rõ nó sai trái nhưng không ngừng biện hộ cho sự tồn tại của chính nó.
Sự ra đi của hoàng tử bé chính là sự không thỏa hiệp giữa cái thuần khiết với những phần
tính cách không lương thiện. Điểm chung của các nhân vật hoàng tử bé đã gặp là họ đều biết
vấn đề của chính mình, nhưng họ từ chối đối mặt với nó. Đối với hoàng tử bé, như thế thật
nhàm chán và kỳ quặc.
Triết lý rút ra ở đây chính là: Biết được điểm yếu của mình chỉ mới là một phần trong việc
hoàn thiện bản thân, phải thẳng thắn nhìn nhận và sửa đổi nó mới là cách đúng đắn nhất.
Cuộc phiêu lưu của hoàng tử bé cũng chính là cuộc phiêu lưu trên đường đời của mỗi con
người chúng ta. Đó là cuộc phiêu lưu đi tìm cái mới, đi tìm cái chân của hạnh phúc con
người. Hoàng tử bé chính là đại diện trong sáng nhất, của cái chân thật nhất trong bản thân
mỗi con người.
Trong chuyến phiêu lưu của hoàng tử bé, mỗi hành tinh mà cậu đi qua đều được hiện lên
như một cá thể riêng biệt với những cá tính khác nhau. Và mỗi hành tinh ấy cùng tồn tại
trong thế giới vũ trụ bao la rộng lớn như những con người cá nhân cùng chung sống trong
một cộng đồng, có sự tương tác lẫn nhau tạo nên nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp đa
chiều. Những cuộc đối thoại của những con người sống trên các hành tinh đó với hoàng tử
bé càng bộc lộ rõ nét hơn những mối quan hệ, cũng như cách nhìn giữa những con người
với nhau và giữa con người với vạn vật xung quanh.
25