Kê Khai Thuế Thu Nhập Doanh
Nghiệp
Chương 1. Cơ sở lý luận về chi phí được trừ và chi phí không được trừ khi
xác định thu nhập chịu thuế (theo quy định của Luật Thuế Thu Nhập Doanh
Nghiệp (TNDN) hiện hành)
A. Khái niệm:
I.
Chi phí được trừ theo quy định của luật thuế TNDN hiện hành:
Trừ các khoản chi không được trừ, doanh nghiệp (DN) được trừ mọi khoản chi
nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp.
Khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định.
Khoản chi nếu có hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20
triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có
chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.
• Trường hợp mua hàng hóa, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng
trở lên ghi trên hóa đơn mà đến thời điểm ghi nhận chi phí, DN chưa
thanh toán và chưa có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì DN
được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
• Trường hợp khi thanh toán, DN không có chứng từ thanh toán không
dùng tiền mặt thì DN phải kê khai, điều chỉnh giảm chi phí đối với
phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán không
dùng tiền mặt vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt.
II.
Chi phí không được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp
1. Khoản chi không đáp ứng đủ các điều kiện trên (điều kiện về chi phí đươc
trừ), trừ phần giá trị tổn thất trong những trường hợp bất khả kháng và không
được bồi thường
Cần nộp hồ sơ xác định cụ thể để được trừ (TT 96/2015/TT-BTC).
2. Chi khấu hao tài sản cố định (TSCĐ)
Khoản chi không sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ; không có giấy tờ chứng minh tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp; khoản chi không được quản lý, hạch toán trong sổ sách; chi khấu hao
vượt mức quy định; khấu hao đối với TSCĐ đã khấu hao hết giá trị; quyền sử
dụng đất lâu dài…
Mới:
TSCĐ của DN phục vụ cho người lao động và để tổ chức hoạt động giáo dục
nghề nghiệp được tính vào chi phí được trừ bao gồm: thư viện, nhà trẻ, khu
thể thao và các thiết bị, nội thất đủ điều kiện là TSCĐ lắp đặt trong các công
trình phục vụ cho người lao động làm việc tại DN; cơ sở vật chất, máy, thiết bị
là TSCĐ dùng để tổ chức hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Khoản trích khấu hao tài sản cố định không đúng quy định của pháp luật
Đối với công cụ dụng cụ phân bổ quá 2 năm sẽ bị loại ra khỏi chi phí
được trừ.
Đối với ô tô trên 1,6 tỷ (dưới 9 chỗ ngồi): Doanh nghiệp không kinh doanh
vận tải, du lịch, khách sạn thì phần khấu hao vượt trên 1,6 tỷ sẽ không
được trừ.
3. Chi mua nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa:
Đối với phần chi vượt định mức tiêu hao đối với một số nguyên liệu, vật liệu,
nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa đã được Nhà nước ban hành định mức sẽ
không được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
4. Chi trả tiền thuê tài sản của cá nhân nếu không có đầy đủ hồ sơ, chứng từ
thuê tài sản.
5. Chi tiền lương, tiền công, tiền thưởng, trợ cấp và các khoản phải trả khác
cho người lao động trong các trường hợp: đã hạch toán vào chi phí sản xuất
kinh doanh (SXKD) trong kỳ nhưng thực tế không chi trả; những khoản
không được quy định cụ thể hoặc không có chứng từ thanh toán; tiền lương,
tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN), chủ công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) một thành viên, các sáng lập viên, thành viên hội đồng quản
trị (HĐQT) mà những người này không trực tiếp tham gia điều hành SXKD.
Mới:
- Không được tính vào chi phí được trừ đối với chi mua bảo hiểm nhân thọ
cho người lao động không được ghi cụ thể điều kiện được hưởng và mức
được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động; Thoả ước lao
động tập thể; Quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty, Tập đoàn; Quy
chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc quy
-
định theo quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty.
Trường hợp doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng với doanh nghiệp nước
ngoài trong đó nêu rõ doanh nghiệp Việt Nam phải chịu các chi phí về chỗ
ở cho các chuyên gia nước ngoài trong thời gian công tác ở Việt Nam thì
tiền thuê nhà cho các chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam do
doanh nghiệp Việt Nam chi trả được tính vào chi phí đƣợc trừ khi xác định
thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
6. Phần chi trang phục bằng hiện vật cho người lao động không có hoá đơn,
chứng từ. Phần chi bằng tiền cho người lao động vượt quá 05 triệu
đồng/người/năm.
7. Phần trích nộp các quỹ bảo hiểm bắt buộc hoặc kinh phí công đoàn
(KPCĐ) cho người lao động vượt mức quy định; Phần chi vượt quá 1 triệu
đồng/người/tháng để nộp quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ an sinh xã hội, mua bảo
8.
hiểm hưu trí tự nguyện cho người lao động.
Chi phụ cấp cho người lao động đi công tác: Bỏ mức khống chế đối với
khoản chi phụ cấp cho ngƣời lao động đi công tác, doanh nghiệp được tính
vào chi phí được trừ nếu có hóa đơn, chứng từ theo quy định. Trường hợp
doanh nghiệp có khoán phụ cấp cho ngƣời lao động đi công tác và thực hiện
đúng theo quy chế tài chính hoặc quy chế nội bộ của doanh nghiệp thì được
tính vào chi phí được trừ khoản chi khoán.
9. Chi đóng góp hình thành nguồn chi phí quản lý cấp trên.
10. Chi đóng góp vào các quỹ của các Hiệp hội quá mức quy định.
11. Phần chi phí thuê TSCĐ vượt quá mức phân bổ theo số năm mà bên đi thuê
trả tiền trước.
12. Phần chi phí trả lãi tiền vay vốn sản xuất kinh doanh của đối tượng không
phải là tổ chức tín dụng vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà Nước (NHNN) công bố tại thời điểm vay.
13. Chi trả lãi tiền vay để góp vốn điều lệ.
Trường hợp DN đã góp đủ vốn điều lệ, trong quá trình kinh doanh có khoản
chi trả lãi tiền vay để đầu tư vào DN khác thì khoản chi này được tính vào chi
phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
14. Các khoản chi phí trích trước theo kỳ hạn mà đến kỳ hạn chưa chi hoặc chi
không hết.
15. Trích, lập và sử dụng các khoản dự phòng không đúng hướng dẫn của Bộ Tài
chính.
16. Lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc
ngoại tệ cuối kỳ tính thuế.
17. Chi tài trợ cho y tế, giáo dục (bao gồm cả chi tài trợ cho hoạt động giáo dục
nghề nghiệp), nghiên cứu khoa học, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, nhà
tình thương… không đúng đối tượng quy định hoặc không có hồ sơ xác nhận
tài trợ.
18. Phần chi phí quản lý kinh doanh do công ty nƣớc ngoài phân bổ cho cơ sở
thường trú tại Việt Nam vượt mức tính toán theo công thức phân bổ.
19. Các khoản chi được bù đắp bằng nguồn kinh phí khác.
20. Phần chi phí liên quan đến việc thuê quản lý đối với hoạt động kinh doanh trò
chơi điện tử có thưởng, kinh doanh casino vượt quá 4% doanh thu từ các hoạt
động này.
21. Chi về đầu tư xây dựng cơ bản trong giai đoạn đầu tư hình thành TSCĐ.
22. Các khoản chi có liên quan trực tiếp đến việc tăng, giảm vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp: phát hành cổ phiếu, cổ tức…
23. Các khoản tiền phạt về vi phạm hành chính bao gồm: vi phạm luật giao
thông, vi phạm chế độ đăng ký kinh doanh, vi phạm chế độ kế toán thống kê,
vi phạm pháp luật về thuế và các khoản phạt về vi phạm hành chính khác theo
quy định của pháp luật.
24. Thuế GTGT đầu vào đã được khấu trừ hoặc hoàn thuế; thuế TNDN, thuế thu
nhập cá nhân (TNCN) trừ trường hợp doanh nghiệp ký hợp đồng lao động quy
định tiền lương trả cho người lao động không bao gồm thuế TNCN.
B. Đánh giá:
Do sự khác biệt giữa những khoản chi phí hợp lý được khấu trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế và chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo
chuẩn mực kế toán thì được hạch toán vào chi phí, còn theo luật thuế TNDN thì
không được đưa vào chí phí để tính thu nhập tính thuế, có thể điểm qua một số
trường hợp như sau:
-
Về Chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ)
Theo qui định của luật thuế TNDN thì phần trích khấu hao tương ứng với phần
nguyên giá vượt trên 1,6 tỷ đồng/xe đối với ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở
xuống không được hạch toán vào chi phí . Trong thực tế có rất nhiều doanh
nghiệp đã đầu tư xe ô tô con dưới 9 chổ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Theo chuẩn mực kế toán thì tài sản này vẫn được trích khấu hao đưa vào
chi phí theo nguyên giá TSCĐ.
-
Chi phí trả lãi tiền vay:
Phần chi phí trả lãi tiền vay vốn sản xuất kinh doanh của đối tượng không phải là tổ
chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay. Trong thực tế các doanh nghiệp chỉ
vay ở các tổ chức tín dụng và còn vay ngoài hệ thống tổ chức tín dụng với mức lãi
suất vượt xa 150% lãi suất cơ bản, theo chuẩn mực kế toán thì lãi tiền vay này được
hạch toán.
- Các khoản chi phí phát sinh nhưng không có hóa đơn hợp pháp
Có những khoản chi phí thực tế phát sinh nhưng không có hóa đơn hợp pháp (thường
doanh nghiệp sử dụng hóa đơn bán lẽ cho những khoản chi phí thấp để làm chứng từ
hạch toán). Theo qui định của luật thuế TNDN thì những khoản chi phí này không
được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, nhưng những chi phí này liên quan
đến việc tạo ra doanh thu tính thuế trong năm nên theo chuẩn mực kế toán vẫn được
hạch toán vào chi phí.
-
Chi phí chi vượt quá qui định của luật thuế TNDN
Trong quá trình họat động kinh doanh, nhất là những công ty mới thành lập thường
có nhiều chi phí phát sinh như chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi
giới; chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ trợ tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết
khấu thanh toán;… phần chi phí này luật thuế khống chế 10% tổng số chi được trừ,
và 15% tổng số chi được trừ đối với công ty mới thành lập.
Khấu hao nhanh vượt quá qui định của luật thuế TNDN. Doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả kinh tế cao được trích khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức
khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công
nghệ.
Các khoản chi phí tiền lương, tiền công, tiền thưởng, các khoản chi khác chi cho
người lao động nhưng không ghi cụ thể Hợp đồng lao động; Thoả ước lao động tập
thể; Quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty, Tập đoàn; Quy chế thưởng do Chủ
tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc quy định theo quy chế tài chính
của Công ty, Tổng công ty. Nhưng trong thực tế có phát sinh nhằm kích thích nâng
cao hiệu quả sản xuất.
CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC GIAN LẬN THUỂ
Gian lận thuế là “hành vi gian lận của các tổ chức và cá nhân được thực hiện trong lĩnh
vực thuế, trong đó tồn tại sự cố ý làm sai lệch nghĩa vụ thuế nhằm làm giảm số thuế phải
nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn”.
Nguyên nhân của hành vi gian lận thuế TNDN
Chính sách còn nhiều bất cập ,chưa đồng bộ, còn chồng chéo chưa phù hợp với hiện tại
nền kinh tế.Luật còn ban hành nhiều gây khó khăn cho dnah nghiệp và quản lí
Nguồn thuế từ các doanh nghiệp là rất lớn nhưng có thể cho thấy việc thành lập công ty,
doanh nghiệp theo các điều khoản của Luật thương mại là rất dễ dàng. Việc nắm bắt hoạt
động của cac công ty còn ất lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ cụ thể. Sự phối hợp giữa cơ quan
thuế và cơ quan quản lí nhà nước còn nhiều bất cập tạo nhiều khe hở tạo điều kiện cho
việc thành lập các công ty ma
Cơ chế thanh toán giao dịch còn chưa bắt buộc thông qua ngân hàng do vậy khó có thể
kiểm soát các hoạt động có xảy a trên thực tế hay chỉ thông qua giấy tờ
Việc quy định trách nghiệm về đăng kí thông tin, tài liệu trong luật quản lí thuế nhưng
tong quá trình hoạt động lại không cung cấp khi cơ quan thuế yêu cầu mới cung cấp
Công tác điều tra giám sát còn lỏng lẻo, xử lí vi phạm còn chưa nghiêm khắc quyết liệt.
Việc xác địnhmột chủ thể vi phạm số tiền thuê bao nhiêu là một khó khăn lớn.
Công chúng chưa có ý thức sử dụng hóa đơn thanh toán khi tham gia giao dịch kinh
tế.Việc lấy hóa đơn gần như không hình thành. Đây là sự yếu kém trong nhận thức của
công chúng
Nền kinh tế nước ta chưa phải là nền kinh tế hiện đại các giao dịch kinh doanh chưa thực
hiện bằng công nghệ cao còn phụ thuộc vào tiền mặt. Điều này tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp to các bộ hồ sơ thanh toán giả mạo, không thực hiện đầy đủ chế độ hóa
đơn , chứng từ
Các doanh nghiệp tư nhân ít quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân
Trình độ dân trí thấp, trình độ cán bộ nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế và nhất là sự
buông lỏng quan lí nhà nước.
Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì chỉ khi doanh nghiệp phát sinh lãi mới phải
đóng thuế TNDN. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp làm ăn gian dối,tìm mọi cách hạch toán
khống, tăng chi phí để báo cáo quyết toán không có lời nhằm trốn thuế TNDN
2.1.1 Hình thức gian lận hàng hóa nội địa:
Hình thức chuyển giá:
Chuyển giá được hiểu là "việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài
sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị
trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu”.
Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ
thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do vậy, họ hoàn toàn
có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp
luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp
luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi
những điều luật về định giá chuyển giao.
Động cơ của hành vi chuyển giá, không gì khác, chính là lợi nhuận của hoạt động kinh
doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của
các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa
vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết
cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại.
Ví dụ:
Công ty Đại Dương và công ty Minh Hiếu đều là công ty con của tập đoàn Hoa Sen.
Công ty Đại Dương kinh doanh tại Hà Nội áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp 25%. Công ty Minh Hiếu kinh doanh tại Tuyên Quang là địa bàn kinh tế - xã hội
khó khăn nên được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Khi Đại
Dương cung cấp vật tư cho Minh Hiếu với giá thấp hơn giá thị trường giao dịch sòng
phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của Đại Dương giảm đi,
còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của Minh Hiếu tăng lên tương ứng. Phần
lợi nhuận tăng lên ở công ty Minh Hiếu chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với
thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty Đại
Dương và phải chịu thuế suất 25%. Như vậy, nếu xét riêng biệt thì công ty Đại Dương
thiệt, còn công ty Minh Hiếu được lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả
hai công ty đã giảm đi.
Bỏ ngoài sổ sách kế toán
Đây là thủ đoạn khá phổ biến hiện nay. Theo đó, người nộp thuế thường sử dụng đồng
thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống sổ kế toán nội bộ phản ánh đầy đủ các
giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ phản ánh một phần các giao dịch kinh tế để
khai thuế. Kiểu hành vi này thường xảy ra ở các doanh nghiệp (DN) dân doanh hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, ăn uống, khách sạn, xây dựng dân dụng và sản xuất
nhỏ. Đây chính là một kiểu hoạt động kinh tế ngầm mà môi trường thuận lợi của nó là
nền kinh tế tiền mặt. Rất khó có thể xác định được số thuế thất thu do hành vi trốn thuế
này gây ra vì nếu xác định được thì đã không xảy ra thất thu thuế.
Một số vụ trốn thuế bị phanh phui thời gian qua cho thấy hành vi này khá phổ biến và
gây thất thu ngân sách. Chẳng hạn, Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) thông tin tín
nhiệm và xếp hạng DN Việt Nam đã trốn thuế 1.028 triệu đồng qua hành vi không ghi sổ
kế toán tiền bán quyền mua căn hộ; Công ty Viễn thông điện lực bán hàng không xuất
hóa đơn, không phản ánh vào sổ kế toán để trốn thuế 37 tỷ đồng.
Tạo giao dịch bán hàng giả mạo
Mục tiêu của thủ đoạn này là chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước (NSNN) thông qua
hoàn thuế hoặc tiếp tay cho hành vi tham nhũng NSNN của một bộ phận công chức được
giao nhiệm vụ mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước. Thủ đoạn này
cũng liên quan đến hành vi giao dịch mua hàng giả mạo sẽ phân tích dưới đây nhằm giúp
cho bên mua tăng thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào được khấu trừ và giảm chi phí
tính thuế thu nhập DN.
Điển hình cho thủ đoạn này là hành vi xuất khẩu khống nhằm chiếm đoạt tiền qua hoàn
thuế GTGT từ NSNN. Xuất khẩu khống chủ yếu diễn ra đối với phương thức xuất khẩu
tiểu ngạch qua biên giới. Dạng gian lận này đã có một thời bị ngăn chặn đấu tranh quyết
liệt nên giảm bớt nhưng trong vài năm gần đây lại có xu hướng bùng phát với những hình
thức tinh vi hơn, đặc biệt có dấu hiệu trầm trọng là ở các tỉnh giáp ranh Campuchia. Lợi
dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt để quay vòng hàng hóa: Sau khi làm thủ tục xuất
khẩu sang nước bạn thì lại đưa hàng hóa quay trở lại Việt Nam không qua cửa khẩu, rồi
sau đó lại làm thủ tục xuất khẩu. Trong trường hợp này, các đối tượng cấu kết với đối tác
nước ngoài để hoàn tất các thủ tục để đủ điều kiện đề nghị hoàn thuế GTGT. Cùng với
đó, các đối tượng này cũng áp dụng chiêu thức mua hóa đơn để hợp thức hóa thuế GTGT
đầu vào và chi phí tính thuế thu nhập DN. Không phải ngẫu nhiên mà kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Campuchia tăng nhanh đáng ngờ, kèm theo đó, số tiền
hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu sang Campuchia cũng tăng nhanh chóng:
Năm 2011 tăng 196,4% so với năm 2010, năm 2012 tăng 190% so với năm 2011.
Ngoài xuất khẩu khống, giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ giả mạo còn được thực hiện chủ
yếu thông qua các hợp đồng bán hàng khống; các hợp đồng cung cấp dịch vụ khống và
xuất hóa đơn khống. Hành vi này được thực hiện ở cả DN “ma” và cả ở các DN đang
hoạt động kinh doanh bình thường.
Tạo giao dịch mua hàng giả mạo
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng 10.000 mẫu
hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai
khoảng 53%, giảm thuế khoảng 7,4%.
Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế DN không có khoản chi này
nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì thế có thể gọi
đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký
giả, hợp đồng lao động giả mạo (có trường hợp tên người lao động không có thật; có
trường hợp tên người lao động là có thật nhưng thực sự không làm việc cho DN đó) và
thể hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh doanh khác. Bằng hành vi này, DN
không chỉ trốn thuế thu nhập DN mà còn trốn cả thuế GTGT thông qua việc khấu trừ
khống thuế GTGT đầu vào. Đối với những hóa đơn đi mua, để phát hiện, cơ quan thuế
phải làm tốt công tác đối chiếu, xác minh. Thực tế thời gian qua, thông qua công tác đối
chiếu hóa đơn, cơ quan thuế các địa phương đã phát hiện khá nhiều trường hợp gian lận.
Chẳng hạn, năm 2012, Cục Thuế Hà Nội đã gửi 10.200 phiếu xác minh hóa đơn, gồm
28.444 số; kết quả trả lời xác minh 7.570 phiếu, chiếm 74,21% số phiếu gửi đi. Qua xác
minh hóa đơn và thanh tra, kiểm tra, phát hiện 786 hóa đơn vi phạm, truy thu thuế GTGT
là 1.198 triệu đồng, thuế thu nhập DN là 1.658 triệu đồng và xử phạt hành vi trốn thuế
646 triệu đồng, xử phạt hành chính 369 triệu đồng”. Tuy nhiên, với công nghệ đối chiếu
hóa đơn thủ công như hiện nay thì hiệu quả còn rất thấp, bởi vì tỷ lệ hóa đơn có thể đối
chiếu so với số hóa đơn cần đối chiếu là quá nhỏ. Hơn nữa, trong trường hợp DN bán hóa
đơn sử dụng hóa đơn của những khách hàng không lấy để bán cho những người có nhu
cầu mua hóa đơn thì việc đối chiếu cũng không đem lại kết quả.
Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với thủ đoạn thành lập
DN “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả mạo không chỉ thực hiện thông qua hành
vi mua hóa đơn, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết. DN “ma” là DN được thành
lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế không sản xuất kinh doanh, chỉ
nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối
tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn
thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn trôi nổi này gây ra là không thể kiểm soát được,
bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số chi phí đầu vào cần hợp thức hoá của DN mua bán
hoá đơn.
Hiện nay, hình thức gian lận này càng được tổ chức tinh vi hơn và có hệ thống, tuy nhiên
có một số đặc điểm mang tính định vị như: Các DN “ma” thường thành lập dưới dạng
công ty TNHH hay DN tư nhân; chủ DN thường là người có hộ khẩu thường trú ở địa
phương khác đến đăng ký thành lập DN, hạn chế về trình độ học vấn, không am hiểu
pháp luật; văn phòng giao dịch thường đi thuê thời hạn ngắn, trụ sở chật hẹp, tài sản
không tương xứng với mô hình tối thiểu của một DN bình thường; đăng ký kinh doanh
nhiều ngành nghề, chủ yếu là thương mại, dịch vụ tổng hợp, những ngành nghề không
cần phải đăng ký vốn pháp định và không bắt buộc có chứng chỉ hành nghề; doanh thu
lớn nhưng chênh lệch giữa thuế GTGT đầu vào và thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thuế
thấp, thậm chí có thuế GTGT phải nộp âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin hoàn
thuế…
Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế
Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn và kê khai
doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi này thường gặp
ở các DN kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu, kinh doanh vật liệu
xây dựng, bán ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất... Các công ty xây dựng (nhà dân và
đơn vị xây dựng vãng lai) khi thi công các công trình ở các địa phương khác hay xây nhà
tư nhân thường khai báo không trung thực, không kê khai hoặc giấu bớt một phần công
trình. Hành vi gian lận này làm giảm thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến số thu ngân sách hàng năm.
Để chống hành vi “down” giá ô tô và xe máy, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
71/2010/ TT-BTC hướng dẫn ấn định thuế đối với cơ sở kinh doanh ô tô, xe hai bánh gắn
máy ghi giá bán ô tô, xe hai bánh gắn máy trên hóa đơn giao cho người tiêu dùng thấp
hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ
quan thuế đấu tranh ngăn chặn tình trạng “down” giá nhằm trốn thuế ở hai mặt hàng này.
Tuy vậy, còn một số lĩnh vực khác chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu.
Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định
Mục tiêu chủ yếu của hành vi hạch toán kế toán sai quy định pháp luật là che giấu doanh
thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế thu nhập DN và tăng thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ. Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng. Khi bị kiểm tra phát
hiện, cán bộ kế toán có thể lấy cớ là hạch toán nhầm để tránh bị phạt vì hành vi trốn thuế.
Kế toán có thể hạch toán giảm trừ doanh thu thông qua các hình thức giảm giá, chiết
khấu không đúng quy định. Kế toán có thể hạch toán sai tài khoản kế toán để che giấu
doanh
thu.
Chẳng hạn, khi phát sinh doanh thu bán hàng, lẽ ra phải hạch toán vào tài khoản 511 thì
kế toán lại hạch toán vào các tài khoản kế toán khác, như hạch toán vào tài khoản 338,
138... Một số DN nhượng bán, trao đổi vật tư không ghi nhận doanh thu mà chỉ hạch toán
thay đổi cơ cấu tài sản lưu động bằng các bút toán nhập, xuất, thu, chi hoặc công nợ phải
thu, phải trả; bán phế liệu không xuất hóa đơn, không ghi nhận doanh thu hoặc hạch toán
giảm chi phí sản xuất.
Các dạng hạch toán sai nhằm tăng chi phí được trừ tính thuế thu nhập doanh nghiệp và
tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ chủ yếu là: hạch toán toàn bộ chi phí mua sắm tài
sản cố định, xây dựng cơ bản vào chi phí quản lý DN; đưa khấu hao tài sản cố định phúc
lợi vào chi phí khấu hao tài sản cố định; tài sản cố định hết thời gian khấu hao vẫn trích
khấu hao; hạch toán vào chi phí được trừ các khoản chi từ thiện, các khoản chi thuộc
nguồn kinh phí khác đài thọ, chi mang tính chất tiêu dùng cá nhân của chủ DN...
Hành vi gian lận này chỉ có thể bị phát hiện qua kiểm tra báo cáo quyết toán thuế hoặc
qua thanh tra tại cơ sở kinh doanh. Muốn phát hiện được hành vi này, cán bộ thanh tra,
kiểm tra phải vững vàng về nghiệp vụ kế toán và phải nhanh nhạy trong đánh giá báo tài
chính của DN.
2.1.2
Các hành vi gian lận thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo theo sự tăng
trưởng không ngừng của kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời, các hành vi gian
lận về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng đáng kể về hình thức
gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian lận.
Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
ngày càng gia tăng và có diễn biến phức tạp với các phương thức, thủ đoạn gian lận thuế
ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng những bất cập trong quy trình thủ tục hải
quan và sự thay đổi chính sách mặt hàng... Trong đó, phổ biến nhất là các hành vi buôn
lậu, gian lận, trốn thuế về mặt hàng, số lượng, mã hàng, xuất xứ, trị giá tính thuế hay lợi
dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn thuế hoặc nợ thuế để trốn thuế. Cụ thể như sau:
2.1.2.1 Buôn lậu
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá cấm, không khai
báo, tránh sự quản lý của hải quan và trốn nghĩa vụ thuế. Thời gian qua, việc buôn bán,
vận chuyển, tiêu thụ hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp, với những thủ đoạn
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, khó kiểm soát. Hàng nhập lậu chủ yếu là hàng tiêu dùng
như quần áo, vải, giày dép, đồ chơi trẻ em, rượu, bia và các loại nước giải khát, hàng điện
máy gia dụng, điện lạnh, thực phẩm… Sau khi nhập lậu vào Việt Nam, các mặt hàng này
được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe khách, xe tải và được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá
đơn mua qua bán lại giữa các DN.
Trong những năm qua đã có 500 ôtô nhập vào Việt Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất
nhưng chỉ có 100 chiếc làm thủ tục xuất và nhập trở lại. Nghĩa là còn 400 chiếc không
làm thủ tục xuất và nhập trở lại mà lưu hành trong nội địa gây thất thu số tiền thuế rất
lớn cho Nhà nước.
Nguồn: Tổng cục Hải
quan
Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục hải quan,
nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy
đủ các mặt hàng hoặc cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu để không
phải nộp thuế.
2.1.2.2 Khai sai chủng loại hàng hoá
Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi nguồn lực của
cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu cầu đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi trong thủ
tục hải quan, cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra thực tế hàng hóa khi có nghi vấn
hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại, khai báo và áp mã hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất lớn vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Thực
tế thời gian qua, nhiều chủ hàng đã lợi dụng các vấn đề trên để thực hiện gian lận thuế
nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng, sai mã số hàng hóa. Theo thống kê của Tổng
cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng 10.000 mẫu hàng hóa được phân tích
phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng 53%, giảm thuế
khoảng 7,4%. Các hành vi thường gặp là:
Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích
giảm số thuế phải nộp. Chủ yếu là khai sai mã số hàng từ mã hàng có thuế suất cao sang
mã hàng có thuế suất thấp. Nhiều trường hợp, người nộp thuế lợi dụng sự phức tạp của
các hàng hóa là các hỗn hợp, các hóa chất khó phân biệt, xác định bằng cảm quan để khai
theo hướng có lợi cho mình.
Thứ hai, Người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa là sản phẩm hoàn
chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm
hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện.
2.1.2.3 Khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất xứ hàng hóa nhập
khẩu. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các
hàng hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường đã có thỏa thuận về
ưu đãi tối huệ quốc hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ hàng hóa cố tình khai sai
xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) giả để được
hưởng các mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt.
2.1.2.4 Gian lận giá tính thuế
Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá tính thuế là hành vi rất
phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận thường được các chủ hàng thực hiện dưới các
hình thức sau:
Thứ nhất, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu thuế suất cao, chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt, những mặt hàng hay biến động về giá.
Thứ hai, chủ hàng dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải quan để khai báo thấp
trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá giao dịch thực tế,
sau đó khai báo thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại, tương tự đã nhập
khẩu trước. Bằng hành vi này, chủ hàng đã lợi dụng các quy định về xác định trị giá tính
thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch hàng nhập khẩu giống hệt/tương
tự để được tính thuế với mức giá thấp hơn so với trị giá giao dịch thực tế.
Thứ ba, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử để thăm dò thái độ của cơ
quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn theo mức
giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, chủ hàng
đã tiến hành giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh.
Thứ tư, do theo chính sách thuế đối với linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu thấp hơn
hàng nguyên chiếc nên DN thực hiện việc “down” giá bằng thủ đoạn tháo rời hàng
nguyên chiếc thành linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Điều này được thực hiện qua
việc chủ hàng thành lập nhiều công ty khác nhau hoặc tiến hành móc nối với nhiều công
ty để mỗi công ty tiến hành nhập khẩu một bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về
các cửa khẩu khác nhau trong nhiều thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của cơ
quan hải quan.
Thứ năm, chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai báo
tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng hoặc các khoản thanh
toán gián tiếp để làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
Thứ sáu, chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của hàng hóa nhập
khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài…
2.1.2.5 Giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế
Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục gian lận thuế thường là các
chứng từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế thuế của cơ quan hải quan) hoặc các hồ sơ
hải quan (để hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó, các trường hợp phổ biến là
gian lận thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư; gian lận qua
việc lợi dụng chính sách quản lý đối với hàng gia công; gian lận thông qua việc lợi dụng
hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái nhập... Điển hình nhất là vụ buôn lậu xăng
A92 lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất, trị giá ước tính 27 tỷ đồng tại vùng biển Thanh
Hoá vào tháng 7/2012; hành vi buôn lậu của Công ty TNHH một thành viên xăng dầu
hàng không Việt Nam (Vinapco) dưới hình thức lợi dụng tạm nhập tái xuất xăng dầu qua
cửa khẩu đường bộ để buôn lậu 296,6 tấn xăng A92, trị giá khoảng 8 tỷ đồng, số thuế DN
gian lận ước tính 2,5 tỷ đồng.
Cũng theo thống kê của Hải quan, trong những năm qua đã có 500 ôtô nhập vào Việt
Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất nhưng đến nay chỉ có 100 chiếc làm thủ tục xuất
và nhập trở lại. Nghĩa là còn 400 chiếc không làm thủ tục xuất và nhập trở lại mà lưu
hành trong nội địa gây thất thu số tiền thuế rất lớn cho Nhà nước.
Ngoài ra, nhiều chủ hàng lợi dụng quy định chuyển cửa khẩu để gian lận thuế; lợi dụng
chính sách ân hạn thuế để nợ thuế sau đó tẩu tán bán hàng và bỏ trốn khỏi trụ sở kinh
doanh mà không làm thủ tục giải thể DN để tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế...
2.2
Giải pháp cơ bản hạn chế gian lận thuế
Việc thực hiện các giải pháp chống gian lận thuế phải bắt đầu từ việc rà soát, xem xét,
xác định các nguyên nhân chủ yếu gây ra hiện tượng gian lận thuế, khắc phục ngay
những vấn đề làm nảy sinh những nguyên nhân đó đồng thời phải nhận biết, phát hiện và
xử lý kịp thời các hành vi gian lận thuế. Theo đó, các giải pháp cơ bản mang tính nguyên
tắc cần thực hiện để chống gian lận thuế là:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách thuế nói chung và các văn bản pháp luật về thuế nói
riêng: Mục tiêu của giải pháp này là đảm bảo có được hệ thống thuế thống nhất, phù hợp,
vừa đáp ứng yêu cầu về nguồn thu ngân sách, yếu cầu quản lý kinh tế của Nhà nước, vừa
phù hợp với khả năng đóng góp của các chủ thể trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh tăng trưởng tăng thu nhập của dân cư. Đồng thời, hệ thống thuế phải đạt được
các yêu cầu về công bằng, rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế. Nội
dung này sẽ tác động trực tiếp làm giảm các áp lực về gánh nặng thuế để dẫn đến hành vi
gian lận thuế, đồng thời ngăn chặn các cơ hội hay khả năng có thể gian lận thuế của nười
nộp thuế, giảm chi phí quản lý, chi phí tuân thủ, từ đó góp phần nâng cao mức độ tuân
thủ pháp luật, hạn chế hành vi gian lận trong tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế.
Thứ hai, tăng cường nắm bắt thông tin về người nộp thuế: Cơ sở dữ liệu về người nộp
thuế là các thông tin rất quan trọng đối với công tác quản lý thuế. Hệ thống thông tin về
người nộp thuế giúp cho các cơ quan quản lý thuế nắm bắt được tình hình thành lập, hoạt
động và chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, từ đó có các giải pháp cụ thể đối
với từng trường hợp khác nhau, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, hạn chế các hành vi gian
lận của người nộp thuế. Hệ thống thông tin về người nộp thuế cũng là cơ sở để cơ quan
thuế và cơ quan hải quan áp dụng có hiệu quả kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ ba, liên tục cập nhật các thủ đoạn gian lận thuế: Việc nhận diện các hành vi, thủ
đoạn gian lận thuế của người nộp thuế là cơ sở để cơ quan quản lý thuế ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý kịp thời các trường hợp gian lận thuế. Trong trường hợp ngày càng phát
sinh nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, nhiều phương thức giao dịch
như hiện nay, các thủ đoạn gian lận thuế cũng không ngừng gia tăng, ngày càng đa dạng,
tinh vi, nên việc cập nhật, nhận biết các thủ đoạn gian lận, phục vụ cho công tác quản lý
thuế là rất cần thiết.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế, chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra
thuế và hiệu lực của các biện pháp cưỡng chế, xử lý vi phạm về thuế: Hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý thuế nói chung, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về
thuế nói riêng là yếu tố trực tiếp nhất tác động đến ý thức và khả năng thực hiện hành vi
gian lận của người nộp thuế trong tuân thủ pháp luật thuế. Trong đó, hoạt động thanh tra,
kiểm tra vừa có tác dụng giám sát, đánh giá quá trình tuân thủ vừa có tác dụng ngăn
ngừa, răn đe và xử lý các trường hợp gian lận thuế. Hoạt động xử lý vi phạm, cưỡng chế
thuế nghiêm minh, công bằng cũng sẽ làm hạn chế các hành vi gian lận về thuế.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế; nâng
cao ý thức tuân thủ của người nộp thuế kết hợp với hỗ trợ người nộp thuế trong tuân thủ
pháp luật thuế: Đây được coi là nội dung tiền đề rất quan trọng trong công tác quản lý
thuế, đi sâu vào giải quyết các nguyên nhân dẫn đến các hành vi gian lận thuế xuất phát
từ nhân tố ý thức của người nộp thuế. Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế
đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người
nộp thuế, hạn chế các hành vi gian lận thuế thông qua việc giúp cho họ hiểu rõ các quyền
hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm về thuế của mình theo quy định của pháp luật và hiểu rõ các
quy định trong các văn bản pháp luật thuế cũng như cách xác định nghĩa vụ thuế để có
thể thực hiện việc tuân thủ pháp luật thuế thuận lợi nhất.
Thứ sáu, nâng cao năng lực và phẩm chất của công chức quản lý thuế: Năng lực hoạt
động và phẩm chất, đạo đức của công chức quản lý thuế là yếu tố có tác động không nhỏ
đến ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế và khả năng gian lận thuế của
họ. Nội dung này tác động trực tiếp đến nhân tố cơ hội và áp lực nêu trên. Trong môi
trường làm việc mà công chức thuế mẫu mực, liêm chính, thủ tục công khai, rõ ràng thì ý
thức tuân thủ của người nộp thuế sẽ được đảm bảo, các hành vi gian lận sẽ khó có cơ hội
thực hiện và ngược lại.
Thứ bảy, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối
đa cho người nộp thuế trong việc thực hiện tuân thủ pháp luật thuế. Đồng thời, việc kiểm
tra, giám sát quá trình thực hiện của công chức thuế, của người nộp thuế cần phải tiến
hành thường xuyên và chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả công tác và hạn chế các tiêu cực,
gian lận.