TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÁO CÁO NHÓM MÔN KINH TẾ VI MÔ
Phân Tích Và Chỉ Rõ Nguyên Nhân Diễn Biến Giá Cả Trên Thị Trường
Café Thô Robusta 5 Năm Trở Lại Đây
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Đức Trung
TP HCM, tháng 4, 2017
Giới Thiệu Sản Phẩm:
Cà Phê Robusta hay còn gọi là cà phê Vối, là loại cà phê được dùng
làm nguyên liệu chủ yếu cho cà phê pha ở Việt Nam. Gần 90% diện
tích cà phê ở Việt Nam được trồng là cà phê Robusta, đặc biệt là
vùng Tây nguyên, Buôn Ma Thuột và Việt Nam là nước xuất khẩu
Robusta lớn nhất thế giới.
Cà phê robusta được trồng ở những độ cao thấp hơn, dễ trồng hơn,
cho sản lượng cao hơn và có sức đề kháng mạnh hơn cà phê
Arabica. Cà phê Robusta có mùi vị hơi gắt của gỗ. Cà phê Robusta
thường được dùng cho những loại cà phê có giá tương đối và tỉ lệ
cafeine đòi hỏi cao.
Vị của cà phê Robusta nằm trong khoảng từ trung tính cho đến rất
gắt. Vị của chúng thường được diễn tả là giống như bột yến mạch.
Khi ngửi cà phê Robusta chưa rang sẽ thấy mùi giống như đậu phộng
tươi. Mùi cà phê Robusta rang chín sẽ thoang thoảng mùi cao su bị
đốt cháy.
Về điều kiện trồng trọt thì Robusta thuộc loại khỏe và cứng cáp,
chúng có thể trồng được ở những độ cao thấp, có sức đề kháng cao
đối với dịch bệnh. Do những đặc tính trên mà cà phê Robusta có sản
lượng cao hơn và giá thành rẻ hơn.
Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cà phê là hạt giống, độ cao,
vị trí trồng, chất lượng đất, điều kiện khí hậu, phân bón, sự chăm
sóc, cách thu hoạch và phương pháp chế biến. Tất cả những yếu tố
trên đều có những tác động rất quan trọng đến chất lượng cà phê.Sở
thích về cà phê rất khác nhau tùy theo bạn thuộc loại nào. Bạn có
thể thích dùng toàn cà phê Arabica hoặc là Robusta, hoặc là theo
một tỉ lệ pha trộn nào đó.
Đặc điểm: Hạt cà phê Robusta hình bàn cầu tròn và thường là 2 hạt
trong 1 trái. Trải qua quá trình chế biến trên dây chuyền thiết bị hiện
đại với công nghệ cao tạo cho loại cà phê Robusta có mùi thơm dịu,
vị đắng gắt, nước có màu nâu sánh, không chua, hàm lượng cafein
vừa đủ đã tạo nên một loại cà phê đặc sắc phù hợp với khẩu vị của
người dân Việt Nam.
Loại cây trông này rất thích hợp với khí hậu, thổ nhưỡng tại vùng Tây
Nguyên Việt Nam – nhất là vùng đất bazan (Gia lai, Đắk Lắk) – hằng
năm đạt 90-95% tổng sản lượng cà phê Việt Nam, mùi thơm nồng,
không chua, độ cafein cao, thích hợp với khẩu vị người Việt, nhưng
quá đậm đặc với người nước ngoài.
Trồng cà phê Robusta phải thâm canh mới đạt được năng suất cao vì
trái đậu trên cành một lần, phải tạo cành mới (cành thứ cấp 1,2,3…)
để đạt được yếu tố này, người nông dân phải có vốn, một kiến thức
cơ bản.
Thường thì mới năm thứ hai-thời kỳ kiến thiết cơ bản – người trồng
đã thu hoạch, không hãm ngọn sớm nên đến năm thứ 1 kinh doanh
(năm thứ 3 của cây trồng) cây đã yếu, có hình tán dù, thiếu cành thứ
cấp.
Cà phê Robusta hay còn gọi là cà phê vối thuộc loài thực vật Coffea
Canephora Pierre ex A. Froehner. Đây là giống cà phê thích nghi tốt
với khí hậu và thổ nhưỡng trên vùng đất đỏ bazan – Tây Nguyên trù
phú với độ cao từ 800 – 1000m so với mặt nước biển. Là loại cà phê
phổ biến nhất ở Việt Nam chiếm hơn 90% sản lượng hằng năm.
Thị Trường Chung Về Sản Phẩm:
Trong nhiều năm gần đây, cà phê là một mặt hàng nông nghiệp xuất
khẩu quan trọng của Việt Nam có kim ngạch hàng năm từ 400 đến
600 triệu Đôla Mỹ, chỉ đứng sau gạo. Không chỉ đem về nhiều ngoại
tệ cho đất nước, cây cà phê ngày càng giữ vị trí quan trọng trong
nền kinh tế của nước ta.
Hiện nay cà phê Việt Nam đã xuất hiện trên khắp các châu lục từ
Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông Âu đến Úc, Tây Á... Chất lượng cà phê ở Việt
Nam cũng được thị trường quốc tế thừa nhận và ưa chuộng.
Việt Nam là quốc gia đứng đầu về sản xuất cà phê robusta trên thế
giới.
Theo đánh giá của USDA, ba nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới
gồm: Brazil, Việt Nam và Indonesia sẽ giảm sản lượng cà phê
Robusta mùa vụ 2016/2017.
Sản lượng cà phê Robusta của Brazil giảm 1,2 triệu bao, xuống mức
thấp kỉ lục trong vòng 7 năm trở lại đây. Nguyên nhân là do nhiệt độ
cao hơn nhiệt độ trung bình hàng năm cộng với hạn hán kéo dài ở
bang trồng cà phê Robusta chủ yếu ở Brazil (Espirito Santo) đã gây
ra thiếu nguồn nước tới. Khiến cho triển vọng sản lượng cà phê
Robusta năm 2017 thêm phần ảm đạm.
Hình 1.1 Sản lượng cà phê Arabica của Bra-xin đạt kỷ lục, trong khi
sản lượng cà phê Robusta lại tiếp tục sụt giảm.
Sản lượng cà phê Robusta của Ouganda giảm đi 600 ngàn bao,
xuống bằng mức của mùa vụ 2014/2015 là 3 triệu bao trong khi Bờ
Biển Ngà lại tăng 100 ngàn bao lên mức 1,7 triệu bao.
Nếu sản lượng cà phê của Brazil sụt giảm mạnh, nguy cơ thị trường
cà phê Robusta toàn cầu tiếp tục rơi vào trạng thái thiếu cung là
điều khó tránh.
Mùa
2015/201 Mùa 2016/2017
Sản
lượng
6
toàn 153.292
155.6
thế giới
+ Arabica
toàn
cầu
+ Robusta toàn
cầu
Xuất khẩu cà phê
toàn cầu
86.283
94.066
67.009
61.631
112.865
109.895
Nguồn: Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA)
Theo tính toán sơ bộ của Ngân hàng Rabobank, thế giới sẽ tiếp tục
thâm hụt 2 triệu bao cà phê trong niên vụ 2017-2018 sau khi đã
thâm hụt mặt hàng này trong 3 niên vụ liên tiếp (2014-2015, 20152016, 2016-2017). Theo kịch bản này của Rabobank, mức thâm hụt
cà phê sẽ lên tới gần 10 triệu bao, gần tương đương dự trữ 12,6 triệu
bao tích trữ được từ hai niên vụ bội thu 2012-2013 và 2013-2014.
Đối với Robusta, thị phần tiêu thụ tại các nước không sản xuất loại
cà phê này sẽ giảm từ 35,6% trong niên vụ 2015-2016 xuống còn
35,1% trong niên vụ 2016-2017 và còn 34% trong niên vụ 20172018.
Nguồn cung bị thu hẹp cùng với tiêu thụ cà phê toàn cầu gia tăng,
nhất là ở Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ sẽ đẩy giá cà phê tiếp tục đi lên.
Rabobank dự báo giá cà phê arabica - robusta trung bình năm 2017
Quý I/2017: 157 US cent/pound - 2.070 USD/tấn
Quý II/2017: 153 US cent/pound - 2.060 USD/tấn
Quý III/2017: 152 US cent/pound - 2.040 USD/tấn
Quý IV/2017: 149 US cent/pound - 2.040 USD/tấn
Thị Trường Ngoài Nước:
Theo đánh giá của USDA ba nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới
gồm: Brazil , Việt Nam và Indonesia sẽ giảm sản lượng cà phê
Robusta mùa vụ 2016/2017 . Việt Nam có thể giảm 3 triệu bao
xuống còn 27,3 triệu bao, do điều kiện thời tiết hạn hán từ tháng
Giêng đến tháng 4 /2016 đã ảnh hưởng nghiêm trọng nên năng suất.
Sản lượng thu hoạch giảm nên dự báo xuất khẩu cà phê của Việt
Nam giảm 850 ngàn bao, xuống còn 25,2 triệu bao và lượng tồn kho
giảm 2,2 triệu bao xuống còn 3,5 triệu bao.
Sản lượng cà phê Robusta của Brazil giảm 1,2 triệu bao, xuống mức
thấp kỉ lục trong vòng 7 năm trở lại đây. Nguyên nhân là do nhiệt độ
cao hơn nhiệt đô trung bình hàng năm cộng với hạn hán kéo dài ở
bang trồng cà phê Robusta chủ yếu của Brazil ( Espirito Santo ) đã
gây ra thiếu nguồn nước tưới.
Sản lượng cà phê Robusta của Ouganda giảm đi 600 ngàn bao,
xuống bằng mức của mùa vụ 2014/2015 là 3 triệu bao trong khi Bờ
Biển Ngà lại tăng 100 ngàn bao lên mức 1,7 triệu bao
Theo Cecafe – Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Brazil, xuất khẩu
cà phê Robusta Brazil trong tháng 8 giảm 90% so với cùng kỳ năm
ngoái, xuống còn 39.327 bao loại 60kg. Mặc dù lượng xuất khẩu có
tăng so với tháng 7 nhưng vẫn ở mức rất thấp so với trung bình
nguồn cung xuất khẩu từ nhà cung cấp cà phê Robusta lớn thứ 2 thế
giới này. Sản xuất cà phê Robusta Brazil bị thiệt hại nặng do thời tiết
khô kéo dài tại Espirito Santo, khu vực trồng Robusta chính của nước
này.
Mặc dù giảm mạnh xuất khẩu Robusta, xuất khẩu cà phê nhân xanh
của Brazil nói chung chỉ giảm 7,4%, ở mức 2,4 triệu bao, nhờ tăng
xuất khẩu cà phê Arabica. Xuất khẩu cà phê tháng 8 của Brazil tăng
46% so với tháng 7, là tháng có lượng xuất khẩu thấp nhất trong hơn
1 năm qua.
Theo ông Nelson Carvalhaes, chủ tịch Cecafe, đà phục hồi xuất khẩu
cà phê của Brazil sẽ còn tiếp diễn.
Tuy nhiên, nhà giao dịch cà phê I&M Smith lại có nhận định u ám hơn
về triển vọng xuất khẩu cà phê Brazil. Theo nhà giao dịch này,
không có gì đáng ngạc nhiên là xuất khẩu cà phê nhân của Brazil
giảm, do vụ thu hoạch Robusta đáng thất vọng, khiến nguồn cung cà
phê Robusta cho xuất khẩu chỉ ở mức tối thiểu. Tình hình này có thể
tiếp tục kìm hãm xuất khẩu cà phê Brazil nói chung trong những
tháng tới so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu yếu từ Brazil được bù đắp bởi nguồn cung lớn từ Việt
Nam, nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Trong tháng 8,
Việt Nam đã xuất khẩu 2,54 triệu bao cà phê loại 60kg (tương đương
152.678 tấn), tăng gần 9,2% so với tháng 7, theo Tổng cục Hải quan
cho biết.
Mức xuất khẩu này vượt xa dự báo của thị trường chỉ ở 100.000 –
200.000 tấn và ước tính của chính phủ là 140.000 tấn. Xuất khẩu
tháng 8 đưa tổng xuất khẩu cà phê Việt Nam từ đầu niên vụ bắt đầu
từ tháng 10/2015 đến nay đạt 1,61 triệu tấn, tăng 33% so với niên
vụ trước.
Tiêu thụ châu Âu và Bắc Mỹ:
Nhập khẩu của Châu Âu (chiếm 40 % lượng tiêu thụ của thế giới ) dự
báo giảm 500 ngàn bao mùa vụ 2016 /2017 xuống còn mức 44,5
triệu bao, trong khi tiêu dùng sẽ giảm 800 ngàn bao , xuống còn 43
triệu bao; lượng tồn kho cuối mùa vụ giảm nhẹ xuống 11,8 triệu
bao .
Hoa Kỳ : Nhập khẩu ổn định ở mức 24,6 triệu bao nhưng tiêu dùng
thì lại tăng hoảng 400 ngàn bao , đạt 25,2 triệu bao . Như vậy lượng
tồn kho cuối vụ sẽ giảm xuống còn 5,8 triệu bao .
Sau hơn 5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt
Nam đã đạt được nhiều thành công lớn trong ngành cà phê. Từ một
nước xuất khẩu cà phê nhỏ, từ năm 2010 Việt Nam đã vươn lên xếp
thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê chỉ sau Brazil. Riêng về cà
phê Robusta, Việt Nam còn đứng trên cả Brazil, Indonesia và trở
thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
•
Top 10 thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới
Những quốc gia nhập khẩu cà phê Robusta của Việt Nam lớn nhất có
thể kể đến Đức (tỷ trọng 12,3% thị phần), Mỹ (12,2%). Ý và Tây Ban
Nha - những quốc gia thường uống cà phê espresso, loại cà phê mà
mọi người thường lầm tưởng chỉ sử dụng hạt cà phê Arabica nhưng
trên thực tế được phối trộn giữa Arabica và Robusta. Một số công ty
giao dịch cà phê đã chuẩn bị cho sự thay đổi hàm lượng cà phê trong
dài hạn trong đó công ty COEX, nơi giao dịch khoảng 3,5 triệu bao cà
phê mỗi năm, mới đây đã mở văn phòng ở Việt Nam.
Theo Cecafe – Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Brazil, xuất khẩu
cà phê Robusta Brazil trong tháng 8 năm 2016 giảm 90% so với
cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 39.327 bao loại 60kg. Xuất khẩu yếu
từ Brazil được bù đắp bởi nguồn cung lớn từ Việt Nam, nước sản xuất
cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Trong tháng 8 năm 2016, Việt Nam
đã xuất khẩu 2,54 triệu bao cà phê loại 60kg (tương đương 152.678
tấn), tăng gần 9,2% so với tháng 7, theo Tổng cục Hải quan cho biết.
Mức xuất khẩu này vượt xa dự báo của thị trường chỉ ở 100.000 –
200.000 tấn và ước tính của chính phủ là 140.000 tấn. Xuất khẩu
tháng 8 đưa tổng xuất khẩu cà phê Việt Nam từ đầu niên vụ bắt đầu
từ tháng 10/2015 đến nay đạt 1,61 triệu tấn, tăng 33% so với niên
vụ trước.
Giá cà phê xuất khẩu biến động trong khoảng 1.500 - 2.100 USD/tấn
trong 3 năm; vụ mùa 2013/2014 có giá thấp hơn hai mùa trước.
Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam mới đây cho biết sản lượng niên vụ
2016/17 của Việt Nam có thể sẽ giảm 20-25% do khô hạn. Bộ Nông
nghiệp Mỹ (USDA) cũng đưa ra nhận định bi quan về nguồn cung cà
phê Robusta khi dự báo hạn hán sẽ làm giảm 8,4% sản lượng cà phê
của Việt Nam, Indonesia và Ấn Độ, xuống còn tổng cộng 42,45 triệu
bao (1 bao = 60 kg), mức thấp nhất trong vòng 5 năm – ba nước
Châu Á kể trên chiếm đến 60% sản lượng cà phê Robusta toàn cầu.
Riêng sản lượng của Việt Nam sẽ giảm 2 triệu bao xuống còn 27,3
triệu bao.
IV. Thị Trường Trong Nước:
Việt Nam đang đứng đầu thế giới về sản lượng và xuất khẩu cà phê
robusta. Sau khi giống cà phê arabica được du nhập vào Việt Nam
năm 1857 thì sau đó vào năm 1908, Pháp du nhập thêm 2 giống cà
phê vào Việt Nam. Đó chính là cà phê Robusta và cà phê mít. Hẳn là
thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta những điều kiện tuyệt vời để
có thể làm nên được kỳ tích trên và biến cà phê Robusta trở thành
linh hồn của cà phê Việt Nam. Nhờ thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho
điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để trồng trọt và phát triển
giống cà phê Robusta; vốn thích hợp với độ cao dưới 1.000 m, nhiệt
độ 24 đến 29 độ và không cần thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu - hơn nữa
lượng thu hoạch lại trội hơn cà phê Arabica đến gấp đôi. Gần 90%
diện tích đất trồng cà phê ở Việt Nam là dành cho giống cà phê
Robusta.
Nước ta là nước có nền văn hóa cà phê, tuy nhiên lượng cà phê sử
dụng đầu người chỉ vào khoảng 0.7kg/người /năm, thấp hơn nhiều so
với các nước dẫn đầu là Phần Lan (11kgs/người /năm), và so với
nước cao nhất trong khu vực là Nhật Bản (3.3kgs).
Tiêu thụ thị trường nội địa tại Việt Nam chỉ chiếm khoảng 5% trong
tổng cà phê xuất khấu, tương đương 61,000 tấn/năm. Trong đó cà
phê hòa tan chiếm 9,000 tấn, cà phê rang xay có nhãn hiệu chiếm
35,000 tấn còn lại là cà phê không tên tuổi và nhãn hiệu. Thị trường
cà phê nội địa tăng trưởng hàng năm khoảng 18% trong đó cà phê
hòa tan đang dẫn đầu mức tăng trưởng (+22%) còn cà phê rang xay
tăng trưởng chậm hơn thị trường (+13%).
Trong vòng 5 năm qua, nước ta luôn là nước dẫn đầu về xuất khẩu
cà phê robusta nhưng về thị trường giá cả thì luôn có những biến
động, thách thức.
Trong giai đoạn năm 2012 – 2014, thị trường giá cả của cà phê trong
nước ta có chút biến động thấp hơn các năm trước. Có thể nói đây là
giai đoạn khủng hoảng của cà phê. Trong bối cảnh thị trường muôn
vàn khó khăn nhưng giá xuất khẩu cà phê bình quân toàn niên vụ
vẫn đạt 2.142 USD/tấn, tăng 1% so với niên vụ trước, thể hiện những
nỗ lực của ngành cà phê. Tuy nhiên, ở niên vụ trước giá cà phê luôn
rải đều quanh mức 40-42 triệu đồng/tấn thì trong giai đoạn này, giá
cà phê trồi sụt lên xuống rất thất thường, thậm chí hiện đang rơi
xuống dưới 37 triệu đồng/tấn. Trong khi chi phí phân bón, nhân công,
tưới nước cho cây cà phê đã tăng gấp hơn 2 lần so với các năm trước
khiến người trồng cà phê ngày càng ít lợi nhuận, thậm chí bị thua lỗ.
Khi chỉ còn hơn 2 tuần nữa bước vào vụ thu hoạch cà phê mới trong
giai đoạn này, giá cà phê nội địa ở Tây Nguyên chỉ còn 36,7-37 triệu
đồng/tấn. Mặc dù trong cùng nước nhưng giá cả của cà phê Robusta
tại các tỉnh cũng có giá khác nhau. Ví dụ như: 7 tháng đầu mùa vụ
2013/14, giá cà phê Robusta trung bình tại ở mức 35.957 VNĐ/kg
(1,71 USD) và tại Lâm Đồng là 39.545 VNĐ/kg (1,88 USD). Giá cà
phê trong nước tăng giảm theo tình hình thị trường thế giới. Tháng 3
và tháng 4 năm nay, giá cà phê tại 4 khu vực trồng chính tăng “đột
biến” do giá cà phê thế giới tăng mạnh vì nguồn cung sụt giảm.
Mặc dù giá xuất khẩu trung bình của Việt Nam đang giảm trong giai
đoạn này nhưng người trồng và xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn có
lợi do giá cà phê trên thế giới được dự báo tiếp tục duy trì ở mức cao
do hạn hán ở Brazil. Giá xuất khẩu trung bình tháng 10/2014 ở mức
2,072 USD/tấn và xu hướng giá cao được dự báo có thể duy trì tới
hai mùa vụ tiếp theo.
Trong giai đoạn từ năm 2015 tới hiện nay, thị trường giá cả cà phê
trong nước nói chung cũng như là cà phê Robusta nói riêng đã có
những điểm tích cực và tốt hơn trong các giai đoạn trước tuy nhiên
cũng có những khó khăn ở đầu kì.
Trong 3 tháng đầu năm 2015, giá cà phê Robustan dao động trong
khoảng 39 – 40 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên những tháng tiếp theo, giá
nội địa đối với sản phẩm cà phê Robusta chưa phân loại trong 8
tháng đầu của niên vụ 2015/16 ở mức rất thấp, 32.000 đồng/kg ở
Lâm Đồng trong tháng 1/2016, so với 39.600 đồng/kg cùng kỳ năm
ngoái. Mức giá thấp nhất là khoảng tháng 2 và tháng 3 năm 2016 và
đã tăng trở lại trong tháng 4 và tháng 5 do các tin tức về thu hoạch
bất lợi ở Braxin và hạn hán ở một số tỉnh của Việt Nam.
Trong niên vụ 2016 – 2017, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã vượt
mức bình quân 5 năm qua kể từ tháng 3/2016 bất chấp lo ngại thời
tiết khô hạn sẽ kéo giảm sản lượng xuất khẩu. Tháng 4, xuất khẩu
cà phê đạt gần 186.000 tấn, tăng 3% so với tháng 4/2016, theo số
liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam. Xuất khẩu tăng chủ yếu do
giới thương nhân xả bán lượng cà phê lưu kho từ vụ trước, đạt kỷ lục
29,3 triệu bao. Bên cạnh đó, thời tiết khô hạn cũng đẩy giá Robusta
tăng, tạo động lực cho xuất khẩu. Giá cà phê tại Đăk Lăk đã hồi phục
70% lên khoảng 36.900 đồng/kg kể từ tháng 4/2016. Giá cà phê
Robusta đang có xu hướng tăng trong năm 2017 khi thị trường lạc
quan hơn do khô hạn ảnh hưởng xấu đến Việt Nam – nước sản xuất
Robusta lớn nhất thế giới.
Trong 5 năm vừa qua, trong nước ta đã có những thay đổi rõ rệt về
giá cà phê Robusta. Có những thời điểm giá có thể lên tới 45 ngàn
đồg/kg nhưng cũng có những thời điểm giá thấp nhất tới 32 ngàn
đồng/kg trong niên vụ 2013/2014. Nhưng trong một hai năm trở lại
đây, tình hình thời tiết khô hạn kéo dài làm cho lượng cung cà phê
Robusta giảm đi nên đã đẩy giá cà phê cao hơn so với các mùa vụ
trước. Điều này là một thuận lợi nhưng cũng là thách thức đối với
người trồng cà phê nước ta. Theo những dự đoán của nhà chuyên
môn, giá cà phê trong nước ta có thể cao hơn nữa trong thời gian tới.
V. Phân tích các diễn biến giá cả thị trường từ 2012 –
2014:
2012 – Một năm mỹ mãn
Những con số ước báo mới nhất từ Tổng Cục Thống kê (TCTK) và Bộ
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đều cho thấy trong năm 2012,
xuất khẩu cà phê cả nước đạt trên 1,7 triệu tấn, thu về 3,7 tỉ đô la
Mỹ với mức giá bình quân xuất khẩu chừng 2.137 đô la/tấn.
Có thể nói không ngoa rằng nằm 2012, ngành cà phê Việt Nam lại
thêm một năm được mùa được giá. Tuy giá xuất khẩu bình quân
không cao bằng năm 2011, mức ấy vẫn là mức “mơ cũng không
thấy được” trong các năm trước đó. Vì, trong suốt cả 12 tháng qua,
giá niêm yêt sàn giao dịch cà phê robusta Liffe NYSE họa hoằn vài
đôi lần vượt khỏi mức 2.200 đô la, song chỉ tồn tại một thời gian rất
ngắn. Còn đại bộ phận giá giao dịch chỉ từ mức 1.800-2.100 đô
la/tấn.
Ngay cả trong những ngày cuối cùng của năm 2012, khi giá sàn cà
phê robusta London còn quanh mức 1.900 đô la, thì giá xuất khẩu
bình quân “lý tưởng” ấy vẫn nằm rất cao, mức cộng so với giá niêm
yết. Như thế, hai năm 2011 và 2012, giá xuất khẩu cà phê robusta
Việt Nam không còn ở mức trừ so với giá sàn kỳ hạn robusta trước
đây như nhiều bài viết đã trách cứ và thương tiếc cho hạt cà phê
nước ta.
Giá cà phê nhân xô trong thị trường nội địa cũng rất hiếm khi xuống
mức 35.000 đồng/kg mà chủ yếu nằm quanh mức 38.000-40.000
đồng/kg. Trong điều kiện được mùa, thị trường có nhiều yếu tố bất
lợi về tài chính-tín dụng, đồng thời cạnh tranh giành thị phần khốc
liệt từ phía các nước xuất khẩu cà phê arabica, hầu hết nông dân
đã sẵn sàng chấp nhận mức giá ấy. Việc bán ra một lượng trên 1,7
triệu tấn trong năm qua nhưng giá nội địa vẫn giữ được mức cao ổn
định đã nói lên rằng nông dân không hề có ý định găm hàng. Họ chỉ
sẵn sàng bán ra với mức giá hợp lý. Không ai có thể trách, vì đó
chính là quyền, là cách điều tiết khôn ngoan của họ.
Giá vẫn cao dù sản lượng tăng
Sẽ phải nói thẳng rằng sản lượng nhỏ thì chẳng thể có lượng xuất
khẩu to. Bất kỳ ai có muốn giấu con số sản lượng cho dù có ý tốt,
vẫn khó mà che được các con số sản lượng lớn, mỗi lúc mỗi lồ lộ trên
các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và trên toàn thế giới.
Năm qua, nhiều đơn vị tổ chức ước báo sản lượng đều phải nhiều
phen chỉnh sửa, buộc phải nâng con số sản lượng lên vì “tự dưng”
xuất khẩu cà phê nước ta tăng “quá cỡ”. Ngay cả con số xuất khẩu
của 3 tháng cuối năm 2012 do TCTK đưa ra cũng vượt quá cao so với
thăm dò của hãng tin Reuters. Ba tháng quý 4 năm 2012, nước ta
xuất khẩu đạt 394.000 tấn, tăng so với cùng kỳ năm 2011 chỉ đạt
259.000 tấn. Như vậy ngay từ đầu vụ 2012-13, xuất khẩu hàng
tháng đã đạt bình quân trên 130.000 tấn/tháng. E rằng con số này
vẫn chưa phải là cuối cùng vì lượng xuất khẩu tháng 12-2012 có thể
nhiều hơn.
Biểu đồ 2: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Thế nhưng, nhiều người vẫn dè chừng không dám phát biểu thực
lòng con số của mình mà thường chỉ nương theo thị trường hay tâm
lý đám đông. Sau đây xin đưa ra một vài con số ước lượng sản lượng
cà phê Việt Nam trong niên vụ mới. Không biết sau này chúng còn
phải được chỉnh tăng như năm cũ, song xin mạnh dạn trình bày để
bạn đọc tiện theo dõi và so sánh:
c lượng/triệu bao (60kg/bao)
17
19
21,25
25
24
Bảng 1: Ước báo sản lượng cà phê Việt Nam 2012-13 của một
số đơn vị (nguồn Reuters và tác giả)
Đối với sản lượng thế giới, xin đưa ra hai ước báo. Một là của Tổ chức
Cà phê Thế giới (ICO), thường nhận con số từ các hiệp hội thành viên
một cách thụ động. Một nữa của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), có
nghiên cứu thực địa nghiêm chỉnh. Hai ước báo này tỏ rõ một bên
nói lên con số của các nước sản xuất, bên kia con số của người tiêu
thụ. Sản lượng cà phê thế giới niên vụ mới được dự báo như sau:
Tên tổ chức ước báo
ICO
USDA
Bảng 2: Ước báo sản lượng cà phê thế giới của ICO và USDA
(tác giả tổng hợp)
Như một qui luật, giá tốt nên nhiều nước đang đua nhau tăng diện
tích, tăng năng suất sản lượng. Mới đây, bộ Nông nghiệp Indonesia
nói thẳng rằng sản lượng cà phê năm sau của nước này sẽ tăng. Bờ
biển Ngà, nước chuyên trồng cà phê robusta như Việt Nam tại châu
Phi, đang đòi tăng 100% sản lượng cà phê trong vòng vài năm tới.
Rõ ràng, dù ở góc nhìn nào, sản lượng thế giới năm 2013 vẫn tăng
mạnh. Thế mà, tiêu thụ chỉ ước chừng 141-142 triệu bao.
Trong nông nghiệp, qui luật giá tăng kích thích sản lượng tăng; sản
lượng lớn lại tạo tiền đề cho giá giảm. Tuy nhiên, trong mấy năm
qua, đặc biệt hai năm gần đây, điều này đã không đúng tại thị
trường cà phê nước ta và sàn giao dịch robusta Liffe NYSE London.
Vắt giá – bởi “tay ải tay ai”?
Năm 2012, ít nhất đã có 2 đợt vắt giá trên sàn kỳ hạn robusta Liffe
NYSE, tức giá của tháng giao hàng ngay vượt cao hơn hẳn so với
tháng giao hàng sau. Nhớ vào giữa tháng 2-2012, giá giao hàng
tháng 3-2012 đột nhiên “vắt” so với tháng 5-2012. Có lúc giá tháng
3-2012 cao hơn giá tháng sau đến 182 đô la/tấn. Một đợt vắt giá thứ
2 hiện đang hoạt động tuy giá chênh lệch không nhiều, chừng 40-50
đô la/tấn.
Tính từ 2006 đến nay, hiện tượng vắt giá ngày càng dày đặc. Nếu
như đợt vắt giá 2006 có khi giá chênh lệch cao đến 430 đô la thì đợt
2007 đến 520 đô la/tấn.
Thực ra, các đợt vắt giá chính là những đợt đầu cơ siết giá tháng
giao hàng ngay tăng cực mạnh để kéo hàng về sàn. Đầu cơ tài chính
và hàng hóa đã rất khôn khéo để tạo nên “khủng hoảng” như thế
trong cấu trúc giá để một mặt siết chặn lỗ đối với những tay đầu cơ
nhỏ và giới kinh doanh trên sàn đi ngược lại với vị thế kinh doanh
của họ, mặt khác tạo thời cơ để tích trữ hàng nhằm khuynh loát sau
này.
Họ đã thành công rực rỡ. Đến tháng 7-2011, một lượng hàng chừng
420.000 tấn robusta được Liffe NYSE chấp nhận chất lượng
(certifieds) tại các kho do sàn kỳ hạn này chỉ định. Một điều đáng lưu
ý là trong số họ, kể cả cho đến nay, chỉ có một nhà đầu cơ hàng hóa
sở hữu đến 70% lượng tồn kho ấy. Tưởng đầu cơ mua cà phê về để
bán cho sàn, nhưng không. Một lượng rất lớn của tồn kho ấy đã được
dùng làm “bửu bối” để siết giá hàng thực, đặc biệt giá chênh lệch
(differentials), thường được dùng để tính giá mua bán xuất nhập
khẩu. Nhiều nhà kinh doanh và rang xay phải mua hàng tồn kho ấy
với mức chênh lệch dương rất cao so với giá niêm yết, có khi cộng
300-400 đô la/tấn cho loại 2 theo tiêu chuẩn qui định của sàn kỳ
hạn.
Hai đợt vắt giá trong năm 2012 chính là những dư chấn của các lần
vắt giá từ 2006 và 2007. Đặc biệt, đầu cơ đã sử dụng tồn kho được
xác nhận, thay vì bán cho sàn thì họ giữ lại để “làm giá” và bán mức
cao cho giới kinh doanh, rang xay và ngay cả nhà xuất khẩu nếu
thiếu hàng giao. Chính vì thế, thỉnh thoảng, ta vẫn chứng kiến nhiều
nhà xuất khẩu cà phê nước ta phải mua lại hàng của các tay đầu cơ
hàng cà phê thực ngay trên thị trường nội địa. Dĩ nhiên, bấy giờ họ
phải mua lại với giá cắt cổ như bao nhiêu con mồi khác.
Một khi đầu cơ đã khống chế được hàng, giá trên sàn, chính họ sẽ
tạo các đợt vắt giá tiếp theo để kéo hàng về sàn, hòng tạo nên
những đợt làm ăn tiếp theo.
Cho nên, các trật tự bình thường của hàng và giá đều diễn biến khác
thường. Như theo lẽ, đáng ra tồn kho càng nhiều, giá càng hạ cả
trên sàn lẫn thị trường nội địa, đặc biệt trong trường hợp cả thế giới
được mùa. Nhưng đến nay, ta hiểu vì sao giá robusta trên sàn vẫn
vững.
Năm 2013 vừa qua thị trường cà phê thế giới và trong nước
có nhiều xáo trộn: giá xấu, biến động nhiều, cung đang vượt
cầu. Với cà phê robusta bức tranh vẫn có điểm sáng. Tuy
nhiên, thử thách trước mắt và lâu dài còn lớn. Biết để tránh…
vì bao lâu làm ăn cứ theo nền cũ,
cách cũ, nông dân và
người kinh doanh cà phê nước ta vẫn phải chuốt nhiều rủi ro.
Biểu đồ 1: Diễn biến giá kỳ hạn cà phê robusta và arabica năm 2013 (n
Thế giới dư thừa cà phê
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) phát hành trong tháng 122013 ước rằng sản lượng cà phê toàn thế giới niên vụ 2012/13 là
trên 153 triệu bao (60 kg x bao), trong đó nước ta có chừng 28,5
triệu bao, chiếm 18,5%. Nếu chỉ tính riêng robusta, sản lượng toàn
cầu là 63,5 triệu bao, nước ta chiếm tới trên 44%.
Tổ chức Cà phê Thế giới (International Coffee Organization-ICO) và
USDA đều cho nhu cầu tiêu thụ toàn thế giới trong năm 2012 chừng
142 triệu bao. Nếu như năm 2013, giả sử tiêu thụ tăng 2%, thì nhu
cầu tối đa quanh mức 145 triệu bao. Như vậy, thế giới thặng dư 8
triệu bao cà phê để chuyển sang năm mới.
Hậu vị robusta chưa đến nỗi
Biểu đồ 2: Lợi suất đầu tư trên một số sàn hàng hóa toàn năm 2013 (th
Nếu nói cung-cầu qui định thị trường, giá kỳ hạn hai sàn cà phê
robusta năm vừa qua chủ yếu diễn biến theo hướng giảm, riêng sàn
robusta London dao động khá mạnh, chênh lệch giữa mức giá cao và
thấp nhất ước chừng 800 đô la Mỹ/tấn. Tuy nhiên, giá sàn chỉ giảm
259 đô la/tấn nếu so giá đóng cửa 1.942 đô la ngày đầu năm 2013
với mức 1.683 đô la/tấn ngày cuối năm 31-12.
Cung thừa, lợi suất đầu tư cà phê giảm mạnh. Nếu trong 5 thị trường
kỳ hạn hàng hóa có mức giảm sâu nhất, sàn robusta Liffe NYSE chỉ
mất 14,2%
Giá cà phê tại thị trường nội địa vẫn bị giá sàn kỳ hạn chi phối. Năm
qua đã có lúc giá cà phê trong nước lên đến 46.500 đồng/kg, còn giá
đầu năm chừng 39.000 đồng/kg và cuối năm đang quanh mức
33.500 đồng, giảm 5.500 đồng/kg. Điều hết sức thú vị là khi quy đổi
từ tiền đồng sang đô la Mỹ với tỉ giá 21.100 đồng thì mức giảm giá