I.
TÁC PHẨM VÀ BẠN ĐỌC:
Một tác phẩm văn học chỉ có được đời sống khi được tiếp nhận. Người đọc từ
đó tiếp nhận và bị tác phẩm chi phối, chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẫm mỹ.
Nhờ đó người đọc được mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng,
tình cảm, năng lực cảm thụ và tư duy. Đối với tác phẩm văn học, sự tiếp nhận của
người đọc là khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo. Lịch sử tác phẩm văn học sở dĩ
có được, một mặt do giá trị của chính tác phẩm, mặt khác là do sự tiếp nhận một
cách sáng tạo và năng động của công chúng. Ta có thể thấy tầm quan trọng của
người đọc rất là lớn, có thể quyết định được số phận của một tác phẩm văn học. Kể
cả những đại danh hào, những nhà văn đại tài của thế giới vẫn phải chịu sự chi
phối, quyết định của sự tiếp nhận từ độc giả.
1.
Người đọc
Người đọc không đồng sáng tạo với nhà văn, nhưng lại là một yếu tố bên
trong của sáng tác. Người đọc đối với sáng tạo nghệ thuật cũng giống như một
người tiêu dùng trong lao động sản xuất. Với tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu,
bản thân sự tiêu dùng là một yếu tố nội tại của hoạt động lao động sản xuất
(C. Mác). Người tiêu dùng là mục tiêu của sản xuất, người đọc là mục tiêu của
sáng tác. Chính nhu cầu của người tiếp nhận, người tiêu dùng, người sử dụng văn
chương là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình văn chương. Người đọc
hiện lên trước nhà văn dưới một hệ thống câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết
như thế nào? Người đọc yêu cầu, đòi hỏi, chờ đợi và phê bình nhà văn. Nhà văn
sáng tác để đáp ứng đòi hỏi bạn đọc. Người đọc tạo nên mối quan hệ trực tiếp với
tác phẩm của sáng tác - tiếp nhận.
Người đọc là chủ thể tiếp nhận văn học có vai trò tích cực, chủ động trong
toàn bộ tiến trình văn học. Đối với nhà văn, chủ thể sáng tác, người đọc bao giờ
cũng là hiện thân của nhu cầu xã hội. Trong mọi trường hợp, mỗi khi nói tới người
đọc, nhà văn đều cảm thấy họ “yêu cầu”, “đòi hỏi”, “tin cậy”, “hứng thú”, “phê
bình”, “dè bỉu”, “hồi hộp”, “trông chờ”,… Còn nhà văn thì “đáp ứng”, “lí giải”,
“tác động”, “lôi cuốn”, “thuyết phục”, “giúp đỡ”, “truyền đạt”, “phơi bày”, “cho
thấy”,… Tuy nhiên, khái niệm người đọc có nhiều nghĩa. Hoặc đó là người đọc có
thực, cụ thể, lịch sử đời sống, hoặc đó là một quan niệm về một người độc giả thiết
mà nhà văn hướng tới và cuối cùng là nhân vật mang danh người đọc. Nhà văn lúc
nào cũng hướng đến người đọc thực tế, họ sẽ tiếp nhận sáng tác một cách cá thể,
mỗi người sẽ có mỗi một quan điểm khác nhau, theo một phong cách riêng, theo cá
tính của mỗi người. Tuy nhiên, nhà văn không thể biết được ai sẽ là người đọc các
sáng tác của mình và người đó sẽ là ai, muốn tác phẩm mình sẽ như thế nào…Tác
giả sẽ viết cho tất cả mọi người, tất cả mọi người đều trở thành người đọc.
2.
Phân loại người đọc
Nếu xét một cách cụ thể, người đọc có thể được chia thành nhiều loại trên
nhiều phương diện.
Trên phương diện nhà văn, họ sẽ chia người đọc thành ba loại: người đọc thực
tế là anh A, chị B, ông C,… Những người cụ thể trong đời sống và người độc giả
thiết do tác giả tưởng tượng ra. Người đọc lí tưởng là loại cuối cùng, chỉ tồn tại ở
một số người nhất định mà họ chính là người có thể hiểu thấu được tất cả tâm tư
tình cảm mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm, một người đọc có thể được tác giả
xem là tri kỷ.
Ðứng về phía người tiếp nhận, người ta chia người đọc ra 4 loại. Thứ nhất là
người đọc tiêu thụ. Ðây thường là loại người đọc đọc ngấu nghiến cốt truyện, ham
thích tình huống éo le gay cấn, nhiều khúc mắc cạm bẫy. Loại người này đọc lướt
nhanh vào giờ nhàn rỗi, tìm thú giải trí, có những đánh giá dễ dãi. Thứ hai là, loại
người đọc điểm sách, loại người này có ý thức tìm ở văn chương những thông tin
mới về cuộc sống, đạo đức,… để thông báo cho độc giả của các báo. Thứ ba là loại
người đọc chuyên nghiệp - những người giảng dạy nghiên cứu phê bình ở các
trung tâm nghiên cứu. Thứ tư là những người sáng tác - nhà văn, nhà thơ đọc theo
cảm hứng bất chợt hoặc để tham gia viết những trang phê bình ngẫu hứng.
Ðứng ở góc độ thời gian, người ta chia người đọc ra làm 3 loại. Thứ nhất là
người đọc hiện tại, tức loại người đọc đang sống đồng thời với tác giả, họ thực sự
tiếp nhận tác phẩm của tác giả và lên tiếng khen chê trực tiếp với tác giả. Trong số
người đọc hiện tại, có thể chia ra làm nhiều lớp theo cách khác nhau: người đọc
bình thường; người đọc của người đọc - nhà phê bình; người đọc thiếu nhi, thanh
niên, công nhân, nông dân, trí thức… Thứ hai là người đọc quá khứ, đây là loại
người đọc không thể và không bao giờ tiếp nhận tác phẩm cả. Nhưng nhiều khi nó
quyết định thành bại của tác phẩm. khi Tố Hữu viết Kính gửi cụ Nguyễn Du thì
đây không phải là bức thư gửi cụ Nguyễn Du nào đó đang sống thực sự ở đâu đó,
mà là gửi cho linh hồn cụ Nguyễn Du. Và chính Nguyễn Du lúc sinh thời cũng đã
có loại người đọc như thế, đó là Tiểu Thanh (xem bài thơ Ðộc Tiểu Thanh
ký). Nhân vật nàng trong Màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng lại là một người
đọc quá khứ. Thứ ba là người đọc tương lai. Loại người đọc này chưa tồn tại thực
tế sẽ có thể, hoặc không thực sự đọc tác phẩm nhưng vẫn xuất hiện trong quá trình
làm tác phẩm của tác giả, và có khi là chủ đích hướng tới của nhà văn. Nhà văn
muốn gửi thế kỉ mai sau, muốn nói chuyện với người 300 năm sau như Nguyễn Du
đã nói:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Lại có cách chia người đọc theo ý thức hệ, cách này chia người đọc ra làm hai
loại. Thứ nhất là người đọc bạn bè (người đọc tích cực), đây là loại người đọc cùng
chí hướng, quan điểm xã hội, lập trường tư tưởng. Phần lớn các tác giả có đông
đảo bạn đọc loại này. Ðây là loại bạn đọc chí cốt mà Tố Hữu đã nói: “Tôi buộc hồn
tôi với mọi người - Để tình trang trải khắp muôn nơi - Để hồn tôi với bao hồn khổ
- Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.Thứ hai là loại người đọc đối thủ (người đọc
tiêu cực). Loại người đọc này trái với chí hướng, lập trường giai cấp xã hội của
mình. Chẳng hạn cụ Ngáo trong bài thơ Hỡi cụ Ngáo của Tố Hữu.
Tùy theo trình độ tiếp nhận của mỗi người, mỗi loại người đọc đều có đóng
góp ở những mức độ khác nhau đối với sự phát triển của văn học. Người đọc là
yếu tố nội tại của quá trình sáng tạo văn học. Dĩ nhiên người đọc thực tế là một sức
mạnh vật chất xã hội, giữ vai trò ở tính thứ nhất, nghĩa là nếu không có họ thì
không có tất cả. Nhưng để cho tác động đó thực hiện được thì nó phải chuyển hóa
thành yếu tố nội tại của sáng tác. Chẳng hạn “đặt hàng” là một tác động của người
đọc thực tế. Nhưng chỉ khi “đơn đặt hàng” trở thành càm hứng, trở thành sự thôi
thúc chân thành muốn nói một cái gì đó với công chúng, thì lúc đó nhà văn mới tạo
ra tác phẩm đích thực.
3.
Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của văn chương
Có thể nói rằng vai trò của người đọc là một phương diện hữu cơ trong suốt
quá trình sáng tạo nghệ thuật. Có nghĩa rằng không phải chỉ sau khi tác phẩm đến
tay người đọc thì số phận của nó mới được quyết định mà kể cả trong lúc nhà văn
đang sáng tác, nhà sản xuất đang in ấn thì người đọc đã ngấm ngầm tạo một hình
ảnh vô hình của mình do tác giả, nhà sản xuất tạo ra để hướng đến.
3.1.
Sự xuất hiện nghĩa thông qua sự đọc của người đọc
Mỗi người là một cá thể khác nhau, có suy nghĩ khác nhau, cuộc sống khác
nhau, vấn đề tâm sinh lí hoàn toàn khác nhau thì tiếp nhận văn học khác nhau.
Cùng một tác phẩm nhưng mười người có thể hiểu tác phẩm ấy theo mười cách
khác nhau, không thể cố định một xu hướng tiếp nhận văn học nào đó cho người
đọc. Với độc giả “tí hon”, Truyện Kiều chỉ là những dòng, những trang, tồn tại một
cách “vật thể”. Nhưng với trưởng thành thì Truyện Kiều làm sống dậy trong ta nỗi
buồn vui, oán giận một cách mãnh liệt, được chúng ta từng bước “tín hiệu hoá”,
đánh thức trong cảm nhận của chúng ta hệ thống hình tượng…Đó chính là nét đặc
tính hữu cơ của nghệ thuật bằng ngôn ngữ, thường xuyên hướng về độc giả, thính
giả, hướng về sự thụ cảm của họ đối với những giá trị nghệ thuật. Bởi “sự đọc” của
người tiếp nhận là hoạt động lĩnh hội, giải mãi tín hiệu ngôn ngữ của nhà văn, có
ngôn ngữ cốt là để thể hiện và truyền đạt cho những người khác những tư tưởng,
tình cảm, cái chân lý, hoặc cảm hứng mà anh ta có được”. Văn bản tác phẩm là kết
quả sự hình thức hoá, phù hiệu hoá, vật chất hoá những suy tư, chiêm nghiệm của
nhà văn về nhân tâm thế sự… như thế nó vốn đã bao hàm mét ý nghĩa nhất định
nào đó. Đó là quá trình tạo nghĩa từ phía nhà văn. Do đó phải có người đọc thì quá
trình tạo nghĩa mới bắt đầu, mà chúng ta không thể phủ nhận chính tác giả là người
đọc đầu tiên tác phẩm của mình, thậm chí đọc ngay trong quá trình sáng tác.
3.2.
Tác phẩm chỉ tồn tại và kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp
tục
Đã sáng tác là nhà văn muốn bộc lộ tâm huyết trước cộng đồng,nhưng nhà
văn chỉ mới viết ra một văn bản, phải đợi người đọc biến nó thành một tác phẩm có
ý nghĩa.Độc giả khi tiếp nhận tác phẩm văn học thì sáng tạo lại tác phẩm, người
đọc làm phong phú thêm cho tác phẩm văn học bằng những cảm thụ và đánh giá
riêng của mình. Đồng thời trong quá trình tiếp nhận, người đọc còn sàng lọc và bảo
tồn tác phẩm văn học về mặt chất lượng. Chỉ có những tác phẩm có giá trị mới tồn
tại trường cửu cùng thời gian. Không phải ngẫu nhiên Truyện Kiều có sức sống lâu
bền đến vậy. GS Trần Đình Sử khẳng định sự “nói mãi khôn cùng” về tác phẩm
được coi như một sinh thể sống này. Nhưng lại có những tác phẩm bị “người ta
quên ngay sau khi đọc” bởi sự sáng tác vội vàng, cẩu thả, bởi sự đánh giá của
chính độc giả. Cho đến khi nào sự đọc của người đọc còn tồn tại, thì tác phẩm ấy
vẫn tồn tại, khi tác phẩm đã trở nên cũ, không còn có gì mới mẻ thì nó sẽ được
chuyển qua một chương khác, tuy nhiên sự tiếp nhận của người đọc đối với tác
phẩm ấy sẽ không còn cho đến khi có ai đó khai quật lại nó và lặp lại chu kì ấy.
3.3.
Sự đọc giúp sự tiếp nhận hiện hữu và tồn tại.
Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, đầu tiên ta nghĩ ngay đến “sản phẩm”
được làm ra. Sản phẩm ấy, tác phẩm ấy chưa qua tay người tiêu dùng, cũng tức là
chưa có sự tác động ngược lại của chủ thể tiếp nhận, thì sản phẩm ấy, tác phẩm ấytheo cách nhìn nào đó- chỉ tồn tại trong dạng tiềm năng (GS Nguyễn Lai). Nếu
không có sự đọc, nghĩa chỉ tồn tại với dạng những vệt đen trên nền giấy trắng.
4.
Mối quan hệ giữa nhà văn, tác phẩm và người đọc:
Nhắc lại các khái niệm cơ bản:
Nhà văn là người trí thức sáng tạo nên những tác phẩm ngôn từ, được xã hội
đánh giá và công nhận những tác phẩm đó. Nhà văn có những năng lực đặc biệt:
năng lực cảm nhận và quan sát thế giới xung quanh, năng lực tưởng tượng và tái
tạo hiện thực, năng lực sử dụng ngôn từ; có những phẩm chất đặc biệt: nhạy cảm,
rung cảm trước hiện thực, giàu tình cảm.
Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ, được sáng tạo bởi nhà
văn qua tiến trình lao động nghệ thuật.
Độc giả là người người đọc sách báo, trong quan hệ với tác giả, nhà xuất bản,
cơ quan báo chí, thư viện…
NHÀ VĂN
TÁC PHẨM
ĐỘC GIẢ
Mô hình mối quan hệ giữa nhà văn, tác phẩm và độc giả
Qua đó ta có thể thấy, nhà văn là người tạo ra sản phẩm là tác phẩm văn học
để người đọc sử dụng sản phẩm sản phẩm này vào mục đích tinh thần. Các thành
tố trong chuỗi quan hệ này là một cá thể hoàn chỉnh vừa độc lập với nhau nhưng
cũng vừa tương tác lẫn nhau. Tác phẩm là cầu nối, là kênh thông tin gián tiếp của
nhà văn và người đọc. Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm văn học, khi trang cuối cùng
hoàn tất, tác phẩm thoát khỏi vòng tư tưởng của nhà văn và dịch chuyển đến một
đời sống mới đó là đời sống mà người đọc tạo ra cho nó. Người đọc là động lực để
nhà văn sáng tạo ra tác phẩm văn học, người đọc đánh giá nhà văn thông qua đánh
giá tác phẩm văn học tạo nên những dư luận trong đời sống tiếp nhận của tác phẩm
văn học, nhà văn tiếp thu những ý kiên đó để có những định hướng sáng tác phù
hợp với nhu cầu của người đọc. Mặt khác, nhà văn cũng truyền đi thông điệp của
mình đến với người đọc thông qua tác phẩm, người đọc tiếp cận tác phẩm văn học
và bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi đời sống tinh thần mà nhà văn xây dựng trong tác
phẩm văn học. Tất cả các thành tố trong qua trình tương tác này đều quan trọng và
có vị trí không thể thay thế trong chỗi tương tác làm nên khái niệm văn học.
5.
Chân trời chờ đợi
Chân trời chờ đợi còn được biết đến là tầm đón đợi (tiếng Đức
Erwartungshorizont, tiếng Pháp dịch là Horizon d’attente, tiếng Anh dịch là
Horizon of expectation) là thuật ngữ được Karl Manheim, nhà triết học và xã hội
học người Đức, đề xuất. Là người kế thừa truyền thống tư tưởng thông diễn học
mà cụ thể là những luận điểm của Gadamer, Jauss đề xuất khái niệm tầm đón đợi,
nhưng vận dụng nó không cố định, bất biến mà luôn hiệu chỉnh, mở rộng qua
những công trình trong những bối cảnh và triển vọng lí thuyết khác nhau. Lần đầu
tiên Jauss đề cập đến khái niệm này là vào năm 1959, trong công trình nghiên cứu
về lịch sử văn học trung cổ viết chungvới Erich Köhler đăng trong tập san German
Reseach Association, số 13. Trong đó, Jauss cho rằng để thâm nhập vào nền văn
học trung cổ cần một phương pháp mới, đó là nghiên cứu “tầm đón đợi” (the
horizon of expectaion) hoặc “bối cảnh đời sống” (place in life) và “lịch sử chức
năng của các thể loại văn học” (the history of the function of literary genres)
Hans Robert Jauss vận dụng khái niệm trên vào nghiên cứu văn học. có thể
định nghĩa khái niệm chân trời chờ đợi của người đọc là hệ thống những chuẩn
mực và hệ quy chiếu của công chúng văn học vào một thời điểm lịch sử nhất định,
xuất phát từ đó mà việc đọc, thẩm bình và đánh giá một tác phẩm được tiến hành.
Theo Jauss, “hệ quy chiếu này bao gồm ba nhân tố chính: kinh nghiệm thường
thức mà công chúng sẵn có về thể loại của tác phẩm; hình thức và hệ chủ đề của
những tác phẩm nổi tiếng trước đó mà tác phẩm này kế thừa; sự đối lập giữa ngôn
ngữ thi ca với ngôn ngữ thực tiễn, giữa thế giới tưởng tượng với thực tế hàng
ngày”.
Jauss cho rằng chân trời chờ đợi có thể hiểu như là phạm vi những dữ kiện
của kinh nghiệm văn học trong mối tương tác với kinh nghiệm sống có trước làm
tiền đề cho sự tạo nghĩa và sự diễn giải, có nghĩa là làm cho những yếu tố ngôn
ngữ, hình ảnh, không gian, sự kiện… của tác phẩm hiện ra và được hiểu trong một
văn cảnh kinh nghiệm. Kinh nghiệm văn học trước hết bao gồm sự hiểu biết về thể
loại văn học, đề tài văn học và ngôn ngữ văn học. Nhưng đặc biệt là sự hiểu biết về
bản chất hư cấu của văn học. Những yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, sự kiện chỉ được
hiểu ở góc độ ý nghĩa văn học nếu người đọc hiểu về bản chất hư cấu của văn học.
Kinh nghiệm sống là tri thức về thực tại, về ngôn ngữ đời sống có trước làm tiền đề
tạo nên sự đối sánh giữa hư cấu và thực tại, ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ thực dụng
hằng ngày trong quá trình tiếp nhận. Ở đây, kinh nghiệm văn học là trung tâm,
nhưng trên cơ sở tiền đề là kinh nghiệm sống, Jauss tiếp nhận tư tưởng này
Husserl.
Kế thừa Gadamer, Jauss cho rằng trong văn bản cũng có một chân trời chờ
đợi đề xuất một phạm vi diễn giải ý nghĩa gợi ý cho người đọc nó. Trong quá trình
đọc, tầm đón đợi nơi người đọc tự thiết lập và hiệu chỉnh liên tục trong sự tương
tác với tầm đón đợi của văn bản.
Đồng ý với Stempel, Jauss cho rằng “nếu mỗi chân trời chờ đợi có trước của
văn bản là đồng vị quy chiếu (paradigmatic isotopy) được chuyển hóa thành tầm
ngữ đoạn nội tại của những đón đợi theo từng bước triển khai của cách viết, thì quá
trình tiếp nhận có thể mô tả được thành một sự triển khai của hệ thống kí hiệu, sự
triển khai tự thực hiện mình giữa phát triển và hiệu chỉnh hệ thống”. Văn bản chỉ
có thể được giải nghĩa như một hệ thống kí hiệu khi những chỉ dẫn của nó (chân
trời chờ đợi có trước trong văn bản) được người đọc ý thức và đoán đợi (chờ đợi
trong sự phác thảo trước, tiên đoán trước – theo quan điểm của Heidegger) những
gì xảy ra tiếp theo. Người đọc vừa hồi tưởng lại dữ kiện kinh nghiệm trong quá
khứ, vừa tiếp thu những dữ kiện mới, vừa giải nghĩa và hiệu chỉnh phạm vi dữ kiện
của mình.
Theo Jauss, chân trời chờ đợi nơi chủ thể tiếp nhận thể hiện mình qua những
quan hệ tương tác trong quá trình tiếp nhận: tương tác giữa kinh nghiệm văn học
và kinh nghiệm sống, tương tác giữa văn bản và người đọc tạo nên sự vận dụng và
sự tự hiệu chỉnh chính nó trong quá trình đối thoại với những chỉ dẫn mà văn bản
văn học gợi ra. Hai quan hệ tương tác này diễn ra đồng thời, thẩm thấu vào nhau.
Chính trong tương tác với văn bản mà kinh nghiệm đọc được khơi gợi lại, những
dữ kiện kinh nghiệm về thể loại, đề tài, ngôn ngữ trở thành tiền đề cho việc tiếp
nhận văn học. Nó tạo điều kiện để người đọc phát hiện và giải nghĩa ý nghĩa của
văn bản.
Khái niệm chân trời chờ đợi nói lên khoảng cách và sự đứt quãng trong mối
quan hệ giữa tác phẩm và người đọc đương thời. Ở đây, có thể dẫn đến sự va chạm,
thậm chí xung đột, giữa chân trời chờ đợi của công chúng với chân trời mà tác
phẩm đề xuất từ đó xuất hiện những khả năng: giữa hai chân trời có sự nhượng bộ,
chấp nhận lẫn nhau hay sự phản ứng do những khác biệt và mâu thuẫn không hóa
giải được.
Nghiên cứu tiếp nhận văn học chính là khảo sát mối quan hệ giữa chân trời
chờ đợi của tác phẩm và chân trời chờ đợi của độc giả.
Chân trời chờ đợi tham gia vào quá trình tiếp nhận trên cơ sở sự tương
tác giữa kinh nghiệm văn học và kinh nghiệm đời sống làm chuyển hóa kinh
nghiệm thẩm mĩ và kinh nghiệm sống của chủ thể.
Kinh nghiệm văn học chủ yếu thể hiện qua năng lực giải mã ngôn ngữ và
năng lực tưởng tượng tổng hợp. Hai năng lực này quyện thấm vào nhau, soi chiếu
cho nhau trong quá trình đọc, mà theo Jauss, chúng cũng là cái mà người sáng tác
phải tính đến để định hướng người đọc. Ở bình diện năng lực giải mã ngôn từ nghệ
thuật, Jauss cho rằng có sự đối kháng giữa ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ thực dụng
hằng ngày mà người đọc nhạy bén luôn tiềm tàng khả năng so sánh. Điều này có
nghĩa là, trong quá trình tiếp nhận, nếu người tiếp nhận giải mã ngôn ngữ dựa trên
kinh nghiệm ngôn ngữ hằng ngày, anh ta sẽ xem điều được nói của văn bản là
thông báo đích thực của con người công dân nhà văn, cái thông báo quy chiếu vào
thực tại lúc nói; nếu như từ kinh nghiệm ngôn ngữ hằng ngày, người tiếp nhận hình
dung nó là ngôn ngữ thi ca, như Jakobson nói, là thứ ngôn ngữ hướng vào chính
nó, anh ta sẽ hướng vào chính bản thân văn bản để hình dung những khả năng
nghĩa và cảm nhận những cảm xúc thẩm mĩ từ hình thức ngôn từ.
Mặt khác, trong thực tế quá trình tiếp nhận, người tiếp nhận phải dựa vào
những trải nghiệm đời sống có trong kí ức mình làm vật liệu cho sự tưởng tượng.
Nguy cơ đồng hoá đối tượng của sự hồi ức kinh nghiệm của thực tại đời sống
thành đối tượng của nhận thức thẩm mĩ vừa hạn chế năng lực tưởng tượng thẩm mĩ
vừa kéo nhận thức thẩm mĩ trở về với nhận thức thực tại và nhận thức đạo đức.
Chính ở điểm này, theo Jauss, xuất hiện “sự đối kháng giữa hư cấu và thực tại, sự
đối kháng đóng vai trò như một khả năng so sánh luôn sẵn sàng được người đọc
nhạy bén vận dụng trong suốt quá trình đọc”. Theo Jauss, đặc điểm này cũng “bao
hàm khả năng mà một người đọc tác phẩm mới có thể chỉ hiểu tác phẩm trong tầm
đón đợi văn học hạn hẹp, cũng như là trong tầm kinh nghiệm đời sống phong phú
hơn bản thân tác phẩm”. Theo Jauss, trong nhận thức thẩm mĩ, cái hư cấu và cái
thực tại đối sánh, đối kháng và thấm quyện vào nhau trong quá trình tiếp nhận từng
hình ảnh, từ ngữ của tác phẩm. Cái thực tại được hình dung trên cơ sở kinh nghiệm
sống của cá nhân, cái hư cấu được hình dung trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mĩ của
người tiếp nhận.
Như vậy là trong quan hệ tương tác giữa kinh nghiệm văn học và kinh nghiệm
sống khi chân trời chờ đợi thực hiện mình, chỉ khi người tiếp nhận vượt qua giới
hạn kinh nghiệm sống của mình, nhìn nhận tác phẩm như một thế giới giả định,
vượt lên trên thực tại, trong một không gian của hư cấu và tưởng tượng, anh ta mới
không đặt nó trong quan hệ trực tiếp với thực tại khác trong đời sống con người và
xã hội, và vì thế, sẽ không nhìn nhận nó bằng con mắt của thực tiễn đời sống xã
hội. Đó cũng là lí do mà Jauss đã đồng ý với câu nói của Friedrich Schiller: “Luật
của sân khấu bắt đầu ở nơi mà quyền hạn của luật thế tục kết thúc”.
Mối quan hệ tương tác giữa văn bản và người đọc.
Jauss cho rằng những chỉ dẫn về thể loại, đề tài, về ngôn ngữ văn học gợi cho
người đọc sự quen thuộc từ những dữ kiện có trước để chờ đợi những diễn biến và
sự kiện xảy ra tiếp theo trình tự tuyến tính của tác phẩm. Và quá trình tiếp nhận là
quá trình giải nghĩa theo chiều tuyến tính cái hệ thống kí hiệu được mở rộng theo
trình tự thời gian đọc.
Một tác phẩm ban đầu gợi lên trong người đọc một tầm đón đợi với những
quy ước quen thuộc rồi sau đó từng bước phá vỡ, thay đổi và hiệu chỉnh tầm đón
đợi này, sẽ tạo nên những tác động có thể mô tả được về mặt thẩm mĩ đối với công
chúng đọc thời điểm tác phẩm ra đời. Don Quixote của Cervantes là một tác phẩm
như vậy. Thay vì đáp ứng sự chờ đợi của độc giả về những chiến tích của hiệp sĩ,
một đặc trưng của thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ lúc bấy giờ, thì nó từng bước đưa vào
những thất bại, phá vỡ tầm đón đợi của độc giả, và theo đó cho thấy ý nghĩa giễu
nhại sâu sắc cấu trúc thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ. Truyện Kiều ở Việt Nam cũng là
một tác phẩm như vậy. Thay vì đáp ứng sự chờ đợi của độc giả về một kết cấu hội
ngộ - tai biến - lưu lạc - đoàn viên trong hạnh phúc như các truyện thơ Nôm khác
(và như Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân) thì nó lại tạo ra một cái
kết mà ở đó nhân vật Kiều đoàn viên nhưng không hưởng hạnh phúc đôi lứa mà
sống cuộc đời tìm quên (“Chẳng tu thì cũng như tu mới là” – Truyện Kiều).
II.
TIẾP NHẬN CỦA BẠN ĐỌC
Mọi hình thái ý thức xã hội điều là sự phản ánh của thế giới khách quan, nhân
sinh quan thông qua chủ thể con người. Trong tầng ý nghĩa đó, sáng tác văn học
vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan, nó không đơn thuần chỉ là một
hoạt động phản ánh mà còn là một hoạt động sáng tạo. Sự sáng tạo vừa trực tiếp
vừa gián tiếp, để cuối cùng tác phẩm ra đời như nảy sinh trong cuộc sống một hiện
tượng hoàn toàn mới mẻ. Tác phẩm ra đời là một quá trình tích lũy, thai ngén, nhà
văn đưa tác phẩm tới tay bạn đọc như là đặt đứa con mà mình mạng nặng đẻ đau
với biết bao trăn trở… Liệu những gì gửi gắm trong tác phẩm có tìm được sự trân
trọng, đồng cảm của người đọc như là sự gặp gỡ giữa tri kỉ tri âm. Và rõ ràng, tác
phẩm là điểm tiếp xúc giữa thế giới bên trong của người nghệ sĩ với thế giới bên
ngoài hay nói cách khác, tác phẩm không là sự đứng yên trong sự tồn tại của nó,
nhờ vào sự tiếp nhận của người đọc mà nó có sức sống trường cửu, bất chấp thời
gian và không gian.
Nói đến sự tiếp cận trong văn học chúng tôi đề cập đến những vấn đề sau:
1.
Tiếp nhận- quá trình cuối cùng vòng đời một tác phẩm
Tác phẩm hình thành trong quá trình sáng tác nhưng năng lượng thẩm mĩ của
nó không phải là một cái gì đó nhất thành bất biến, mà ngược lại nó sẽ được sáng
tạo thêm, phong phú thêm khi trải qua sự tiếp nhận của người đọc.
Nhìn từ gốc độ biện chứng cho thấy, tác phẩm nghệ thuật bất kì chỉ kéo dài sự
sống khi sự tiếp nhận còn tiếp diễn. Tác phẩm nó không tĩnh tại trên những trang
viết như nhiều người đã lầm tưởng, không phải lúc nhà văn đánh dấu chấm câu
cuối cùng kết thúc tác phẩm là đồng nghĩa với việc họ đánh luôn dấu chấm hết cho
vòng đời tác phẩm ấy. Tác phẩm được sinh ra và hoà vào thế giới bên ngoài thì nó
chỉ mới bắt đầu vòng đời của nó như một đứa con mới lọt lòng mẹ vậy. Nó vận
động theo những quỹ đạo riêng vô hình, chỉ có điều quỹ đạo ấy được thực thi khi
chừng nào nó nhận được một lực lượng tác động từ bên ngoài, xã hội, của người
đọc…cái lực tác động ấy mạng tên “sự tiếp nhận”. Trong “Cánh đồng bất tận” của
Nguyễn Ngọc Tư cũng thế, chính vì chịu sự tác động mạnh mẽ nơi người đọc và xã
hội nên nó lại vận động theo nhiều chiều hướng khác nhau, có chủ thể tiếp nhận nó
ở bình diện tích cực về cuộc sống mưu sinh. Nhưng cũng có chủ thể tiếp nhận nó
tiêu cực ở bình diện đạo đức.
Nhờ có sự tiếp nhận của độc giả, tác phẩm có được thời gian và không gian cụ
thể, tiếp nhận và thưởng thức tác phẩm muôn màu muôn vẻ. Tuy nhiên sự tiếp
nhận đó của độc giả có sự khác nhau về nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, và đặc biệt
là cá tính, trình độ văn hóa của từng chủ thể tiếp nhận. Tác phẩm như một quả lắc
giao động điều hoà giữa người đọc và tác giả, từ đó tác phẩm nghệ thuật dần hình
thành những chân giá trị của nó ngay trong những rung động của đời, sự cảm của
người đọc. Một điều mà ta đễ thấy trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông đã hết
sức sáng tạo từ hình tượng, nhân vật, ngôn từ… dựa trên cốt truyện của tác phẩn
“Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, người Trung Quốc, tạo nên sự
phong phú cho nền văn học nước nhà.
Một tác phẩm từ khi nó được thai nghén tới khi nó được người nghệ sĩ sinh ra,
rồi đặt nó vào cuộc sống, thì tác phẩm ấy như mang một thân phận “làm dâu trăm
họ”.Có thể nói tác giả là người sinh còn độc giả là người dưỡng, vì vậy độc giả tiếp
nhận nó bằng cách nào, họ hiểu nó ra sao thì đó lại là sự sáng tạo riêng tư mà tác
giả không thể can thiệp hay nói cách khác nhà văn không thể giải thích tường tận
cho từng người ở từng nơi. Nhất là khi nhà văn không còn sống trên cõi đời này
nữa mà tác phẩm thì luôn còn lại với độc giả và nó vẫn tiếp tục cuộc hành trình gây
nhiều tranh cãi, bàn luận của nó để tạo nên sự đánh giá mới do ảnh hưởng của hoàn
cảnh lịch sử cũng như tâm lí tiếp nhận của những độc giả đến sau.
Khi một tác phẩm bước vào cuộc sống là đồng nghĩa với việc nó chịu sự mổ
xẻ, phanh phui của người đọc ở nhiều khía cạnh, bình diện tiếp nhận khác nhau.
Đọc một tác phẩm luôn là một sự sáng tạo lại, tuy nhiên điều này phụ thuộc vào
môi trường và thời đại cũng như tâm thế của người đọc khi tác phẩm xuất hiện
trong thời điểm tiếp nhận ấy.
Sự tiếp nhận của độc giả giữ vai trọng trong việc hoàn thiện và làm phong phú
tác phẩm.
Một tác phẩm hay nhưng không có độc giả hay sự tiếp nhận của độc giả hạn
chế thì tác phẩm cũng chỉ là những vệt đen trên tờ giấy trắng. Người đọc là người
trực tiếp tái hiện lại tư tưởng của nhà văn bằng tư duy của mình.
Toàn bộ cấu trúc của một tác phẩm bao gồm hình tượng, ngôn từ, cấu trúc…
không phải như một thành quả sản sinh mà như một đối tượng của sự cảm thụ,
thưởng thức và tiếp nhận. Và trong quá trình tiếp nhận đó người đọc thổi vào tác
phẩm một sức sống của thời đại mới. Đó là sự sáng tạo lại của người đọc.
Konstan viết: “không thể không quan niệm đời sống của tác phẩm văn học
trong lịch sử nếu không có sự tham gia của những người mà tác phẩm phục vụ”.
Tóm lại, một tác phẩm sẽ chết đi trong sự tĩnh lặng của thời đại nếu không có
sự tiếp nhận của người đọc. Sự tiếp nhận đó chính là sự kéo dài sự sống của tác
phẩm để nó đi vào, hòa vào dòng chảy liên tục của văn học, đời sống xã hội.
2.
Tính khách quan của tiếp nhận tác phẩm
Tiếp nhận tác phẩm được diễn ra trên hai bình diện: bình diện cá nhân và
bình diện lịch sử.
Tiếp nhận trên bình diện cá nhân, mang dấu ấn của đặc điểm tâm lí riêng,
trong một thời điểm và hoàn cảnh nhất định, vì vậy có thiên hướng chủ quan và
tính chất cá biệt. Ngay ở một con người, sự tiếp nhận một tác phẩm cũng có sự
thay đổi theo tuổi thơ, tuổi trẻ đến tuổi già, tùy vào tâm thế, kinh nghiệm sống, sự
lịch lãm…
Trên bình diện lịch sử, bị quy định bởi những điều kiện khách quan, tùy vào
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đó là sự gặp gỡ của một truyền thống văn
hóa này với tác phẩm của một truyền thống văn hóa khác. Chính sự tiếp nhận trên
bình diện lịc sử này tác động đến sự giao lưu, tiếp biến và hội nhập văn hóa.
Một thực tế mà chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan đó là vai trò của
tác giả và vai trò đồng sang tạo của độc giả, để từ đó độc giả mới có sự tiếp nhận
tác phẩm khách quan hơn. Thực ra trong quá trình thai ngén một tác phẩm đã có sự
xuất hiện của độc giả như Lalich nói: “cái bóng của độc giả đang cuối xuống ngay
sau lưng của nhà văn khi nhà văn ngồi trước tờ giấy trắng”. Quả thật vậy, khi nhà
văn viết một vấn đề gì đó thì họ tự đạt ra những câu hỏi cho mình như: “viết cái
gì?” tức là họ xác định tư tưởng; “Viết cho ai?” tức là khoanh vùng độc giả... rõ
ràng tầm quan trọng của độc giả đã có từ đó.
Trong quá khứ, những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, tác phẩm văn
học được xem là một thể thống nhất, không tách rời nội dung và hình thức, tác
phẩm văn học như một chinh thể đã hoàn thành và bất biến, nó không phụ thuộc
vào người đọc có đọc hay không, tiếp nhận và hiểu nó như thế nào. Người đọc tiếp
nhận nó như một sự quy chụp, áp đặt của tác giả, cái mà người đọc tiếp nhận và
hiểu chỉ là nguyên ý của nhà văn. Người ta tuyệt đối hóa vai trò của tác giả. Cho
đến những năm gần đây, người ta mới công nhận rằng người đọc là lực lượng đồng
sáng tạo với tác giả, và sự tiếp nhận theo đa chiều, tùy theo cảm nhận của mỗi
người, tiếp nhận theo hướng mở.
Như vậy nếu tiếp nhận tác phẩm mà không có sự sang tạo thì tác phẩm chỉ là
sự tồn tại chứ không phải là sự sống.
3.
Tính khuynh hướng xã hội
Tiếp nhận văn chương không chỉ mang tính khách quan, mà con mang tính
chủ quan, cá nhân sâu sắc, nó gắn chặt với tình cảm và thị hiếu của mình và do đó
mà họ có thể thích, hứng thú với nhân vật này, tác phẩm kia và ngược lại. Tiếp
nhận văn chương tuy mang dấu ấn cá nhân sâu sắc nhưng chưa bao giờ là hoạt
động thoát ly khỏi điều kiện lịch sử xã hội. Hoạt động nghệ thuật luôn luôn là hoạt
động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ. Khuynh hướng xã hội, đời sống
thực tế sẽ chi phối mạnh mẽ đến quá trình tiếp nhận văn chương của mỗi cá nhân.
Mỗi cá nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho tác phẩm không chỉ cái tôi
mà còn là cái ta. Họ cắt nghĩa tác phẩm trên lập trường giai cấp lợi ích xã hội. Lấy
ví dụ như trường hợp trong việc tiếp nhận Thơ mới ở Việt Nam (chúng tôi có nói
rõ hơn ở phần sau). Như Kharavchenko nói: “mỗi thời đại riêng thường thích hợp
với những sắc điệu khác nhau trong tác phẩm nghệ thuật với những phương diện
khác nhau của khái quát hình tượng của nó”.
4.
Tính sáng tạo trong tiếp nhận
Tiếp nhận là khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo - giao tiếp của văn
chương. Không có tiếp nhận thì không có đời sống của tác phẩm. Tác phẩm chưa
được sử dụng thì đó chưa phải là sản phẩm đích thực của sản xuất tinh thần. Nhưng
tác phẩm - người sáng tác và người đọc là hai việc khác nhau. Nhà văn và bạn đọc
không phải là những người đồng sáng tạo tiếp nhận phải là công việc sau khi văn
bản tác phẩm đã thoát ly khỏi nhà văn và tồn tại như một hiện tượng, một sự vật
độc lập khách quan. Ðộc giả chỉ tiếp xúc với tác phẩm là kết quả của quá trình sáng
tạo của nhà văn chứ không phải cùng tham gia viết tác phẩm.
Tiếp nhận văn chương không phải là đồng sáng tạo, nhưng cũng không đơn
giản là hoạt động thụ động. Hoạt động tiếp nhận văn chương có tính tích cực chủ
động sáng tạo của nó. Tính tích cực chủ động sáng tạo của người đọc là ở chỗ bằng
năng lực cá nhân, kinh nghiệm cá nhân, thị hiếu thẩm mĩ, lập trường xã hội, người
đọc tiếp cận tác phẩm, cố gắng làm sống dậy hình tượng, khôi phục những nét lờ
mờ, phần chìm của tảng băng, tầng ngầm của toà lâu đài, của hệ thống hình
tượng… từ đó thâm nhập vào chiều sâu tác phẩm nhận ra ý nghĩa khái quát của
hình tượng. Lúc đó, hình tượng từ tác phẩm sống dậy trong lòng người đọc. Ở mỗi
người đọc có một hình tượng nghệ thuật riêng. Có thể lấy ví dụ như việc Ðỗ Ðức
Hiếu đã nói về tính sáng tạo của người đọc như sau: “đọc văn chương có nghĩa là
tháo gỡ các ký hiệu văn chương trong văn bản, là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm
thông qua các cấu trúc của văn bản (cốt truyện, kết cấu, nhân vật, đối thoại, không
gian, thời gian…) đọc là tổng hợp các khâu của việc đọc - cảm tưởng, phân tích,
đối chiếu, tổng hợp, đánh giá… là phát hiện và sáng tạo, phát hiện trong văn bản,
một thế giới khác, những con người khác, và người đọc sẽ sống trong một thế giới
tưởng tượng của mình, thông qua tác phẩm, xây dựng cho mình một thế giới
riêng”. Đọc có nghĩa là chuyển đổi tác phẩm thành một vũ trụ tình cảm, cảm xúc,
tư duy, tình cảm riêng của mình.
III.
SỐ PHẬN LỊCH SỬ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC QUA LĂNG
KÍNH TIẾP NHẬN
Sau khi nhà văn hoàn tất văn bản tác phẩm thì, tác phẩm nghệ thuật bắt đầu
trôi nổi trong dòng đời và đón nhận số phận lịch sử của mình. Có tác phẩm vừa
mới ra đời, ngay lập tức được người đọc vồ vập nâng niu, nhưng sau đó bị lãng
quên. Có tác phẩm vừa ra mắt đã bị hắt hủi, lãng quên nhưng sau đó lại được “khai
quật” và trân trọng. Có tác phẩm đời sống của nó êm ả hoặc sáng chói lâu dài, có
tác phẩm sống dật dờ, mờ mờ ảo ảo. Cũng có tác phẩm cùng trong một thời đại
nhưng bạn đọc, người ghét, kẻ yêu, người khen, kẻ chê. Lại có tác phẩm hoặc được
yêu hoặc bị ghét vì ý đồ nhà văn một đằng mà người đọc hiểu một nẻo.
Heraclite đã từng nói: “không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông”. Một
tác phẩm nghệ thuật nói chung và tác phẩm văn học nói riêng cũng là một dòng
sông, qua mỗi không gian và thời gian khác nhau thì nó sẽ mang một năng lượng
khác nhau dưới tác động của lịch sử.
Một tác phẩm nếu muốn đánh giá đúng giá trị thì phải tìm hiểu cả lịch sử sáng
tác và lịch sử tiếp nhận của nó. Người nghiên cứu có thể dựa vào mối liên hệ giữa
người đọc và tác phẩm cũng như người đọc và nhà văn để phục hiện chân dung và
cơ thế sống động của tác phẩm trong tính lịch sử của nó.
Khi đến với người đọc, tác phẩm bước qua cánh cửa tưởng tượng của người
đọc và khi qua cánh cửa đó nghĩa là tác phẩm đã không còn là văn bản ban đầu của
nhà văn. Tác phẩm giờ đây là sự hợp thành của một hệ số mới do thời gian và công
chúng quy định. Hệ số đó biểu hiện cho những biến đổi hoàn cảnh lịch sử cùng
những biến đổi về kinh nghệm sống, quan niệm về văn hoá, xã hội và tâm lý của
người đọc. Như vậy, tác phẩm giờ đây đã trở thành một siêu văn bản.
Trước một văn bản có hai trường hợp xảy ra. Một là độc giả soi chiếu những
chuẩn mực riêng lên văn bản. Hai là, họ điều chỉnh lại quan điểm và chuẩn mực
của chính mình.
Theo quan niệm của Wolfgang Iser: “văn bản hư cấu không đồng nhất với
những tình huống thực, nó không có một bản sao chính xác nào trong thực tế. Về
phương diện này, nó hầu như có thể được xem là không có hoàn cảnh xác định,
mặc dù vẫn có bối cảnh lịch sử đi kèm. Và như vậy có thể nói chính xác rằng, tính
chất mở này khiến cho văn bản có thể tương thích với những tình huống khác nhau
mà độc giả tạo nên trong sự tiếp nhận riêng của họ. Tính chất mở trong văn bản hư
cấu chỉ có thể biến mất trong hành động đọc. Chỉ trong hành động đọc, tính chất
không xác định mới được thay thế bằng ý nghĩa” (D. Fokkema, E. Ibsch: Sđd,
trang 146)
Hầu hết các tác giả không thể chi phối được ý nghĩa và số phận lịch sử của tác
phẩm văn học. Lịch sử văn học đã chứng kiến những trường hợp trước cùng một
tác phẩm đã có nhưng lý giải khác nhau, nhiều cách tiếp nhận khác nhau, gây ra
nhiều tranh cãi trong dư luận.
Như tiểu thuyết đầu tay của J.D.Salinger, Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in
the Rye,1951) đã gây tranh cãi lớn trong nền văn học Mỹ vì sử dụng nhiều từ ngữ
tục tĩu, mô tả tâm lý chán chường của thanh niên thời đó. Tiểu thuyết từng bị cấm
trong các trường trung học vì là hình tượng cho sự nổi loạn. Thế nhưng, cho đến
năm 1981 nó đã trở thành một trong những tác phẩm được giảng dạy nhiều nhất ở
Mỹ. Hay Lolita (1955) cũng là một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhiều nhất
của nền văn học thế kỷ XX, vì nhà văn V. Nabokov đã đề cập đến một vấn đề hết
sức nhạy cảm là “tình dục trẻ em”. Xuyên suốt tiểu thuyết là lời tự sự của người
đàn ông lớn tuổi Humbert Humbert, có khao khát tình dục với một bé gái 12 tuổi
nhưng sớm phát triển về giới tính.Vào những năm 1955 khi Lolita được Vladimir
Nabokov "thai nghén" và công bố thực sự là một kỳ tích. Dù cho ông đang sống ở
nước Mỹ, nơi mà chúng ta luôn mặc định trong đầu là nơi tự do và hiện đại nhất
thế giới, cũng từ chối việc xuất bản cuốn sách bởi nội dung của nó bị cho là “thô
tục, bẩn thỉu, loạn luân”. Câu chuyện kể về một ông già luôn bị ám ảnh bởi những
“tiểu nữ thần”, si mê cô gái nhỏ Lolita 12 tuổi - một cô gái có quan hệ với ông chỉ
vì muốn được làm người lớn, được sống trong dục tình. Rõ ràng rằng dù ở xã hội
nào và thời cuộc nào đi chăng nữa thì mối quan hệ này cũng khó có thể chấp nhận
được. Vậy nên chỉ đến khi Nabokov gặp được một chủ nhà xuất bản luôn thích
những thứ giật gân hay nói một cách chính xác hơn là “ba phần tư ấn phẩm là sách
khiêu dâm rẻ tiền” thì cuốn sách mới được xuất bản. Ngay cả khi Lolita đã được
Olympia Press xuất bản thì cũng chính thức bị Hải quân Anh cấm nhập cảng từ
Pháp. Về phía Pháp, bộ Nội Vụ nước này cũng ban lệnh cấm lưu hành cuốn sách.
Lolita nổi tiếng đến nỗi về sau cái tên này dùng để ám chỉ những bé gái dậy thì
sớm.
Trong cảm thụ và phê bình văn học, có một thực tế không thể chối cãi được là
có thể có những cách lí giải và đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về tác
phẩm nhưng không phải chỉ có một cách lí giải và đánh giá được coi là đúng đắn
còn những cách lí giải khác đều sai. Không ai có thể xem mình là người đọc quyền
chân lý và có thể đưa ra nhưng kết luận sau cùng về tác phẩm, kể cả đó là nhà phê
bình tầm cỡ. Ðôi khi nếu xem xét vấn đề này trên một bình diện lịch sử rộng lớn
thì số lượng khá đáng kể những cách lí giải không giống nhau nhiều khi hóa ra lại
là tương đối đúng.Và đây cũng chính là sự khác biệt quan trọng trong việc xác định
những giá trị giữa văn học nghệ thuật với các ngành khoa học chính xác khác. Dĩ
nhiên nói như thế không có nghĩa là mọi sự đánh giá tác phẩm đều đúng đắn và
gần với chân lí nghệ thuật. Khẳng định vai trò của người đọc, khẳng định nhu cầu
tinh thần và thẩm mĩ của thời đại trong việc đánh giá, thưởng thức tác phẩm là cần
thiết và là một thực tế nhưng cần nhớ mọi sự thẩm định đều không thể tách rời với
những yếu tố cấu tạo nên tác phẩm. Thiếu một thái độ chân thành, đồng cảm và
khách quan, người đọc khó có thể tiếp cận và đánh giá đúng đắn những giá trị đích
thực của tác phẩm văn học.
Trong sự biến động muôn màu muôn vẻ của đời sống, có thể do lý do nào đó
mà tác phẩm nhất thời nó bị quên lãng, nhưng về sau lại người ta lại phải nhớ đến
nó. Tác phẩm bị xếp xó một thời và tái sinh rực rỡ.Tức thuộc về những gì người ta
phải đọc mãi.
Trong văn học Việt Nam, vấn đề xác định giá trị của những tác phẩm thuộc
dòng văn học lãng mạn giai đoạn 1930-1945 cũng là một bằng chứng tiêu biểu cho
vai trò của thực tế văn hóa- xã hội- lịch sử trong việc cảm nhận văn học. Ngay từ
khi những bài thơ đầu tiên của phong trào Thơ mới ra đời, một tầng lớp công
chúng mới, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những quan niệm mới về
văn học đã nhiệt tình ủng hộ và đánh giá cao thì đồng thời cũng chịu sự phản ứng
quyết liệt của những nhà Nho cũng như những người đọc đã quen với những chuẩn
mực của thơ ca cổ điển. Nếu có thể coi những năm từ 1936 - 1945 thơ ca lãng mạn
được đánh giá là những tác phẩm có giá trị, thì sau năm 1945 cho đến những năm
đầu của thập kỉ 80, tình hình lại hoàn toàn thay đổi. Do hoàn cảnh chiến tranh với
những điều kiện sống khó khăn, ác liêt, do nhận thức mục đích quan trọng nhất của
lịch sử không phải là vấn đề số phận cá nhân, mơ mộng của con người mà là vấn
đề đôc lập dân tộc, vấn đề giải phóng giai cấp...văn học lãng mạn nói chung và thơ
mới nói riêng đã bị xem là một bộ phận văn học tiêu cực, có hại cho cách mạng...
Ở giai đoạn này, không phải chỉ những nhà phê bình phủ nhận văn học lãng mạn
mà ngay chính những nhà thơ lãng mạn đã tham gia vào cuộc kháng chiến như
Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Ðoàn Phú Tứ...
cũng đã lên tiếng phủ nhận tác phẩm của mình. Từ 1986 trở lại đây, do sự thay đổi
của hoàn cảnh xã hội, những tác phẩm của dòng văn học lãng mạn lại được đánh
giá cao với một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc. Người đọc nói chung và giới nghiên
cứu phê bình nói riêng lại phát hiện ở Thơ mới cũng như ở những tác phẩm của tổ
chức Tự lực văn đoàn những khía cạnh mới mẻ mà hình như trước đó người ta
chưa hề phát hiện và khẳng định bộ phận văn học này đã góp phần to lớn vào quá
trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nhìn ra thế giới lại có những tác phẩm của các nhà văn như: Racine, Ronsard,
Baudelaire, Apollinaire…đã từng bị chê bai, thậm chí là không được thừa nhận.
Một ví dụ tiêu biểu cho việc khảo sát tiếp nhận văn học là Vũ Trọng Phụng.
Văn nghiệp của Vũ Trọng Phụng là một thùng thuốc nổ, từng gây ra không ít cuộc
bút chiến kéo dài. Trước năm 1949, vấn đề tính dục trong sáng tác của Vũ Trọng
Phụng đã được nhiều ý kiến đề cập (Thái Phỉ, Kiều Thanh Quế, Vũ Ngọc Phan…).
Từ 1949 trở về sau, bên cạnh vấn đề đó, còn xuất hiện thêm những lăng kính soi
ngắm khác, như tính cách mạng, tính giai cấp, tính chiến đấu, hay ý thức hệ tư
tưởng trong sáng tác của ông. Nghĩa là, Vũ Trọng Phụng, cũng sớm được giới văn
nghệ sĩ cách mạng, giới phê bình văn học Mác xít để ý đến, nhất là cảnh giác trước
một số cây bút có thể lợi dụng việc diễn giải, đề cao các sáng tác của Vũ Trọng
Phụng để thực hiện “ý đồ chính trị” nào đó.
Tại Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc năm 1949, khi thảo luận về vấn
đề hiện thực xã hội chủ nghĩa, trả lời câu hỏi nếu chép đúng hiện thực thì đã được
gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa, nhà văn Nguyên Hồng đã đưa Số đỏ ra làm
trường hợp phân tích tiêu biểu, rồi ông nhấn mạnh quan niệm: “tả đúng không đủ,
phải có thái độ cách mạng”; nhà thơ Tố Hữu đồng tình cho rằng, sáng tác của Vũ
Trọng Phọng chưa thể hiện thái độ cách mạng, bởi vì những sáng tác ấy chi dừng
lại ở chỗ đả phá, chưa dẫn đến đâu cả, chưa vạch ra đường đi, chưa thấy hướng đi
lên của cuộc đời, “lối hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng chưa phải là hiện thực
xã hội", “Vũ Trọng Phụng không phải là nhà văn cách mạng, nhưng cách mạng
cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực xấu xa thối nát của xã hội lúc ấy”
(Văn nghệ số 17-18/1949). Vẫn giữ quan điểm từ năm 1949, khi viết tựa cho tiểu
thuyết Giông tố (Nxb. Văn nghệ, H, 1956), Nguyên Hồng lập luận: Vũ Trọng
Phụng “không nắm được thực tế cách mạng, sự sống thực tế đấu tranh cách mạng,
hiểu biết và nhìn thấy con đường đi của cách mạng. Cuộc cách mạng mà giai cấp
công nhân đương lãnh đạo lúc bấy giờ, Vũ Trọng Phụng chưa có một chỗ đứng
vững chắc và sáng suốt, dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà
nhìn, mà sống, mà chiến đấu với ngòi bút của anh".
Như vậy số phận tác phẩm văn học phụ thuộc rất lớn vào sự tiếp nhận của
người đọc. Qua sự tiếp nhận đó các thế hệ người đọc đã thổi sức sống của thời đại
mình vào tác phẩm, phát hiện lại, khám phá lại, làm cho nó không bao giờ già cũ
mà luôn luôn mới mẻ. Đọc tác phẩm là mở rộng những giới hạn của văn bản, đưa
nó vào những mối quan hệ với bối cảnh và tâm lý người tiếp nhận.
Nhưng nếu nói rằng người tiếp nhận ảnh hưởng toàn bộ đến văn bản là sai.
Bởi vì tự thân văn bản đã chứa những giá trị và ý nghĩa của nó chứ không phải
khoảng trống do người đọc, nhà nghiên cứu, phê bình gán nghĩa vào. Khi tiếp nhận
một văn bản, không chỉ có người tiếp nhận và bối cảnh tiếp nhận ảnh hưởng đến
văn bản mà cả người tiếp nhận và bối cảnh tiếp nhận cũng bị ảnh hưởng bởi chính
văn bản.
Giá trị của tác phẩm được xác định và ý nghĩa của nó được khai thác không
giống nhau một phần hết sức quan trọng là do các đặc điểm nội tại của nó, là do
tính mơ hồ, đa nghĩa ở nhiều phương diện, đặc biệt là ở tính chất và chiều sâu của
những khái quát nghệ thuật mà tác giả thể hiện trong tác phẩm.
Một trong những đặc trưng quan trọng của tác phẩm văn học là tính mơ hồ, đa
nghĩa và cũng từ đặc trưng này, người đọc khó nắm bắt được đầy đủ và đánh giá
thống nhất với nhau về một tác phẩm. Vấn đề này đã được các nhà lí luận, nghiên
cứu văn học đề cập đến từ lâu.Tạ Trân, nhà thi thoại đời Minh cho rằng: “Thơ có
chỗ khả giải, bất khả giải, bất tất giải, giống như hoa dưới nước, trăng trong gương,
không cần câu nệ tới dấu tích. Vương Sĩ Trinh cũng cho rằng thơ khó ở chỗ nếu
không giải thích được thì thơ vô vị, mà giải thích được thì thơ hết vị”.
“Nói một cách hình ảnh có thể xem tác phẩm văn học đi vào cuộc sống như
một quả pháo bông được bắn lên bầu trời. Bản thân nó phải có thuốc pháo và các
hợp chất hoá học khác mới tạo nên ánh sáng và màu sắc trên nền trời.Nhưng vẻ
đẹp đó còn phụ thuộc vào chính không gain và bầu trời: trong sáng hay u ám, có
ánh trăng hay không có ánh trăng, có sương mù hay không có sương mù…”
(Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, trang 211). Một ví dụ khác, một chiếc áo
thì có thiết kế, kiểu dáng, màu sắc riêng nhưng tuỳ vào hoàn cảnh, bối cảnh, mắt
thẩm mĩ của từng người mà đánh giá nó đẹp hay xấu.
Hay như trường hợp của bài thơ Tây Tiến, Tây Tiến vừa ra đời đã được bạn
đọc trong và ngoài quân đội chuyền tay, truyền miệng cho nhau, được đa số công
chúng yêu mến đến ngất ngây. Bài thơ được Nguyễn Huy Tưởng đem về Hà Nội
và được Xuân Diệu cho đăng ngay trên tạp chí Văn nghệ. Xuân Diệu nhận xét: đọc
Tây Tiến như ngậm nhạc ở trong miệng. Nhưng số phận bài thơ thật lắm truân
chuyên. Chỉ ít năm sau đó, Tây Tiến bị giới phê bình phê phán nặng nề. Tây Tiến
được xem như một dẫn chứng để phê phán khuynh hướng tiểu tư sản trong thơ
kháng chiến. Người mở đầu cho thái độ tiếp nhận này lại chính là Hoài Thanh. Bài
viết “Nói chuyện thơ kháng chiến” của Hoài Thanh phê phán Tây Tiến hết sức gay
gắt. Sau một thời gian dài bị vùi dập, đến thời kỳ đổi mới, người ta trở lại ca tụng
nó. Nhất là sau năm 1988, năm mất của Quang Dũng, bài thơ đã được chọn đưa
vào chương trình văn lớp 12. Đó là một sự ngầm công nhận giá trị nội dung và
nghệ thuật của Tây Tiến. Từ đó, nhiều bài viết ca ngợi Tây Tiến lại bắt đầu rộ lên,
minh oan cho Tây Tiến, phản bác lại những chỉ trích ngày xưa. Chỉ tiếc một nỗi,
Quang Dũng không còn sống đến lúc ấy.
Cũng có những tác phẩm khi ra đời trái ngược với thị hiếu xã hội, nhưng giá
trị của nó lại thay đổi xã hội theo định hướng của tác phẩm cũng như tác giả.
Những tác phẩm đó đã vượt lên bối cảnh xã hội để làm sáng lên tư tưởng vốn có
của mình. Lấy trong văn học thế giới, Cervantes (1547 - 1616) là nhà văn Tây Ban
Nha. Ông viết tiểu thuyết Don Quixote khi thời đại của lối sống hiệp sĩ đã qua rồi.
Trong thời đại công nghiệp, không ai còn sống theo kiểu đó nữa. Tuy nhiên, trong
xã hội lúc bấy giờ, không ít người nuối tiếc quá khứ một thời, cố bám víu lấy nó
bằng cách xây dựng cho mình những ảo vọng, những lí tưởng phù du, xa rời thực
tế. Họ say mê đọc những cuốn tiểu thuyết hiệp sĩ được bày bán nhan nhản trên hè
phố khiến cho đầu óc ngày càng mê muội. Cervantes nhận thấy rõ căn bệnh xã hội
này và tiểu thuyết Don Quixote ra đời là một thông điệp của nhà văn trước hiện
tượng đó. Tuy làm trái với hiện trượng xã hội lúc bấy giờ, nhưng tác phẩm vẫn
được người đọc đón nhận và yêu thích, trở thành một trong những tác phẩm hay
nhất mọi thời đại.
Điều cho thấy ý nghĩa khách quan nhiều khi không được quyết định bởi ý
nguyện của nhà văn mà là bởi tương quan tâm lý - xã hội nhất định. Phương thức
tư duy nghệ thuật có khả năng đúc kết chân lý đời sống trong một hệ thống nghệ
thuật hoàn chỉnh mà ý nghĩa của nó bao giờ cũng là sự kết hợp biện chứng giữa cái
ổn định với cái biến đổi, giữa cái cốt lõi tư tưởng với những thành phần nghĩa thêm
vào và bớt đi do sự vận động của tác phẩm trong không gian và thời gian.
Một điều cần quan tâm nữa là nội dung của tác phẩm văn học đã khúc xạ thế
nào qua lăng kính của các tác phẩm nghệ thuật có liên quan, việc này cũng đóng
vai trò nhất định khi nghiên cứu số phận lịch sử của tác phẩm văn học. Qua lăng
kính tiếp nhận tác phẩm văn học của các nhà đạo diễn và các tác giả kịch bản thì
tác phẩm văn học đã xuất hiện với một số phận khác. Và khi ấy, người viết kịch tài
năng cũng như nhà đạo diễn cũng hiển nhiên được xem là người đồng sáng tạo với
nhà văn. Có thể thấy ở Việt Nam nhiều tác phẩm văn học đã được chuyển thể thành
phim với góc tiếp nhận riêng của các nhà viết kịch bản, nhà đạo diễn thông qua
những đặc trưng của nghệ điện ảnh như: phim Đất phương Nam của đạo diễn
Nguyễn Vinh Sơn chuyển thể từ tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn
Đoàn Giỏi; phim Làng Vũ Đại ngày ấy của Phạm Văn Khoa đã lột tả toàn bộ cuộc
sống của làng quê Việt Nam đương thời dựa trên tổ hợp ba truyện ngắn: Chí Phèo,
Lão Hạc, Sống Mòn của nhà văn Nam Cao; gần đây thì ta có thể kể đến phim
Cánh đồng bất tận đã làm nên tên tuổi của Nguyễn Phan Quang Bình khi ông
chuyển thể một tác phẩm cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư; Kính Vạn Hoa của nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh khi đạo diễn Đỗ Phú Hải chuyển thành phim cùng tên cũng
nhận được sự quan tâm, ủng hộ của đông đảo khán giả… Rộng hơn, đối với những
bộ tiểu thuyết trường thiên hiện hữu trên thế giới như Chiến tranh và hòa bình của
L. Tolstoi; Sông Đông êm đềm của M. Sholokhov; Cuốn theo chiều gió của
Margaret Mitchell; cũng như Thần thoại Hy Lạp… thì sự khai thác của các nhà
điện ảnh là vô cùng. Cụ thể, như tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt mà Tạp chí Time
của Mỹ đã bình chọn nó là một trong những cuốn sách vĩ đại nhất mọi thời đại của
nhà văn Nga Dostoevsky, chẳng mấy ngạc nhiên khi có trên 20 bộ phim đã được
chuyển thể từ tiểu thuyết này, gần nhất là phim truyền hình năm 2007. Khi cho ra
đời những bộ phim từ những tác phẩm sẵn có, những người làm phim đã phải cố
gắng tìm ra những câu trả lời cho các vấn đề của thời đại mình. Gần hơn, ta xem
xét những bộ phim cùng được dựng từ tiểu thuyết cổ điển bậc nhất của văn học
Trung Quốc là Tam quốc chí, nó được chuyển thể thành nhiều bộ phim với nhiều
quan niệm, phương diện khác nhau (có thể kể một vài bộ phim: Tam quốc diễn
nghĩa, Thời niên thiếu của Gia Cát Lượng, Đại chiến Xích Bích, Anh hùng cái thế
Tào Tháo, Lữ Bố và Điêu Thuyền...). Tác phẩm của La Quán Trung chứa đựng cả
một “chân trời ý nghĩa” được nhà dựng phim dùng “mã nghệ thuật” của họ, đã
khám phá để thông qua ngôn ngữ điện ảnh họ truyền tải nội dung, tái hiện nó,
GS.TS Huỳnh Như Phương cũng đã nhận xét về tác phẩm Chiến tranh và hòa bình
như thế (sách Lí luận văn học, 2013). Đến đây ta có thể thấy, từ quá trình tiếp nhận
tác phẩm văn học các nhà đạo diễn cũng như các nhà viết kịch bản đã đi tiếp đến
quá trình sáng tạo để cho ra sản phẩm nghệ thuật riêng làm nên tên tuổi của họ, khi
ấy họ được xem là người đồng sáng tạo với nhà văn.
Cảm tác của nhà thơ về một kiệt tác nào đó lại một trường hợp khá phổ biến.
Như Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, chính là một kiệt tác mà nhiều tác giả
đã sáng tác văn chương dựa trên chất liệu của Truyện Kiều. Trong quan hệ giao lưu
văn hóa, ta thấy hiện tượng Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Hàn Mặc Tử,... có sự
tiếp nhận ảnh hưởng của thơ Lí Bạch. Khi nhắc đến đề tài tình yêu của những cặp
trai gái có cảnh ngộ éo le thì có thể nói Nhất Linh và Khái Hưng chịu ảnh hưởng
của A. Gide, như tác phẩm Bản giao hưởng đồng quê của A.Gide miêu tả tình yêu
của một giáo sĩ với cô gái mù xinh đẹp thì Gánh hàng hoa của Khái Hưng và Nhất
Linh lại là mối tình lãng mạn của cô gái bán hoa với một văn sĩ mù; Đặng Tiến có
nhận xét: “trực tiếp hay gián tiếp, Nhất Linh học được ở Gide giá trị của cảm giác,
phương pháp phát triển ngũ quan để tiếp nhận, để cưỡng đoạt hương vị của trần
thế. Nhất Linh học được ở Gide cách đầu tư tâm hồn vào sự phân tích, tra vấn hạnh
phúc... Đọc Đôi bạn, Bướm trắng, Dòng sông Thanh Thủy qua những im lặng đón
chờ hạnh phúc, ta không thể không nghĩ đến những món ăn trần thế của Gide…”
Đó là sự tiếp nhận có tính sáng tạo của các nhà thơ, nhà văn mà qua đó ta thấy
được sức sống vượt không gian và thời gian của tác phẩm nước ngoài, vừa cho
thấy khả năng dung hợp và sự phóng khoáng của văn học trong nước.
Vòng đời của tác phẩm văn học chỉ trọn khi người đọc tiếp nhận, khơi gợi ra
những lớp nghĩa còn ẩn trong nó. Tiếng vọng của tác phẩm ở những loại người đọc
khác nhau thì khác nhau, nó còn tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, công việc,
kinh nghiệm sống, tâm lý cá nhân,… mà mỗi người, mỗi tầng lớp sẽ đón nhận tác
phẩm văn học một cách riêng. Như tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã để
lại tiếng vang lớn trong lịch sử văn học Trung Quốc nói riêng và văn đàn thế giới
nói chung, nó luôn ẩn chứa những điều mới lạ, những lớp ý nghĩa tiềm tàng mà hậu
thế sẽ còn phải hì hụt tìm kiếm bởi những giá trị, những triết lý mà nó mang lại cho
cuộc sống là vô cùng. Ấy vậy, ở một khía cạnh nào đó một số ít người tiếp nhận lại
cho nó là hư cấu hình tượng nhân vật có phần thái quá. Vì thế, một tác phẩm văn
học dù đã trở thành một kiệt tác vẫn phải chịu sự đánh giá của độc giả theo thời
gian, không gian, tùy vào con người tiếp nhận. Bởi trong cuộc sống không có gì là
hoàn hảo, không có gì là được hết thảy mọi người cùng tôn vinh hay cùng chê
trách và số phận lịch sử của tác phẩm văn học cũng vậy, nó tồn tại lâu dài hay rồi
sẽ bị lãng quên, điều đó sẽ phần lớn phụ thuộc vào độc giả tiếp nhận tác phẩm ấy
như thế nào!
IV.
Tiểu kết
Văn học là một quá trình tương tác không ngừng từ khâu sáng tác của nhà văn để
tạo ra tác phẩm văn học hoàn chỉnh đến khâu tiếp nhận tác phẩm văn học của bạn
đọc. Nếu nói nhà văn như một người phụ nữ với bao nhiêu phẩm chất cao quý dể
thai nghén ra “đứa con ngôn từ” thì bạn đọc mới chính là nhân tố quyết định tuổi
thọ đứa trẻ vừa được sinh ra. Lịch sử văn học thế giới nói chung và Việt nam nói
riêng đã tô đậm thêm vai trò quan trọng của bạn đọc trong vòng đời của một tác
phẩm. Bước qua cánh cửa tưởng tượng của bạn đọc, một tác phẩm văn học có vô
vàn bộ mặt, vô vàn cách đánh giá. Tiếp hợp với bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng
tác, nền văn hoá… khác nhau mà ta có những cái nhìn khác nhau về tác phẩm. Có
những tác phẩm gây nên những dư luận trái chiều trong xã hội. Có những tác phẩm
từ buổi đầu chạng vạng bước ra đã bị bạn đọc lãnh đạm, chôn vùi sâu trong lớp
trầm tích quá khứ như một nàng công chúa bị giam hãm trong khu rừng u tối, một
ngày được đánh thức bởi chàng hoàng tử, để rồi sáng lên vẻ đẹp của nơi hiện tại,
con người; lại có những tác phẩm thay đổi cả những xu hướng xã hội bằng giá trị
nội dung của nó,… tất cả những tác phẩm sống đời sống lịch sử của nó đều nhờ
vào bạn đọc tiếp nhận như thế nào. Tất nhiên bản thân văn bản cũng sẽ tác động
vào bạn đọc, nhưng tác phẩm tác động được hay không thì cũng do nhận thức và
quan niệm của bạn đọc vào một thời điểm nhất định. Cho nên mới nói bạn đọc góp
phần quyết định vào số phận lịch sử của tác phầm văn học.
Theo G. Wienold “Phạm vi của nghiên cứu văn học bây giờ không chỉ là
những văn bản, dĩ nhiên càng không phải là văn bản dưới hình thức sách in. Phạm
vi nghiên cứu là toàn thể những quá trình sử dụng văn bản”.