ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
MÔN TIẾN TRÌNH VĂN HỌC
ĐỀ TÀI: CHỦ NGHĨA HIỆN SINH TRONG
VĂN HỌC
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Lê Ngọc Phương
Nhóm thuyết trình:
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 5 năm 2016.
1
MỤC LỤC
Dẫn nhập..................................................................................................................4
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH....................................4
1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học hiện sinh...........................................................4
1.2 Hai trường phái chính của triết học hiện sinh....................................................5
1.3 Những nội dung cơ bản của triết học hiện sinh ................................................5
1.3.1 Hiện sinh có trước bản chất...............................................................................5
1.3.2 Ý dục hầu như luôn chiến thắng trước trí năng của con người.............................5
1.3.3 Sự xung đột thường xuyên xảy ra..................................................................6
1.3.4 Sự âu lo...........................................................................................................7
1.3.5 Sự tự do..........................................................................................................7
CHƯƠNG II: CHỦ NGHĨA HIỆN SINH TRONG VĂN HỌC........................8
2.1 Hoàn cảnh ra đời chủ nghĩa hiện sinh ..............................................................9
2.2 Quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện sinh.................................................10
2.3 Đặc điểm chủ yếu..............................................................................................11
2.4 Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh...............................11
2.4.1 Tác giả Jean-Sartre và tiểu thuyết “ Buồn Nôn”............................................10
2.4.2 Tác giả Albert Camus và tiểu thuyết “ Kẻ xa lạ”............................................11
2.5 Vị trí và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ....................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Sách tham khảo
Trang wed tham khảo
2
DẪN NHẬP
Thế kỷ XX là thời đại bất tín, bất an và hoài nghi. Nằm trong sự vận động
của nghệ thuật luôn đi tìm cái mới nền văn học thế kỷ này đã chứng kiến một sự
bùng nổ của những trào lưu, tư tưởng. Chúng ta có nền văn học Khai sáng vào thế
kỷ XVIII và đến thế kỷ XIX là thời hoàng kim của hai dòng chủ lưu lãng mạn và
hiện thực cổ điển. Trước sự vận động rất nhanh của tư duy nghệ thuật khi qua thế
kỷ XX đã có đến hàng chục khuynh hướng và trào lưu văn học hình thành. Trong
số đó chúng ta phải kể đến chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hiện
sinh, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo,...
Nằm trong nền văn học của thế kỷ XX - Chủ nghĩa hiện sinh có nguồn gốc
từ một trường phái triết học: triết học hiện sinh. Vì vậy, khi nắm được những nội
dung cơ bản của trường phái triết học này ta sẽ có một cái nhìn bao quát, toàn cảnh
và là cơ sở quan trọng để tìm hiểu về quan điểm nghệ thuật cũng như những đặc
điểm chủ yếu của nền văn học đi theo Chủ nghĩa hiện sinh.
CHƯƠNG I: VÀI NÉT VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH
1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học hiện sinh
Triết học hiện sinh ra đời ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIX. Đó là lúc người ta
hoàn toàn bất ngờ khi trước mắt là một thực tại đổ nát sau những cuộc cách mạng
và chiến tranh. Kèm theo đó là sự thất bại của Napoleon và sự trở lại của dòng họ
Bourbons ở Pháp. Nền cộng hòa không được thiết lập... Tư tưởng hiện sinh ra đời
khi mà những tia sáng từ thời đại lý trí đã yếu ớt và không thể cưu mang niềm hy
vọng của con người, có những nỗi bi quan và những vấn đề của thời đại cần phải
giải quyết. Và tư tưởng hiện sinh ra đời để làm nhiệm vụ đó.
Các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trong thế kỷ XIX là Soren
Kierkegaard (1813-1855), Arthur Schopenhauer (1788-1860), Friedrich Nietzshe
(1844-1890) về sau được tiếp nối bởi Jean-Paul Sartre (1905-1980), Albert Camus
(1913-1960), Simone de Beauvoir (1908-1986) ở thế kỷ XX.
3
1.2 Hai trường phái chính của triết học hiện sinh
Triết học hiện sinh chia làm hai trường phái là hiện sinh hữu thần và hiện sinh vô
thần.
+ Hiện sinh hữu thần với đại diện là Soren Kiergeraard, Karl Jaspers, Gariel
Marcel: Giả thiết về sự tồn tại của Thượng đế và cho rằng có một Thượng đế vẫn
tồn tại.
+ Hiện sinh vô thần với đại diện là Friedrich Nietzsche, Jean-Paul Sartre,
Albert Camus: Không công nhận sự có mặt của Thượng đế, cho rằng con người
phải tự mình vươn lên cũng như tự mình chịu trách nhiệm cho mình. F.Nietzsche
nói “Chúa đã chết”.
1.3 Những nội dung cơ bản của triết học hiện sinh
1.3.1 Hiện sinh có trước bản chất
Con người sinh tồn và phát triển trong tư cách của một cá thể tự do, nhưng
sự tự do này không thật sự đem lại hạnh phúc mà chỉ tạo ra sự khốn khổ và khiếp
sợ. Cá nhân con người đã ý thức được sự tự do đó, dù mơ hồ và trách nhiệm về mặt
đạo đức với mọi hành động của mình. Xuất phát từ chỗ bản thân con người ý thức
được tự do cho nên không thể không cảm thấy mình là một người hoàn toàn xa lạ
trong một thế giới đầy sự xa lạ.
1.3.2 Ý dục hầu như luôn thắng thế trước trí năng của con người
A. Schopenhauer có nói: “Ý thức chỉ là bề mặt của tâm thức ta, về tâm thức
này, cũng như về quả đất, ta không biết bên trong mà chỉ biết cái vỏ”. Một ý dục
với sự thèm khát mãnh liệt và dai dẵng được tạo từ trong vô thức, thúc đẩy con
người đi tới.
Con người càng có nhiều ham muốn, càng nhiều ý dục thì con người sẽ càng
đau khổ. Thế giới là ý dục vì vậy thế giới đồng thời cũng là đau khổ, vì hầu như tất
cả các ý dục không bao giờ được thỏa mãn một cách trọn vẹn nhất. Cuộc sống của
4
chúng ta là một cái bẫy do ý dục giăng ra, ở đó con người sống trong một sự xấu
xa từ trong bản chất.
1.3.3 Những cuộc xung đột thường xuyên xảy ra
Theo các nhà hiện sinh, xã hội ngày càng mang tính duy lý quá cao, con
người cá nhân đã và đang bị tách ra khỏi cuộc sống trần thế, bị buộc phải sống theo
những tiêu chuẩn cao nhất định. Từ đây đã nảy sinh một hệ quả là xảy ra sự xung
khắc thường xuyên với Thượng đế, với thiên nhiên, với người khác và với chính
bản thân mình.
Xung đột với thiên nhiên, con người hiện đại đang tự mình từng bước xây
dựng những bức tường kỹ nghệ cao để ngăn chặn bản thân đến với một cuộc sống
tràn đầy sinh lực phù hợp với “thiên nhiên”. Để xử lý được những vấn đề này các
tác giả hiện sinh thường được thể hiện như một lời kêu gọi con người hiện đại cần
phải xa lánh cái trừu tượng để quay về với cụ thể, hiện thực và sự trọn vẹn.
Xung đột với người khác, trước sự phát triển ồ ạt về nhiều khía cánh khác
nhau như chia nhỏ lao động nhấn chìm con người trong chức năng của nền kinh tế,
chính quyền trung ương tập quyền ra đời,các hoạt động giải trí và thông tin phát
triển mạnh - tất cả những điều này đã đẩy con người vào “Đám đông cô độc” của
Riesman – hủy diệt cá tính của con người.Theo Berdyaev thì sự bộc lộ xung khắc
ra bên ngoài có gốc rễ từ tình trạng nô lệ, trong khi tự do là suy tư về mối xung
khắc ấy. Đây là một đề tài quan trọng khác của văn chương phương Tây mà các
nhà hiện sinh thời đại chúng ta vẫn đang làm nhiệm vụ là khôi phục lại sự phản
kháng đó trước những khuôn mẫu hoặc những thế lực nào đang manh nha hình
thành có ý định dập tắt đi sự tự tại trong đời sống cá nhân con người.
Xung khắc với bản thân, con người hiện đại đã quá đề cao lý trí mà vô tình
để quên bản chất của chính mình, đây là một đề tài đóng vai trò quan trọng trong
sự nổi loạn của chủ nghĩa lãng mạn. Sau cuộc Đệ chiến thứ nhất, người hùng biến
mất, con người trở nên trống rỗng, bất lực và vô danh, là kẻ yếu đuối, luôn bị đè
nặng bởi nỗi sợ hãi khôn tả.
Xung khắc với Thượng đế được thể hiện qua câu nói của Friedrich
Nietzsche: “Thượng đế đã chết”. Câu nói này đã cho chúng ta thấy sự trống rỗng,
5
một sự thiếu vắng điểm tựa về tâm linh,mà chính điều này cũng đã tạo nên một
tiếng vọng lớn trong những tác phẩm của các nhà hiện sinh. Để khi lên đến đỉnh
điểm, sự thiếu vắng đó đưa con người ta bước vào một cuộc chạm trán, đụng mặt
đó là: chạm trán với cái hư vô.
1.3.4 Sự âu lo
J-P.Sartre gọi nỗi âu lo đang đè nén con người hiện đại là “nỗi thống khổ của
Abraham”. Các nhà hiện sinh cho rằng tự thân mỗi con người cũng phải thực hiện
những quyết định luân lý trong cuộc đời và do chính sự lựa chọn đó, họ sẽ phải
gánh chịu nỗi thống khổ tương tự như Abraham.
1.3.5 Sự tự do
Với J.P.Sartre thì tự do có nghĩa là tự do lựa chọn bởi vì con người là sinh
linh duy nhất có thể tự vượt qua chính mình. Chính vì không có Thượng đế mang
lại cứu cánh cho vũ trụ, cho nên mỗi người phải nhìn nhận trách nhiệm cá nhân,
đây là một gánh nặng sẽ trở nên nặng nề hơn, vì khi chọn lựa cho chính mình, anh
ta cũng đồng thời chọn lựa cho tất cả những người khác “một hình ảnh con người
mà anh ta phải là”. Con người là toàn bộ các hành vi làm nên đời sống anh ta không hơn, không kém - và dẫu cho một kẻ đớn hèn đã tạo nên mình một cách hèn
mạt, thì lúc nào cũng có thể tự mình thay đổi để biến thành kẻ anh hùng. Trong thế
giới của J.P. Sartre, con người phải định hướng cho tiến trình trở thành của mình
trên lối đi hàng ngày của đời sống thường nhật.
Riêng các nhà hiện sinh hữu thần lại giải thích sự tự do của con người theo
cách khác đó là luôn luôn coi sự hiện diện của Thượng đế. Họ nhấn mạnh nhiều
đến đức tin hơn là ý chí, họ giải thích rằng tình trạng tồn tại của con người là một
tình trạng xung khắc với bản chất căn bản vốn có của anh ta, và vấn đề của anh ta
là phải hàn gắn giữa anh ta và bản chất. Đây cũng được coi là ý nghĩa của đức tin,
gần giống như đức tin của Abraham, sự hy sinh đớn đau ước mơ và báu vật yêu
thương nhất của chính mình theo ý Thượng đế.
6
CHƯƠNG II: CHỦ NGHĨA HIỆN SINH TRONG VĂN HỌC
2.1 Hoàn cảnh ra đời chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh chính thức được khai sinh vào năm 1927 với tác phẩm
“ Hữu thể và thời gian” của Heidegger, và thoái trào vào năm 1960 như một triết
thuyết với “Phê bình lý trí biện chứng” của J. S. Sartre.
Bằng các tên gọi khác nhau - chủ nghĩa hiện sinh (Sartre), triết học hiện hữu
(K. Jaspers), triết học về hiện sinh - triết học này có điểm chung cho tất cả các đại
diện là triết học về tồn tại của con người, bản thể luận về con người, là tất cả những
suy tư về thân phận con người, trước hết là con người cá nhân, cụ thể trong thời đại
khủng hoảng về giá trị, những nỗi đau, những lầm lạc và những khát vọng của con
người. Ra đời và phát triển tại các nước phương Tây, nhất là tai Đức và Pháp, sau
hai cuộc đại chiến thế giới (1914 - 1918, 1939 - 1945), triết học hiện sinh biểu thị
thái độ của con người trước những diễn biến không đồng nhịp của xã hội.
Nếu triết học cổ điển thể hiện tính tích cực tinh thần của con người, thì triết
học hiện sinh đặt ra vấn đề sự chịu đựng tinh thần của mỗi cá nhân trước những
biến động của đời sống, từ đó gợi ra một lối thoát cho họ. Trong “Thư về nhân bản
chủ nghĩa” (Ueber den humanismus) Heidegger đã “nâng cấp” khái niệm
“existentia”, tức tồn tại theo tiếng Latinh, thành một diễn đạt đặc trưng - Eksistenz,
hay Ek-sistenz, nhằm nhấn mạnh hiện thể “xuất tính thể’ của con người, phân biệt
với những tồn tại khác, những tồn tại mà Sartre cho là không thể sánh được với chủ
quan tính của con người (Sartre. Hiện sinh một nhân bản thuyết). Heidegger và
Sartre là hai đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ XX.
Theo Lê Tôn Nghiêm, Kinh ThánhKitô giáo, có phần mô tả số phận chìm nổi
của các vị tiên tri, các vị thánh, sự đày đọa Jesus Christ, đáng được xem là cội
nguồn sau xa của chủ nghĩa hiện sinh với tính cách là tiếng kêu bi thiết về số phận
con người. Thứ đến là Thánh Augustin, người nói nhiều đến những suy tư, xao
xuyến, lo âu, những kinh nghiệm đau đớn trong quãng đời phóng đãng, lầm lạc
trên con đường tìm về Thiên Chúa, khẳng định rằng tri thức sơ khởi và đầy đủ nhất
là sự tìm hiểu bản chất con người qua sự hiểu biết về Thiên Chúa. Tuy nhiên, ông
tổ thực sự của chủ nghĩa hiện sinh là S. Kierkegaard (1813 - 1855), người Đan
Mạch. Kierkegaard xuất hiện trên sân khấu triết học với tính cách là người phê
bình gay gắt thời đại. Khuynh hướng hiện sinh tôn giáo của Kierkegaard đặt ra câu
hỏi: tại sao tâm hồn con người bị khô kiệt ? Trả lời: vì những toan tính đầy tham
7
vọng của lý trí, vì sự mổ xẻ không thương tiếc, sự phân đôi bản chất con người
trong thời đại khoa học, vì cái nhìn cứng nhắc, máy móc đối với thế giới. Để phục
hồi nhân tính cần hiến mình cho tôn giáo - đó là chủ đề cơ bản của triết học
Kierkegaard. Triết học cần giúp con người trở về hệ thống các giá trị tôn giáo, vốn
bị chìm vào lãng quên từ thời Descartes. Triết học dẫn ta vào cảm thụ quan tôn
giáo, khắc họa chiều sâu tâm linh của con người.
Sự phản ứng của Kierkegaard đối với trật tự tư sản là sự phản ứng mang tính
lãng mạn. Bản thân sự hiện hữu của con người được phân tích từ góc độ thẩm mỹ đạo đức - tôn giáo. Các giai đoạn hiện hữu:
1. Giai đoạn thẩm mỹ đồng nhất với khoái cảm. Con người sống bằng những quan
tâm hiện tại, chưa biết lựa chọn. Giai đoạn này có ba chặng nhỏ là buồn chán toàn
diện, bạo dâm, trung gian (còn gọi là “mỉa mai”, là chặng liên kết thẩm mỹ và đạo
đức).
2. Giai đoạn đạo đức, thể hiện cuộc đấu tranh chống lại những đam mê cảm tính và
chế ngự chúng. Con người sống bằng nghĩa vụ, quan tâm đến nhau và cùng hy
vọng vào tương lai. Hạn chế của đạo đức là ở chỗ nó dễ ru ngủ con người, biến họ
thành một sinh vật máy móc, mù quáng tuân theo những quy luật, những môtíp đạo
đức định sẵn. Thay vì lựa chọn tự do là nỗi sợ hãi của cá nhân.
3. Giai đoạn tôn giáo, nơi hiện hữu của cá nhân thống nhất với Thượng đế. Đó là
sự chuyển sang lối sống tôn giáo, một bằng chứng về “nổi ô nhục và sự bất lực của
lý trí”. Con người phụng sự Thượng đế, cảm nhận sự an ủi nơi cuộc đời đau khổ,
song không bao giờ sánh ngang cùng Đấng tối cao. Quan niệm đó của Kierkegaard
nhằm chống lại Hegel, người đã duy lý hóa niềm tin vào Thượng đế.
Thế kỷ XIX là thế kỷ giai cấp tư sản ở nhiều nước phương Tây lần lượt giành
thắng lợi và củng cố chính quyền sau các cuộc cách mạng tư sản. Công nghiệp hóa
tư bản chủ nghĩa diễn ra đồng thời với sự phát triển của các ngành khoa học. Giai
cấp vô sản dần dần lớn mạnh trở thành một lực lượng chính trị đối lập với giai cấp
tư sản. Từ giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
mạnh với quy mô lớn. Đặc biệtcuộc cách mạng công xã Paris 1817 của tầng lớp
thợ thuyền.Vì vậy văn học gắn với ý thức hệ tầng lớp cần lao Và đó là những sự
manh nha đầu tiên của chủ nghĩa hiện sinh. Vào cuối thế kỷ XIX, để khi sang thế
kỷ XX chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện. Khi mà con người cảm thấy bất ổn với đời
8
sống. Hai cuộc chiến tranh thế giới xảy ra liên tiếp là thế chiến thứ nhất 1914 –
1918 và thế chiến thứ hai 1939 – 1945. Đã làm cho con người ta cảm thấy hoang
mang và con người tự đặt câu hỏi cho chính mình. Liệu những điều chúng ta luôn
tinh tưởng theo một lối mòn, theo một hệ thống có thật sự đúng hay không.
Khái niệm triết học phi lý là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh mà
những triết gia đại diện là Soren Kierkegaard ( Đan Mạch, 1813 – 1815),
M.Heidegger ( Đức, 1889 – 1976), Karl Jaspers ( Đức, 1883 – 1969)…Các triết gia
hiện sinh đều có tư tưởng chống lại hệ thống. Hệ thống là một khuôn khổ trừu
tượng gói gém toàn bộ chân lý cuộc đời mà người tạo ra hệ thống đó tuyên bố với
thế giới. Bản chất của hệ thống là sự phục tùng, từ Plato cho đến Hegel đều có một
hệ thống triết lý được cho là chân lý mà ở đó buộc mọi người phải tuân theo. ( Ở
phương Đông thì đặc biệt là Nho giáo với khái niệm “ trung quân”, có đạo hồi
Islam mà bản chất của cái tên Islam có nghĩa là phục tùng.) Các nhà hiện sinh chủ
nghĩa cho rằng chân lý không phải là cái chung, mà chân lý mang chủ thể tính,
không ai có quyền áp đặt bất cứ một hệ thống chân lý nào lên người khác và buộc
người khác phải tuân theo.
Như vậy hiện sinh chủ nghĩa coi trọng con người như là một hữu thể hoàn
cảnh, tôi là tôi phối kết với hoàn cảnh của riêng tôi, nên không thể có một chân lý
chung nào giữa cái tôi này với cái tôi khác, đồng thời sinh ra những mâu thuẫn lẫn
nhau và tự mâu thuẫn với chính mình.
2.2 Quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện sinh
Các nhà văn hiện sinh hầu như không có một tuyên ngôn chung cho trường
phái của mình. Albert Camus thậm chí còn phát biểu “Tôi không phải là nhà văn
hiện sinh”. Tuy nhiên, thông qua những cách khác nhau, những tác giả thuộc trào
lưu này vẫn thể hiện một hệ thống quan điểm nghệ thuật tương đối nhất quán,
chúng ta có thể thấy rõ ba quan điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, có nguồn gốc từ triết học cho nên nghệ thuật hiện sinh cũng khẳng
định mối quan hệ giữa hiện sinh với bản chất, sự phi lý của tồn tại và sự hạn chế
của lý trí, bên cạnh đó là sự tự do của con người.
9
Thứ hai, những nhà văn hiện sinh quan niệm con người đang tồn sinh trong
một thế giới hỗn độn không có nơi nương tựa vì vậy buộc con người phải hành
động để tự tạo ra chân lý và đạo đức cho chính mình. Trong chủ nghĩa hiện sinh,
trọng tâm không phải là ý tưởng, mà vào kẻ tư duy. Kierkegaard đã nhấn mạnh sự
khác biệt giữa sự thật chủ quan và sự thật khách quan và nói rằng chúng ta chạm
trán với sự thật không phải trong sự phân chia của lý trí, mà trong sự dấn thân trọn
vẹn và trong niềm bi tráng khi sống tận tuỵ cho điều chọn lựa của mình, “con
người chẳng là cái gì khác hơn ngoài cái mà nó tự tạo”.
Thứ ba, với quan niệm “Hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản”, J-P. Sartre từ
chối coi văn chương là một hình thức giải trí và muốn nhắc nhở nhà văn về công
việc của họ - viết văn là một hình thức dấn thân, nhà văn phải là người dám dấn
thân vào cuộc đời. Albert Camus cũng khẳng định: “Mọi nghệ sĩ ngày nay ngồi
trong con thuyền của thời đại”, phải biết “sống và sáng tạo”. Tác phẩm của những
nhà văn hiện sinh có thể bao gồm nhiều thể loại nhưng bao giờ cũng có tính thời
sự. Những nhà văn hiện sinh đi tìm và khẳng định con người tự do cá nhân thông
qua những hoạt động của nó chứ không phải đi vào cái tôi nội quan và sống với
những mộng ước như những nhà văn theo chủ nghĩa lãng mạn đã làm trước đó.
2.4 Đặc điểm chủ yếu
*Về chủ đề
Chủ đề thường thấy là sự vô lý của cuộc đời và tính hữu hạn của lý trí, mô tả
cái hiện thực vô nghĩa, phi logic, phi lý tính, trái với năng lực nhận thức của con
người. Bên cạnh đó là nỗi âu lo, cảm giác tội lỗi và nỗi cô độc thường trực xuất
phát từ quan niệm con người là một cá thể hiện sinh, chủ đề tha hóa đi liền với thái
độ phê phán ý thức bầy đàn.
Cái phi lý là sự tồn tại vô nghĩa của con người, là sự suy giảm giá trị của
mọi lý tưởng con người.Thế giới của cái phi lý là thế giới “không thể giải thích
được và không có một ý nghĩa trọng tâm”(Martin Esslin, The theatre of the
Absurd). Văn học hiện sinh khẳng định sự tồn tại không thể được hiểu thấu đáo
bằng kinh nghiệm. Ionesco đã viết trong nhật ký của ông: “Tất nhiên không thể
tưởng tượng được rằng mọi cái sẽ không tồn tại, rằng không có cái gì tồn tại.
10
Tôi cố gắng muốn hiểu cái không thể hiểu được: bỗng nhiên tôi có một hình
ảnh về một điều gì đó vô cùng chắc nịch và phi lý. Sự không tồn tại là một điều
không thể có được và tỏ ra phi lý; sự tồn tại cũng là một điều phi lý không kém
mặc dù nó là việc có thể có được”. Văn học hiện sinh gợi suy nghĩ về tính độc
đáo và kỳ bí của mỗi thân phận. Nó nhấn mạnh đến chủ thể hơn là khách thể.
Một cuộc đời cá nhân không thể giải thích bằng lý lẽ của những người khác,
bằng không, nó sẽ dẫn tới mâu thuẫn và phi lý, “Tất cả đều đúng nhưng không
có gì đúng cả”, “cuộc đời thật phi lý biết bao”.
Có rất nhiều loại hình văn học nghệ thuật khác có đề cập đến cái phi lý ở
thời xa xưa, từ những sáng tác dân gian sử dụng các thủ pháp trào phúng và hài
hước vô nghĩa, chơi chữ loạn nghĩa, hay những sáng tác phiêu lưu hoang tưởng
như Cuộc phiêu lưu của Giulliver (J. Swift- nhà văn Ailen) hay Alice ở xứ sở diệu
kỳ (Lewis Carrol- nhà văn Anh)… cho đến truyện “chưởng” của Trung Hoa… Thế
nhưng, cái phi lý trong những sáng tác trên dựa vào nguyên tắc tạm thời quên đi
thế giới thực tại rồi trở về lại với thế giới thực tại. Theo cái logic riêng của thế giới
tưởng tượng đó thì không có gì là phi lý cả. Văn học phi lý khác với những sáng
tác trên ở quan điểm nghệ thuật chứ không phải ở thủ pháp nghệ thuật.
Khái niệm phi lý nói chung đã xuất hiện từ thời xa xưa, nhưng khái niệm phi
lý hiện đại mới chỉ xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XIX với chủ nghĩa phi lý tính và
sau đó là với chủ nghĩa hiện sinh, và nó chỉ được thể hiện thành một loại hình văn
học rõ rệt từ đầu thế kỷ XX với người mở đường là Kafka. Cho nên khi nói đến văn
học phi lý thì chúng ta phải hiểu rằng đó là văn học con đẻ của thế kỷ XX, là một
phản ứng của thời đại lịch sử.
Văn học phi lý phản ánh những hiện tượng và sự việc trái với sự phát triển
của tư duy logic thông thường, nói đúng hơn là trái với logic nhân văn tiến bộ của
loài người.Trước đó, Dostoevski (1821-1881), thông qua nhân vật Ivan Karamazov
đã phát biểu rằng: “Thế giới được dựa trên những điều phi lý, và không biết
chuyện gì sẽ xảy ra nếu không có những điều phi lý đó.”(Anh em nhà Karamazov).
Nhưng đó chỉ là một lời nhận xét chứ Dostoevski không khai thác đề tài đó.Tuy
vậy, bản thân ông có đầy đủ hoàn cảnh để sản sinh ra cái phi lý nên sau này ông
được Albert Camus xem ông và F.Kafka là những thần tượng của mình.
11
*Không có tiêu chuẩn cơ bản cho nhận thức về các vấn đề tôn giáo và
chủng tộc, đó chính là triết lý tự do hiện sinh
Oreste trong vở kịch “Ruồi” của J-P.Sartre, là hình ảnh của tự do và chiến
thắng của chàng cũng chính là thắng lợi của tự do. Chàng là chính chàng, với ý
chí và tự do lựa chọn của mình: “Tôi chỉ có thể theo con đường của tôi. Bởi vì
tôi là một người [...] và mỗi người phải tạo ra con đường của mình.”Vị thần tối
cao Jupiter thừa nhận thất bại trước Oreste: “Một khi tự do đã nổ tung trong
tâm hồn một người, thì thần linh không còn thế lực gì đối với người ấy”. Có tự
do, có lựa chọn, dám dấn thân và dám chịu trách nhiệm của mình về hành động
ấy - Oreste có thể được xem là nhân vật tiêu biểu nhất cho triết lý tự do hiện
sinh chủ nghĩa của J-P.Sartre.
*Về nghệ thuật
Các nhà văn hiện sinh khước từ truyền thống về tiểu thuyết đặt cơ sở trên người
kể chuyện toàn tri. Để tạo ấn tượng “dấn thân”, nhà văn hiện sinh thường chọn
cách thuật sự được dệt bởi cái nhìn chủ quan của các nhân vật, từ đó tạo cho
người đọc cảm giác hòa nhập vào hành động của chính nhân vật. Ngôi kể trong
các tiểu thuyết thường là ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba đã được cá tính hóa
cao độ. Khi tuân thủ cái nguyên tắc cho rằng “những gì tồn tại trái với quy tắc
logic và trái với năng lực nhận thức lí tính đều bị coi là phi lý” thì những sáng
tác có khung cảnh trái với tư duy lý trí thông thường được tác giả đặt vào hệ
logic thông thường thì được coi là sáng tác phi lý.
*Đối với việc xây dựng nhân vật
Trong tâm thế đối diện với những câu hỏi, nhà văn hiện sinh thường làm
sống lại những huyền thoại lớn. Đó là cách mà J-P.Sartre xây dựng nhân vật
Oreste thành tượng đài của sự tự do. Đó cũng là cách Albert Camus đã tìm thấy
ý nghĩa từ câu chuyện Sisyphs trong thần thoại Hy Lạp hay biến một trận dịch
hạch (gợi nhớ về trận dịch khủng khiếp ở châu Âu thời Trung cổ) trở thành ám
dụ cho sự tràn lan của cái ác.
Các nhà văn phi lý không chỉ mô tả cái phi lý mà họ còn hành động để
chống lại cái phi lý đó. Hành động này được thể hiện ở mỗi con người khác
nhau với mỗi mức độ khác nhau và theo một cách khác nhau.
*Ví dụ chứng minh cho các luận điểm trên
12
Có những nhà văn mà ta không thể xếp họ vào một trường phái nào nhưng
tác phẩm của họ lại là những cột mốc của quá trình phát triển văn học thế giới.
Họ là những hiện tượng đặc biệt mà những người cùng thời không theo kịp để
làm thành một trường phái, ảnh hưởng của họ chỉ diễn ra sau khi một thời gian
thế giới đã hết ngỡ ngàng. Họ là những hiện tượng không thể lặp lại, mà
F.Kafka là một hiện tượng như vậy.Ông đã khai phá một mảng đề tài khó xử lý
đó chính là cái phi lý của cuộc đời.
“Lâu đài” của Kafka kể về một anh chàng trắc địa có tên là K. được mời
đến làm việc tại một khu làng thuộc quyền cai quản của một lãnh chúa (bá tước
West”) sống trong một lâu đài ngự trên một quả đồi. Anh chàng K. không bao
giờ được tiếp cận với những người sống trong lâu đài.Anh tìm mọi cách để gặp
những người trong lâu đài nhưng không thành.Thậm chí ngay cả những người
dân xung quanh khu lâu đài cũng không ủng hộ anh. Còn “Vụ án” thì kể về một
anh nhân viên ngân hàng tên Josef K, vào ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ 30 của
mình, anh đã bị một tòa án bí hiểm nào đó mà anh chẳng biết gán cho cái tội
nào đó mà anh cũng không biết. Suốt một năm ròng rã anh đã phải trải qua
những cuộc thẩm vấn của những người trung gian chứ không được gặp bất kì
một quan tòa nào và cũng không được ra vành móng ngựa trước một tòa án nào.
Đến ngày kỉ niệm ngày sinh lần thứ 31 của mình, anh bị hai người đàn ông to
béo đến lôi ra một khu khai thác đá ở ngoại ô thành phố và dùng dao cắm phập
vào trái tim anh mà chẳng nói chẳng rằng.
Trong hai tác phẩm, đối tượng nhận thức không hề lộ mặt. Josef K. trong
“Vụ án” trong những lần anh đi tìm tòa án, anh đã gặp nhiều người ngồi vào vị
trí bị cáo như anh. Họ đợi để được gặp tòa mà chẳng có hy vọng. Khi Josef K.
hỏi đợi gì thì họ chỉ biết ngơ ngác trả lời: “Tôi đợi”. Đây là một motif đặc thù
của văn học phi lý mà sau này được nhiều người khai thác. Cho đến lúc chết
Josef K. vẫn không hết bị dằn vặt bởi câu hỏi vô vọng về pháp luật: “Viên quan
tòa anh chưa bao giờ gặp ở đâu? Tòa án tối cao anh chưa bao giờ đến ở đâu?”
K. trong “Lâu đài” có vẻ tích cực hơn Josef K. trong việc tìm hiểu sự vận
hành của bộ máy quyền lực. Tuy nhiên, những con đường xung quanh lâu đài
cũng chỉ dẫn anh đến những con đường quanh co khác mà anh càng đi càng rời
xa lâu đài: “Chàng tiếp tục đi về phía trước, nhưng đường còn rất dài”. Hóa ra
13
con đường chính của làng lại không dẫn lên quả đồi có Lâu đài, mà chỉ dẫn đến
gần đó, rồi như cố ý, nó rẽ ngang, không bỏ xa lâu đài mà cũng không dẫn đến
gần. K. nóng lòng mong sao con đường sẽ hướng về phía Lâu đài, vì thế chàng
tiếp tục đi. Chắc là do đã mệt nên chàng không muốn tránh con đường đó,
nhưng chàng hết sức ngạc nhiên thấy cái làng này mới dài làm sao, đi mãi cũng
không hết. Những ngôi nhà nhỏ nối đuôi nhau vô tận với những con mắt cửa sổ
đã bị đóng băng. Khắp nơi đều có tuyết, nhưng không ở đâu có một bóng
người. K. đành rời con đường hấp dẫn đó, rẽ vào một cái ngõ hẹp, ở đây tuyết
còn phủ dầy hơn. Chân ngập trong tuyết nên mỗi bước đi đều làm cho chàng
mệt mỏi, ê chề. Mồ hôi vã ra, chàng bỗng dừng lại, không thể tiếp tục đi tiếp
được nữa.” Đến cả những người sống trong làng dưới quyền cai trị của lâu đài
cũng trở thành một thế giới xa lạ. Một người nông dân đã nói với K. rằng:
“Chắc là ngài ngạc nhiên vì chúng tôi không hiếu khách. Nhưng hiếu khách
không phải là mốt ở đây, chúng tôi không cần khách.” Trong “Vụ án”, anh
chàng sinh viên ngành pháp lý cũng nói với Josef K.: “Lẽ ra ông có thể đi từ
nãy, chẳng ai luyến tiếc ông cả,…” Cuối cùng, cả K. trong “Lâu đài” lẫn Josef
K. Trong “Vụ án” khi càng tìm hiểu thì càng lạc sâu vào cái mê cung của một
thế giới phi lý không thể nào hiểu nổi và tồn tại ngoài ý muốn con người. Và
khi càng đi sâu vào cái mê cung đó thì hai anh chàng này càng trở nên xa lạ với
thế giới, cũng như chính tác giả của họ. Kafka đã viết trong “Nhật kí” của
mình: “Tôi sống xa lạ hơn một kẻ xa lạ”.
Ở Kafka, chủ đề tha hóa thường đi liền với thái độ phê phán ý thức bầy
đàn, sau này được các nhà văn khác và A.Camus tiếp thu. Dưới con mắt của K.
thì những người trong ngôi làng đều có những hành động giống nhau. Anh và
họ là hai thực thể không thể hòa hợp được. Một bên là nhân vật chính, bên kia
là phần còn lại của thế giới với lối sống bầy đàn. Lối sống bầy đàn là một trong
những điều phi lý tồi tệ nhất trong xã hội hiện đại được các nhà văn phi lý cực
lực phê phán.
Phi lý là một đối tượng nhận thức khách quan đối với Kafka. Nó không
đơn thuần là một hiện tượng xã hội mà nó có liên quan, chi phối vận mệnh của
con người mà muốn tồn tại, con người buộc phải đấu tranh để loại trừ nó. Do
đó, trong phần lớn các tác phẩm phi lý của ông, thế giới huyền thoại ông tạo ra
thường là thế giới không có địa danh. Lâu đài và ngôi làng nơi K. làm việc
14
không có tên, thành phố của Josef K. cũng chẳng có tên tuổi.Vì vậy, phi lý của
Kafka là bi kịch bản thể. Tuy vậy, cái bi kịch bản thể ấy gắn liền với xã hội
đương thời, vẫn có nguyên nhân xã hội của nó, nó đã phản ánh bản chất của xã
hội: xã hội phi lý trong “Vụ án”, “Lâu đài” mà Josef K. và K. đã đấu tranh tuyệt
vọng chống lại nó.
2.4 Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh
2.4.1 Tác giả Jean-Paul Sartre và tiểu thuyết “Buồn nôn”
Jean-Paul Sartre sinh ngày 21 tháng 06 năm 1905 ở Paris. Cha ông từng
tốt nghiệp trường Bách Khoa (École Polytechnique) làm sĩ quan thủy quân. Ông
mất năm 1907, khi đó Jean-Paul Sartre vừa mới hai tuổi; sau này ông ví mình là
một đứa con hoang dã (faux bâtard). Hai mẹ con ông trở về sống với ông ngoại,
dòng họ Schweitzer, có quan hệ huyết thống với bác sĩ Albert Schweilzer. Mẹ
ông tái giá năm 1916, hai mẹ con theo chồng mới tới sống ở La Rochelle.
Năm 1917- 1919, Jean- Paul Sartre học trung học ở La Rochelle, không
lấy gì làm xuất sắc cho lắm. Năm 1920, ông theo mẹ trở về Paris, rồi hai năm
liền, đậu tú tài phần 1 và phần 2. Năm 1924, thi vào trường Cao đẳng Sư phạm,
sống nội trú trong trường từ năm 1924-1929; trong thời gian này ông đậu cử
nhân triết học (năm 1926), rồi đậu thạc sĩ triết học (năm 1929), đứng đầu bảng,
cùng với Simone de Beauvoir. Năm 1929-1930, ông đi quân dịch ở Tours trong
ngành khí tượng. Quân dịch xong, được bổ nhiệm làm giáo sư triết học ở Le
Havre, Jean- Paul Sartre dạy ở trường trung học thành phố này ba năm liền
(1931-1933). Thành phố Le Havre được lấy làm khung cảnh cho tiểu thuyết
“Buồn nôn” nhưng trong sách được đổi thành Bouville. Ông đã đọc nhiều sách
của các triết gia Đức như: Husserl và Heidegger. Niên học 1933-1934, ông xin
nghỉ dạy, sang Đức tòng học Husserl ở Berlin.
Từ 1934-1939, ông lần lượt dạy triết học ở Le Havre, Lyon, rồi Paris,
trường Trung học Louis Pasteaur. Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, quân
đội Hitler chiếm đóng nước Pháp, chính phủ bù nhìn được thành lập ở Paris, rồi
ở Vichy; Jean- Paul Sartre nhập ngũ trong Quân đoàn 70. Năm 1940 bị bắt làm
tù binh ở Padoux, đến tháng 5-1941, nhờ khai là dân thường nên được phóng
15
thích. Sau đó ông gia nhập tổ chức bí mật kháng Đức: Xã hội chủ nghĩa và tự
do, tổ chức này tập trung hầu hết những nhà trí thức Pháp kháng Đức.
Từ năm 1941- 1944, ông tiếp tục dạy ở các trường Louis Parteur,
Condorcet của Paris. Năm 1945, sáng lập và chủ trương tạp chí “Les Temps
Modernes” (“Thời mới”). Cũng năm này, ông vĩnh viễn xin ra khỏi ngành giáo
dục; sang Mỹ làm phóng sự cho nhiều nhật báo ở Paris. Kể từ năm 1946, ông
sống ở Paris, lần lượt du lịch, viếng thăm và chứng kiến thực tại các nước và
khu vực có thể chế chính trị khác nhau như: Mỹ, Island, Liên Xô, Thụy Điển,
Bắc Phi, Nam Phi, châu Phi Đen và nhiều nước khác nữa. Trong thời gian này,
Jean-Paul Sartre tiếp tục sự nghiệp triết lý và văn nghệ không ngừng nghỉ, mỗi
lần cho xuất bản một cuốn sách (luận thuyết, khảo luận, tiểu thuyết, kịch, phim)
là mỗi lần gây nên tranh luận quyết liệt trong giới văn nghệ Pháp và quốc tế. Sự
nghiệp triết lý và văn nghệ này không bao giờ tách rời các hành động của ông:
Ở con người Jean- Paul Sartre hành động và lý thuyết bao giờ cũng khắng khít
mật thiết với nhau. Xin kể: Ông là một trong những nhân sĩ đã gây dựng phong
trào chống chiến tranh ở Việt Nam (1950-1954), chiến tranh ở Algerie (19541961), lên án các vụ tra tấn (“Tuyên ngôn của 121 nhà trí thức”, 1951-1960), tố
cáo chính quyền Franco (Tây Ban Nha) về vụ án Julien Grimau (1964), phản
đối Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…
Năm 1964, ông được Hội đồng Viện Hàn lâm Thụy Điển tuyên bố tặng
giải Nobel về văn chương nhưng ông đã tuyên bố không nhận giải.
* Tiểu thuyết “Buồn nôn”
Tóm tắt tác phẩm: “Buồn nôn” (“La Nausée) mang danh là một cuốn tiểu
thuyết, nhưng thật ra là một suy tư triết lý viết theo thể nhật ký. Tiểu thuyết kể về
nhân vật Antoine Roquentin, sau nhiều năm lưu lạc khắp thế giới, trở về Bouville,
định tâm hoàn tất công việc tra cứu cuộc đời Công tước de Rollebon làm tài liệu
cho một cuốn khảo luận lịch sử. Nhưng dần dà, càng đi sâu vào cuộc đời bịp bợm
của tên công tước này, y bỗng cảm thấy chán ngấy ghê tởm không còn hăng hái với
công việc giả tạo đó nữa, rồi rốt cuộc y bỏ dở cuốn sách định viết. Y nhận chân
rằng đã không làm sao có thể hy vọng cứu vớt quá khứ của một kẻ khác ra khỏi
lãng quên được. Và cứ thế, ngày lại ngày, y ghi lại đầy đủ mọi ý nghĩ cay đắng về
những điều tai nghe mắt thấy như: dáng bộ lố bịch của những bức chân dung treo
16
trong viện bảo tàng thành phố, lời lẽ tự cao, tự đại của một anh chàng miệng lưỡi
ba hoa tưởng rằng mình đang đem tài năng giúp ích đồng loại… Riêng y, càng
ngày y càng nhận thức được sự phi lý của một vũ trụ vô cớ không được biện minh
bởi một cái gì cả; và vì vậy khi lên cơn buồn nôn, y “nôn mửa”, vì cảm thấy rằng
sự hiện sinh của mình là thừa. Nhật ký của y chấm dứt ở đây.
Chủ nghĩa hiện sinh thể hiện trong tác phẩm.
Có thể nói tiểu thuyết “Buồn nôn” của Sartre là bản tuyên ngôn về triết
học hiện sinh của ông. Cuốn tiểu thuyết này trình bày tư tưởng hiện sinh của
Sartre như sau: Mọi hiện hữu là vô cớ và không thể được biện bạch. Sự hiện
hữu là phi lý trong đó con người tự cảm thấy dư thừa:
“Tôi mơ mộng mơ hồ đến chuyện tự thủ tiêu tôi, để ít ra cũng hư vô hóa được
một trong những hiện hữu dư thừa. Nhưng cả cái chết của tôi nữa, cũng dư
thừa. Dư thừa, thi thê của tôi, dòng máu tôi trên những hòn cuội, giữa những
lùm cây, trong khu vườn rạng rỡ này. Và da thịt bị gặm nhấm cũng dư thừa
trong lòng đất đã đón nhận nó và sau cùng, những đốt xương của tôi bị rửa
sạch, bào mòn, sạch sẽ và tinh khiết như những chiếc răng, cũng lại dư thừa
nốt: Tôi vĩnh viễn dư thừa trong muôn vạn kiếp…”
“Tôi muốn cất bước, bỏ đi, đến bất cứ nơi nào mà tôi sẽ ở đúng vị trí của tôi,
nơi mà tôi sẽ ăn khớp với ngoại thể… song chỗ đứng của tôi không ở nơi nào
cả: Tôi là dư thừa…”
Quan niệm của Sartre về sự hiện hữu của sự vật được thể hiện qua tất cả
những cố gắng của Roquentin – nhân vật chính và cũng là tác giả của tập nhật
ký- nhằm xoáy sâu cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, để
đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của thực tại. Tri kiến ấy là tri kiến hiện
tính của vạn vật, sự vật hiện hữu:
“Hiện hữu là hiện thể ra đó, chỉ vậy thôi. Những vật thể xuất hiện, để cho ta
gặp gỡ chúng nhưng chẳng bao giờ ta có thể suy diễn, diễn dịch chúng
được…”
Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên,
chính sự bất tất đó làm nên sự “dư thừa” của những sự vật với nhau. Tất cả dư
thừa nên tất cả đều phi lý.
17
Quan niệm triết học hiện sinh của Sartre là quan niệm triết học vô thần,
không có thượng đế tạo nên bản chất con người, phũ nhận vai trò của thượng
đế, không tin vào sự tồn tại của thượng đế, hoặc nếu thượng đế tồn tại cũng
không thể thay đổi được gì. Con người là cái mà con người làm nên, “sự hiện
sinh của con người có trước bản chất” (“L’existence précè de l’essence”). Con
người tồn tại một cách ngẫu nhiên, không do một Đấng nào tạo nên, không có
lý do, và tự nó không có giá trị gì cả. Nhân vật trốn chạy sự thật đó bằng biểu
hiện “buồn nôn”, “buồn nôn” như là một biểu tượng về bản năng, về sự phi lý
của việc con người tồn tại bằng một lý do nào. Bản thân những cơn buồn nôn
đó tự nó cũng không có lý do, không lý giải bằng một tầng chìm ký ức nào.
Con người hoàn toàn tự do, luôn luôn phải lựa chọn và làm ra mình. Từ
đó con người luôn luôn và hoàn toàn chịu trách nhiệm: con người tự cam kết
trong mỗi hành động. Sự tự do bất tận này được trải nghiệm trong sự sợ hãi: ý
thức khắc khoải phải đối diện với một trách nhiệm bất tận, với những giá trị,
với cái thiện và cái ác, sự sợ hãi phải “tha nhân”, sợ “tôi không phải là tôi”, sợ
biến thành “cái gần như đồ vật” và sợ “tôi bị tước đi sự tự do của tôi”:
“ Tư tưởng của tôi, chính là tôi: đó là lý do vì sao tôi không thể ngưng lại
được. Tôi hiện hữu bởi những gì tôi đang suy tưởng… và tôi không thể ngăn
mình thôi suy tưởng. Ngay cả trong giây phút này – thật là kinh khủng – nếu
như tôi đang hiện hữu. Chính tôi, chính tôi, đang thu lùi mình về cõi hư vô mà
tôi khát vọng: lòng thù ghét, lòng kinh tởm hiện hữu, bấy nhiêu tình cảm đó là
bấy nhiêu cách để làm cho tôi hiện hữu, để dìm sâu tôi vào hiện hữu…”
Trong “Buồn nôn”, Jean- Paul Sartre có ý chứng minh rằng những thiên
kiến, những truyền thống quen thuộc khiến con người quên rằng mình vốn sống
trong một vũ trụ thù nghịch và khôn lường. Con người có nguy cơ bị nuốt
chửng bởi những áp đặt, định kiến, thói quen, quán tính và khi nhận thức được
sự kiện này, con người nôn mửa vì tuyệt vọng. Nhân vật Roquentin trong tác
phẩm phê phán sự áp đặt của những kinh nghiệm, những kinh nghiệm có thể
khiến con người trở nên đánh mất chính mình, trở nên xơ cứng, máy móc:
“Tất cả những gì diễn ra chung quanh họ đã bắt đầu và được kết thúc ngoài
tầm thấy hiểu của họ, những hình thể dài dặc tối tăm, những biến cố đến từ xa
xôi đã phớt chạm qua họ nhanh như lằn chớp và khi họ muốn nhìn rõ chúng,
18
tất cả mọi sự đã kết thúc. Rồi khi xấp xỉ bốn mươi, họ đặt cho những cơn ương
ngạnh vụn vặt của mình một vài câu cách ngôn tên là kinh nghiệm. Họ khởi sự
làm những chiếc máy phân bố tự động: hai đồng xu bỏ vào khe hở bên trái và
chiếc máy nhả ra những câu chuyện vặt được gói kỹ trong tờ giấy bạc…”
Và một cảm thức bao trùm tác phẩm hiện sinh của Sartre, bên cạnh những
quan niệm triết lý, đó là cảm thức cô đơn của con người: “Ôm nàng trong tay
tôi…nào có ích gì? Tôi chẳng có thể làm gì được cho nàng. Nàng cũng cô đơn
như tôi…”
Đó là một tình trạng mất định hướng và bối rối trước một thế giới có vẻ như
“vô nghĩa” và “phi lý”, vì sự độc lập nên con người trở nên xa lạ với nhau: “Tôi
đã nhìn thấy một khuôn mặt xa lạ, hao hao như một khuôn mặt. Và rồi bàn tay
anh ta như thể một con sâu lớn màu trắng nằm trên tay tôi. Tôi buông anh ra
tập tức, cánh tay rơi xuống mềm xèo…”
Sự cô đơn cũng bắt nguồn từ sự tự do, chính vì tự do nên cô đơn, chính vì
tự do nên đôi lúc con người cảm tưởng mình là những cá thể rời rạc, không thể
nào liên kết nổi với những cá thể khác; sự tồn tại đơn độc của con người giữa
vụ trụ bao la rộng lớn.
Qua “Buồn nôn”, Jean- Paul Sartre còn muốn gửi gắm quan niệm: Con
người không chấp nhận sự áp đặt, không thuộc về định mệnh, tự “nó”làm nên
bản chất của “nó”. Bản chất không phải là cái có trước, cái ấn định trước. Con
người tự làm nên bản chất. Dù đôi vai mỏng manh yếu ớt nhưng không lệ thuộc
và tự chịu trách nhiệm.
2.4.2
Tác giả Albert Camus và tiểu thuyết “Kẻ xa lạ”
* Tác giả Albert Camus.
Albert Camus sinh ngày 07 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một tỉnh nhỏ
thuộc vùng Constantin, Algérie. Cha ông, người gốc Pháp, từng làm lao công
giúp việc cho một nông trại, bị tử trận vào đại chiến thế giới thứ II. Còn mẹ
ông, người gốc Tây Ban Nha, sống trong một xóm nghèo ở Belcout, Algérie.
Hình ảnh người mẹ in đậm dấu ấn trong nhiều trang viết của Camus, ở những
ghi chép trong tùy bút và tiểu luận, kể cả trong tác phẩm hư cấu “Kẻ xa lạ”,
người đọc được chứng kiến hình ảnh người mẹ “im lặng”, tiêu khiển thời giờ
19
bằng cách “lặng lẽ theo dõi” đứa con trai. Thời thơ ấu, gia đình Camus luôn
sống trong tình trạng túng thiếu, quẫn bách.
Từ năm 1918 đến 1923, Camus theo học tiểu học rồi sau đó trung ở Alger,
nhờ sự giúp đỡ rất tận tình của một thầy giáo tên là Louis Germain. Năm 1930,
Camus chớm mắc bệnh lao, nhưng ông vẫn tiếp tục học lên đại học, ngành triết,
dưới sự giúp đỡ của một ông thầy, cũng là nhà văn, giáo sư Jean Grenier. Năm
1936, Camus tốt nghiệp với bản luận văn bản về mối tương quan giữa trào lưu
tư tưởng Hy Lạp và trào lưu tư tưởng bắt nguồn từ đạo Giatô xuyên qua các tác
phẩm của triết gia Plotin và thánh Augustin. Ông đã đề tặng người thầy Grenier
của mình công trình đầu tiên này.
Năm 1933, Camus cưới vợ nhưng cuộc hôn nhân đổ vỡ sau đó một năm.
Ông bắt đầu đọc M.Proust, bằng sự say mê hiến thấy. 1937, vì tình trạng sức
khỏe, Camus không được dự kỳ thi cao học. Năm 1938, ông cộng tác với tờ báo
“Alger cộng hòa” do Pascal Pia đứng đầu. Cũng trong năm này, ông viết
“Caligula” và chuẩn bị cho hai tác phẩm lớn là “Kẻ xa lạ” và “Huyền thoại
Sisyphe” (Xuất bản 1942)
Năm 1942, ông cưới vợ lần hai, sau đó quay về Pháp gia nhập nhóm
kháng chiến “Combat”. Năm 1944, báo “Combat” công khai ra mắt độc giả và
Camus làm chủ bút. Năm 1946, ông viếng thăm Hoa Kỳ, được sinh viên đón
tiếp hết sức nồng nhiệt. Thời gian này ông tập trung đọc Simone Weil và hoàn
tất tiểu thuyết dịch hạch.
Tháng 3 năm 1949, Camus ký tên vào một bản kêu gọi xin ân xá một số
đảng viên đảng cộng sản Hy Lạp bị kết án tử hình. Tháng 10 năm 1951, xuất
bản “Người phản kháng” và bút chiến với nhóm “Les Temps Modernes” do
Jean-Paul Sartre đứng đầu.
Tháng 05 năm 1955, ông du lịch Hy Lạp. Sau đó viết một loạt bài báo in
trên tờ “L’Éxpress” về các vấn đề Bắc Phi. Tháng giêng năm 1956, ông viếng
thăm Algérie và ngỏ lời kêu gọi ngưng chiến giữa Algérie và Pháp.
Tháng 10 năm 1957, ông được tặng giải Nobel của Viện Hàn lâm Thụy
Điển. Nhân dịp này, ông đã đọc hai bài diễn văn hết sức quan trọng, trong đó
20
bài tỏ quan niệm của nhà văn về cuộc sống, con người, sứ mệnh của nhà nghệ sĩ
trước thời hiện đại.
Ngày 04 tháng giêng năm 1960, Albert Camus qua đời trong một tai nạn
xe hơi ở Yonne, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho giới văn học Pháp và toàn
thế giới. Hai tác phẩm lớn cuối cùng của Camus chỉ được in ra sau khi ông qua
đời là “Sổ tay ghi chép” (“Les Cahiers”), trong đó có “Cái chết hạnh phúc” và “
Người đàn ông đầu tiên” (“Le premier home”), một tác phẩm tự thuật với đúng
nghĩa của nó.
* Tiểu thuyết “Kẻ xa lạ”
Tóm tắt tiểu thuyết “Kẻ xa lạ”: Meursault là một viên chức nghèo sống cuộc
sống bình thường ở thành phố Alger, thủ đô Algérie. Nhận được điện báo mẹ mất,
anh đến viện dưỡng lão chịu tang mẹ. Anh tỏ thái độ dửng dưng đối với cái chết
của mẹ, anh không khóc và không nhìn mẹ lần cuối., anh bình thản hút thuốc và
uống cà phê bên linh cữu mẹ. Trên đường đi đến nghĩa trang, anh chỉ cảm thấy khó
chịu vì trời nóng bức. Anh về nhà ngay ngày hôm ấy và hôm sau anh đi ra bãi tắm,
anh gặp Marie và hai người cùng đi xem phim hài, rồi về nhà và làm tình với nhau.
Sau một thời gian, Marie muốn anh cưới nàng nhưng Meursault không quan tâm
lắm đến chuyện đó.
Meursault có hai người hàng xóm là lão Salamano và chàng trai Raymond. Lão
Salamano có nuôi một con chó già ghẻ lở và suốt ngày đánh mắng nó mặc dù
ông hết mực thương yêu và chăm sóc cho nó. Một hôm nó bị tụt khỏi xích và đi
mất, lão ra sức đi tìm và than khóc. Raymond là một tên ma cô, anh ta bao một
cô gái người Ả Rập nhưng cô ta chỉ biết tiêu tiền của anh ta mà không chịu làm
việc. Vì cho rằng cô ta lợi dụng, anh đã đánh đập cô ta và bị cảnh sát bắt.
Meursault đồng ý đến sở cảnh sát làm chứng cho việc cô ả “không tôn trọng”
Raymond.
Một hôm, Meursault cùng Raymond đi chơi trên bãi biển thì gặp một toán
người Ả Rập gây sự và Raymond bị thương nhẹ. Trưa hôm đó, Meursault gặp
lại một người Ả Rập trên bãi biển và anh ta giơ dao dọa. Ánh dao lóa sáng cùng
với ánh nắng mặt trời gay gắt khiến Meursault choáng váng và anh rút súng bắn
năm phát vào anh chàng kia. Khi bị bắt giam, anh cũng vẫn tỏ thái độ dửng
dưng, anh chỉ ngạc nhiên khi ở phiên tòa, anh nhận bản án tử hình không phải
21
vì tội giết người mà vì thái độ vô cảm của anh ở đám tang mẹ. Anh khước từ
rửa tội và chấp nhận cái chết.
Chủ hiện sinh được thể hiện trong tác phẩm.
Chủ nghĩa hiện sinh được thể hiện trong tác phẩm “Kẻ xa lạ” trước hết
là ở quan niệm của Albert Camus về sự phi lý. Phi lý theo Camus là tình trạng
“li hôn” giữa “sân khấu” và “diễn viên”, giữa con người và bối cảnh. Giữa con
người và thế giới luôn tồn tại những “lỗ thủng”. Con người phải chấp nhận phi
lý là một điều có thực, con người phải đương đầu với một định mệnh phi lý (cái
chết) và đương đầu với một cuộc sống không kém phi lý trong một thế giới
ngày càng máy móc.
Ngay trong nhan đề của tiểu thuyết cũng thể hiện sự phi lý. Meursault có phải là
một con người “xa lạ” với cuộc đời không? Meursault vốn là một con người
bình thường như bao con người khác trong xã hội với những cảm xúc thông
thường nhất của một đứa con khi nghĩ về mẹ mình trong những năm tháng tuổi
thơ, khi ở nhà tù, một thanh niên trẻ được mẹ đến thăm, Meursault thấy nhớ mẹ,
“nghe thấy” tiếng mẹ và tự hỏi đã bao lâu mình không nói “con xin chào má”.
Camus đã từng nói về nhân vật của mình thế này: “Anh ta không phải là người
thiếu tính nhạy cảm, anh ta có một nhiệt tình sâu xa vì nó dai dẳng, một nhiệt
tình tuyệt đối và ham mê sự thật”. Với một con người rất “con người” như thế,
vì sao anh ta lại bị xem là kẻ xa lạ, là một kẻ “quái thai” trong xã hội? Câu trả
lời là vì anh ta sống thành thật với những gì anh vốn có và đó là tính phi lý mà
tác giả muốn xây dựng. Xã hội phi lý đã khiến những con người bình thường,
sống chân thật với cảm xúc của chính mình trở nên xa lạ với cuộc đời, đó là sự
xa lạ khi một con người thành thật với cảm xúc phải tồn tại giữa xã hội đầy
những dối trá và bất công. Sự phi lý đẩy con người ra xa nhau hơn, Mersault từ
đó trở nên xa lạ với cuộc đời và cuộc đời cũng xa lạ với anh ta, bởi anh ta
không thể nào lý giải nổi cuộc đời, lý giải nổi vì sao mình bị kết tội. Đó cũng là
cảm thức chung của con người trong xã hội hiện đại, khi người ta không còn
hiểu nhau, không còn nghe thấy tiếng của nhau giữa hàng vạn những âm thanh
hỗn tạp của cuộc đời.
Sự phi lý không chỉ được thể hiện trong cảm thức rời rạc giữa con người
với thế giới, sự phi lý còn được thể hiện qua cái cách người ta áp đặt những
22
quan niệm tập thể lên từng cá nhân, cụ thể là tại phiên tòa, người ta đã kết tội
Meursault không phải vì anh đã bắn năm phát súng vào người Ả Rập nọ, mà vì
anh đã không khóc trong đám tang của mẹ mình. Thái độ ấy được xem như dấu
hiệu của sự dửng dưng, nếu được giải thích một cách phóng đại là sự ruồng bỏ
người mẹ; nhưng mỗi người chúng ta có ai chẳng cảm thấy phạm tội ấy ở
những mức độ khác nhau? Kẻ nào không bao giờ phạm tội dửng dưng đối với
mẹ cha thì hãy ném viên đá đầu tiên vào Meursault. Và người mẹ trong tác
phẩm là hình ảnh một người mẹ “im lặng”, im lặng ở viện dưỡng lão và cũng
im lặng khi còn ở với Meursault. Hình ảnh người mẹ im lặng ấy hiện về không
phải trong đám tang ồn ào mà là trong sự phản tĩnh tâm hồn của Meursault.
Camus từng viết rằng: “Nhận xét tính phi lý của cuộc đời không thể là
cứu cánh mà chi là khởi đầu” trong bài phê bình cuốn “Buồn nôn” của JeanPaul Sartre. Trong khi nhân vật của Sartre chìm vào những cơn buồn nôn thì
nhân vật của Camus đi đến sự nổi loạn.
Nhân vật Meursault trong suốt chiều dài của quyển tiểu thuyết đã có nhiều
hành động nổi loạn: Meursault chọn cách trung thực với cảm xúc của mình,
không khóc một cách giả dối trong đám tang của mẹ như những người bạn
trong viện dưỡng lão của bà đã làm; trong mối quan hệ tình yêu với Marie,
Meursault cũng chọn cách trung thực, khi nàng hỏi anh có yêu nàng không, anh
đã trả lời rằng hình như anh không yêu nàng nhưng sẽ lấy nàng nếu như đó là
điều nàng muốn. Khi bị quan tòa kết án tử hình, Meursault từ chối nói những lời
ăn năn sau cùng như một thứ quy ước. Và đỉnh điểm của sự nổi loạn ấy chính là
việc Meursault phũ nhận thượng đế, từ chối rửa tội, khước từ cuộc sống vĩnh
cửu, khước từ sự áp đặt. Meursault không tham dự vào cuộc chơi của tòa án,
của đám đông. Anh khuyên người ta hãy thật sự trung thực, hãy tận hưởng cuộc
sống ngắn ngủi mà con người có được tại trần thế này chứ không phải ở trong
cõi thiên đường nào hết.
Meursault còn được Camus xây dựng như một “Đấng Kitô duy nhất mà
chúng ta muốn được trở thành”. Hình ảnh của một Kitô không thượng đế,
không trông chờ vào siêu hình hay vào niềm hy vọng, đó là hình ảnh của con
người, theo Camus. Điểm tương đồng thiết yếu giữa đấng Kitô và Meursault là
sự từ chối lòng căm ghét, lòng oán giận của Meursault đối với những ai gán tội
cho anh ta; và điểm giống nhau nữa của họ là khoảnh khắc hoài nghi khi Chúa
23
chịu đựng trên đỉnh Golgotha, đó chính là khoảnh khắc mà Thượng đế vắng
bóng, khi đấng Kitô lúc này chỉ là một con người, một mình thảm thiết trước cái
chết. Nhưng ngược lại với đấng Kitô, Meursault không giảng, không báo hiệu
gì cả, không đòi hỏi phải từ bỏ thế gian để đạt đến một đấng siêu hình nào,
Meursault cũng không được “thăng thiên” vào một cõi vô hình nào, anh mang
dáng dấp của một con người trần thế thống khổ.
Cuối cùng, theo quan niệm Camus, con người nhận thức được sự phi lý
của cuộc đời không phải là để buông xuôi và đầu hàng. Con người khi nhận ra
sự phi lý ấy, phải tìm cách lấp đầy. Điều đó làm nên sự vĩ đại của con người,
hành trình của nhân loại là hành trình không ngừng chấp nhận và lấp đầy những
khoảng trống bất toàn. Đó là thái độ sống tích cực mà chủ nghĩa hiện sinh nói
chung muốn hướng đến.
2.5 Vị trí và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện trên thế giới trong tư cách là một trào lưu triết
học phương Tây hiện đại. Tư tưởng của nó tác động tới nhiều lĩnh vực trong đời
sống, đặc biệt là văn học. Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào Việt Nam và nó cũng
chọn văn học là hình thức thể hiện mình vì nó luôn gắn liền với đời sống thiết thực
của con người, chú ý đến thân phận con người, tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống và cái
chết, không gì tha thiết với con người bằng chính con người. Có thể nói, văn học
lại trở thành công cụ chủ yếu để mang chở tư tưởng của các nhà triết học hiện sinh,
là nơi để họ thể hiện những suy tư đầy chất nghiệm sinh của mình. Chủ nghĩa hiện
sinh đã đi sâu vào đời sống tinh thần của nhân loại thông qua con đường văn học.
Các phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh như hư vô, lo âu, xao xuyến, cô đơn,
phi lí, nổi loạn, tự do, cái chết… được các cây bút miền Nam như Nguyễn Thị
Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Túy Hồng… họ thể hiện khá sinh động qua các tác
phẩm như: Ngày qua bóng tối, Vòng tay học trò, Cát lầy, Căn nhà có cửa khóa
trái… chỉ trong một thời gian ngắn mà các nhà văn đã có một khối lượng tác phẩm
khổng lồ, nó đã đi sâu vào đời sống , bởi vì nó không bàn đến những vấn đề xa lạ
hay trừu tượng với con người, mà nó chỉ miêu tả đúng tâm trạng mà con người
đang phải trải qua, tâm trạng lo âu, sợ hãi trước cuộc chiến tranh một mất một còn
của dân tộc, không biết lựa chọn con đường nào cho đúng đắn, họ sợ bản thân lựa
24
chọn sai lầm, cuối cùng con đường mà họ lựa chọn là quay về với chính mình.
Chính vì vậy đã trở thành một phong cách sống của nhiều tầng lớp dân cư đô thị.
Tuy rầm rộ như vậy nhưng vẫn không có một tác giả nào tiêu biểu cho một trào lưu
hiện sinh hoàn chỉnh.
Việc tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh ở nước ta được thể hiện cũng khá rõ nét,
do bối cảnh lịch sử đất nước ta chia làm 2 miền. Nếu ở miền Bắc trong giai đoạn
1954-1975 chưa có chủ nghĩa hiện sinh mà chỉ tồn tại duy nhất đó là chủ nghĩa xã
hội. Thì ngược lại miền Nam 1954-1975 thì chủ nghĩa hiện sinh là một ảnh hưởng
đa chiều, trở thành một trào lưu thời thượng của giới trí thức, nó được tiếp cận từ
nhiều cách nhìn khác nhau, những cách nhìn chắc chắn không thoát khỏi sự tác
động của bối cảnh xã hội cũng như lập trường chính trị của người viết, nhưng hầu
hết đều cho thấy tinh thần độc lập và tự trọng của người trí thức, nói theo những
suy nghĩ riêng của mình mà không rập khuôn, một giọng.
Việc tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh, truyền bá, vận dụng nó cũng là cơ duyên
của lịch sử, nó đã đến trong cái bối cảnh bi đát của xã hội miền Nam những năm
1954-1975, khi con người khao khát tự do và quyền sống mong muốn suy tư về
chính tự do và thân phận làm người nhưng sau chiến tranh, hoàn cảnh xã hội thay
đổi thì chủ nghĩa hiện sinh không còn chỗ đứng trong sinh hoạt trí thức.
Trong bối cảnh miền Nam thuở ấy, chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp thu miền
Nam từ tay thực dân Pháp, lý thuyết triết học phương Tây mà người Sài Gòn nghe
nói đến đầu tiên không phải là chủ nghĩa hiện sinh, mặc dù đây là lúc chủ nghĩa
này đang hình thành một trào lưu sôi nổi ở Tây Âu. Lý thuyết mà nhà họ Ngô đề
cao đó là chủ nghĩa nhân vị của Emmanuel Mounier. Chủ nghĩa hiện sinh quả thực
là một điều gì đó rất mơ hồ, và sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ đồng
thời thì thuyết nhân vị bị lạnh nhạt và gần như xóa bỏ thì chủ nghĩa hiện sinh, đến
một cách muộn màng từ quê hương, ngày càng lôi cuốn một bộ phận lớn trí thức ở
đây. Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam đã bị lai căn, cho nên bộ phận văn
học hiện sinh ở Việt Nam có rất nhiều dị biệt so với văn học phương Tây. Nhưng
do khoác lên mình triết học hiện sinh, chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam
cũng đòi hỏi có phương pháp hiện tượng học để trở về với chính mình, nhưng tìm
đến những cái trống rỗng tâm hồn của những con người hưởng thụ, xa rời thực tế
đấu tranh của đồng bào miền Nam.
25