Bài tập cá nhân : MÔN QUẢN TRỊ HÀNH VI TỔ CHỨC
BIG 5
Mười điểm ghi nhận tính cách cá nhân
Một số tính cách cá nhân của tôi được đánh dấu thể hiện với các mức độ mỗi
tính cách phù hợp nhất với mình theo các mức độ:
1 = Cực kỳ phản đối
2 = Rất phản đối
3 = Phản đối
4 = Trung lập
5 = Đồng ý
6 = Rất đồng ý
7 = Cực kỳ đồng ý
Tôi tự thấy mình
1
Hướng ngoại, nhiệt huyết
Chỉ trích, tranh luận
Đáng tin cậy, tự chủ
Lo lắng, dễ phiền muộn
Sẵn sàng trải nghiệm, một con
người phóng khoáng
6. Kín đáo, trầm lặng
7. Cảm thông, nồng ấm
8. Thiếu ngăn nắp, bất cẩn
9. Điềm tĩnh, cảm xúc ổn định
10.Nguyên tắc, ít sáng tạo
1.
2.
3.
4.
5.
2
3
4
5
6
x
7
x
x
x
x
x
x
x
x
x
MBTI
Tính cách cá nhân – Bản đánh giá học viên bắt đầu ở đây:
Q1. Nguồn năng lượng định hướng tự nhiên nhất của bạn là gì? Mỗi
con người đều có hai mặt. Một mặt hướng ra thế giới bên ngoài của hành
động, của sự nhiệt tình, con người, và sự vật. Một mặt khác lại hướng vào
thế giới bên trong của suy nghĩ, mối quan tâm, sáng tạo và sự tưởng tượng.
Đây là hai mặt khác biệt nhưng không thể tách rời của bản chất con người,
1
hầu hết mọi người đều thiên về nguồn năng lượng của thế giới bên trong
hay bên ngoài một cách tự nhiên. Vì vậy một mặt nào đó của họ, có thể là
Hướng ngoại (E) hoặc Hướng nội (I), sẽ dẫn dắt sự phát triển tính cách và
đóng vai trò chủ đạo trong hành vi của họ.
Tính cách hướng ngoại
•
•
•
•
Hành động trước, suy nghĩ/ suy
xét sau
Cảm thấy chán nản khi bị cắt mối
giao tiếp với thế giới bên ngoài
Thường cởi mở và được khích lệ
bởi con người hay sự việc của thế
giới bên ngoài
Tận hưởng sự đa dạng và thay đổi
trong mối quan hệ con người
Chọn điều phù hợp
nhất:
Tính cách hướng nội
•
•
•
•
Nghĩ/ suy xét trước, rồi mới hành
động
Thường cần một khoảng "thời
gian riêng tư" để tái tạo năng
lượng
Được khích lệ từ bên trong, tâm
hồn đôi khi như "đóng lại" với
thế giới bên ngoài
Thích các mối quan hệ và giao tiếp
một – một
Hướng ngoại (E)
Hướng nội (I)
Q2. Cách lĩnh hội hoặc hiểu biết nào “tự động” hoặc tự nhiên?
Phần
giác quan (S) của bộ não chúng ta cảm nhận hình ảnh, âm thanh, mùi vị và
tất cả các chi tiết cảm nhận được của hiện tại. Nó phân loại, tổ chức, ghi
nhận và lưu giữ các chi tiết của thực tại. Nó dựa trên thực tại, giải quyết
việc "là cái gì." Nó cung cấp những chi tiết cụ thể của trí nhớ & và thu thập
lại từ các sự kiện trong quá khứ. Phần Trực giác (N) của bộ não chúng ta
tìm kiếm sự hiểu biết, diễn giải và hình thành mô hình tổng quát của các
thông tin đã được thu thập, và ghi nhận các mô hình và các mối quan hệ
này. Nó suy đoán dựa trên các khả năng, bao gồm cả việc xem xét và dự
đoán tương lai. Nó là quá trình hình tượng hóa và quan niệm. Trong khi cả
hai sự lĩnh hội đều cần thiết và được sử dụng bởi mọi người, mỗi người
chúng ta vẫn vô thức sử dụng một cách nhiều hơn cách kia.
Các đặc điểm giác quan
•
•
•
Tinh thần sống với Hiện Tại,
chú ý tới các cơ hội hiện tại
Sử dụng các giác quan thông
thường và tự động tìm kiếm
các giải pháp mang tính thực
tiễn
Tính gợi nhớ giàu chi tiết về
Các đặc điểm trực giác
•
•
•
Tinh thần song với Tương Lai,
chú ý tới các cơ hội tương lai
Sử dụng trí tưởng tượng và
tạo ra/ khám phá các triển
vọng mới là bản năng tự nhiên
Tính gợi nhớ nhấn mạnh vào
sự bố trí, ngữ cảnh, và các mối
2
•
•
thông tin và các sự kiện trong
quá khứ
Ứng biến giỏi nhất từ các kinh
nghiệm trong quá khứ
Thích các thông tin rành mạch
và rõ ràng; không thích phải
đoán khi thông tin "mù mờ"
Chọn điều phù hợp
nhất:
•
•
liên kết
Ứng biến giỏi nhất từ các hiểu
biết mang tính lý thuyết
Thoải mái với sự không cụ
thể, dữ liệu không thống nhất
và với việc đoán biết ý nghĩa
của nó
• Giác quan (S)
Trực giác (N)
Q3. Việc hình thành sự Phán xét và lựa chọn nào là tự nhiên nhất?
Phần Lý trí (T) của bộ não chúng ta phân tích thông tin một cách TÁCH
BẠCH, khách quan. Nó hoạt động dựa trên các nguyên tắc đáng tin cậy, rút
ra và hình thành kết luận một cách hệ thống. Nó là bản chất luận lý của
chúng ta. Phần Cảm tính (F) của bộ não chúng ta rút ra kết luận một cách
CẢM TÍNH và chút nào đó hành xử mang tính thiếu công minh, dựa vào sự
thích/ không thích, ảnh hưởng tới những thứ khác, và tính nhân bản hay các
giá trị thẩm mỹ. Đó là bản chất cảm tính của chúng ta. Trong khi mọi người
sử dụng hai phương tiện này để hình thành nên kết luận, mỗi chúng ta đều
có xu hướng thiên lệch về một cách nào đó vậy nên khi chúng hướng ta theo
những hướng đối lập nhau – sẽ chỉ có một cách được lựa chọn.
Các đặc điểm suy nghĩ
•
•
•
•
Tự động tìm kiếm
thông tin và sự hợp lý
trong một tình huống
cần quyết định
Luôn phát hiện ra công
việc và nhiệm vụ cần
phải hoàn thành.
Dễ dàng đưa ra các
phân tích giá trị và
quan trọng
Chấp nhận mâu thuẫn
như một phần tự nhiên
và bình thường trong
mối quan hệ của con
người
Chọn điều phù hợp
nhất:
Các đặc điểm cảm tính
•
•
•
•
Tự động sử dụng các cảm xúc cá nhân
và ảnh hưởng tới người khác trong
một tình huống cần quyết định
Nhạy cảm một cách tự nhiên với nhu
cầu và phản ứng của con người.
Tìm kiếm sự đồng thuận và ý kiến tập
thể một cách tự nhiên
Không thoải mái với mâu thuẫn; có
phản ứng tiêu cực với sự không hòa
hợp.
• Lý trí (T)
Cảm tính (F)
3
Q4. "Xu hướng hành xử của bạn" với thế giới bên ngoài thế nào? Mọi
người đều sử dụng cả hai quá trình đánh giá (suy nghĩ và cảm xúc) và lĩnh
hội (ghi nhận và cảm nhận) để chứa thông tin, tổ chức các ý kiến, ra các
quyết định, hành động và thu xếp cuộc sống của mình. Tuy vật chỉ một
trong số chúng (Đánh giá hoặc Lĩnh hội) dường như dẫn dắt mối quan hệ
của chúng ta với thế giới bên ngoài . . . trong khi điều còn lại làm chủ nội
tâm. Phong cách Đánh giá (J) tiếp cận thế giới bên ngoài VỚI MỘT KẾ
HOẠCH và mục tiêu tổ chức lại những gì xung quanh, chuẩn bị kỹ càng, ra
quyết định và hướng tới sự chỉn chu, hoàn thành.
Phong cách Lĩnh hội (P) đón nhận thế giới bên ngoài NHƯ NÓ VỐN CÓ
và sau đó đón nhận và hòa hợp, mềm dẻo, kết thúc mở và đón nhận các cơ
hội mới và thay đổi kế hoạch.
Tính cách đánh giá
•
•
•
•
Tính cách lĩnh hội
Lập kế hoạch tỉ mỉ và cụ thể trước
khi hành động.
Tập trung vào hành động
hướng công việc; hoàn thành
các phần quan trọng trước khi
tiến hành.
Làm việc tốt nhất và tránh
stress khi cách xa thời hạn
cuối.
Sử dụng các mục tiêu, thời hạn
và chu trình chuẩn để quản lý
cuộc sống.
Chọn điều phù hợp
nhất:
•
•
•
•
Thoải mái tiến hành công việc mà
không cần lập kế hoạch; vừa làm
vừa tính.
Thích đa nhiệm, đa dạng, làm và
chơi kết hợp
Thoải mái đón nhận áp lực về thời
hạn; làm việc tốt nhất khi hạn
chót tới gần.
Tránh sự ràng buộc gây ảnh
hưởng tới sự mềm dẻo, tự do và
đa dạng.
• Lĩnh hội (P)
Đánh giá (J)
Bốn chữ cái biểu hiện tính cách của bạn
E
S
T
P
4
Mỗi cá nhân là một nhân tố quan trọng cấu thành nên tổ chức. Họ có cùng
mục đích, lý tưởng và hoạt động để đạt được mục đích đó. Họ phải giao tiếp với
nhau, thực hiện các nhiệm vụ có tính chất phối hợp. Nói cách khác, những con
người làm việc cùng nhau để đạt được mục đích chung được gọi là một tổ chức.
Tổ chức học hỏi là một tổ chức ra đời dựa trên sự cộng tác, sự gắn kết ở đó
mỗi cá nhân luôn có sự cởi mở, chia sẻ kinh nghiệm với nhau để nâng cao lợi
ích và thành tích của tổ chức.
Nghiên cứu luận cứ các hệ thống mở của OB có thể thấy tổ chức tiếp nhận
các yếu tố đầu vào, tại đây có những tương tác lẫn nhau bên trong tổ chức và
mục đích cuối cùng là để tạo ra đầu ra. Đây là điều cơ bản nhất bên trong mỗi tổ
chức và không giống như làm việc cá nhân, trong mỗi tổ chức luôn có một vài
cá nhân cùng nghiên cứu, cùng tư duy, cùng suy nghĩ và cùng hành động để đạt
được một mục đích chung cuối cùng. Nhưng tổ chức học hỏi khác biệt ở chỗ họ
sẵn sàng tiếp nhận những thông tin phản hồi từ bên ngoài. Đây chính là mấu
chốt quan trọng nhất của bất kỳ tổ chức nào muốn trở thành một tổ chức học hỏi.
Có sự tiếp nhận, có sự lắng nghe để rồi điều chỉnh và thay đổi theo chiều hướng
tích cực hơn, quản lý tri thức tốt hơn. Hay nói cách khác, tất cả những tiếp nhận,
lắng nghe, điều chỉnh đều nhằm cải thiện khả năng của tổ chức trong việc thu
nạp, chia sẻ và sử dụng tri thức cho sự tồn tại và thành công của tổ chức đó.
Có thể minh chứng cho điều này rõ nét hơn qua sơ đồ quá trình quản lý tri
thức:
Thu thập tri thức
Chia sẻ tri thức
Sử dụng tri thức
Đầu tiên là sự thu thập tri thức. Mỗi cá nhân trong tổ chức đều có những
tri thức nhất định đã trau dồi và rèn luyện trong cả một quá trình. Và rồi họ
không ngừng học hỏi, nghiên cứu những kiến thức mới để làm giàu chất xám
cho bản thân. Chính những tri thức thu thập được sẽ là công cụ hỗ trợ cho công
việc, cho mục đích chung của cả tổ chức, và điều này sẽ thực sự có ý nghĩa hơn
thông qua giao tiếp, chia sẻ giữa những cá nhân trong tổ chức.
Mỗi cá nhân sử dụng tri thức của mình, phát huy những gì vốn có để đóng
góp vào kết quả của mục đích chung. Tuy nhiên cái cao hơn cả của một tổ chức
học hỏi chính là ở chỗ những giá trị nội tại và những tri thức được chia sẻ sẽ
được vận dụng, ứng dụng vào quá trình làm việc chung. Và đến đây chu trình
5
mới thực sự hoàn thành. Và quả thực, bằng những kiến thức sâu rộng, các cá
nhân trong tổ chức sẽ có những nhìn nhận vấn đề thấu đáo hơn dưới nhiều khía
cạnh khác nhau.
Như vậy, có thể thấy rằng tổ chức học hỏi là cái đích mong muốn đạt được
của bất kỳ tổ chức nào bởi vì ở đây, không chỉ phát huy sức mạnh, tri thức, chất
xám của từng cá nhân mà còn có sự chia sẻ tri thức để tất cả các cá nhân đều
xuất sắc và phát huy sức mạnh tập thể.
Rõ ràng là, không phải tất cả mọi người đều có những kiến thức giống nhau
và cùng một trình độ. Sẽ có những cá nhân nổi bật hơn, tỏa sáng hơn những cá
nhân khác. Và điều quan trọng hơn cả, sự hòa trộn, trao đổi kiến thức luôn khiến
mỗi cá nhân mở rộng tầm nhìn hơn, nâng cao trình độ hơn và kết quả là mục
đích đạt được sẽ khả quan hơn.
Tuy nhiên, sự tồn tại và phát triển của một tổ chức học hỏi không đơn giản
chỉ là sự trau dồi, chia sẻ và sử dụng tri thức. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào
để tài sản đó mãi mãi là của tổ chức đó và tồn tại cùng với sự tồn tại và phát
triển của tổ chức đó. Điều này đòi hỏi cần phải có sự lưu trữ, bảo quản tài sản tri
thức, tài sản trí tuệ.
Có rất nhiều cách để một tổ chức giữ tài sản trí tuệ mãi mãi là của mình mà
điều đầu tiên đó chính là chế độ đãi ngộ. Một nhân viên có chất xám, có trí tuệ
nhung ở một tổ chức anh ta không được đãi ngộ tốt, không được ghi nhận những
đóng góp, sớm muộn anh ta cũng sẽ ra đi. Vì vậy, giữ trí tuệ, bảo quản trí tuệ
đầu tiên phải giữ được con người.
Như đã phân tích ở trên, chia sẻ tri thức giữa các đồng nghiệp trong một tổ
chức là điều kiện cần thiết để duy trì và phát huy sức mạnh tổ chức, sức mạnh
tập thể. Sự chia sẻ tri thức suy cho cùng cũng chính là sự bảo quản và lưu trữ tri
thức. Bởi vì có sự chia sẻ, tri thức sẽ được truyển tải từ cá nhận nọ sang cá nhân
kia và tại một thời điểm không thể tất cả các nhân viên đều rời khỏi tổ chức. Vì
vậy, nếu trong một tình huống tiêu cực là một nhân viên rời khỏi tổ chức và sự
ra đi của nhân viên đó mang theo cả tri thức của anh ta . Tuy nhiên, nhờ có sự
chia sẻ, những tri thức vẫn ở lại cùng tổ chức và ở một hoặc một vài cá nhân
khác.
Một trong những cách hữu ích để lưu trữ và bảo quản tri thức đó chính là
chuyển tài sản con người thành tài sản tổ chức.
6
Mỗi cá nhân trong quá trình làm việc đều phải vận dụng tri thức của mình
và tri thức bằng cách này hay cách khác đều truyền tải vào thành quả của các cá
nhân đó tạo ra. Hơn thế nữa, các cá nhận đều có thể vận dụng tri thức của mình
tạo ra một sản phẩm lao động sáng tạo hay cao hơn là một phần mềm hữu ích sử
dụng trong tổ chức. Khi đó tài sản con người đã trở thành tài sản của tổ chức.
Có thời gian khi đi làm về tôi thấy mình thật mệt mỏi chỉ muốn nghỉ hưu
luôn. Sao lúc đó mình luôn luôn nhiều việc làm mãi mà không hết việc, cứ việc
này chưa hết việc khác đã đến, công việc được giao liên tục làm cho mình không
nhập tâm để tập trung làm việc. Trong đầu tôi hiện lên suy nghĩ “rồi sẽ qua” hãy
cứ làm việc thật tốt bạn sẽ đạt được kết quả nhất định.
Con người ta sống không chỉ bằng thực tại, sống với thực tại mà quan trọng
hơn cả là phải biết hướng tới tương lai như cái đích để phấn đấu không bao giờ
mệt mỏi. Tôi không thích cái gì cụ thể, hiển hiện rõ nét ngay trước mắt mình và
nói cho tôi biết đó là cái gì, là ai và như thế nào bởi lẽ tôi hiểu rằng trong xã hội
này không bao giờ tồn tại những điều như thế. Tôi thích được nhìn nhận và đoán
biết ý nghĩa của sự việc, đoán biết tính cách của đối phương. Có thể, những điều
diễn ra trong quá khứ giúp ta nhìn nhận và đánh giá sự việc, con người một cách
chính xác hơn nhưng không phải sự việc nào, con người nào cũng giống nhau.
Vì vậy, tôi luôn thích phán đoán sự việc, con người bằng trực giác. Và hạn chế chính là ở chỗ không phải lúc nào, bao giờ, trực giác cũng mách bảo cho ta
những nhận định đúng.
Ở một số trường hợp cụ thể, tôi thấy mình thật lý trí, phân tích thông tin
một cách tách bạch, khách quan trước khi đưa ra phán xét hay kết luận cuối
cùng. Thế nhưng, trong đa số các trường hợp con người tôi có xu hướng thiên về
cảm tính, có chút gì đó hành xử mang tính thiếu công minh. Đúng là tôi có
nhiều lúc nhìn sự việc, con người dựa vào sự thích hay không thích, đánh giá
hoàn toàn bằng cảm xúc cá nhân. Lý trí thì bền vững nhưng tình cảm thì hoàn
toàn có thể thay đổi. Ngày hôm nay, vì không thích hoặc chưa thích một người
nào đó cách nhìn nhận về người đó có thể sẽ có nhiều khía cạnh tiêu cực hơn.
Người sống lý trí thường có những nguyên tắc nhất định và đôi khi tạo cho
mình một vỏ bọc cứng nhắc. Vẫn tồn tại phần cảm tính nhưng lý trí lớn hơn, lấn
át được cảm xúc. Người cảm tính thì ngược lại, mềm mỏng hơn và phán xét dựa
vào yếu tố tình cảm. Đây cuối cùng lại chính là nguyên nhân tạo nên sự hạn chế
của nét tính cách này. Bản thân tôi - vì e ngại sự mâu thuẫn phát sinh trong cuộc
7
sống và bất cứ sự không hòa hợp nào cũng thường khiến tôi có phản ứng tiêu
cực bởi lẽ tôi đánh giá sự việc, con người dựa vào sự thích hay không thích và lẽ
dĩ nhiên khi phát sinh mâu thuẫn sẽ dẫn đến sự không hòa hợp và nếu lý trí quan
điểm có thể còn giữ nguyên nhưng nếu cảm tính, quan điểm khi đó hoàn toàn có
thể thay đổi theo chiều hướng ngược lại.
Qua nhiều năm công tác tại Ủy ban Kiểm tra Trung ương, tôi đã thay đổi
một số vị trí công tác trong cơ quan. Hiện nay tôi làm việc trong lĩnh vực kiểm
tra tài chính đảng, cá nhân tôi thường xuyên phải tiếp xúc với nhiều cán bộ,
công chức, làm việc ở nhiều cơ quan tài chính đảng khác nhau. Khi chuẩn bị
kiểm tra một khoản thu chi tài chính, bước quan trọng đầu tiên là phải tiếp xúc
với các cán bộ tài chính của các đơn vị. Tôi từng nghe một người bạn của mình
nói rằng, có nhiều khi quyết định kiểm tra tài chính đối với một đơn vị không
phải ở cách làm việc của họ, năng lực của họ mà chính ở trái tim mình. Và sự
cảm nhận đôi khi trở thành điều vô cùng cần thiết và quan trọng. Ngoài những
bước kiểm tra thông thường theo quy trình, tôi cảm thấy vững tin hơn nhờ trực
giác mách bảo tôi rằng người cán bộ ấy là đáng tin cậy. Và tôi đã thực hiện việc
kiểm tra công tác tài chính kế toán đối với họ bằng những luận điểm như thế. Do
việc kiểm tra chưa được kỹ càng và đặc biệt là sự quý mến, tôi nhận thấy tôi đã
luôn khen ngợi những công việc liên quan đến người cán bộ đó. Mặc dù biết
rằng, ở khía cạnh nào đó họ đáng được như vậy nhưng rõ ràng tôi cũng xử lý có
phần cảm tính. Và rồi, có một ngày niềm tin của tôi hoàn toàn sụp đổ khi người
cán bộ đó, họ đã không có năng lực và sự cố gắng như vậy. Và vì yêu cầu công
việc, vì áp lực từ lãnh đạo cấp trên và vì có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự mất
lòng tin, tôi đã báo cáo với lãnh đạo của tôi về tình trạng của người cán bộ đó.
Ngay lập tức là một chuỗi phản ứng, bởi vì họ sai nhưng chưa bao giờ họ bị đối
xử nghiêm khắc như vậy và họ đã không ngớt phàn nàn. Mọi niềm tin, mọi sự
ưu ái tôi đã dành cho họ trong suốt thời gian qua như sụp đổ hoàn toàn dưới
chân tôi. Tôi cảm thấy như mọi công sức, mọi sư cố gắng của mình suốt thời
gian trước đó là con số 0. Tôi thật sự thất vọng, chán nản, không muốn đối thoại
với người cán bộ đó và rõ ràng là tôi đã rơi vào tình trạng stress, mất thăng bằng.
Tôi biết, tất cả những điều đó xuất phát từ sự yêu quí, rất yêu quí và tin tưởng.
Và rõ ràng là, “Cảm tính” luôn phản ứng tiêu cực với sự không hòa hợp.
Mọi người đều sử dụng cả hai quá trình đánh giá (suy nghĩ và cảm xúc) và
lĩnh hội ( ghi nhận và cảm nhận) để chứa thông tin, tổ chức các ý kiến, ra các
8
quyết định, hành động và thu xếp cuộc sống của mình. Tuy vậy, chỉ một trong
số chúng (Đánh giá hoặc Lĩnh hội) dường như dẫn dắt mối quan hệ của chúng ta
với thế giới bên ngoài…trong khi điều còn lại làm chủ nội tâm.
Với thế giới bên ngoài, tôi có xu hướng hành xử theo cách lĩnh hội. Tôi
đón nhận thế giới bên ngoài như nó vốn có và sau đó hòa hợp, mềm dẻo, kết
thúc mở và đón nhận các cơ hội mới và thay đổi kế hoạch.
Trong công việc, tôi không thích cái gì cũng phải lập kế hoạch. Tôi ghét sự
áp đặt phải thế này, phải thế kia. Mặc dù thông thường mọi người vẫn nói làm gì
cũng phải lên kế hoạch để lường trước được tối đa những tình huống có thể xảy
ra. Riêng tôi, tôi thấy rằng cái gì thật cần thiết thì lập kế hoạch.
Ở cơ quan tôi đang công tác có yêu cầu từng cán bộ phải lập kế hoạch tuần,
kế hoạch tháng, kế hoạch quí và ở một vài công việc cụ thể thậm chí còn yêu
cầu lập kế hoạch năm. Tôi thấy có nhiều điều không cần thiết đặc biệt việc lập
kế hoạch năm. Theo thống kê, chưa bao giờ chính xác và cuối cùng lại yêu cầu
làm báo cáo về sự không chính xác đó. Và rõ ràng là “ Sự ràng buộc gây ảnh
hưởng tới sự mềm dẻo, tự do và đa dạng”.
Chính bởi điều này, tôi thích sự đa nhiệm, làm và chơi kết hợp. Với tôi, tôi
quan niệm sự thoải mái, không bị áp đặt chính là động lực đầu tiên khiến mỗi
con người ta trở nên yêu thích công việc mình đang làm hơn. Và bởi vậy, tôi
thấy hoàn toàn thoải mái đón nhận áp lực về thời hạn bởi vì càng gần hạn chót
tôi thấy mình làm việc lại hiệu quả hơn. Và như vậy, chính mình đã tạo cho
mình suy nghĩ giản đơn hơn.
Có người cho rằng cuộc sống phức tạp hay giản dị đều do mình, không chỉ
có vậy, đối với họ, cuộc sống này muôn màu, muôn vẻ, họ luôn sẵn sàng chấp
nhận kể cả sự khổ đau. Đối chiếu với những năm tháng đã qua, tôi đã hiểu được
giá trị hành vi cư xử của mình và quan trọng là phải từ đó điều chỉnh và định
hướng các hành vi cư xử của bản thân trong tương lai:
• Tính cách hướng ngoại sẽ giúp tôi dễ dàng thuận lợi trong công việc do sự
hòa đồng và rộng mở trong suy nghĩ, trong hành vi mang lại. Tuy nhiên,
nhược điểm của tôi là suy nghĩ ít sâu sắc, và với tôi sống phải có mối quan
hệ rộng mở với bên ngoài nên bất cứ một sự mất mát nào trong các mối
quan hệ đều dễ dàng khiến tôi sụp đổ và buồn chán. Về điều này, tôi cần
phải tự điều chỉnh bản thân mình sao cho phù hợp để không ảnh hưởng đến
công việc cũng như cuộc sống trong tương lai.
9
• Tôi còn dễ bị căng thẳng khi bị áp lực của công việc và cuộc sống, do vậy
tôi cần phải tìm ra nguồn gây stress, tự điều chỉnh bản thân, có chiến lược
kiểm soát căng thẳng, loại bỏ nguồn gốc gây ra căng thẳng để không ảnh
hưởng đến hiệu quả công việc và mọi người xung quanh.
• Trong cuộc sống, thậm chí trong công việc tôi có thiên hướng hành xử theo
cảm tính, dễ mềm yếu. Do đó, đôi khi tôi hay bị tình cảm tác động khi đưa
ra quyết định ảnh hưởng đến kết quả của công việc.
• Là người nhận định sự việc, con người bằng trực giác đôi khi do chưa đủ
kinh nghiệm sống, trực giác đã đánh lừa bản thân tôi và dẫn đến những
nhận định sai. Biết kết hợp những trải nghiệm quá khứ, sống sâu sắc hơn sẽ
tốt hơn cho công việc cũng như cách nhìn nhận con người và cuộc sống của
tôi.
Có thể nói, tính cách cá nhân liên quan tới mô hình ổn định trong các hành vi
cư xử và tính thống nhất trong suy nghĩ dùng để giải thích xu hướng cư xử
của một con người. Các nhà tâm lý học vẫn còn chưa thống nhất với nhau về
nguồn gốc của tính cách cá nhân, tuy nhiên hầu hết đều cho rằng nó được
hình thành bởi cả yếu tố di truyền và môi trường bên ngoài. Phần lớn các đặc
điểm tính cách đều được mô tả trong “Năm mảng lớn của nhân cách
(CANOE), bao gồm: Tận tâm (conscientiousness), Dễ chấp nhận
(agreeablenes), Lo âu (neuroticism), Sẵn sàng học hỏi (openness to
experience) và Hướng ngoại (extroversion).
Về nguồn gốc hình thành và thay đổi điều chỉnh tính cách cá nhân, bản
thân tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của các nhà tâm lý học là nó được hình
thành cả yếu tố bẩm sinh di truyền và nó cũng được hình thành bởi sự tác động
mạnh mẽ của môi trường xung quanh, đó là môi trường gia đình, nhà trường, xã
hội, cơ quan, tổ chức. Việc thay đổi điều chỉnh tính cách cá nhân phụ thuộc
nhiều vào văn hóa từng dân tộc, văn hóa gia đình, văn hóa tổ chức, các quy tắc
luật lệ, tính cách cá nhân cũng được điều chỉnh bởi tính cách người đứng đầu tổ
chức, đơn vị, và thay đổi theo môi trường công tác, theo thời gian, lứa tuổi, hoàn
cảnh và môi trường sống.
Sau khi nghiên cứu môn Quản trị hành vi tổ chức, được tiếp cận với
những kiến thức lý luận và những ví dụ minh họa thực tiễn, đặc biệt là với
những học thuyết nghiên cứu tính cách con người hiện đại giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về tính cách hành vi của mình giúp chúng hình thành phát triển, điều chỉnh
tính cách cá nhân, ứng xử thích hợp với những tình huống cụ thể. Từ đó tạo cho
10
chúng ta có thêm động lực phấn đấu vươn tới sự phát triển toàn diện nhằm ngày
càng hoàn thiện mình hơn./.
11
12