Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Khi bàn về việc học Văn, giáo sư Lê Trí Viễn đã từng khẳng định:
“Học Văn rõ ràng là khó. Nói như vậy để nêu ra một sự thật. Không phải
nhằm hù doạ, càng không phải để làm ngã lòng.” Học Văn đã khó, song
làm được một bài văn nghị luận đúng yêu cầu và hay thì lại càng rất khó. Vì
để làm được bài văn nghị luận, HS cần có được một tâm hồn nhạy cảm, vốn
từ vựng phong phú và trong sáng, chuẩn mực, có vốn kiến thức về văn học,
kiến thức về đời sống phổ thông và thuần thục các kĩ năng xây dựng bài viết
thì mới đưa ra được những lí lẽ sắc sảo, chứng cứ tiêu biểu, vững chắc làm
cho sự lập luận (về một vấn đề nào đó trong đời sống hoặc trong văn học)
mạch lạc, chặt chẽ, lôgíc, thấu tình đạt lí và thuyết phục người đọc, người
nghe.
Nhưng qua nhiều năm giảng dạy, chấm bài Tập làm văn của HS (kể cả
một số bài viết của HS tham gia kì thi “Học sinh Giỏi cấp Huyện” được tổ
chức hàng năm (chúng tôi là Ban giám khảo), chúng tôi nhận thấy năng lực
cảm thụ văn học và kĩ năng hành văn của HS còn nhiều yếu kém. Hầu hết
bài làm văn của các em còn hời hợt, sơ sài, tản mạn, lủng củng, thiếu mạch
lạc và khô cứng cảm xúc; mắc nhiều lỗi dùng từ, đặt câu, dựng đoạn văn,
liên kết câu và liên kết đoạn văn, chưa thuần thục các kĩ năng làm văn …
Có thể nói chính những yếu kém trên của HS không chỉ gây ra nhiều
khó khăn, trở ngại trong quá trình dạy của thầy và qúa trình học tập của trò
đối với môn Ngữ văn nói riêng cũng như các môn học khác nói chung mà
còn làm mất đi hiệu quả và tính ưu việt của nội dung, chương trình SGK
và phương pháp dạy - học theo hướng tích cực, tích hợp và sẽ xoá nhoà
cuộc vận động “Hai không” của Bộ GD & ĐT đã đề ra trong năm học
2006-2007.
Chính những điều nói trên đã thực sự thúc đẩy chúng tôi tiến hành
phân tích, tìm hiểu nguyên nhân nhằm tìm ra giải pháp khắc phục những yếu
kém trong bài viết văn nghị luận của HS. Từ đó, mạnh dạn đề xuất kinh
nghiệm: Một số vấn đề khi hướng dẫn HS viết văn nghị luận với tham
vọng góp một phần thiết thực lấp đầy những lỗ hổng trong bài viết Văn nghị
luận của HS khối lớp 9 hiện nay.
Do sự trải nghiệm chưa nhiều, do đối tượng tìm hiểu chỉ nằm trong
phạm vi hẹp nên kinh nghiệm mà chúng tôi đề xuất có lẽ chưa được toàn
diện và có sức thuyết phục cao. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý, bổ
sung của quý thầy cô và quý đồng nghiệp gần xa.
1
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
II. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ NGUỒN TƯ LIỆU:
1. Phạm vi đề tài:
Để tiến hành nghiên cứu và rút ra được kinh nghiệm cho đề tài này,
chúng tôi đã tìm hiểu, phân tích ngay ở những bài viết Tập Làm Văn của HS
ở khối lớp 9 (cuối vòng 2 của chương trình) trường THCS Ngô Quyền, xã
Cưmta, huyện M’đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
2. Nguồn tư liệu:
Nguồn tư liệu chủ yếu của đề tài là những bài viết Tập Làm Văn trên lớp
của HS khối lớp 9 qua các năm học: 2004 - 2005, 2005 - 2006, 2006 - 2007.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng nhóm 05 phương pháp
chính như sau:
1. Phương pháp khảo sát và phân loại
2. Phương pháp thống kê
3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
4. Phương pháp phân tích
5. Phương pháp tổng hợp
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Nội dung, chương trình Làm văn nghị luận bậc THCS được chính
thức học ở lớp 9 (cuối vòng 2) và sẽ được học nâng cao ở cấp THPT, gồm
một số loại bài thông dụng: nghị luận về xã hội và nghị luận về văn học.
Đây là hai loại bài Tập làm văn khó, yêu cầu HS vận dụng tổng hợp các kĩ
năng lập luận, có nâng cao hơn các loại bài Tập làm văn đã học ở các lớp
6,7, 8.
Nghị luận vừa là kiểu văn bản chính yếu của phân môn Tập làm văn
trong nhà trường THCS, vừa là kiểu văn bản thông dụng trong đời sống xã
hội, có mục tiêu rèn luyện cho HS kĩ năng lập luận về một vấn đề nào đó
trong đời sống hoặc trong văn học một cách mạch lạc, chặt chẽ, lôgíc,
thấu tình đạt lí và thuyết phục người đọc, người nghe bằng những lí lẽ
2
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
sắc sảo, chứng cứ tiêu biểu, vững chắc. Vì vậy, nó chiếm tỉ lệ điểm rất cao,
từ 50% đến 70 % trong thang điểm của một bài thi, bài kiểm tra. Có thể nói
bài văn nghị luận là thước đo chuẩn mực, là tiêu chí tin cậy để GV có thể
đánh giá một cách khách quan nhất, chính xác và thuyết phục nhất về năng
lực cảm thụ, sự tích luỹ kiến thức văn học, về trình độ nhận thức và khả
năng trình bày một vấn đề của HS, từ đó có được những giải pháp thích
hợp hơn trong quá trình tổ chức và hướng dẫn HS lĩnh hội tri thức đạt
hiệu quả cao, đáp ứng tốt mục tiêu giáo dục đề ra.
Ngoài ra, xa hơn và lâu dài hơn, văn nghị luận còn trang bị cho HS
kiến thức đáp ứng, giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong cuộc sống hằng
ngày, đặc biệt là đáp ứng thực tiễn nhu cầu giao tiếp đời sống xã hội.
Kết cấu của bộ môn Ngữ văn gồm ba phân môn (Văn-Tiếng Viêt-Tập
làm văn) và có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Ví dụ: Sau khi học
các tác phẩm thơ văn, HS sẽ có được những gợi ý về đề tài và vận dụng nghệ
thuật xây dựng truyện: tạo tình huống, miêu tả nhân vật, ngôi kể và lời kể …
của các nhà văn đã học vào bài văn tự sự của mình hoặc sau khi học các yếu
tố miêu tả nội tâm, nghị luận … của phần Làm văn, HS có thể vận dụng và
phân tích dễ dàng các yếu tố này trong các tác phẩm truyện … vv Vì vậy, nếu
HS làm tốt bài văn nghị luận thì chắc chắn rằng sẽ học tốt phần Tiếng Việt,
phần Văn và ngược lại.
II. THỰC TRẠNG VỀ CÁC LỖI TRONG BÀI VIẾT VĂN NGHỊ
LUẬN CỦA HS LỚP 9 THƯỜNG MẮC PHẢI:
Muốn nghị luận mạch lạc, chặt chẽ, lôgíc, thấu tình đạt lí và thuyết
phục người đọc, người nghe thì người viết phải biết dùng từ, đặt câu, dựng
đoạn, có những lí lẽ sắc sảo, chứng cứ tiêu biểu, vững chắc. Nhưng trên thực
tế bài viết văn nghị luận của học sinh thường mắc rất nhiều lỗi rất thông
dụng. Từ bài viết của HS, chúng tôi thống kê được một số thực trạng phổ
biến như sau:
1. Lỗi về hình thức:
- Có thói quen viết theo cách phát âm địa phương và mắc lỗi chính tả.
Ví dụ: “ cây che là một hình ảnh gần gũi, quen thuộc của nàng quê việt
lam.”
(Chưa biết viết hoa ở chữ đầu câu, đầu đoạn văn và các danh từ
riêng; có thói quen viết theo cách phát âm địa phương: tre
che, làng
quê
nàng quê… )
- Lẫn lộn giữa các từ gần âm và hiểu sai nghĩa của từ. Ví dụ: “ Nhân vật
Trương Sinh trong truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn
Dữ) là hiện thân của thủ tục gia trưởng, vũ phu của xã hội phong kiến.”
3
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
Hoặc:
“Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (trích “Truyện Kiều”Nguyễn Du), Mã Giám Sinh hoàn toàn bàng quang trước tâm trạng buồn tủi
của Thuý Kiều – người vợ tương lai của hắn.”
(HS thường ít để ý đến việc sử dụng từ ngữ, nghĩ sao viết vậy mà
không biết chính xác nghĩa của từ mình đang dùng là gì: hủ tục thủ tục,
bàng quan
bàng quang.)
- Lặp từ vô thức. Ví dụ: “Sau khi học xong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của
Nguyễn Khuyến, em thấy nhà thơ Nguyễn Khuyến là người có quan niệm
về tình bạn rất lành mạnh, tiến bộ nên em rất yêu quý nhà thơ Nguyễn
Khuyến, và em cũng rất thích đọc bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của
Nguyễn Khuyến.
(Sử dụng từ ngữ trùng lặp khiến đoạn văn rườm rà, nặng nề, lủng
củng.)
- Chưa biết sử dụng hoặc sử dụng không hợp lí các dấu câu. Ví dụ:
“Bánh trôi nước Chuyện người con gái Nam Xương Truyện Kiều
Truyện Lục Vân Tiên là những tác phẩm đề cập đến vẻ đẹp tâm hồn số phận
khổ đau của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến”
( HS không biết dùng dấu phẩy để ngăn cách tên các tác phẩm trong
chuỗi liệt kê và không biết dùng dấu chấm khi kết thúc câu, kết thúc đoạn
văn- lỗi này thường tập trung nhiều ở HS dân tộc thiểu số.)
Hoặc:
“ Qua bài thơ Anh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy. Em rút ra được
nhiều điều bổ ích trong cuộc sống của bản thân em sẽ luôn giữ gìn và trân
trọng những kỉ niệm của quá khứ.”
(Đoạn văn sử dụng các dấu câu: dấu chấm, dấu phẩy không hợp lí)
- Viết thiếu thành phần câu. Ví dụ:
“ Qua truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” cho thấy Vũ
Nương là nhân vật có nhiều đức hạnh tốt đẹp nhưng cuộc đời lại oan trái,
khổ đau.”
Hoặc:
“Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời
phong kiến.”
(Chưa xác định được và nhầm lẫn các thành phần chính và thành
phần phụ của câu.)
- Xây dựng đoạn văn không đúng quy cách. Ví dụ:
“ - Nhân vật Vũ Nương là người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Từ khi lấy chồng, cô luôn giữ gìn khuôn phép với chồng nên chưa từng để
xảy ra chuyện thất hoà. Khi Trương Sinh đi lính rồi, Vũ Nương luôn thương
4
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
nhớ và một lòng chung thuỷ với chồng. Chăm lo mẹ chồng khi ốm đau cũng
như lúc ma chay rất chu đáo…”
( Xây dựng đoạn văn không có dấu hiệu mở đầu và câu nêu luận điểm
thường bị tách ra đứng độc lập một cách vô thức hoặc cả bài không tách
một đoạn văn nào.)
- Các đoạn văn trong văn bản thường rời rạc, lỏng lẻo, không chặt chẽ.
Ví dụ:
“ Người lính thời chống Pháp xuất thân từ nhiều vùng quê khác
nhau nhưng có cùng ảnh nghèo khó, lam lũ:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Họ cùng làm một nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng, cùng chịu đựng
những gian lao, thiếu thốn nên họ trở thành đôi tri kỉ, người đồng chí của
nhau:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
( Đoạn văn sau cần phải có từ, cụm từ liên kết chỉ ý đối lập: nhưng,
tuy vậy… để liên kết chặt chẽ với đoạn văn trước, nhưng lại không được sử
dụng)
- Kết cấu bài văn không tuân theo một trình tự lôgíc, không mạch lạc,,
không cân đối trong bố cục trình bày. HS thường làm bài theo kiểu “đầu voi
đuôi chuột”, không ăn nhập vào nhau.
2. Lỗi về nội dung:
- Lạc ý, xa đề. Ví dụ: Viết một đoạn văn thân bài.
“ (1) Thuý Kiều là tiêu biểu cho người phụ nữ phong kiến tài sắc
vẹn toàn. (2) Gia đình Kiều bị vu oan, cha và em trai bị bọn sai nha đánh
đập tàn nhẫn. (3) Không chịu nổi cảnh ấy, Kiều đã quyết định từ bỏ mối tình
đầu của mình với chàng Kim, bán mình chuộc cha:
“ Để lời thộ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình,
Rẽ ra cho thiếp bán mình chuộc cha”.
(4) Và Kiều phải sống cuộc đời lưu lạc mười lăm năm chìm nổi, nhục nhã, ê
chề “ thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần.”
(Các câu 2,3,4 trong đoạn văn không hướng vào để làm sáng tỏ nhận
định nêu ở luận điểm “tài sắc vẹn toàn”(câu 1) mà sa vào lòng hiếu thảo và
nỗi khổ đau của Thuý Kiều)
5
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
- Thừa lời, thiếu ý. Ví dụ: Viết đoạn mở bài.
“Chính Hữu sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Năm 1946, ông
gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Chính Hữu đã được Nhà nước trao
tặng Giải thưởng Hồ chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Bài thơ
“Đồng chí” sáng tác vào năm 1948.”
( Đoạn văn tuy dài nhưng chưa đảm bảo yêu cầu cần và đủ cho phần
mở bài của bài nghị luận phân tích tác phẩm văn học.)
III. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG
Qua thống kê và phân tích những lỗi về hình thức và nội dung mà HS
thường mắc phải trong nhiều bài văn nghị luận, chúng tôi đã rút ra được một
số nguyên nhân cơ bản như sau:
1.Đối với học sinh:
- Do hổng kiến thức ở các lớp dưới. Xét riêng ở bậc THCS, kết cấu nội
dung - chương trình SGK theo hai vòng giống như những bậc thang, lớp trên
kế thừa và nâng cao lớp dưới. Nếu nấc dưới “gãy” thì không thể “ trèo” lên
tiếp nấc trên.
- Do ít trau dồi và rèn luyện vốn từ nên vốn từ còn nghèo nàn, khô cứng;
kiến thức văn học và kiến thức đời sống phổ thông còn thiếu và yếu. Một
nét tâm lí dễ nhận biết ở HS là thường chơi lúc không đến trường, ít chịu
khó tìm tòi, đọc các loại sách báo và nghe nhìn thông tin trên các phương
tiện thông tin đại chúng để tích luỹ kiến thức và trau dồi vốn từ.
- Do chưa biết tích hợp và vận dụng sự hỗ trợ của phân môn Văn và
Tiếng Việt trong quá trình làm bài.
- Do mặt bằng trình độ nhận thức không đồng đều; khả năng tiếp nhận
văn chương còn sơ sài; ý thức tích luỹ, vận dụng còn yếu.
- Do có thói quen lười suy nghĩ, ỷ lại, phụ thuộc SGK, vở ghi, phụ thuộc
tài liệu (sao chép, “chụp ảnh” bài văn mẫu, sách tham khảo các loại …).
- Do chưa nắm vững cách làm bài và chưa vận dụng thuần thục các kĩ
năng: tìm hiểu đề bài, tìm ý và làm dàn bài.
2.Đối với giáo viên:
Qua nhiều tiết đi dự giờ của nhiều giáo viên Ngữ văn, chúng tôi nhận
thấy một phần nhỏ của thực trạng đã nêu trên trong bài viết của HS là do
người dạy. Cụ thể:
- Chỉ chú trọng soạn giáo án bài dạy của mình làm sao cho xong (nhiều
giáo án dường như là “chụp ảnh” nguyên xi sách giáo viên và sách thiết kế)
6
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
chứ không chú ý rằng với cách soạn đó có phù hợp với trình độ của HS lớp
mình dạy hay không? Học sinh có hiểu được hay không? Nếu có hiểu
thì sẽ hiểu đến mức độ nào? …
- Có tâm lí coi sách giáo viên và sách thiết kế bài giảng là chân lí tuyệt đối,
bất di bất dịch, là “bùa hộ mệnh” cho trang giáo án lên lớp.
-Trong mỗi bài dạy trên lớp, chỉ chú ý cung cấp tri thức lí thuyết như trong
sách giáo khoa mà ít chú trọng hướng dẫn HS tự tìm tòi chân lí (một số thì
e ngại thiếu tự tin mà không dám khơi gợi cái mới từ bài học ?!). Đây cũng
là nguyên nhân làm cho HS chán nản, không tha thiết học.
- Một số GV chỉ được nhà trường phân công dạy HS trong khoảng thời
gian một hoặc hai năm học nên chưa nắm được một cách đầy đủ về sở
trường, sở đoản của HS trong học tập để kịp thời điều chỉnh phương pháp
giáo dục. Ví dụ như lớp 6 thì phân thầy A dạy, lên lớp 7 thì đổi cho cô B
dạy , lớp 8 thì lại đổi cho cô C dạy …
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN:
Hưởng ứng cuộc vận động “Hai không” của Bộ GD & ĐT, để góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục, làm khâu đột phá tạo nên những chuyển
biến tích cực, chống bệnh thành tích trong toàn ngành giáo dục, chúng tôi đã
áp dụng một số giải pháp như sau:
1. Chú trọng tích cực hoá “văn hoá đọc”, “văn hoá nghe, nhìn” cho học
sinh.
Đối tượng của Văn học là hiện thực cuộc sống. Vì vậy, để cảm thụ
Văn học thì điều quan trọng nhất là phải biết đọc, đọc là một hình thức tự
học tập rất quan trọng của môn Ngữ văn. Để tích cực hoá “văn hoá đọc, văn
hoá nghe - nhìn” cho HS, chúng tôi có một số giải pháp như:
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh HS qua từng nhóm, từng cụm
theo địa bàn thôn, buôn (GV phân nhóm và cử người chịu trách nhiệm chính
mỗi nhóm qua phiên họp phụ huynh đầu năm) và tuyên truyền, động viên
phụ huynh mua sắm cho con em các loại sách tài liệu tham khảo, giành một
lượng thời gian hợp lí để nghe và xem các chương trình bổ ích trên ra-điô, truyền hình (Chiếc nón kì diệu, Ai là triệu phú, Đường lên đỉnh Ôlimpia,
Đấu trường 100 … trên VTV3, Câu lạc bộ yêu thơ … trên VTV1) nhằm vừa
bổ sung, nâng cao kiến thức chuyên sâu, kiến thức phổ thông, vừa trau dồi
vốn từ vựng và cách sử dụng ngữ pháp phục vụ các nhu cầu giao tiếp nói viết.
- Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi luôn khơi gợi ở HS thói quen tự
giác đọc - nghe - xem các loại tài liệu liên quan. Sau mỗi giờ dạy, giới thiệu
7
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
danh mục các loại tài liệu cần đọc bổ sung cho bài học. Ví dụ: Dạy bài “
Ngắm trăng” (Hồ Chí Minh), chúng tôi giới thiệu và hướng dẫn HS đọc
thêm các bài thơ khác của tập thơ “Nhật kí trong tù” có liên quan để làm dữ
liệu bổ sung cho nghị luận về bài thơ, như: Trung thu, Dây trói, Trên
đường…
- Tích cực tham mưu và phối hợp với nhà trường, với Đoàn - Đội tổ
chức cho HS đọc báo, các loại truyện được cấp phát theo lớp qua một số giờ
sinh hoạt 15 phút đầu giờ hoặc mượn đọc (do trường chưa có chuyên trách
thư viện và ở một số trường học thế mạnh này chưa được chú ý khai thác
thích đáng)
2. Vận dụng linh hoạt phương pháp tích hợp và tích cực.
Xuất phát từ tình hình thực tế về trang thiết bị hỗ trợ quá trình dạyhọc trên lớp còn nhiều thiếu thốn, để tránh dạy chay học chay và tạo tính
trực quan sinh động, hạn chế lãng phí thời gian trên lớp, chúng tôi luôn
chuẩn bị một số bảng phụ(tự mua sắm, tự làm) ghi sẵn các dữ liệu quan cần
bám sát phân tích.
Ví dụ: Khi phân tích thơ thì chuyển nguyên văn lên bảng phụ hoặc
phân tích truyện thì ghi sẵn bố cục hoặc dạy phần Tiếng Việt, Tập làm văn
thì ghi sẵn ngữ liệu cần phân tích của bài học.
Hơn thế, trong một lớp học thường có nhiều đối tượng HS khác nhau
để cả ba đối tượng cùng chủ động, tích cực tìm hiểu và lĩnh hội đầy đủ,
sâu sắc bài học, chúng tôi thường chủ động, tích cực dựa vào hệ thống câu
hỏi sau mỗi bài học trong SGK để suy nghĩ, tìm tòi, cải tiến câu hỏi làm sao
cho dể hiểu nhất và phù hợp với trình độ nhận thức của HS lớp mình dạy.
Vì hệ thống câu hỏi hướng dẫn học tập sau mỗi bài học trong SGK thường
chỉ là những định hướng học tập nên rất khái quát, nếu “bê” nguyên mà
không chia nhỏ câu hỏi thì những HS có học lực trung bình, yếu kém (đây là
số đông trong một lớp học) rất khó có thể trả lời và cảm nhận sẽ hời hợt,
ảnh hưởng xấu đến kết quả bài văn nghị luận văn học (dạng bài phổ
biến trong nhà trường).
Ví dụ:
Khi học truyện ngắn “Làng” (Kim Lân), SGK Ngữ văn 9 có câu hỏi:
“Thuật lại diễn biến tâm trạng, hành động của ông Hai từ khi nghe tin làng
chợ Dầu theo Tây làm Việt gian. Vì sao ông lại đau đớn, tủi nhục,hổ thẹn?”
Đây là câu hỏi mà những HS khá, giỏi mới có thể trả lời được. Để đáp
ứng trình độ nhận thức của ba đối tượng – em nào cũng có thể tham gia trả
lời, chúng tôi chia nhỏ câu hỏi hướng dẫn HS học tập như sau:
8
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
1. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, tâm trạng và hành động của ông Hai
được miêu tả như thế nào?
2. Khi về đến nhà, tâm trạng và hành động, lời nói của ông Hai ra sao?
3. Mấy ngày sau đó, tâm trạng và hành động của ông Hai được miêu tả có gì
khác trước?
4. Với cách miêu tả đó, tác giả cho em thấy nhân vật ông Hai trong truyện
có phẩm chất nào đáng quý?
3. Soạn thảo nội dung, chương trình dạy- học môn Tự chọn hoặc để phụ
đạo HS yếu kém:
Môn Tự chọn được được áp dụng trong nhà trường THCS đến nay đã
gần 05 năm học (kể từ khi đổi mới nội dung, chương trình SGK và phương
pháp dạy - học đại trà của Bộ GD & ĐT) đã có tác dụng tích cực trong việc
hỗ trợ hoạt động dạy & học. Song, bộ môn này vẫn chưa có một nội dung,
chương trình chuẩn thống nhất của Bộ mà chỉ có một vài tài liệu do GV bộ
môn trong một trường tự soạn thảo. Xuất phát từ tình hình nói trên và căn
cứ vào tình hình HS của nhà trườngTHCS Ngô Quyền, chúng tôi đã mạnh
dạn biên soạn tài liệu dạy học làm văn nghị luận theo chủ đề bám sát. Nội
dung tài liệu tập trung ở một số kiến thức trọng tâm nhằm rèn luyện kĩ
năng làm văn nghị luận cho HS như sau:
a. Tìm hiểu đề:
Như đã nêu trên, văn nghị luận thường có nhiều loại, dạng đề bài khác
nhau cho nên việc tìm hiểu đủ và đúng yêu cầu của đề là một việc làm có ý
nghĩa quyết định nền móng ban đầu cho bài văn, tránh lạc đề, xa đề (tức là
đảm bảo tính định hướng). Để nắm vững yêu cầu đề bài, chúng tôi thường
hướng dẫn HS nắm vững:
a1 /Thế nào là đề văn nghị luận?
Đề văn nghị luận là loại đề yêu cầu người nói, người viết sử dụng
nhiều dẫn chứng và lí lẽ để bàn, đánh giá, giải quyết cho rõ và thuyết phục
người đọc, người nghe về một vấn đề nào đó trong đời sống hoặc trong văn
học.
a2/ Các dạng đề văn nghị luận thường gặp:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống gần gũi, quen thuộc
đáng khen hoặc đáng chê trong gia đình, địa phương, nhà trường, xã hội .
Ví dụ: Trường ta có nhiều tấm gương vượt khó và đạt thành tích cao
trong học tập (như bạn Nguyễn Thị Thuỷ lớp 8C là con gia đình hộ đói, chịu
khó học tập, đạt danh hiệu “Học sinh Giỏi toàn diện”, bạn H Trang Niê lớp
9
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
9D là con mồ côi, tự giác sáng tạo trong học tập, đạt danh hiệu “Học sinh
Giỏi toàn diện”, bạn Y Vê Ksơr học lớp 9B, nhà ở Thác Bay nhưng vẫn
chuyên cần, chăm chỉ học tập, đạt danh hiệu “Học sinh tiên tiến” …) Em
hãy viết bài văn nêu suy nhĩ của mình về những bạn học sinh ấy.
- Nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí qua một số câu tục ngữ, ca dao,
danh ngôn có ý nghĩa khuyên răn, giáo dục cao. Ví dụ:
Nói về tình cảm của con cái với cha mẹ, cha ông ta có câu ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Hãy nêu suy nghĩ của em về câu ca trên.
- Nghị luận về nhân vật văn học, về thơ văn. Ví dụ: Phân tích
hai khổ thơ cuối của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
a3 / Cấu tạo của đề văn nghị luận:
Cấu tạo của đề văn nghị luận thường có hai phần: phần nêu tư tưởng
của đề bài, phần chỉ định công việc phải làm.
Ví dụ: “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ), “Truyện
Kiều” (Nguyễn Du) là hai trong nhiều tác phẩm văn học có chung tiếng nói
trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn và đồng cảm với số phận khổ đau, bất
hạnh của người phụ nữ thời phong kiến. / Em hãy phân tích làm sáng
(Phần nêu)
(phần làm)
tỏ nhận định trên.
Từ việc xác định được cấu tạo của đề HS có thể nắm ngay được loại,
dạng đề (nghị luận văn học), phép lập luận (phép lập luận phân tích, chứng
minh), đối tượng nghị luận (tiếng nói trân trọng, ngợi ca và đồng cảm về
tâm hồn và số phận người phụ nữ phong kiến, qua hai nhân vật Vũ Nương,
Thuý Kiều) phạm vi tư liệu (hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du) .
b. / Tìm ý và làm dàn ý:
Tìm ý và làm dàn ý là công đoạn quan trọng quyết định trực tiếp đến
tính chính xác, toàn diện, sâu sắc và tính mạch lạc của bài viết. Có thể coi
tìm ý như là tìm nguyên vật liệu, làm dàn ý như là bản vẽ thiết kế cho ngôi
nhà sắp xây. Vì vậy, chúng tôi thường hướng dẫn và hình thành cho HS một
quy tắc tìm ý, làm dàn ý như sau:
Căn cứ vào cấu tạo đề bài, dạng đề bài có thể rút ra quy tắc:
10
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
b1 / Quy tắc tìm dẫn chứng:
Ai, cái gì ? + Mặt nào? + Lúc nào? + Ở đâu?
Ví dụ:
Nhân vật chị Dậu trong hai đoạn trích “Con có thương thầy thương
u” và “Tức nước vỡ bờ” trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là
tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Em
hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Ap dụng quy tắc trên, HS có thể dễ dàng tìm dẫn chứng chứng minh
đề bài trên:
Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật chị Dậu được thể hiện ở những mặt nào?
(đảm đang, tháo vát; thương yêu chồng con; sức sống mạnh mẽ tiềm tàng…)
Mỗi vẻ đẹp tâm hồn trên của nhân vật thể hiện lúc nào, ở đâu? ( khi chạy
vạy ngược xuôi kiếm tiền cứu anh Dậu: dẫn chứng…; khi phải bán cái Tí:
dẫn chứng… ; Khi đối phó với tên cai lệ và người nhà lí trưởng: dẫn chứng
…)
b2/ Quy tắc tìm lí lẽ:
Thế nào? + Tại sao? + Cảm xúc suy nghĩ?
Ví dụ: Em hiểu như thế nào về câu tục ngữ: An quả nhớ kẻ trồng
cây.
Ap dụng quy tắc trên, HS có thể dễ dàng tìm lí lẽ:
Ăn quả và kẻ trồng cây có nghĩa đen và nghĩa bóng như thế nào? (nghĩa
đen: Ăn quả: ăn những trái cây chín, thơm, ngọt, bùi; kẻ trồng cây: người
trồng, vun xới, chăm bón cây, trái. Nghĩa bóng: hưởng thụ thành quả của
những người đi trước đã tạo ra)
Tại sao ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây? ( thể hiện được truyền thống đạo lí
tốt đẹp của cha ông ta và là nền tảng để hình thành, phát triển và hoàn thiện
nhân cách con người; mọi thành quả không tự nhiên mà có…)
Nhớ kẻ trồng cây, ta phải làm như thế nào? (có những hành động và việc
làm đúng đắn với những người đã tạo ra thành quả: ông bà, tổ tiên, cha mẹ,
người nông dân, người công nhân, thầy cô, các anh hùng liệt sĩ…)
Em có cảm xúc, suy nghĩ gì về lời dạy của câu tục ngữ trên? …
c./ Cách trình bày dẫn chứng và lí lẽ:
Tìm được lí lẽ và dẫn chứng đã là khó song, sắp xếp chúng như thế
nào cho hợp lí và có hiệu quả thì lại càng khó. Để HS làm được điều này,
chúng tôi hướng dẫn HS một số cách sắp xếp:
11
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
c1 /Đảm bảo mô hình tổng quát:
- Mô hình bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống:
Nêu vấn đề Liên hệ và phân tích mặt đúng, mặt sai(nếu có)
Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ.
- Mô hình bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí:
Chứng minh, giải thích, phân tích, đánh giá … chỗ đúng hoặc chỗ
sai (nếu có) của một tư tưởng, đạo lí nào đó
- Mô hình bài nghị luận về nhân vật:
Nêu đặc điểm nhân vật Dẫn chứng Lí lẽ phân tích Đánh
giá, cảm xúc.
- Mô hình bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn thơ, bài thơ :
Nêu ý tổng quát Dẫn chứng Cảm xúc, suy nghĩ.
Ví dụ: Mô hình bài phân tích bốn câu thơ đầu trong đoạn “Cảnh ngày
xuân” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Căn cứ quy tắc tìm lí lẽ và dẫn chứng đã nêu trên, ta có thể trình bày
như sau:
- Bước 1: Nêu ý tổng quát (nội dung chính của đoạn thơ là gì?):
Đoạn thơ tập trung miêu tả cảnh mùa xuân ở đồng quê.
- Bước 2: Trích dẫn dẫn chứng (nội dung đó thể hiện tập trung ở
những câu thơ, từ ngữ, hình ảnh nào?):
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
- Bước 3: Đánh giá và nêu cảm xúc, suy nghĩ. (cảnh mùa xuân được
tác giả miêu tả như thế nào? Cảm xúc của mình?): Cảnh mùa xuân được
miêu tả từ những con én quen thuộc của mùa xuân chao liệng vút qua vút lại
giữa bầu trời cao rộng. Hình ảnh nhân hoá “con én đưa thoi” gợi cảm giác
tiếc nuối thời gian mùa xuân đang trôi nhanh. Cách tính và miêu tả vẻ đẹp
mùa xuân của tác giả thật hay và ý vị “thiều quang chín chục đã ngoài sáu
mươi”, cụm từ “thiều quang” gợi lên cái màu hồng, cái ấm áp của mùa
xuân. Tiếp đó là một màu xanh mơn mởn, thơm ngọt của cỏ non như một
tấm thảm màu xanh trải dài và rộng “tận chân trời”, là sắc trắng tinh khôi,
thanh khiết của “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Câu thơ là sự vận
dụng sáng tạo thơ cổ Trung Hoa, hai chữ “trắng điểm” là nét chấm phá gợi
lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng, thơm mát, mềm mại làm say đắm lòng
người.
12
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
c2 / Đảm bảo vấn đề trình tự:
Ví dụ: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong truyện “Chuyện người
con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
- Sắp xếp dẫn chứng theo trình tự xuất hiện trước, sau của sự việc:
Khi Vũ Nương lấy chồng Lúc chồng đi lính Khi Trương Sinh trở về…
- Sắp xếp dẫn chứng theo từng mặt, từng phương diện, từng bộ phận,
từng khía cạn: Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Vũ Nương Số phận khổ đau,
bất hạnh của nhân vật …
d. Các phép lập luận:
Để nghị luận được rõ ràng và thuyết phục, chúng ta cần sử dụng các
phép lập luận một cách linh hoạt và phù hợp. Một số phép lập luận thường
dùng: phép lập luận phân tích và tổng hợp (chủ đạo) kết hợp với phép lập
luận chứng minh, giải thích cùng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh.
e. / Đoạn văn và cách xây dựng đoạn văn:
e1 / Thế nào là đoạn văn?
Đoạn văn là phần văn bản được quy ước tính từ chỗ viết hoa lùi đầu
dòng đến chỗ chấm xuống dòng (một đoạn văn có thể là một câu hoặc
nhiều câu, nhưng thường là từ hai câu trở lên).
Ví dụ:
“ (1) Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn trên núi Bân tế
cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi
hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn
Nhạc làm năm thứ đầu của niên hiệu Quang Trung. (2) Lễ xong, hạ lệnh
xuất quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp Mậu Thân (1788).
e2/ Cách xây dựng đoạn văn:
Có nhiều cách để xây dựng một đoạn văn, nhưng người ta thường
dùng 04 cách: đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp, đoạn văn móc xích,
đoạn văn song hành (theo sách Tiếng Việt lớp 9 cũ). Ơ đây chúng tôi chỉ
khắc sâu cho HS hai cách xây dựng đoạn văn thông dụng và đơn giản
nhất.
Ví du 1: Đoạn văn diễn dịch.
“(1) Nhật kí trong tù” canh cánh một tấm lòng nhớ nước.(2) Chân
bước đi trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn
cảnh lầm than, có lẽ nhớ cả tiếng khóc cuả bao nhiêu em bé Việt Nam qua
tiếng khóc của một em bé Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn đến ven sông,
nhớ lá cờ nghĩa đang tung bay phấp phới. (3) Nhớ lúc tỉnh và nhớ cả lúc
mơ.”
(Hoài Thanh)
13
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
Lược đồ:
1(câu nêu luận điểm)
2
3
(Câu 1 nêu ý chung, khái quát (câu luận điểm), các câu 2,3,4 nêu các
ý chi tiết hơn, cụ thể hơn và hướng vào câu 1 để giải thích , bổ sung làm rõ
câu 1)
Ví dụ 2: Đoạn văn quy nạp.
“(1) (a) Hiện nay trình độ của đại đa số đồng bào ta bây giờ không
cho phép đọc dài, (b) điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và
in dài, (c) thì giờ của ta, người lính đánh giặc, người dân đi làm, không cho
phép xem lâu. (2) Vì vậy, nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy.”
(Hồ Chí Minh)
Lược đồ:
1(a)
(b)
(c)
2(câu nêu luận điểm)
(Câu 1(a,b,c) nêu các ý chi tiết, cụ thể; câu 2 rút ra ý chung, khái
quát (câu luận điểm).
f./ Viết các phần mở bài, thân bài, kết bài:
Bất cứ bài văn nghị luận nào trong nhà trường cũng phải đảm bảo ba
phần và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Phần mở bài thường báo
trước và định hướng công việc sẽ làm ở thân bài; phần thân bài (trọng tâm)
hướng vào mở bài để giải thích, chứng minh và phân tích làm rõ nội dung đã
báo ở mở bài; phần kết bài thường tổng hợp việc đã làm ở thân bài. Kết
cấu phải cân đối, đảm bảo vấn đề phân lượng ( mở bài chiếm tỉ lệ từ 1 đến 2
phần mười bài văn, thân bài có dung lượng từ 6 đến 8 phần mười, kết bài
chiếm từ 1 đến 2 phần mười )
f1 / Viết phần mở bài:
Phần mở bài thông thường chỉ một đoạn văn. Nó có nhiệm vụ nêu đối
tượng, nhiệm vụ của đề tài. Đó cũng chính là cơ sở và phương hướng để
triển khai đề tài và qua đó xác lập mục tiêu cần đạt đến của văn bản.
Để đảm bảo chất lượng đại trà, chúng tôi hướng dẫn HS cách viết mở
bài ngắn gọn nhất, đơn giản nhất.
14
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
Ví dụ1: Viết phần mở bài cho đề bài: Suy nghĩ về đạo lí “Uống nước
nhớ nguồn.”
(1) Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu quý, tôn trọng đạo lí.
(2) Để nhắc nhở, giáo dục con cháu về lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước đã
làm nên thành quả cho đời sau hưởng thụ, cha ông ta có một kho tàng tục
ngữ phong phú, sâu sắc. (3) Đáng chú ý nhất là câu “Uống nước nhớ
nguồn.”
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn văn mở bài: Câu (1) nêu mục đích,
xuất xứ của vấn đề Câu (2) xác định và báo trước vấn đề cần nghị luận ở
thân bài Câu (3) trích dẫn phần nêu của đề bài.)
Ví dụ2: Viết phần mở bài cho đề bài: Phân tích nhân vật Lão Hạc
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
(1) Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao là một trong những tác
phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực (1930 -1945). (2) Nhân vật Lão
Hạc trong truyện là tiêu biểu cho cuộc đời người nông dân Việt Nam trước
cách mạng: nghèo đói, bất hạnh nhưng trong sáng về tinh thần, giàu tình
cảm.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) nêu xuất xứ của vấn đề:
tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác Câu (2) nêu vấn đề cần nghị luận:
giới thiệu tên nhân vật, báo trước đặc điểm nhân vật (khái quát) cần làm rõ
ở phần thân bài)
Ví dụ3: Viết phần mở bài cho đề bài: Cảm nhận của em về đoạn trích
truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
(1) Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của Nam Bộ, các sáng tác của ông
đều viết về cuộc sống của con người Nam Bộ thời chống Mĩ, tiêu biểu nhất
là đoạn trích truyện “Chiếc lược ngà”. (2) Đó là một đoạn truyện chân thực
và hấp dẫn khiến người đọc, người nghe xúc động trước tình cảm cha con
sâu sắc trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) nêu xuất xứ của vấn đề:
tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác Câu (2) Xác định và báo trước nội
dung và nghệ thuật sẽ phân tích ở thân bài.)
f2 / Viết phần thân bài:
Phần thân bài thường gồm nhiều đoạn văn. Nó có nhiệm vụ phân tích,
chứng minh, giải thích … nội dung của đề tài, theo hướng nhiệm vụ đã đề ra.
Thân bài phải thực hiện vừa đủ( không thiếu không thừa) những nhiệm vụ
đã đề ra ở phần mở bài, hướng đến mục đích cần đạt đến của văn bản.
Ở đây, chúng tôi chỉ minh hoạ và hướng dẫn HS học tập cách xây
dựng đoạn văn theo một số dạng bài nghị luận thường gặp.
15
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
Ví dụ1: Viết một đoạn văn giải thích cho đề bài: Suy nghĩ về đạo lí
“An quả nhớ kẻ trồng cây.”
(1) Để nêu lên được bài học đạo lí, câu tục ngữ mượn hai hành động
gần gũi “ăn, nhớ” và hai hình ảnh quen thuộc “quả, kẻ trồng cây”. (2) “An
quả” là ăn những trái cây chín thơm ngon, ngọt bùi; “kẻ trồng cây”là người
trồng trọt, vun xới, chăm bón cho cây đơm hoa kết trái. (3) Từ đó, suy rộng
ra, ta ngầm hiểu “ăn quả” là hưởng thụ thành quả vật chất cũng như tinh
thần, “kẻ trồng cây” là người tạo ra thành quả đó. (4) Rõ ràng, câu tục ngữ
khuyên dạy chúng ta khi hưởng thụ thành quả lao động của người khác thì
luôn phải nhớ và biết ơn họ.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) dẫn dắt câu tục ngữ
Câu (2) giải thích nghĩa đen Câu (3) giải thích nghĩa bóng Câu (4)
chốt lại vấn đề cần nghị luận (câu nêu luận điểm).
Ví du2: Viết một đoạn văn phân tích cho đề bài: Phân tích nhân vật
Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
(1) Cảm động và đáng khâm phục hơn cả, tuy Lão Hạc không được
học hành, không có kiến thức nhưng lão có ý thức rất cao về lòng tự trọng.
(2) Trước khi tìm cho mình một “lối thoát”, lão đã gửi tiền cho ông giáo (25
đồng và 3 đồng bán chó) để nói với hàng xóm giúp khi hậu sự và để cho lão
ra đi thanh thản. (3) Lão không nhờ vả và khước từ mọi sự giúp đỡ của ông
giáo, “lão từ chối một cách dường như hách dịch”, lão thà thiếu đói chứ
không làm việc xấu xa ăn cắp ăn trộm như Binh Tư.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) chuyển đoạn và nêu luận
điểm (tính cách nhân vật lão Hạc) Câu (2,3) nêu dẫn chứng và lí lẽ.)
Ví du3: Viết một đoạn văn phần thân bài cho đề bài: phân tích đoạn
trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du.
(1) Mở đầu đoạn trích là bức tranh mùa xuân ở làng quê đầy màu sắc,
hương thơm, đường nét mềm mại và đầy sức sống:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(2) Giữa bầu trời cao rộng, những con én quen thuộc của mùa xuân
chao liệng vút qua vút lại, hình ảnh nhân hoá “con én đưa thoi” gợi cảm
giác tiếc nuối thời gian mùa xuân đang trôi nhanh. (3) Cách tính và miêu tả
vẻ đẹp mùa xuân của tác giả thật hay và ý vị “thiều quang chín chục đã
ngoài sáu mươi”, cụm từ “thiều quang” gợi lên cái màu hồng, cái ấm áp của
16
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
mùa xuân. (4) Tiếp đó là một màu xanh mơn mởn, thơm ngọt của cỏ non
như một tấm thảm màu xanh trải dài và rộng “tận chân trời”, là sắc trắng
tinh khôi, thanh khiết của “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.(5) Câu
thơ là sự vận dụng sáng tạo thơ cổ Trung Hoa, hai chữ “trắng điểm” là nét
chấm phá gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng, làm say đắm lòng người.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) nêu ý tổng quát (luận
điểm) và trích dẫn dẫn chứng Câu (2,3,4,5) phân tích nghệ thuật và nội
dung.)
f3 / Viết phần kết bài:
Phần kết bài thường chỉ có một đoạn văn. Nó có nhiệm vụ nhận xét
chung về đề tài hoặc nhiệm vụ của đề tài (như giá trị, công dụng, ảnh hưởng,
tầm quan trọng…), đánh giá kết quả đạt được, gợi mở hướng xem xét khác.
Ví dụ1: Viết đoạn văn kết bài cho đề bài: Suy nghĩ về đạo lí “Uống
nước nhớ nguồn.”
(1) Tóm lại, câu tục ngữ trên đã đưa ra một bài học đạo đức nhẹ nhàng
mà sâu sắc thấm thía. (2) Trong cuộc sống, đối với bản thân em, em sẽ luôn
lễ phép, ngoan ngoãn, chăm chỉ, chịu khó học tập và lao động trở thành
người có ích để đền đáp và ghi nhớ công lao sinh thành, nuôi dưỡng của cha
mẹ ông bà, công ơn dạy dỗ của thầy cô … vv, đồng thời luôn cố gắng phấn
đấu làm “người trồng cây” tạo ra thành quả lao động cho người khác.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) tác dụng của vấn đề
Câu (2) liên hệ bản thân, thực hiện tốt vấn đề.)
Ví dụ2: Viết đoạn văn kết bài cho đề bài: Phân tích nhân vật Lão Hạc
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
(1) Lão Hạc là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của
người nông dân Việt Nam: nhân hậu, lương thiện, thương yêu con và có lòng
tự trọng cao. (2) Ngày nay không còn những cuộc đời như Lão Hạc, nhưng
đó mãi là tấm gương sáng về tâm hồn, nhân cách để cho ta học tập. (3) Đối
với bản thân em, em sẽ luôn cố gắng học tập trở thành người có ích và luôn
tôn trọng yêu thương mọi người.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) tóm tắt các tính cách nhân
vật đã phân tích Câu (2) rút ra bài học Câu (3) liên hệ bản thân, thực
hiện tốt vấn đề.)
Ví dụ3: Viết đoạn văn kết bài cho đề bài: phân tích bài thơ “Anh
trăng” của Nguyễn Duy.
17
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
(1) Tóm lại, với từ ngữ, hình ảnh giản dị mà biểu cảm, lời thơ nhỏ
nhẹ, chân thành, Nguyễn Duy đã gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống
ân nghĩa, thuỷ chung cùng quá khứ. (2) Đó là một bài học không chỉ
của riêng ai. (3) Em sẽ thực hiện tốt lối sống tốt đẹp này, góp phần phát huy
truyền thống đạo lí “uống nước nhớ nguồn của dân tộc”.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) tóm tắt nội dung và nghệ
thuật đã phân tích Câu (2,3) rút ra bài học, liên hệ bản thân, thực hiện
tốt vấn đề.)
C. PHẦN KẾT LUẬN
Sau một thời gian thực hiện, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, kiểm tra,
phân tích, tổng hợp và nhận thấy chất lượng học tập của đại đa số HS có
chuyển biến tích cực, cụ thể:
Kiến thức cơ bản của HS nhìn chung là đảm bảo.Vốn từ vựng tăng
lên đáng kể, sử dụng từ ngữ thuần thục hơn; kiến thức phổ thông được chú ý
cập nhật hơn.
Chủ động, tích cực trong học tập; biết vận dụng mối quan hệ tương
hỗ giữa ba phân môn trong bộ môn Ngữ văn trong quá trình viết bài.
Ngày càng thuần thục các kĩ năng: tìm hiểu đề bài, tìm ý, làm dàn ý,
xây dựng đoạn văn và viết bài văn nghị luận .
Chất lượng các bài viết của học sinh được nâng cao rỗ rệt. Đối
chiếu các bài viết Tập làm văn trên lớp của học sinh trước và sau khi thực
hiện kinh nghiệm này như sau:
• CHẤT LƯỢNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN KINH NGHIỆM:
LỚP
SĨ
SỐ
9A
40
Tỉ lệ
9C
39
Tỉ lệ
BÀI VIẾT SỐ 1
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
BÀI VIẾT SỐ 2
KÉM
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
KÉM
01
03
15
12
09
02
03
16
12
07
2,5% 7,5% 37,5% 30 % 22,5% 5,0% 7,5% 40% 30% 17,5%
01
02
16
13
07
02
03
19
10
05
2,0% 5,0% 41% 34% 18% 5,0% 7,0% 49% 26% 13%
• CHẤT LƯỢNG SAU KHI THỰC HIỆN KINH NGHIỆM:
LỚP
SĨ
BÀI VIẾT SỐ 1
TB
YẾU
SỐ GIỎI KHÁ
9A 35
02
03
22
05
Tỉ lệ
6,0% 8,0% 63%
15%
BÀI VIẾT SỐ 2
KÉM
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
KÉM
03
04
8,0% 12%
07
20%
21
60%
03
8,0%
00
00
18
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
9B 40
Tỉ lệ
04
10%
06
15%
23
05
02
07
05
25
03
57,5% 12,5% 5,0% 17% 12,5% 62,5% 8.0%
00
Hiện nay toàn nghành giáo dục đang chống bệnh thành tích. Theo
tôi, nâng cao chất lượng giáo dục là biện pháp hữu hiệu nhất trong chống
bệnh thành tích. Tuy có lẽ sáng kiến kinh nghiệm này chưa thực sự sâu sắc
và có sức thuyết phục cao nhưng qua bảng so sánh trên đã cho thấy được sự
chuyển biến theo hướng ngày càng tích cực về chất lượng học tập của HS.
Vì vậy, tôi hi vọng và tin tưởng rằng trong thời gian tới, với sự tìm tòi, khả
năng sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của thầy và trò, chất
lượng học tập của HS sẽ được nâng lên cao hơn nữa, đáp ứng tốt mục tiêu
giáo dục cũng như cuộc vận động “Hai không” trong toàn Ngành.
19
Hướng dẫn HS viết văn nghị luận – Trần Đăng Hảo
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài: ……………………………………………………..
Phạm vi đề tài và nguồn tư liệu: ………………………………………
Phương pháp nghiên cứu đề tài: ………………………………………
03
04
04
PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lí luận: …………………………………………………………
Thực trạng về các lỗi HS thường mắc phải trong bài văn nghị luận …
Nguyên nhân của thực trạng …………………………………………
Một số giải pháp cơ bản ………………………………………………
Chú trọng văn hoá đọc, văn hoá nghe,xem: ……………………….….
Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học: ……………………………
Soạn thảo nội dung, chương trình dạy Tự chọn hoặc để phụ đạo ……
Tìm hiểu đề: …………………………………………………………..
Tìm ý: …………………………………………………………………
Trình bày lí lẽ, dẫn chứng: ……………………………………………
Đoạn văn và cách xây dựng đoạn văn: ……………………………….
Viết các phần mở bài, thân bài và kết bài: ……………………………
PHẦN KẾT LUẬN
0
5
06
09
10
10
11
12
12
14
1
5
17
18
22
20