Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tập bài giảng phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 92 trang )



MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1

LỜI NÓI ĐẦU

3

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC

4

1.1. Một số khái niệm cơ bản về khoa học và nghiên cứu khoa học

4

1.1.1. Khoa học

4

1.1.2. Nghiên cứu khoa học

8

1.1.3. Đề tài nghiên cứu khoa học


13

1.2. Cấu trúc lôgic của một chuyên khảo khoa học

17

1.2.1. Luận đề

17

1.2.2. Luận cứ

17

1.2.3. Luận chứng

17

1.3. Trình tự lôgíc của nghiên cứu khoa học

18

1.3.1. Phát hiện vấn đề khoa học

18

1.3.2. Xây dựng giả thuyết khoa học

20


1.3.3. Lập phương án thu thập thông tin

27

1.3.4. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài

29

1.3.5. Luận cứ thực tiễn (Các phương pháp nghiên cứu, đánh giá thực
tiễn)

35

1.3.6. Phân tích và bàn luận kết quả xử lý thông tin

48

1.3.7. Tổng hợp kết quả / Kết luận / Khuyến nghị

54

Chương 2. NHỮNG LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA
NGÀNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN VÀ ĐẶC THÙ CỦA PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN

62

2.1. Đối tượng, ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học ngành Giáo dục
công dân


62

2.1.1. Đối tượng của việc nghiên cứu khoa học ngành Giáo dục công dân

62

2.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học ngành Giáo dục công dân

62

2.2. Những lĩnh vực nghiên cứu khoa học của ngành Giáo dục công dân

63

2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị - xã

63

2.2.2. Các vấn đề chính trị - xã hội đã và đang nảy sinh trong thực tiễn

64

hội

1


2.2.3. Con người và đời sống hiện thực của con người trong mối quan hệ
với đời sống chính trị - xã hội


65

2.2.4. Những lý luận và thực tiễn về dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông

66

2.3. Các phương pháp nghiên cứu khoa học của ngành Giáo dục công
dân

66

2.3.1. Những phương pháp chung

66

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu lý luận

69

2.3.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

71

Chương 3. CẤU TRÚC VÀ CÁCH TRÍCH DẪN KHOA HỌC CỦA
MỘT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THUỘC CHUYÊN
NGÀNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN

73


3.1. Cấu trúc của một bài báo thuộc chuyên ngành Giáo dục công dân

73

3.1.1. Cấu trúc logic của bài báo

73

3.1.2. Bố cục nội dung khoa học của bài báo

73

3.1.3. Sơ đồ cấu trúc nội dung một bài báo khoa học

75

3.2. Cấu trúc đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên chuyên ngành
Giáo dục công dân

75

3.2.1. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên

75

3.2.2. Tóm tắt báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên

77

3.3. Cấu trúc khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án khoa học thuộc

chuyên ngành Giáo dục công dân

78

3.3.1. Khái niệm

78

3.3.2. Các thể loại luận văn khoa học

78

3.3.3. Yêu cầu về chất lượng khóa luận, luận văn, luận án

78

3.3.4. Trình tự chuẩn bị khóa luận, luận văn, luận án

79

3.3.5. Viết khóa luận, luận văn, luận án

80

3.4. Cách trích dẫn khoa học của một công trình nghiên cứu khoa học
thuộc chuyên ngành Giáo dục công dân

88

3.4.1. Công dụng của trích dẫn


88

3.4.2. Nguyên tắc trích dẫn

88

3.4.3. Ý nghĩa của trích dẫn

88

3.4.4. Mẫu ghi trích dẫn

88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

2


LỜI NÓI ĐẦU
* * * * *
Sự xuất hiện của tư duy khoa học là một bước nhảy vọt về chất trong quá trình
nhận thức của con người. Tư duy khoa học thể hiện những đặc điểm của mình trong cơ
thể xã hội với tên gọi là khoa học. Khi nghiên cứu khoa học, chúng ta tiếp cận để xem
xét vấn đề tư duy khoa học. Song, khoa học không chỉ là các tri thức, hệ thống các
chân lý khách quan, phản ánh những mối liên hệ cơ bản và những quy luật, mà còn là
hoạt động của các nhà khoa học, nghiên cứu sản xuất ra những tri thức mới, áp dụng

vào thực tiễn xã hội. Vì vậy, nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ phức tạp, có tính
sáng tạo cao. Do đó, muốn nghiên cứu khoa học có hiệu quả phải có phương pháp
khoa học, đúng đắn và phù hợp với thực tiễn.
Nhằm đáp ứng nhu cầu về việc học tập môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành đối với sinh viên chuyên ngành Giáo dục công dân, chúng tôi mạnh dạn
biên soạn tài liệu này.
Công trình này ra đời là kết quả của việc nghiên cứu, tập hợp rất nhiều tư liệu
khác nhau. Trong tài liệu này tập trung trình bày một cách hệ thống một số vấn đề về
nghiên cứu khoa học đang được các sinh viên chuyên ngành Giáo dục công dân quan
tâm như: những vấn đề chung về phương pháp nghiên cứu khoa học; những lĩnh vực
nghiên cứu khoa học của ngành Giáo dục công dân và đặc thù của phương pháp
nghiên cứu khoa học ngành Giáo dục công dân; cấu trúc và cách trích dẫn khoa học
của một công trình nghiên cứu khoa học thuộc chuyên ngành Giáo dục công dân. Do
điều kiện có hạn, tài liệu này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong
sự đóng góp, phê bình của bạn đọc.
Người biên soạn

TS. Trần Thị Hồng Loan

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản về khoa học và nghiên cứu khoa học
1.1.1. Khoa học
1.1.1.1. Khái niệm
* Khoa học là gì?
- Khoa học ra đời trong quá trình lao động chinh phục giới tự nhiên và thế giới

nói chung, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của con người. Khoa học phát triển
tương đối độc lập bắt đầu ở thời Cận đại (ở thế kỷ XVI - XVII), ở thời đại hình thành
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ thời gian này, nó bắt đầu phát triển tương
đối độc lập. Song, khoa học thường xuyên có liên hệ với thực tiễn, nhận được xung
lượng để phát triển từ thực tiễn, và đến lượt mình, tác động đến tiến trình của hoạt
động thực tiễn, được đối tượng hóa, vật chất hóa trong đó. Khoa học là hình thức hoạt
động tinh thần của con người, hướng vào việc sản xuất ra tri thức từ tự nhiên, xã hội
và bản thân nhận thức.
- Tùy vào góc độ xem xét, khoa học được hiểu theo các nghĩa khác nhau:
+ Xét về phương diện xã hội: khoa học là một hiện tượng xã hội có nhiều mặt,
trong đó biểu hiện sự thống nhất giữa những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần.
Do đó, khoa học được hiểu là toàn bộ những hiểu biết (tri thức) về tự nhiên, xã hội, tư
duy tồn tại dưới các hình thức lý thuyết, định lý, quy luật, nguyên tắc, luận điểm,…
+ Xét về phương diện triết học: khoa học là hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Nó
thể hiện tồn tại xã hội trong nội dung, mục đích, chuẩn giá trị, trong các nguyên lý thế
giới quan triết học, trong bức tranh chung về thế giới.
+ Xét về phương diện nhận thức luận: khoa học là giai đoạn cao của nhận thức giai đoạn nhận thức lý luận.
=> Cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực về tự nhiên, xã hội và tư
duy. Như vậy, có thể hiểu, khoa học là hệ thống tri thức về mọi loại quy luật của vật
chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy. Hệ
thống tri thức này được hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở
thực tiễn xã hội.
- Với cách hiểu khoa học như trên, cần phân biệt sự khác nhau giữa tri thức
khoa học với tri thức kinh nghiệm:
+ Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy một cách ngẫu nhiên từ
trong đời sống hàng ngày. Nhờ tri thức kinh nghiệm, con người có được những hình
dung thực tế về các sự vật, biết cách phản ứng trước tự nhiên, biết ứng xử trong các
quan hệ xã hội. Mặc dù ngày càng trở nên phong phú và chứa đựng những mặt đúng
đắn nhưng tri thức kinh nghiệm chưa thể đi sâu vào phản ánh bản chất các sự vật, và
do vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ giúp cho nhận thức của con người phát triển đến một

khuôn khổ nhất định. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm luôn là một cơ sở quan trọng
cho sự hình thành các tri thức khoa học.
+ Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích lũy một cách hệ thống nhờ
hoạt động nghiên cứu khoa học, là loại hoạt động được vạch sẵn theo một mục tiêu xác
4


định và được tiến hành dựa trên những phương pháp khoa học. Cũng cần hiểu rằng, tri
thức khoa học không phải là phép cộng giản đơn của những tri thức kinh nghiệm, mà
là sự tổng kết những tập hợp số liệu và sự kiện ngẫu nhiên, rời rạc để khái quát hóa
thành cơ sở lý thuyết về các liên hệ bản chất.
- Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các bộ môn khoa học như:
triết học, sử học, toán học, hóa học, sinh học,…
- Mục đích trực tiếp của khoa học là đạt tới chân lý và khám phá ra các quy luật
khách quan nhờ khái quát các sự kiện hiện thực trong mối liên hệ qua lại giữa chúng,
là tiên đoán xu hướng phát triển của hiện thực dựa trên cơ sở đó.
- Khoa học vừa là hoạt động sáng tạo nhằm nhận được tri thức mới, vừa là kết
quả của hoạt động này: tổng thể tri thức dưới hình thức khái niệm, được đưa thành một
hệ thống toàn vẹn trên cơ sở các nguyên tắc xác định, vừa là quá trình sản xuất ra các
tri thức. Tập hợp đơn giản, tổng số những thông tin rời rạc, hỗn loạn vẫn chưa phải là
tri thức khoa học. Giống như các hình thức khác của nhận thức, khoa học là hoạt động
lịch sử - xã hội, chứ không phải là “tri thức thuần túy”.
- Mỗi khoa học và bộ môn khoa học đều bao hàm bốn thành tố cần thiết trong
sự thống nhất của chúng:
+ Chủ thể của khoa học - nhà khoa học: nhà khoa học có thể là một nhà
nghiên cứu riêng biệt, một cộng đồng khoa học, một tập thể khoa học, xét đến cùng là
toàn thể xã hội.
+ Khách thể (đối tượng, lĩnh vực đối tượng): là cái mà khoa học hay bộ môn
khoa học ấy nghiên cứu.
+ Hệ thống các phương pháp và thủ thuật đặc trưng cho một khoa học hay

một bộ môn khoa học cụ thể và do đối tượng của chúng quy định.
+ Ngôn ngữ đặc biệt của mỗi khoa học - ngôn ngữ tự nhiên hay ngôn ngữ
nhân tạo (ký hiệu, biểu tượng,phương trình toán học,…). Ngôn ngữ chuyên ngành của
khoa học là phương tiện để ghi nhận và giữ gìn các tri thức tích lũy được và truyền
chúng qua các thế hệ.
* Các chức năng cơ bản của lý thuyết khoa học:
- Tổng hợp: Hợp nhất những tri thức xác thực riêng biệt thành một hệ thống
toàn vẹn, thống nhất, đang phát triển.
- Giải thích: Làm sáng tỏ những sự phụ thuộc nhân quả và những mối liên hệ đa
dạng của hiện tượng ấy, các đặc trưng cơ bản, các quy luật phát sinh và phát triển của
nó.
- Phương pháp luận: Xây dựng các phương pháp, các phương thức và các thủ
thuật đa dạng của hoạt động nghiên cứu dựa trên lý thuyết.
- Tiên đoán: Hình thành quan niệm về sự hiện diện những sự kiện, những khách
thể chưa biết và các đặc tính của chúng, về các khách thể mà sự tồn tại đã được biết tới
nhưng chúng chưa được làm sáng tỏ.
- Thực tiễn: Các lý thuyết khoa học trở thành “kim chỉ nam cho hành động”
nhằm cải tạo hiện thực khách quan.
* Quá trình phát triển của khoa học:
Khoa học là một hiện tượng lịch sử cụ thể, trải qua hàng loạt giai đoạn đặc thù
về chất trong quá trình phát triển của mình:
5


Giai đoạn “tiền khoa học” (giai đoạn “tiền cổ điển”):
- Các yếu tố (tiền đề) của khoa học như một chỉnh thể đã ra đời.
- Giai đoạn này được coi là sự bắt đầu, xuất phát điểm của khoa học như một
chỉnh thể, tương đối toàn vẹn về đối tượng nghiên cứu, như nghiên cứu có hệ thống về
hiện thực khách quan.
- Giai đoạn này, khoa học và triết học chưa tách rời nhau. Trong đó:

+ Khoa học tự nhiên đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, cho nên tri thức
khoa học còn bị hạn chế, chỉ tập trung vào một số hướng cơ bản như: hình học Ơclít,
cách tính thập phân của người Ảrập, đại số và số học sơ cấp, vũ trụ học hay lý thuyết
về hệ thống mặt trời của Arixtốt - Ptôlê mê,…
+ Tri thức triết học duy vật lúc bấy giờ chủ yếu tập trung vào việc xác định
vật chất là gì thông qua khuynh hướng chung là đi tìm một thực thể vật chất cụ thể =>
Nó chưa chỉ ra được nguồn gốc, động lực, cách thức và chiều hướng của sự vận động,
biến đổi và phát triển của thế giới.
Giai đoạn khoa học cổ điển (thế kỷ XVI - XIX):
- Khi nghiên cứu khách thể, nó cố loại bỏ tất cả những gì có quan hệ với chủ thể
nhận thức, các phương tiện, thủ thuật và thao tác hoạt động của nó khi mô tả và lý giải
chúng về mặt lý luận.
- Xem sự loại bỏ trên là điều kiện cần thiết để nhận thức được tri thức khách
quan - chân thực về thế giới.
- Thống trị ở đây là phương pháp tư duy khách thể, không có quan hệ với điều
kiện nghiên cứu nó.
- Trong giai đoạn này được chia thành hai thời kỳ:
+ Thời kỳ thế kỷ XVI - cuối thế kỷ XVIII:
• Trong khoa học tự nhiên phát triển hàng loạt các khoa học mới: toán học,
cơ học, vật lý học, sinh học, thiên văn học, địa chất học,… Kết quả của sự phát triển
này là tạo ra một khối lượng kiến thức khổng lồ.
• Trong triết học chịu sự chi phối của phương pháp siêu hình.
+ Thời kỳ đầu thế kỷ XIX - cuối thế kỷ XIX:
• Trong khoa học tự nhiên xuất hiện ba phát minh khoa học.
• Trong triết học hình thành tư duy biện chứng.
Giai đoạn khoa học phi cổ điển (nửa đầu thế kỷ XX):
- Xuất phát điểm của giai đoạn này gắn liền với việc xây dựng thuyết tương đối
và thuyết lượng tử, bác bỏ chủ nghĩa khách quan của khoa học cổ điển.
- Nó có tính đến mối liên hệ giữa tri thức về khách thể và tính chất các phương
tiện và thao tác hoạt động của chủ thể.

- Việc giải thích mối liên hệ trên là điều kiện cần thiết cho sự mô tả và giải
thích thế giới một cách khách quan - chân thực.
- Giai đoạn này đã đưa ra một bức tranh mô tả vật chất cấu trúc như thế nào?
Tiêu biểu như:
+ Trong vật lý học: tia Rơnghen (1895); hiện tượng phóng xạ (1896); điện tử
(1897); Radium (1898); Thuyết tương đối (1905 - 1916); mô hình cấu trúc hạt nhân
6


nguyên tử của E.Rozepho (1911); phát hiện các hạt cơ bản, dưới hạt cơ bản, phản hạt
của điện tử (1932);…
+ Trong sinh học: phát hiện ra cấu trúc tế bào ở cuối thế kỷ XIX; sự ra đời
của sinh học phân tử ở giữa thế kỷ XX;…
Giai đoạn khoa học hậu phi cổ điển (nửa sau thế kỷ XX):
- Nó cho rằng, có sự tham dự của hoạt động chủ quan vào “thể xác của tri
thức”.
- Khoa học giai đoạn này xem xét quan hệ giữa tính chất của tri thức nhận được
về khách thể không những với đặc điểm của phương tiện và thao tác hoạt động của chủ
thể mà còn với các cơ cấu giá trị - mục đích của nó.
- Nó xác lập mối liên hệ phổ biến giữa vật chất vô sinh, vật chất hữu sinh và vật
chất xã hội.
- Ở giai đoạn này đang vẽ nên bức tranh “vật chất tư duy như thế nào?”:
+ Sự kết hợp chặt chẽ giữa các khoa học như vật lý học, sinh học, điều khiển
học, tâm lý học,… với công nghệ thông tin, công nghệ cao đã giúp con người ngày
càng hiểu biết sâu sắc hơn về cấu trúc và chức năng của bộ não con người, cơ chế hoạt
động của nó,…
+ Dựa trên cơ sở đó, con người đã sáng tạo ra những máy tính điện tử, những
người máy (Robot) với trí tuệ nhân tạo thông minh hơn,...
1.1.1.2. Phân loại khoa học
- Phân loại khoa học là sự phân chia các bộ môn khoa học thành những nhóm

các ngành bộ môn khoa học theo cùng một tiêu chí nào đó nhằm nhận dạng cấu trúc
của hệ thống các tri thức khoa học tương ứng với mỗi nhóm ngành được phân loại. Vì
vậy, có nhiều cách phân loại khoa học, mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu chí có
một ý nghĩa ứng dụng nhất định.
* Phân loại theo phương pháp hình thành khoa học:
- Khoa học tiền nghiệm: được hình thành dựa trên những tiên đề hoặc hệ tiên
đề.
- Khoa học hậu nghiệm: được hình thành dựa trên quan sát hoặc thực nghiệm.
- Khoa học phân lập: được hình thành dựa trên những sự phân chia đối tượng
nghiên cứu của một bộ môn khoa học vốn tồn tại thành những đối tượng nghiên cứu
hẹp hơn.
- Khoa học tích hợp: được hình thành dựa trên sự hợp nhất về cơ sở lý thuyết
hoặc phương pháp luận của hai hoặc nhiều bộ môn khoa học khác nhau.
* Phân loại theo đối tượng nghiên cứu của khoa học (theo cách phân loại của
UNESCO):
- Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
- Khoa học kỹ thuật và công nghệ.
- Khoa học nông nghiệp.
- Khoa học sức khỏe.
- Khoa học xã hội và nhân văn.
1.1.1.3. Tiêu chí nhận biết một bộ môn khoa học
Một bộ môn khoa học được nhận dạng dựa trên những tiêu chí sau:
7


- Có một đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là bản chất sự vật được
đặt trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học.
- Có một hệ thống lý thuyết: Lý thuyết là một hệ thống tri thức khoa học bao
gồm khái niệm, phạm trù, quy luật. Hệ thống lý thuyết của một bộ môn khoa học
thường gồm hai bộ phận là bộ phận riêng có và bộ phận kế thừa từ các khoa học khác.

- Có một hệ thống phương pháp luận: Phương pháp luận của một bộ môn khoa
học bao gồm hai bộ phận là phương pháp luận riêng có và phương pháp luận thâm
nhập từ các bộ môn khoa học khác nhau.
- Có mục đích ứng dụng: Nghiên cứu bộ môn khoa học để tìm hiểu lý thuyết
nhằm ứng dụng những lý thuyết đó vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp người nghiên cứu chưa biết trước mục đích ứng dụng.
Vì vậy, không nên vận dụng một cách máy móc tiêu chí này.
- Có một lịch sử nghiên cứu: Lịch sử nghiên cứu của một bộ môn khoa học
thường có thể bắt nguồn từ một bộ môn khoa học khác. Trong giai đoạn tiếp sau, với
sự hoàn thiện về lý thuyết và phương pháp luận, những bộ môn khoa học độc lập ra
đời, tách khỏi khuôn khổ bộ môn khoa học cũ. Tuy nhiên, không phải mọi bộ môn
khoa học đều có lịch sử phát triển như vậy. Vì vậy, không nên vận dụng máy móc tiêu
chí này.
1.1.1.4. Vai trò của khoa học
- Xuất phát từ những sự kiện của hiện thực, khoa học giải thích một cách đúng
đắn nguồn gốc của sự phát triển của những sự kiện ấy, phát hiện những mối liên hệ
bản chất của các hiện tượng, trang bị cho con người những tri thức về quy luật khách
quan của thế giới hiện thực để con người áp dụng những quy luật đó trong thực tiễn
sản xuất và đời sống.
- Khoa học góp phần nghiên cứu thế giới quan đúng đắn, xem xét sự kiện một
cách biện chứng, giải phóng con người khỏi những mê tín, dị đoan, mù quáng, hoàn
thiện khả năng trí tuệ của con người.
- Khoa học còn góp phần làm giảm nhẹ lao động và làm cho đời sống con
người ngày càng dễ dàng hơn, tạo điều kiện để con người có thể nâng cao quyền lực
đối với các lực lượng tự nhiên.
1.1.2. Nghiên cứu khoa học
1.1.2.1. Khái niệm nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm
những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận
thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật

mới để cải tạo thế giới. Vì vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học là một hoạt động trí tuệ
phức tạp, có tính sáng tạo cao.
1.1.2.2. Mục đích của nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của chủ thể. Nó có tác
dụng củng cố, hoàn thiện và nâng cao sự hiểu biết của chủ thể đối với các đối tượng
được khảo sát.
- Nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện ra những kiến thức mới về bản chất của
đối tượng được thể hiện dưới dạng các thông tin về quy luật của sự tồn tại, vận động
và phát triển của đối tượng.
8


- Nghiên cứu khoa học nhằm trên cơ sở những kiến thức mới phát hiện, chủ thể
nghiên cứu, sáng tạo ra những tri thức mới về con đường, cách thức, phương pháp,
biện pháp tác động vào đối tượng phục vụ các nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người, đồng thời sáng tạo ra các phương tiện, thiết bị mới,… để hiện thực hóa các sáng
tạo đó.
1.1.2.3. Chức năng của nghiên cứu khoa học
- Chức năng mô tả: Người ta bắt đầu tìm hiểu bản chất của đối tượng thông qua
các thao tác nhằm mô tả đúng, chính xác và khách quan những diễn biến, những biểu
hiện bề ngoài của đối tượng cần tìm hiểu. Một sự mô tả đúng, đầy đủ những gì quan
sát được một cách trực tiếp hay gián tiếp đều có thể được coi như những dữ kiện,
những tiền đề thiết yếu cho việc nghiên cứu tiếp theo.
- Chức năng giải thích: Trên cơ sở những dữ liệu thu được thông qua mô tả ban
đầu, nhà nghiên cứu bắt đầu phát hiện những vấn đề, những điểm cần tiếp tục làm sáng
tỏ cho các câu hỏi vì sao? Như thế nào? Khi trả lời các câu hỏi này chính là tìm ra
nguyên nhân của những vấn đề được phát hiện. Nhờ đó mà các phán đoán về các mối
quan hệ bên trong hợp thành nội dung, bản chất sự vật dần dần sáng tỏ.
- Chức năng sáng tạo: Nghiên cứu khoa học không chỉ dừng lại ở giải thích, ở
nhận thức sự vật, hiện tượng, điều quan trọng hơn là phải nắm bắt được quy luật phát

triển của chúng, tìm kiếm các giải pháp và phương pháp tác động có hiệu quả lên đối
tượng khảo sát,… Nghiên cứu khoa học do đó có chức năng sáng tạo. Chức năng này
thể hiện ở việc thông qua các phát minh, phát hiện về quy luật. Đó cũng có thể là
những dự báo về những xu thế vận động, biến đổi của chúng và những giải pháp mới
và cách thức tác động được đưa ra để tác động có hiệu quả hơn vào đối tượng.
1.1.2.4. Đặc trưng cơ bản của nghiên cứu khoa học
* Tính mới và tính kế thừa của nghiên cứu khoa học:
- Nghiên cứu khoa học được xem như là một công việc không lặp lại những
kiến thức như cũ mà có tính mới bởi vì nó tìm hiểu, phát hiện, khám phá những thuộc
tính mới của sự vật, hiện tượng, từng bước hình thành những kiến giải khoa học dưới
dạng các định lý, định luật, các học thuyết, các phương pháp mới,… Chính đặc trưng
này, đòi hỏi người nghiên cứu khoa học phải có một sự say mê lao động, sáng tạo,
ham hiểu biết và không tự thỏa mãn với những gì đã đạt được, luôn tìm cách làm đầy
đủ hơn, phong phú hơn và chính xác hơn tri thức của mình về đối tượng được khảo sát.
- Tuy nhiên, cái mới trong nghiên cứu khoa học luôn đi đôi với tính kế thừa
những tri thức đã được tích lũy trước đó, đồng thời luôn bắt nguồn từ những đòi hỏi cơ
bản, cấp thiết của thực tiễn. Kết quả là cùng với thời gian, tri thức nhóm thứ nhất luôn
luôn được củng cố, ngày càng hoàn thiện hơn, tri thức nhóm thứ hai và thứ ba sẽ được
đổi mới, hoàn thiện và có thể được thay đổi bằng tri thức hoàn toàn mới.
* Tính khách quan, tin cậy, trung thực của thông tin trong nghiên cứu khoa học
(tính thông tin):
- Thông tin trong nghiên cứu khoa học là nguyên liệu đầu vào cho một quy
trình xử lý, chế biến để rồi sáng tạo ra một lượng thông tin mới về các thuộc tính bản
chất của đối tượng, đáp ứng mục đích nghiên cứu của mỗi đề tài cụ thể.
- Thông tin trong nghiên cứu khoa học có thể được chuyển tải, được chứa đựng
ở các vật mang thông tin hết sức đa dạng và phong phú. Nhưng dù ở bất kỳ một vật
mang thông tin nào, thông tin khoa học cũng phải đảm bảo tính khách quan, tính tin
9



cậy về nguồn gốc, xuất xứ, cũng như phải được thu thập, xử lý bằng các biện pháp phù
hợp.
- Tôn trọng tính khách quan của thông tin, bảo đảm tính cập nhật, tin cậy của
thông tin, trung thực trong thu thập, phổ biến thông tin được coi là nguyên tắc hàng
đầu của nghiên cứu khoa học.
* Tính mạnh dạn, mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học (tính mạo hiểm):
- Nghiên cứu khoa học luôn phải hướng đến sáng tạo ra các giá trị tri thức mới.
Vì vậy, những thất bại, không thành công trong nghiên cứu khoa học là điều có thể xảy
ra. Chính đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong quá trình nghiên
cứu. Không những là trong quá trình phát hiện, thẩm định vấn đề mà còn cả trong lựa
chọn, sử dụng các phương pháp khai thác, xử lý thông tin, trong công bố và áp dụng
các sản phẩm nghiên cứu.
* Tính kinh tế và phi kinh tế trong nghiên cứu khoa học:
- Nghiên cứu khoa học suy cho cùng là nhằm nhận thức và cải tạo thế giới. Đó
là lợi ích, là sứ mệnh cao cả của nghiên cứu khoa học. Lợi ích kinh tế chỉ là một bộ
phận cấu thành, dù trong rất nhiều trường hợp, nó là cơ bản của lợi ích chung đó.
- Tuy nhiên, cũng không nên xem lợi ích kinh tế hay hiệu quả kinh tế theo
nghĩa hẹp. Ngay cả những đề tài nghiên cứu thuần túy có tính chất kinh tế - kỹ thuật
thì việc áp dụng các kết quả nghiên cứu cũng không chỉ có tác động thuần túy kinh tế kỹ thuật. Chính đặc trưng này làm cho hoạt động khoa học nói chung và nghiên cứu
khoa học nói riêng phải được điều chỉnh bằng hệ thống pháp lý đặc thù, trong đó có lợi
ích kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung của toàn xã hội, nâng cao trách nhiệm của xã
hội, trách nhiệm công dân của nhà nghiên cứu đối với việc sáng tạo ra và áp dụng các
kết quả nghiên cứu.
* Tính độc đáo của cá nhân và sự trung thực của người nghiên cứu trong nghiên
cứu khoa học (tính cá nhân):
- Thành công hay thất bại của một công trình nghiên cứu khoa học phụ thuộc
rất lớn vào tài năng, sự kiên trì, say mê, khám phá sáng tạo của một hay một số cá
nhân người nghiên cứu. Bên cạnh đó, đồng nghiệp và tập thể khoa học có vai trò quan
trọng trong phản biện, thẩm định, góp ý đối với các ý tưởng, các hướng nghiên cứu mà
cá nhân đi tiên phong đã vạch ra. Một nhà khoa học giỏi là một nhà khoa học luôn

luôn chú ý lắng nghe; sẵn sàng tranh luận, biết bảo vệ ý kiến cá nhân, nhạy bén trong
nhận dạng bất đồng trong tranh luận với đồng nghiệp và tập thể để từ đó mà khám phá,
sáng tạo vươn lên khẳng định từng bước uy tín khoa học của mình.
- Ngày nay, uy tín nhà khoa học chính là một tập hợp các tiêu chí định tính và
định lượng nói lên phẩm chất, năng lực, cống hiến của một nhà khoa học cho nhân
loại. Các tiêu chí đó bao gồm: số lượng và chất lượng các công trình, các đề tài nghiên
cứu đã hoàn thành, được công bố hay áp dụng, số lượng, chất lượng và trình độ học
vấn các học viên do nhà khoa học đào tạo, trình độ chuyên môn được đào tạo, được
thừa nhận, phong tặng thể hiện qua học vị và chức danh khoa học, sức khỏe và lòng
say mê nghiên cứu,…
1.1.2.5. Phân loại nghiên cứu khoa học:
* Phân loại theo chức năng nghiên cứu:
- Nghiên cứu mô tả:
10


+ Nghiên cứu mô tả là những nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về
nhận dạng sự vật, giúp phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa các sự vật.
+ Nội dung mô tả có thể bao gồm mô tả hình thái, động thái, tương tác; mô tả
định tính tức các đặc trưng về chất của sự vật; mô tả định lượng nhằm chỉ rõ các đặc
trưng về lượng của sự vật.
- Nghiên cứu giải thích:
+ Nghiên cứu giải thích là những nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến
sự hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật.
+ Nội dung của giải thích có thể bao gồm giải thích nguồn gốc; động thái; cấu
trúc; tương tác; hậu quả; quy luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật.
- Nghiên cứu dự báo:
+ Nghiên cứu dự báo là những nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự
vật trong tương lai.
+ Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch. Sự sai lệch trong các kết quả

dự báo có thể do nhiều nguyên nhân: sai lệch khách quan trong kết quả quan sát; sai
lệch do những luận cứ bị biến dạng trong sự tác động của các sự vật khác; sai lệch do
sự biến động của môi trường;…
- Nghiên cứu sáng tạo:
+ Nghiên cứu sáng tạo là những nghiên cứu nhằm làm ra một sự vật mới chưa
từng tồn tại.
+ Khoa học không bao giờ dừng lại ở mô tả, giải thích và dự báo mà luôn
hướng vào sự sáng tạo các giải pháp cải tạo thế giới. Những nghiên cứu của các nhà
khoa học xuất phát từ những sự kiện hiện tại, sự tiến triển có logic, có hệ thống trong
lịch sử, những tính toán và suy luận khoa học. Những công trình của họ có ý nghĩa
quan trọng cho xã hội loài người, giúp cho con người có cái nhìn rộng hơn, xa hơn,
định hướng cho sự phát triển xã hội của ngành mình,… cũng như tránh những hiểm
họa có thể có do chính con người gây ra.
* Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ bản:
+ Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc
động thái các sự vật, tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ giữa sự vật với các
sự vật khác. Kết quả của nghiên cứu cơ bản thường là các phát minh, phát hiện (toàn
bộ hoặc bổ sung mới). Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản thường được thể hiện dưới
dạng các phạm trù, các định luật, công thức sơ đồ,… phản ánh bản chất, các quy luật
vận động, biến đổi của các đối tượng được khảo sát. Ví dụ: nghiên cứu về nguồn gốc
sự sống, mô hình kinh tế thị trường,…
+ Nghiên cứu cơ bản đóng vai trò là tiền đề, điểm xuất phát cho các nghiên cứu
tiếp theo. Nó ảnh hưởng đến một hay nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học khác, chẳng
hạn, Niutơn phát minh định luật hấp dẫn vũ trụ, Các Mác phát hiện quy luật giá trị
thặng dư,…
+ Các kết quả nghiên cứu cơ bản thường tồn tại lâu dài với thời gian. Chúng
được hoàn chỉnh bổ sung suốt một thời gian dài trong khuôn mẫu trình độ phát hiện
mới ra đời, một cuộc cách mạng trong nhận thức diễn ra trong một ngành hay một
hướng nghiên cứu nào đó, những tri thức trước đó cũng chỉ có thể được coi là bị vượt

11


qua, nó không thể bị coi là bị loại bỏ, khi ấy nó trở thành tri thức cơ bản, phổ thông,
nằm trong mặt bằng trình độ dân trí,…
+ Nghiên cứu cơ bản được chia thành hai loại: Nghiên cứu cơ bản thuần túy và
nghiên cứu cơ bản định hướng:
• Nghiên cứu cơ bản thuần túy (nghiên cứu cơ bản tự do hay nghiên cứu cơ bản
không định hướng): là những nghiên cứu về bản chất sự vật để nâng cao nhận thức,
chưa có hoặc chưa bàn đến mục đích ứng dụng nào đó.
• Nghiên cứu cơ bản định hướng: là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước
mục đích ứng dụng. Ví dụ: các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội,…
Trong nghiên cứu cơ bản định hướng lại được phân chia thành nghiên cứu nền tảng và
nghiên cứu chuyên đề.
- Nghiên cứu ứng dụng:
+ Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng quy luật được phát hiện từ nghiên cứu
cơ bản để giải thích một sự vật; tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp và áp
dụng chúng vào sản xuất và đời sống.
+ Cần lưu ý rằng, ở đây các kết quả nghiên cứu ứng dụng thì chưa ứng dụng
được vì nó vẫn còn trong phòng thí nghiệm, nó còn một khoảng cách khá xa để đến
với xã hội bởi vì tính kinh tế, tính thuận tiện, tính địa phương cũng như khả năng sản
xuất hàng loạt chưa cho phép. Để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng
thì còn phải tiến hành một loại hình nghiên cứu khác, có tên gọi là triển khai.
- Nghiên cứu triển khai:
+ Nghiên cứu triển khai (triển khai thực nghiệm hoặc triển khai thực nghiệm kỹ
thuật) là sự vận dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý
(thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra các hình mẫu với những tham số khả thi
về kỹ thuật
+ Cần lưu ý, kết quả triển khai thì chưa triển khai được. Sản phẩm của triển
khai chỉ mới là những hình mẫu khả thi kỹ thuật, nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ

thuật. Để áp dụng được, còn phải tiến hành nghiên cứu những tính khả thi khác, như:
khả thi tài chính, khả thi kinh tế, khả thi môi trường, khả thi xã hội.
+ Hoạt động nghiên cứu triển hai bao gồm: triển khai trong phòng và triển khai
bán đại trà:
• Triển khai trong phòng là loại hình triển khai nhằm khẳng định kết quả sao
cho ra được sản phẩm, chưa quan tâm đến quy mô áp dụng. Trong những nghiên cứu
về công nghệ, loại hình này được thực hiện trong các phòng thí nghiệm, labô công
nghệ, nhà kính. Trên quy mô lớn hơn, hoạt động triển khai cũng được tiến hành trong
các xưởng thực nghiệm thuộc viện hoặc xí nghiệp sản xuất.
• Triển khai bán đại trà (pilot) là một dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả
thuyết về hình mẫu trên một quy mô nhất định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà
(hoặc quy mô bán công nghiệp).
- Lưu ý: sự phân chia các loại hình nghiên cứu như trên là để nhận thức rõ bản
chất của nghiên cứu khoa học, để có cơ sở lập kế hoạch nghiên cứu, cụ thể hóa các
cam kết trong hợp đồng nghiên cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một
đề tài có thể tồn tại cả ba loại hình nghiên cứu, hoặc tồn tại hai trong ba loại hình
nghiên cứu.
12


- Toàn bộ các loại hình nghiên cứu và mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu
được trình bày trong sơ đồ sau:
Nghiên cứu
cơ bản

Nghiên cứu
ứng dụng

Triển khai


Nghiên cứu
cơ bản thuần túy
Nghiên cứu cơ
bản định hướng
Triển khai
trong phòng
(labô)

Nghiên cứu
nền tảng
Nghiên cứu
chuyên đề

Triển khai
bán đại trà
1.1.3. Đề tài nghiên cứu khoa học
1.1.3.1. Khái niệm đề tài nghiên cứu khoa học
- Đề tài nghiên cứu khoa học là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học,
được đặc trưng bởi một hay một số nhiệm vụ nghiên cứu và do một người hoặc một
nhóm người thực hiện.
- Đề tài nghiên cứu khoa học được hiểu là một khía cạnh, một mặt nào đó của
sự vật, hiện tượng, một phạm vi nào đó của hiện thực khách quan mà ở đó, vấn đề
nghiên cứu nảy sinh và được phát hiện; nhận thức về vấn đề đó thì chưa có, hoặc chưa
được nhận thức đầy đủ; thực tiễn đòi hỏi phải nhận thức và nhà khoa học có thể nhận
thức được.
- Cùng là hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học, nhưng đề tài nghiên cứu khoa
học có sự khác biệt so với những hình thức khác như:
+ Đề tài định hướng vào việc trả lời những câu hỏi về ý nghĩa học thuật, có thể
chưa quan tâm nhiều đến việc hiện thực hóa trong hoạt động thực tế.
+ Dự án là một loại đề tài có mục đích ứng dụng xác định, cụ thể về kinh tế và

xã hội. Dự án có những đòi hỏi khác đề tài như: đáp ứng một nhu cầu đã được nêu ra;
chịu sự ràng buộc của kỳ hạn và thường là ràng buộc về nguồn lực; phải thực hiện
trong một bối cảnh không chắc chắn.
+ Đề án là loại văn kiện được xây dựng để trình một cấp quản lý hoặc một cơ
quan tài trợ để xin được thực hiện một công việc nào đó, chẳng hạn, xin thành lập một
tổ chức; xin cấp tài trợ cho một hoạt động xã hội. Sau khi một đề án được phê chuẩn,
sẽ có thể xuất hiện những dự án, chương trình, đề tài hoặc tổ chức hoặc những hoạt
động kinh tế, xã hội theo yêu cầu của đề án.
+ Chương trình là một nhóm các đề tài hoặc dự án, được tập hợp theo một mục
đích xác định. Giữa chúng có thể có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ thực hiện các
đề tài, dự án trong chương trình không có sự đòi hỏi quá cứng nhắc, nhưng những nội
dung của một chương trình thì phải luôn đồng bộ.
1.1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
13


- Nhiệm vụ nghiên cứu là một chủ đề mà người nghiên cứu (hoặc nhóm nghiên
cứu) thực hiện.
- Có nhiều nguồn nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Chủ trương phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia được ghi trong các văn
kiện chính thức của các cơ quan có thẩm quyền. Người nghiên cứu có thể tìm kiếm
“thị trường” trong những nhiệm vụ thuộc loại này.
+ Nhiệm vụ được giao từ cơ quan cấp trên của cá nhân hoặc tổ chức nghiên
cứu. Đối với nguồn nhiệm vụ này, người nghiên cứu không có sự chọn lựa, mà phải
làm theo yêu cầu.
+ Nhiệm vụ được nhận từ hợp đồng với các đối tác. Đối tác có thể là các doanh
nghiệp hoặc tổ chức xã hội hoặc cơ quan chính phủ. Nguồn này thường dẫn đến những
nguồn thu nhập cao, tạo tiền đề phát triển nguồn lực nghiên cứu.
+ Nhiệm vụ do người nghiên cứu tự đặt cho mình xuất phát từ những ý tưởng
khoa học của người nghiên cứu. Khi có điều kiện (chẳng hạn về kinh phí) thì người

nghiên cứu biến những ý tưởng đó thành một đề tài.
1.1.3.3. Khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát
Khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát là những khái
niệm công cụ luôn được sử dụng trong quá trình thực hiện một đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu là bản chất sự vật hoặc hiện tượng cần được xem xét và
làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Ví dụ:
+ Đối tượng nghiên cứu của môn học “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin” là những quan điểm cơ bản, nền tảng và mang tính chân lý bền vững của
chủ nghĩa Mác – Lênin trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành nó.
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài ““Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân
theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” là Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân theo định
hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường THPT huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc
Giang.
- Khách thể nghiên cứu là hệ thống sự vật tồn tại khách quan trong các mối liên
hệ mà người nghiên cứu cần khám phá, là vật mang đối tượng nghiên cứu. Khách thể
nghiên cứu chính là nơi chứa đựng những câu hỏi mà người nghiên cứu cần tìm câu trả
lời. Ví dụ:
+ Khách thể nghiên cứu của đề tài ““Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân
theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” là các trường THPT huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
- Đối tượng khảo sát là một bộ phận đủ đại diện của khách thể nghiên cứu được
người nghiên cứu lựa chọn để xem xét. Trong thực tế, hầu như không bao giờ người
nghiên cứu có thể đủ quỹ thời gian và kinh phí để khảo sát trên toàn bộ khách thể. Ví
dụ:
+ Đối tượng khảo sát của đề tài ““Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân theo
định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang” là 08 cán bộ quản lý, 10 giáo viên trực tiếp dạy học môn Giáo
dục công dân và 100 học sinh ở các trường THPT huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Cần lưu ý: Một khách thể nghiên cứu hoặc một đối tượng khảo sát có thể phục

vụ cho nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau. Chẳng hạn, các cán bộ, giáo viên và
14


học sinh ở các trường THPT huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang có thể là đối tượng
nghiên cứu về các biện pháp phát triển năng lực học sinh THPT, nhưng lại là đối
tượng nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT, về ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học ở trường THPT,…
- Phạm vi nghiên cứu là giới hạn đối tượng nghiên cứu và đối tượng khảo sát
trong một số phạm vi nhất định: phạm vi về quy mô của đối tượng; phạm vi về không
gian của sự vật; phạm vi thời gian của tiến trình của sự vật. Ví dụ:
+ Phạm vi nghiên cứu của đề tài ““Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân
theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” là:
• Phạm vi về quy mô: 08 cán bộ quản lý, 10 giáo viên trực tiếp dạy học môn
Giáo dục công dân và 100 học sinh.
• Phạm vi về không gian: 3 trường THPT ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
• Phạm vi về thời gian: từ năm học 2012- 2013 đến năm học 2015 – 2016.
1.1.3.4. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu là cái đích về nội dung mà người nghiên cứu vạch ra để
định hướng nỗ lực tìm kiếm. Mục tiêu trả lời câu hỏi "làm cái gì?". Ví dụ:
+ Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ““Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân
theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” là Công tác quản lý dạy học môn Giáo dục công dân theo
định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường THPT huyện Yên Dũng, tỉnh
Bắc Giang.
- Mục đích nghiên cứu là ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu, là đối tượng phục
vụ của sản phẩm nghiên cứu. Mục đích trả lời câu hỏi "nhằm vào việc gì?", hoặc "để
phục vụ cho cái gì?". Ví dụ:
+ Mục đích nghiên cứu của đề tài ““Quản lý dạy học môn Giáo dục công dân

theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” là trên cơ sở lý luận về quản lý dạy học và cơ sở thực tiễn
từ thực trạng quản lý dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang để đề xuất một số biện pháp quản lý dạy học môn Giáo dục
công dân theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong các nhà trường; qua đó,
thực hiện nhiệm vụ quản lý đạt hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
dạy học hiện nay.
Cần lưu ý: Mỗi đề tài nghiên cứu đều có một hoặc một số mục tiêu xác định,
nhưng chưa hẳn đã có mục đích xác định. Ví dụ: Đại số Boole trong suốt một thế kỷ
rưỡi không trả lời được câu hỏi “Nghiên cứu để làm gì?”. Chỉ đến khi xuất hiện chiếc
máy tính điện tử đầu tiên, người ta mới biết được nó đóng vai trò quan trọng như thế
nào trong việc đảm bảo toán học cho sự vận hành của máy tính.
1.1.3.5. Một số thành tựu khoa học đặc biệt
* Phát minh:
- Phát minh là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện
tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ
đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người. Ví dụ: Archimède phát minh định
luật sức nâng của nước; Anhxtanh phát minh ra Thuyết tương đối; Lebedev phát minh
tính chất áp suất của ánh sáng;…
15


- Phát minh là khám phá về quy luật khách quan, chưa có ý nghĩa áp dụng trực
tiếp vào sản xuất hoặc đời sống. Vì vậy, phát minh không có giá trị thương mại, không
được cấp bằng phát minh và không được bảo hộ pháp lý.
* Phát hiện:
- Phát hiện là sự khám phá ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn tại
một cách khách quan. Ví dụ: Kock phát hiện vi trùng lao, Marie Curie phát hiện
nguyên tố phóng xạ radium, Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư, Adam Smith
phát hiện quy luật “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường.

- Phát hiện mới chỉ là sự khám phá các vật thể hoặc các quy luật xã hội, làm
thay đổi nhận thức, chưa thể áp dụng trực tiếp, chỉ có thể được áp dụng thông qua các
giải pháp. Vì vậy, phát hiện cũng không có giá trị thương mại, không cấp bằng và
không được bảo hộ pháp lý.
* Sáng chế:
- Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, tính
sáng tạo và áp dụng được → sáng chế là loại thành tựu chỉ có trong khoa học kỹ thuật
và công nghệ. Ví dụ: máy hơi nước của James Watt, công thức thuốc nổ TNT của
Nobel.
- Vì sáng chế có khả năng áp dụng, nên nó có ý nghĩa thương mại, được cấp
bằng sáng chế (patent), có thể mua bán patent hoặc ký kết các hợp đồng cấp giấy phép
sử dụng (hợp đồng licence) cho người có nhu cầu, và được bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp.
Bảng so sánh phát hiện, phát minh, sáng chế:
Phát hiện
Bản chất

Phát minh

Sáng chế

Nhận ra vật thể Nhận ra quy luật tự Tạo ra phương tiện mới
hoặc quy luật xã nhiên vốn tồn tại
về nguyên lý kỹ thuật,
hội vốn tồn tại
chưa từng tồn tại

Khả năng áp Có
dụng để giải
thích thế giới


Không

Khả năng áp Không trực tiếp, Không trực tiếp, Có (có thể trực tiếp hoặc
dụng vào sản mà phải qua các mà phải qua sáng phải qua thử nghiệm)
xuất/đời sống giải pháp vận dụng chế
Giá trị thương Không
mại

Mua bán patent
licence (hợp đồng)



Bảo hộ pháp Bảo hộ tác phẩm viết về các phát hiện và Bảo hộ Quyền sở hữu

phát minh (theo Luật Quyền tác giả) chứ công nghiệp
không bảo hộ bản thân các phát hiện và
phát minh
Tồn tại cùng Tồn tại cùng lịch sử
lịch sử

Tiêu vong theo sự tiến bộ
công nghệ
16


1.2. Cấu trúc lôgic của một chuyên khảo khoa học
Bất kỳ một chuyên khảo khoa học nào, từ bài báo ngắn một vài trang đến tác
phẩm khoa học hàng trăm trang, xét về cấu trúc logic, cũng đều có ba bộ phận hợp

thành: luận đề, luận cứ, luận chứng.
1.2.1. Luận đề
- Luận đề là điều cần chứng minh trong một chuyên khảo khoa học. Luận đề trả
lời câu hỏi: "Cần chứng minh điều gì?".
- Về mặt lôgíc học, luận đề là một phán đoán mà tính chân xác của nó cần được
chứng minh. Ví dụ: khi phát hiện ra tia lạ (tia phóng xạ) trong một thí nghiệm hóa học,
Marie Curie đã phán đoán rằng “Có lẽ nguyên tố phát ra tia lạ là một nguyên tố chưa
được biết đến trong bảng tuần hoàn Menđêlêev”. Đó là một luận đề mà sau này Marie
Curie phải chứng minh.
1.2.2. Luận cứ
- Luận cứ là bằng chứng được đưa ra để chứng minh luận đề. Luận cứ trả lời
câu hỏi: "Chứng minh bằng cái gì?".
- Về mặt lôgíc học, luận cứ là phán đoán mà tính chân xác đã được công nhận
và được sử dụng làm tiền đề để chứng minh luận đề.
- Trong nghiên cứu khoa học có hai loại luận cứ:
+ Luận cứ lý thuyết: là các lý thuyết khoa học, luận điểm khoa học, các tiên
đề, định lý, định luật,... đã được khoa học xác nhận là đúng. Luận cứ lý thuyết còn
được gọi là cơ sở lý luận.
+ Luận cứ thực tiễn: là các phán đoán đã được xác nhận, được hình thành bởi
các số liệu thu thập được từ quan sát hoặc thực nghiệm khoa học.
1.2.3. Luận chứng
- Luận chứng là cách thức, quy tắc, phương pháp tổ chức một phép chứng minh,
nhằm vạch rõ mối liên hệ lôgíc giữa các luận cứ và giữa toàn bộ luận cứ với luận đề.
Luận chứng trả lời câu hỏi: "Chứng minh bằng cách nào?".
- Trong nghiên cứu khoa học, tồn tại hai loại luận chứng:
+ Luận chứng lôgíc: bao gồm một chuỗi liên tiếp các phép suy luận được liên
kết theo một trật tự xác định (diễn dịch, quy nạp, loại suy).
+ Luận chứng ngoài lôgíc: bao gồm phương pháp tiếp cận và phương pháp
thu thập thông tin.
▪ Phương pháp tiếp cận: là cách thức xem xét sự kiện. Tùy thuộc phương

pháp tiếp cận mà sự kiện có thể được xem xét một cách toàn diện hay phiến diện.
Chẳng hạn, tiếp cận lịch sử, tiếp cận logic, tiếp cận hệ thống,…
▪ Phương pháp thu thập thông tin: là cách thức thiết lập luận cứ khoa
học. Phương pháp thu thập thông tin có vai trò quyết định đến độ tin cậy của luận cứ.
Chẳng hạn, số liệu thống kê của cơ quan thống kê có độ tin cậy cao hơn số liệu báo
cáo thành tích của cá nhân hay tập thể.
* Ví dụ phân tích chuyên khảo khoa học theo cấu trúc logic qua đoạn viết sau:
“ Sáu năm qua, kinh tế Thủ đô Hà Nội tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, ngày càng khẳng định vai trò trung tâm lớn về kinh
tế của cả nước. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) chiếm trên 10% cả nước; tốc độ
phát triển bình quân đạt hơn 9,5%, cao hơn 1,5 lần mức bình quân chung cả nước. Thu
17


ngân sách tăng hơn 2,8 lần trước khi hợp nhất, bình quân tăng 19%/năm và chiếm trên
20% tổng thu ngân sách cả nước, từ 57 nghìn tỷ đồng năm 2007 tăng lên hơn 163
nghìn tỷ đồng năm 2013.” (trích: Phạm Quang Nghị, Phát huy truyền thống gương
mẫu đi đầu, xứng đáng với niềm tin yêu của cả nước, “Tạp chí Cộng sản”, Số
864/2014, Trang 27).
Đoạn văn này có thể được phân tích theo cấu trúc logic như sau:
- Luận đề: “Sáu năm qua, kinh tế Thủ đô Hà Nội tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, ngày càng khẳng định vai trò trung tâm lớn
về kinh tế của cả nước”.
- Luận cứ: “Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) chiếm trên 10% cả nước; tốc
độ phát triển bình quân đạt hơn 9,5%, cao hơn 1,5 lần mức bình quân chung cả nước.
Thu ngân sách tăng hơn 2,8 lần trước khi hợp nhất, bình quân tăng 19%/năm và chiếm
trên 20% tổng thu ngân sách cả nước, từ 57 nghìn tỷ đồng năm 2007 tăng lên hơn 163
nghìn tỷ đồng năm 2013”.
- Luận chứng: Phương pháp suy luận: quy nạp; Phương pháp thu thập thông tin:
tác giả không công bố phương pháp lấy số liệu.

1.3. Trình tự lôgíc của nghiên cứu khoa học
Trình tự lôgíc của nghiên cứu khoa học bao gồm một số bước cơ bản như sau:
1

Phát hiện vấn đề (Đặt câu hỏi nghiên cứu)

2

Đặt giả thuyết (Tìm câu trả lời sơ bộ)

3

Lập phương án thu thập thông tin (Xác định luận chứng)

4

Luận cứ lý thuyết (Xây dựng cơ sở lý luận)

5

Luận cứ thực tiễn (Quan sát/Thực nghiệm)

6

Phân tích và bàn luận kết quả xử lý thông tin

7

Tổng hợp kết quả / Kết luận / Khuyến nghị


1.3.1. Phát hiện vấn đề khoa học
1.3.1.1. Khái niệm
- Vấn đề khoa học là câu hỏi được đặt ra khi người nghiên cứu đứng trước mâu
thuẫn giữa tính hạn chế của tri thức khoa học hiện có với yêu cầu phát triển tri thức đó
ở trình độ cao hơn.
- Phát hiện vấn đề khoa học là một bước rất quan trọng trên bước đường phát
triển nhận thức. Để phát hiện vấn đề khoa học cần phải đặt câu hỏi. Trong thực tế, vấn
đề khoa học thường được trình bày dưới dạng một câu nghi vấn.
1.3.1.2. Phân loại vấn đề khoa học
Trong nghiên cứu khoa học luôn tồn tại hai lớp vấn đề:
- Thứ nhất, vấn đề về bản chất sự vật cần tìm kiếm.
- Thứ hai, vấn đề về phương pháp nghiên cứu để làm sáng tỏ về lý thuyết và về
thực tiễn những vấn đề về bản chất sự vật cần tìm kiếm.
18


Ví dụ: khi phát hiện một di chỉ trong nghiên cứu khảo cổ học, câu hỏi đầu tiên
được đặt ra: Di chỉ này thuộc nền văn hóa nào? Câu hỏi này thuộc lớp vấn đề thứ nhất
về bản chất sự vật. Câu hỏi tiếp theo được đặt ra: Làm cách nào để xác định được di
chỉ đó đích thực thuộc nền văn hóa ấy và làm cách nào xác định được niên đại của nó?
Do vậy xuất hiện lớp vấn đề thứ hai về tiêu chí của một nền văn hóa và phương pháp
xác định niên đại.
1.3.1.3. Các tình huống của vấn đề khoa học
Khi nhận được một nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu trước hết
phải xem xét có những vấn đề nghiên cứu nào cần được đặt ra. Có thể có ba tình
huống chủ yếu sau:
Có vấn đề

Có nghiên cứu


Không có
vấn đề

Không có
nghiên cứu

Giả - vấn đề

Không có
vấn đề
Có vấn đề khác

Không có
nghiên cứu
Nghiên cứu theo
một hướng khác

- Tình huống có vấn đề nghiên cứu: sẽ tồn tại hoạt động nghiên cứu.
- Tình huống không có vấn đề hoặc không còn vấn đề: không có hoạt động
nghiên cứu.
- Tình huống "giả - vấn đề": là vấn đề được phát hiện thông qua việc phân tích
mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, nhưng khi lớp vỏ “có vấn đề” được
bóc tách ra nhờ những thao tác, phương pháp trong giai đoạn tiền – nghiên cứu thì
những nguyên nhân của mâu thuẫn lại không nằm trong ý tưởng đã được nêu ra. Có
thể nêu ra một ví dụ: Hiện tượng lấn chiếm vỉa hè làm địa điểm buôn bán nhỏ thường
xuyên diễn ra, mặc dù đã bị cấm và lực lượng công an, dân phòng đã làm việc hết sức
có trách nhiệm. Một mâu thuẫn nảy sinh: Giả thuyết nghiên cứu được một số người
đưa ra: Sự kém hiểu biết về văn hóa, pháp luật của người dân là nguyên nhân cơ bản
của tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường. Nhưng khi công việc nghiên cứu mới bắt
đầu được một thời gian, người ta phát hiện ra rằng hầu hết những người dân này am

hiểu luật pháp và cũng ý thức được rằng họ đang vi phạm luật pháp. Vậy vấn đề
nghiên cứu nêu trên chỉ là giả - vấn đề. Để có thể tiếp tục công việc, nhà khoa học cần
chuyển hướng nghiên cứu sang một hướng tiếp cận khác. Khi đó, giả - vấn đề có thể
trở thành vấn đề nghiên cứu.
1.3.1.4. Phương pháp phát hiện vấn đề khoa học
Thực chất của việc phát hiện vấn đề khoa học chính là đưa ra được những câu
hỏi để làm cơ sở cho việc tìm kiếm câu trả lời nhờ những hoạt động nghiên cứu tiếp
sau đó. Có thể sử dụng những phương pháp sau đây để phát hiện vấn đề khoa học, tức
đặt câu hỏi nghiên cứu:
19


* Phát hiện mặt mạnh, mặt yếu trong nghiên cứu của đồng nghiệp:
- Mặt mạnh trong luận đề, luận cứ, luận chứng của đồng nghiệp sẽ được sử
dụng làm luận cứ hoặc luận chứng để chứng minh luận đề.
- Mặt yếu trong luận đề, luận cứ, luận chứng của đồng nghiệp sẽ được sử dụng
để phát hiện vấn đề (đặt câu hỏi nghiên cứu), từ đó xây dựng luận đề cho nghiên cứu
của mình.
* Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học:
- Khi hai đồng nghiệp bất đồng ý kiến, có thể là họ đã nhận ra những mặt yếu
của nhau => người nghiên cứu nhận dạng những vấn đề mà các đồng nghiệp đã phát
hiện ra để xây dựng luận đề cho nghiên cứu của mình.
* Nghĩ ngược lại quan niệm thông thường:
- Về mặt lôgíc học, đây chính là sự tìm kiếm một khái niệm đối lập với khái
niệm đang tồn tại. Ví dụ: trong khi nhiều người cho rằng trẻ em suy dinh dưỡng là do
các bà mẹ kém hiểu biết về dinh dưỡng trẻ em, thì có người đã nêu câu hỏi ngược lại:
“Các bà mẹ là trí thức chắc chắn phải hiểu biết về dinh dưỡng trẻ em hơn các bà mẹ
nông dân. Vậy tại sao tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong nhóm các bà mẹ là trí thức lại cao
hơn trong nhóm các bà mẹ là nông dân?”.
* Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tế:

- Phương pháp này đặt trước người nghiên cứu những câu hỏi phải trả lời, tức
xuất hiện vấn đề, đòi hỏi người nghiên cứu phải đề xuất những giải pháp mới để khắc
phục những khó khăn nảy sinh trong hoạt động thực tiễn.
* Lắng nghe lời phàn nàn của những người không am hiểu:
- Đây là phương pháp nhiều câu hỏi nghiên cứu xuất hiện nhờ lời phàn nàn của
người hoàn toàn không am hiểu lĩnh vực mà người nghiên cứu quan tâm. Ví dụ: sáng
chế xe điện của Edison chính là kết quả bất ngờ sau khi nghe được lời phàn nàn của
một bà già trong đêm khánh thành mạng đèn điện chiếu sáng đầu tiên ở một thị trấn
ngoại ô của thành phố New York: “Cái ông Edison làm ra được đèn điện mà không
làm được cái xe điện cho người già đi đây đi đó”.
* Những câu hỏi bất chợt xuất hiện không phụ thuộc lý do nào:
- Đây là những câu hỏi xuất hiện trong đầu người nghiên cứu do bất chợt quan
sát được một sự kiện nào đó, cũng có thể xuất hiện một cách ngẫu nhiên, không phụ
thuộc bất cứ lý do, thời gian hoặc không gian nào.
1.3.2. Xây dựng giả thuyết khoa học
1.3.2.1. Khái niệm
* Định nghĩa:
- Giả thuyết khoa học là một nhận định sơ bộ, một kết luận mang tính giả định
về nguyên nhân, bản chất của vấn đề nghiên cứu, do người nghiên cứu đưa ra để trên
cơ sở đó, tiếp tục quan sát, nhằm chứng minh hoặc bác bỏ các kết luận giả định đó.
- Xét trong cấu trúc lôgíc của nghiên cứu, giả thuyết nằm ở vị trí luận đề.
- Khái niệm giả thuyết xuất hiện đầu tiên trong các khoa học tự nhiên thực
nghiệm. Ngày nay, giả thuyết đã trở thành công cụ phương pháp luận quan trọng trong
cả khoa học xã hội và nhân văn.
- Giả thuyết là khởi điểm của mọi nghiên cứu khoa học. Nó đáp ứng nhu cầu
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó thể hiện tính định
20


hướng của tư duy trong việc nhận thức chân lý. Đó là quá trình vận động từ biết ít đến

biết nhiều, từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong của sự vật, từ chưa đầy đủ
đến ngày càng đầy đủ hơn. Nhờ có giả thuyết mà các phát minh lý thuyết khoa học ra
đời. Chẳng hạn, giả thuyết của I.Kant về nguyên nhân của hiện tượng thủy triều là do
sự tương tác giữa Mặt Trăng và Trái Đất. Giả thuyết đó đã được chứng minh và trở
thành một lý thuyết khoa học.
- Cần lưu ý rằng, giả thuyết chỉ có tính xác suất. Bởi vì, trong giả thuyết,, không
phải mọi giả định về nguyên nhân của các hiện tượng quan sát thấy đều có giá trị chân
thực. Trong các giả định đó có các giả định sai sẽ bị loại bỏ. Còn các giả định được
xác định là đúng đắn mới trở thành học thuyết khoa học. Vì vậy, không được đồng
nhất giả thuyết với học thuyết khoa học và cũng không được đồng nhất nó với khái
niệm “giả thiết”.
- Giả thuyết giúp cho con người nắm bắt được mối quan hệ nhân quả giữa các
hiện tượng, sự vật trong thế giới khách quan; dự đoán và tìm ra được cái bản chất, tất
yếu của chúng. Đồng thời, nó rèn luyện tư duy logic cho con người và phục vụ đắc lực
cho công tác nghiên cứu, dự báo khoa học. Do đó, sự tồn tại và phát triển giả thuyết là
một đòi hỏi tất yếu và có tính phổ biến của con người. Do đó, giả thuyết có vai trò
quan trọng trong sự phát triển khoa học. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”,
Ăngghen đã chỉ ra rằng: Hình thức phát triển của khoa học, ở mức độ mà khoa học này
suy nghĩ được là giả thuyết. Nếu người ta muốn đợi cho có những tài liệu thuần khiết
mới xác định quy luật thì điều đó có nghĩa là sự triển khai từ trước đến bây giờ của suy
nghĩ phải đình chỉ, và đây sẽ là lý do đầy đủ để vĩnh viễn không thể phát hiện ra được
quy luật.
* Thuộc tính cơ bản của giả thuyết:
- Tính giả định: Giả thuyết được đặt ra là để chứng minh. Giả thuyết là một
nhận định chưa được xác nhận bằng các luận cứ thu thập được từ lý thuyết, bằng các
phương pháp quan sát hoặc thực nghiệm khoa học. Sau này, trong quá trình nghiên
cứu hoặc qua khảo nghiệm thực tế, giả thuyết hoàn toàn có thể bị bác bỏ.
- Tính đa phương án: Trước một vấn đề nghiên cứu không bao giờ chỉ tồn tại
một câu trả lời duy nhất. Ví dụ: với một câu hỏi “Tại sao môi trường bị ô nhiễm?”,
người nghiên cứu có thể đưa ra hàng loạt giả thuyết: “Môi trường bị ô nhiễm vì sự

phát triển của công nghiệp”; “Môi trường bị ô nhiễm do tình trạng giao thông quá tải”;
“Môi trường bị ô nhiễm do sự phát triển của kinh tế thị trường”; “Môi trường bị ô
nhiễm do sự vô ý thức của con người”;…
- Tính dị biến: Một giả thuyết có thể nhanh chóng bị xem xét lại ngay sau khi
vừa được đặt ra do sự phát triển năng động của nhận thức.
1.3.2.2. Tiêu chí xem xét một giả thuyết
Giả thuyết chỉ có thể tồn tại khi hội tụ đủ ba tiêu chí sau:
* Giả thuyết phải dựa trên cơ sở quan sát:
- Phần lớn các giả thuyết được hình thành dựa trên kết quả quan sát từ các sự
kiện riêng biệt. Khả năng quan sát hữu hạn các sự kiện, cho phép khẳng định bản chất
thống kê của giả thuyết.
* Giả thuyết không được trái với lý thuyết:
- Trong trường hợp những lập luận bị ngộ nhận là lý thuyết đã được xác nhận
thì giả thuyết mới sẽ có giá trị thay thế lý thuyết đang tồn tại.
21


- Trong trường hợp những lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về khoa
học, nhưng lý thuyết đang tồn tại thể hiện tính chưa hoàn thiện trong nhận thức thì giả
thuyết mới sẽ bổ sung vào chỗ trống trong lý thuyết đang tồn tại.
- Trong trường hợp giả thuyết mới mang một ý nghĩa khái quát thì lý thuyết
đang tồn tại sẽ trở thành một trường hợp riêng của một lý thuyết tổng quát được xây
dựng từ giả thuyết mới.
* Giả thuyết phải có thể kiểm chứng:
- Giả thuyết chủ yếu được kiểm chứng bằng thực nghiệm và đôi khi bằng cả lý
thuyết.
- Tuy nhiên, người nghiên cứu cần hiểu rằng, không phải lý thuyết nào cũng có
thể được chứng minh hoặc bị bác bỏ ngay trong thời đại của nó. Trong khoa học xã hội
thì điều này còn khó khăn hơn nhiều.
1.3.2.3. Phân loại giả thuyết

* Phân loại theo tính phổ biến của giả thuyết:
Trong thực tế, có những giả thuyết nghiệm đúng đối với mọi trường hợp trong
toàn bộ một lớp sự vật được quan sát, song có những giả thuyết chỉ có thể nghiệm
đúng trong một số trường hợp nào đó. Dựa vào tiêu chí này, có thể phân chia thành ba
loại giả thuyết:
- Giả thuyết phổ biến: là loại giả thuyết có giá trị khái quát cho cả một lớp sự
vật. Giả thuyết phổ biến thường được sử dụng để giải thích các hiện tượng có tính phổ
quát, trong một phạm vi thời gian và không gian rộng lớn. Ví dụ: giả thuyết “Có áp
bức thì có đấu tranh”.
- Giả thuyết thống kê: là loại giả thuyết được suy luận ra từ một số lượng hữu
hạn các quan sát, có thể có giá trị trong một phạm vi giới hạn các sự vật. Ví dụ: giả
thuyết “Nếu là kim loại thì sẽ dẫn điện”.
- Giả thuyết đặc thù: là loại giả thuyết chỉ đúng trong một lớp sự vật riêng biệt,
hoàn toàn không nghiệm đúng cho bất kỳ lớp sự vật nào khác. Giả thuyết đặc thù
thường gắn với việc giải thích các sự vật, hiện tượng cụ thể mang tính cá biệt trong
khoảng thời gian ngắn và không gian hẹp. Ví dụ: giả thuyết “Nếu là con người thì biết
chế tạo công cụ lao động”.
* Phân loại theo chức năng của nghiên cứu:
Theo chức năng của nghiên cứu khoa học, giả thuyết được phân chia thành bốn
loại sau:
- Giả thuyết mô tả: áp dụng trong các nghiên cứu mô tả, là giả thuyết về trạng
thái của sự vật. Ví dụ: một giả thuyết của Archimède đã được chứng minh và trở thành
định luật nổi tiếng về sức nâng của nước: “ Một vật nhúng vào chất lỏng (hoặc khí) sẽ
bị chất lỏng (hoặc khí) đẩy từ dưới lên với một lực có độ lớn bằng trọng lượng khối
chất lỏng bị vật chiếm chỗ”.
- Giả thuyết giải thích: áp dụng trong các nghiên cứu giải thích, tức là giả thuyết
về nguyên nhân dẫn đến một trạng thái sự vật mà người nghiên cứu đang quan tâm.
Trạng thái này có thể đã được biết đến từ lâu, nhưng khoa học chưa giải thích được
nguyên nhân. Cũng có thể là một trạng thái đã được phát hiện bởi người nghiên cứu
hoặc đồng nghiệp. Ví dụ: giả thuyết của giáo sư Tôn Thất Tùng: “Nguyên nhân gây

bệnh viêm phù tụy cấp ở xứ Đông Dương là do con giun”.
22


- Giả thuyết dự báo: áp dụng trong các nghiên cứu về dự báo, là giả thuyết về
trạng thái của sự vật tại một thời điểm hoặc một quãng thời gian nào đó trong tương
lai. Ví dụ: giả thuyết về dự báo thời tiết trong thời gian sắp tới của một vùng.
- Giả thuyết giải pháp: áp dụng trong các nghiên cứu sáng tạo, là giả thuyết về
giải pháp hoặc giả thuyết về hình mẫu, tùy theo mức độ và hình thức sáng tạo. Nghiên
cứu sáng tạo có thể là một nghiên cứu ứng dụng hoặc triển khai.
* Phân loại theo giá trị chân lý:
Nếu căn cứ vào giá trị chân lý của các giả định, người ta chia giả thuyết ra
thành giả thuyết bổ trợ và giả thuyết khoa học:
- Giả thuyết bổ trợ là giả thuyết nêu ra các giả định và xác định được giá trị giả
dối của các giả định ấy. Giả thuyết bổ trợ thường được nêu ra ở giai đoạn đầu của quá
trình nghiên cứu. Nó chỉ là những dự đoán có điều kiện ban đầu nhằm tập hợp các dữ
liệu về các sự vật, hiện tượng mà người ta quan sát được. Giả thuyết bổ trợ có tác dụng
hỗ trợ cho sự hình thành giả thuyết khoa học. Nó kết thúc khi đã chứng minh được tính
sai lầm của tác giả định nêu ra. Ví dụ, giả thuyết cho rằng, nguyên nhân ảnh hưởng tới
vận tốc rơi của các vật thể là do khối lượng, hình dạng và kích thước của vật. Giả
thuyết này được kiểm chứng là không đúng. Nhưng nó lại hỗ trợ cho việc hình thành
giả thuyết đúng đắn về quy luật rơi tự do của các vật thể.
- Giả thuyết khoa học là giả thuyết nêu ra các giả định và xác định đúng đắn về
nguyên nhân, nguồn gốc, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Đặc trưng cơ bản của giả
thuyết khoa học là đi sâu vào lý giải một cách đúng đắn chính xác bản chất, quy luật
vận động và phát triển của đối tượng. Nó giúp cho con người khám phá các bí mật của
thế giới và đưa ra các giải pháp cải tạo thế giới một cách có hiệu quả. Vì vậy, giả
thuyết khoa học còn được gọi là học thuyết. Ví dụ, học thuyết về giá trị thặng dư trong
nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa của Các Mác hay học thuyết tương đối của
Anhxtanh.

* Phân loại theo mục đích của nghiên cứu:
Tùy thuộc mục tiêu nghiên cứu và sản phẩm thu nhận sau nghiên cứu, người ta
chia ra thành những loại hình nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Từ các loại hình nghiên cứu đó mà hình thành các
loại giả thuyết sau:
- Giả thuyết quy luật: là giả thuyết được đặt ra trong những nghiên cứu thuộc
loại hình nghiên cứu cơ bản. Đây là những giả thuyết gắn liền với chức năng mô tả,
giải thích, dự báo. Ví dụ: khi quan sát Sao Mộc, Galilê đã nhận thấy có một số ngôi
sao quay xung quanh Sao Mộc, nghĩa là: “Có một số vì sao quay xung quanh một vì
sao khác”. Từ đây, Ông đã đi đến giả thuyết rằng “Không phải Mặt Trời và tất cả các
vì sao quay xung quanh Trái Đất”, đồng thời đưa tiếp một giả thuyết khác “Có lẽ
Côpecnic đã đúng khi ông cho rằng Trái Đất và các hành tinh quay xung quanh Mặt
Trời”.
- Giả thuyết giải pháp: là giả thuyết hình thành trong các nghiên cứu ứng dụng.
Ví dụ: sau khi đã nhận ra rằng những động vật bị nhiễm khuẩn yếu có khả năng miễn
dịch đối với căn bệnh do chính loại khuẩn đó gây ra, Pastơ đã đi đến giả thuyết về một
giải pháp tạo ra sự miễn dịch cho động vật bằng cách đưa vào cơ thể chúng một loại vi
khuẩn yếu.
- Giả thuyết hình mẫu: là giả thuyết hình thành trong hoạt động triển khai.
23


×