Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

BỘ TÀI LIỆU ÔN LUYỆN THPTQG MÔN NGỮ VĂN PHẦN 4 KÈM VIDEO BÀI GIẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 36 trang )

KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI - NGUYỄN HUY TƯỞNG
(TIẾT 1)
Mở: Thế kỉ 16, có một sự kiện làm chấn động cả thành Thăng Long: Cửu Trùng Đài - tòa lâu đài
tráng lệ nguy nga chưa kịp xây xong đã bị loạn quân đốt thành tro bụi. Dù không còn tồn tại trong
thực tế, nhưng dường như, tòa đài hoa lệ ấy vẫn hiện hữu trong tâm trí của những người yêu Hà Nội,
yêu cái Đẹp và yêu văn chương. Dựa trên cốt lõi sự thực lịch sử, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng
đã sáng tạo nên một huyền thoại đặc sắc ở giữa thế kỉ 20, đó là bi kịch Vũ Như Tô- một vở kịch xuất
sắc mà những vấn đề đặt ra trong tác phẩm còn khiến cho nhiều người đời sau phải vấn vương, suy
nghĩ:
“Đâu Đan Thiềm, đâu Vũ Như Tô?
Lửa đã cháy ngai vàng hôn quân Lê Tương Dực
Những người đốt Cửu Trùng Đài cũng chính là người lấy máu mình xây ngọn tháp
Khi lửa giận tan rồi, họ khóc trước tàn tro”
Lời thơ đồng cảm của thầy giáo Đặng Hiển có lẽ cũng là nỗi lòng của chúng ta, tiếc thương Cửu
Trùng Đài, người nghệ sĩ tài hoa cùng người tri kỉ.
TIẾT 1
VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI- (Trích Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng)
Cấu trúc bài học
Tiết 1: Tác giả, tác phẩm, tìm hiểu văn bản kịch (tình huống kịch- nhân vật Vũ Như Tô)
Tiết 2: Tìm hiểu văn bản kịch (nhân vật Đan Thiềm- giá trị tác phẩm)

Tiết 3: Các dạng bài thi có liên quan đến tác phẩm

MO O N.VN

I. Tìm hiểu chung
1. Vài nét về tác giả (1912-1960)
- Xuất thân trong một gia đình nhà nho ở làng Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội.
- Là một nhà văn yêu nước, sớm tham gia cách mạng, 1943, tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc do Đảng lãnh


đạo, từng là đại biểu Quốc dân đại hội Tân trào (1945).

- Là một nghệ sĩ tài năng, đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Thiên hướng sáng tác: khai
thác những đề tài lịch sử, văn phong giản dị, thâm trầm, sâu sắc…
- Có thể thấy ở Nguyễn Huy Tưởng sự hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của người công dân - nghệ sĩ.
Trọn cả cuộc đời cống hiến cho Cách mạng và cho văn, khao khát viết được những tác phẩm có quy
mô lớn, dựng lên được những bức tranh, những hình tượng hoành tráng về lịch sử bi hùng của dân
tộc; nói lên được những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật.
- Tác phẩm: tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), Bắc Sơn (1946), Lá cờ thêu sáu chữ vàng,
tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô (1961)- khúc tráng ca ngợi ca người Hà Nội quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh trong ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vào mùa đông năm 1946. Còn với vở bi
kịch Vũ Như Tô nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lại khai thác bối cảnh Thăng Long trong những năm
quằn quại dưới sự bạo tàn của Lê Tương Dực thông qua hình ảnh Cửu Trùng Đài “huy hoàng giữa
cõi trần lao lực” và người nghệ sĩ “tranh tinh xảo với hóa công”: Vũ Như Tô. Thông qua vở kịch
này, Nguyễn Huy Tưởng muốn đề cập đến người nghệ sĩ và bi kịch của họ.
2. Tác phẩm “Vũ Như Tô”
2.1. Vị trí: Vũ Như Tô (1941), tác phẩm đầu tay của một nhà văn chưa đầy 30 tuổi- một tác phẩm lớn của văn
học nước nhà, có chiều sâu nội dung tầng tầng lớp lớp và sự hoàn chỉnh về hình thức nghệ thuật.
2.2. Thể loại

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Có ý kiến cho rằng đó là Bi kịch lịch sử (hư cấu dựa trên sự kiện lịch sử, kết thúc bi thảm), người khác lại chỉ
xem là bi kịch. Quả là kịch Vũ Như Tô có yếu tố lịch sử, nhưng cảm hứng chủ đạo của tác phẩm không phải
là dựng lại, làm sống dậy một sự kiện lịch sử mà chủ yếu là thông qua sự thực lịch sử để đặt ra những vấn
đề sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật. Có lẽ, nên coi Vũ Như Tô là một vở bi kịch- một thể loại văn học
được mĩ học châu Âu coi là cao quý nhất và khó nhất.
- Bi kịch là một thể của loại hình kịch (đối lập với thể hài kịch). Ngoài các đặc điểm chung của loại hình, bi

kịch còn mang những đặc điểm riêng của thể. Những đặc điểm riêng này chủ yếu được thể hiện qua mâu
thuẫn, xung đột và nhân vật.
+ Xung đột bi kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn “không thể giải quyết” được; mọi cách khắc
phục đều dẫn đến “sự diệt vong những giá trị quan trọng”.
+ Nhân vật chính của bi kịch thường là những con người có những say mê, khát vọng lớn lao; đồng
thời, đôi khi còn có cả những sai lầm trong hành động và suy nghĩ.
+ Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm nhân
văn của mỗi con người.
“Bi kịch là thể loại nghiêm ngặt đến khắc nghiệt; nó miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cô đặc
các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hoà và căng thẳng
đến cực hạn, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật” (Lại Nguyên Ân, l50 thuật ngữ văn học).
2.3. Tóm tắt : SGK.
Vũ Như Tô nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lại khai thác bối cảnh Thăng Long trong những năm quằn quại dưới
sự bạo tàn của Lê Tương Dực thông qua hình ảnh Cửu Trùng Đài “huy hoàng giữa cõi trần lao lực” và người
nghệ sĩ “tranh tinh xảo với hóa công”: Vũ Như Tô. Thông qua vở kịch này, Nguyễn Huy Tưởng muốn đề cập
đến người nghệ sĩ và bi kịch của họ. Bi kịch ấy được tập trung cao nhất trong hồi V – hồi kết của vở
kịch: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
3. Trích đoạn
3.1. Vị trí: Hồi 5, hồi cuối của vở kịch.
3.2. Kết cấu: gồm 9 lớp
- Lớp 1: Đan Thiềm biết tin có loạn lớn, khẩn khoản khuyên Vũ Như Tô đi trốn, nhưng ông kiên quyết từ
chối
- Lớp 2,3,4,5,6: Vua bị Trịnh Duy Sản giết chết. Cửu Trùng Đài bị kẻ phá, người đốt. Thợ xây phần lớn theo
quân phản nghịch. Kinh thành hỗn loạn.
- Lớp 7, 8, 9: Đan Thiềm bị bắt, sau đó bị thiêu sống. Cửu Trùng đài thành tro bụi. Vũ Như Tô đau xót ra pháp
trường.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Tìm hiểu các xung đột kịch trong đoạn trích
- Mâu thuẫn bi kịch:
a) mang tính nội tại;

b) có ý nghĩa xã hội to lớn;
c) không thể giải quyết;
d) mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến sự diệt vong những giá trị quan trọng.
1.1. Mâu thuẫn thứ nhất
- Nhân dân lao động khốn khổ lầm than >< hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.
+
Mục
đích
xây Cửu Trùng Đài
nguy
nga tráng
lệ để
ăn chơi
hưởng lạc
.
+ Nguyên liệu và công sức để xây Cửu Trùng Đài, là tiền bạc, của cải mà vua đã ra sức bắt thuế, tróc thợ từ
dân
lành, làm cho
nhân dân
vất vả, đói
khát, chết vì
bệnh dịch, tai
nạn.
- Kết quả: hôn quân bị giết, hoàng hậu nhảy vào lửa, Cửu Trùng Đài hiện thân cho tham vọng ăn chơi của Lê
Tương Dực bị đốt thành tro.
- Mâu thuẫn này vốn có từ trước, đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, thì
mâu thuẫn này càng ngày càng căng thẳng. Đến hồi thứ năm, mâu thuẫn này đã trở thành cao trào, lên tới đỉnh
điểm và được giải quyết ở hồi cuối cùng: Hôn quân Lê Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết, Nguyễn Vũ tự sát,
Kim Phượng và đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.
MO O N.VN


- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
1.2. Mâu thuẫn thứ hai
Nghệ thuật cao siêu, thuần tuý >< lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
+ Vũ Như Tô coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác và phần hồn của cuộc đời mình, là công trình
nghệ thuật tô điểm cho vẻ đẹp của đất nước -> Vì nó, ông sẵn sàng chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo
chúa; dù bị
thương vẫn
tiếp tục
chỉ đạo
công việc; trị
tội
những thợ bỏ trốn.
+ Ngược lại trong mắt dân chúng, Cửu Trùng Đài là hiện thân của sự ăn chơi xa xỉ, hiện thân của tội ác,
cha đẻ của nó –Vũ Như Tô- chính là kẻ thù của họ cần phải bị trị tội -> Họ vui mừng khi Cửu Trùng Đài
chaý, Vũ Như Tô ra pháp trường.
=> Kết thúc trên chỉ ra tính bi kịch không thể điều hoà của mâu thuẫn. Muốn thực hiện lí tưởng nghệ
thuật thì đi ngược lại quyền lợi trực tiếp của nhân dân, nếu xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân thì
không thể thực hiện mơ ước nghệ thuật, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch không lối thoát của thiên
tài Vũ Như Tô.
1.3. Nhận xét vÒ m©u thuÉn, xung ®ét kÞch

- Mâu thuẫn, xung đột ngày một tăng và phát triển tới đỉnh điểm, tạo kịch tính gay gắt
- Mâu thuẫn, xung đột đan cài tự nhiên, có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau
- Mâu thuẫn, xung đột chứa đựng những vấn đề lớn lao, sâu sắc, có ý nghĩa đến muôn đời.
- Dù bản chất của bi kịch là sự cô đặc các mâu thuẫn đến mức dường như không thể giải quyết, ta vẫn thấy
toát lên từ vở bi kịch này chủ đề và định hướng tư tưởng được phát triển logic, sáng tỏ. Trên quan điểm

nhân dân, vở kịch lên án tham quan bạo chúa, nhưng trên tinh thần nhân văn, vở kịch vẫn ca ngợi
những nghệ sĩ chân chính và tài hoa như Vũ Như Tô, sống chết với Cửu Trùng đài, tin tưởng vào lí tưởng
của bản thân, đã làm việc gì là đam mê, coi đó là cuộc đời, là lẽ sống, sẵn sàng sống chết vì nó. Ta có thể hiểu
vì sao nhà văn Tô Hoài lại cho rằng Vũ Như Tô như là một Cửu Trùng Đài mà Nguyễn Huy Tưởng quyết
dựng nên cho mình.
2. Phân tích nhân vật Vũ Như Tô

2.1. Tính cách
- Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài. Tài của Vũ Như Tô chủ yếu được thể hiện ở
những hồi trước của vở kịch, qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Một thiên tài “ngàn năm
chưa dễ có một”, “chỉ vẩy bút là chim, hoa đã hiện lên trên mảnh lụa thần tình biến hoá như cảnh
hoá công”, có thể “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc
vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Cái tài ấy khiến mọi người phải ngưỡng mộ, kẻ
biệt nhỡn như Đan Thiềm có thể sẵn sàng đánh đổi cả tính mạnh để bảo vệ ông, Lê Tương Dực dù
không ưa nhưng cũng phải tin dùng.
- Là người khát khao, say mê sáng tạo “cái đẹp”. Không phải Ðan Thiềm đã thuyết phục
hay dụ dỗ họ Vũ xây Cửu Trùng Ðài. Khát vọng xây Cửu Trùng Ðài sục sôi sẵn trong Vũ Như Tô,
chỉ cần một lời khích lệ từ bên ngoài là nó chuyển hóa thành hành động. Bản đồ Cửu Trùng Ðài đã
được vẽ sẵn, mọi tính toán kinh tế – kỹ thuật đã được hoàn tất trước khi nhà kiến trúc sư thiên tài gặp
mỹ nữ có tâm hồn.
MO O N.VN

- Vũ Như Tô còn là một nghệ sĩ có nhân cách:
+ Có hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả gắn liền với tinh thần dân tộc. Ông say sưa mơ ước
xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao” để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”,
nước ta được ngẩng mặt với muôn người. Khát vọng ấy ban đầu đã được lây truyền sang những người thợ, họ
phấn khích, đồng cảm cùng Vũ Như Tô.
+ Có dũng khí: là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực doạ
giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài. Dù hiểm
nguy và cái chết đã ở ngay trước mặt, ông vẫn bình thản, sống chết với CTĐ.

+ Có tâm hồn trong sạch, không màng danh lợi (khi được vua ban thưởng vàng bạc, lụa là, ông đã
đem chia hết cho thợ).

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Thế nhưng, đi tận cùng niềm đam mê khao khát, Vũ Như Tô đã phải đối mặt với bi kịch đau
đớn của đời mình. Muốn người Nam được ngẩng mặt mà cuối cùng lại trở thành kẻ thù của dân;
muốn có đài Cửu trùng (tượng trưng cho sự bền vững) thì trong phút chốc, cả công trình tan thành
mây khói.
2.2. Bi kịch của Vũ Như Tô:
+ Là một nghệ sĩ chân chính muốn khẳng định tài năng, muốn tô điểm cho đất nước và làm đẹp cho
đời, nhưng đã phải chết một cách oan nghiệt, cả công trình nghệ thuật bị thiêu thành tro bụi.

+ Lầm lạc và ảo tưởng trong suy nghĩ và hành động, cho đến phút chót, Ông vẫn không
nghĩ việc mình xây Cửu Trùng Đài cho đất nước lại bị xem là tội ác. Đến khi cuộc nổi loạn đã nổ ra,
cả kinh thành như nghiêng ngả trong tiếng quân ầm ầm, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và, ngựa
hí, Đan Thiềm hốt hoảng, líu lưỡi giục Vũ Như Tô trốn, nếu không sẽ bị giết, nhưng ông vẫn không
chịu đi, vẫn tin vào động cơ và việc làm “chính đại quang minh”, vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được
An Hoà Hầu. Khi chính mình và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đập phá, thiêu huỷ thì ông mới
bừng tỉnh, xiết bao đau đớn, kinh hoàng ngửa mặt lên trời mà kêu lên: “Ôi mộng lớn! ôi Đan
Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Đó cũng là những tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa
oan nghiệt đang bùng bùng thiêu trụi Cửu Trùng Đài, trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp
trường. Trong tiếng kêu ấy, “mộng lớn”, “Đan Thiềm”, “Cửu Trùng Đài” đã được Vũ đặt liền kề, nỗi
đau mất mát như nhập hòa thành nỗi đau bi tráng tột cùng. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn
trích.
- Vũ chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của
nhân dân, trên lập trường cái Đẹp mà không đứng trên lập trường cái Thiện. Công trình với
năm vạn thợ bên trong và mười vạn thợ bên ngoài đã hút của dân bao sinh lực. Quyền sống của nhân

dân bị hy sinh không thương tiếc. Hành động của Vũ Như Tô không hướng đến sự hòa giải mà thách
thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ đã từng tranh tinh xảo với hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh
phải- trái với số phận và với cuộc đời. Vũ Như Tô hiện lên đúng là một tính cách bi kịch, vừa
bướng bỉnh vừa mềm yếu, vừa kiên định vừa dễ hoang mang, muốn vùng lên chống lại và thách
thức số phận, nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch.
2.3. Nguyên nhân bi kịch
- Mâu thuẫn giữa khát vọng cao cả của người nghệ sĩ với cách thực hiện khát vọng ấy: mục đích
của Vũ Như Tô là chân chính nhưng con đường thực hiện lại sai lầm khi ông lợi dụng quyền lực của
bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật.
- Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu thuần tuý của muôn đời với lợi ích thiết thực,
trực tiếp của quần chúng nhân dân.
- Mâu thuẫn giữa khát vọng và hoàn cảnh xã hội chưa cho phép. Trong hoàn cảnh không thích hợp,
cái đẹp thành ra phù phiếm, cao siêu.
2.4. Ý nghĩa của bi kịch Vũ Như Tô
Qua tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy nghĩ sâu
sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời sống nhân
dân. Vấn đề tác giả đặt ra ngày ấy, giờ đây bước sang thiên niên kỉ mới vẫn còn nguyên giá trị.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI - NGUYỄN HUY TƯỞNG
(TIẾT 2)
Bi kịch, thể loại lớn của văn học và sân khấu, bao giờ cũng đặt độc giả và khán giả trước
những câu phức tạp, hóc búa và nhức nhối của cuộc sống...
3. Phân tích nhân vật Đan Thiềm
- Nếu Vũ Như Tô là người nghệ sĩ đam mê sáng tạo cái đẹp thì Đan Thiềm là người đam mê

cái tài, ở đây là tài sáng tạo ra cái đẹp:
+ Vì có tấm lòng liên tài nên lúc Vũ Như Tô mới bị bắt, ông nhờ Đan Thiềm “mách đường
chạy trốn”, nàng đã khuyên ông ở lại, thuyết phục ông nhân cơ hội này, mượn uy quyền và tiền bạc
của Lê Tương Dực để thực hiện được hoài bão xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật đồ
sộ, vĩnh cửu.
+ Vì đam mê tài năng mà nàng luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, sẵn sàng
quên mình để bảo vệ cái tài ấy. Với nét tính cách ấy, Đan Thiềm xứng đáng là tri âm, tri kỉ của Vũ
Như Tô.
- Ở hồi cuối, cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều lâm vào trạng thái khủng hoảng với một nỗi
đau chung: sự “vỡ mộng” thê thảm. Nhưng diễn biến tâm trạng của họ có chiều hướng vận động
và biểu hiện khác nhau.
Đan Thiềm cũng đau đớn nhận ra thất bại của giấc “mộng lớn” xây Cửu Trùng Đài, nhưng
nhạy bén, sớm sủa, kịp thời hơn Vũ Như Tô. Tâm trí của nàng giờ đây không còn hướng vào thành
bại của việc xây Cửu Trùng Đài mà hướng vào sự sống còn của Vũ Như Tô, người nghệ sĩ “tài trời”
nghìn năm có một. Nàng khẩn khoản khuyên Vũ đi trốn, và thấy lời khuyên của mình vô hiệu thì
hốt hoảng đau đớn tột cùng. Trong mấy lớp liên tiếp của hồi V, Đan Thiềm đã năm lần bảy lượt
khuyên Vũ Như Tô “trốn đi” (15 lần khuyên trốn, điệp khúc trốn đi, lánh đi, chạy đi vang lên đến
14 lần; 4 lần nàng van lạy phe nổi loạn “tha cho ông cả”). Điệu bộ nàng “hớt hơ hớt hải” “mặt cắt
không còn một giọt máu”. Giọng nàng “thở hổn hển”, đứt đoạn trong âm vang kinh hoàng điên đảo
của bạo loạn chốn cung đình, trong khi mà chính nàng bị sỉ vả bắt bớ rất bất công, oan nghiệt. Nàng
nói với Ngô Hạch, lời nói của nàng khẩn khoản như đẫm máu và nước mắt (Tướng quân nghe tôi.
Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài…).
Đến lúc nhận ra đến cả việc đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô cũng không được nữa thì
Đan Thiềm đành buông lời vĩnh biệt tất cả. (Nàng nói: “Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông
vĩnh biệt!”, mà không nói: “Vĩnh biệt ông Cả!”). Đó cũng là lời vĩnh biệt mãi mãi Cửu trùng đài,
vĩnh biệt một “giấc mộng lớn” trong máu và nước mắt.
Diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng
Đài đã làm sâu sắc hơn tính cách bi kịch của mỗi nhân vật, đồng thời cũng góp phần làm nổi bật chủ
đề của tác phẩm.
4. Một số nét đặc sắc về nghệ thuật

4.1. Chỉ là một trích đoạn nhưng đoạn kịch này cũng có kết cấu như một vở kịch: có thắt nút
(mâu thuẫn), xung đột, cao trào và mở nút. Với cả vở kịch, đoạn trích này là phần cao trào, rồi giải
quyết mâu thuẫn lớn nhất của cả vở kịch. Không khí, nhịp điệu của sự việc được diễn tả theo chiều
tăng tiến mức độ dồn dập đã thể hiện được tính chất gay gắt của mâu thuẫn và dần đẩy xung đột kịch
lên cao trào. Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô là cái nút của mâu thuẫn. Xung đột đã được giải quyết
bằng sự ra đi vĩnh viễn của cả hai.
4.2. Ngôn ngữ kịch
- Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao (kể, miêu tả, bộc lộ…), nhà văn đã đồng
thời khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt hành động, xung đột kịch rất thành công, tạo nên
một bức tranh đời sống bi kịch hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó.
- Nhịp điệu được tạo ra thông qua nhịp điệu của lời nói – hành động (nhất là qua khẩu khí,
nhịp điệu, sắc thái lời nói – hành động của Đan Thiềm – Vũ Như Tô đối đáp với nhau và với phe đối
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
nghịch; qua lời nói – hành động của những người khác trong vai trò đưa tin, nhịp điệu “ra”, “vào”
của các nhân vật đầu và cuối mỗi lớp – các lớp đều ngắn, có những lớp rất ngắn: chỉ dăm ba lượt
thoại nhỏ; những tiếng reo, tiếng thét, tiếng động dội từ hậu trường phản ánh cục diện, tình hình
nguy cập, điên đảo trong các lời chú thích nghệ thuật hàm súc của tác giả.
Với một ngôn ngữ có tính tổng hợp và tính hành động rất cao như vậy, người ta dễ dàng hình
dung cả một không gian bạo lực kinh hooàng trong một nhịp điệu chóng mặt: Lê Tương Dực bị Ngô
Hạch giết chết, Hoàng hậu nhảy vào lửa tự vẫn (qua lời kể của Lê Trung Mại); Nguyễn Vũ tự tử
bằng dao (ngay trên sân khấu), Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt cổ ngay tại chỗ; Vũ Như Tô ra
pháp trường. Rồi tiếng nhiếc móc, chửi rủa, la ó, than khóc, máu, nước mắt… tất cả hừng hực như
trên một cái chảo dầu sôi lửa bỏng khổng lồ.
4.3. Cách khai thác vận dụng sử liệu
Viết một vở kịch có yếu tố lịch sử, Vũ Như Tô tất nhiên dựa trên các sử liệu: sự kiện, nhân

vật lịch sử, bối cảnh lịch sử. Điều quan trọng là (kể, miêu tả, bộc lộ…) như thế nào, sao cho phù hợp
với yêu cầu của bi kịch. Và lịch sử có lô gic và qui luật của nó, tàn khốc, lạnh lùng. Cái lõi lịch sử
được nhà văn khai thác ở đây là câu chuyện Vũ Như Tô xây Cửu trùng đài cho Lê Tương Dực (theo
như sách Đại Việt sử kí và Việt sử thông giám cương mục ghi lại). Đài xây dang dở, người thợ tài hoa
Vũ Như Tô đã phải chịu cái chết oan khốc. Ở đây, để góp phần làm nên cái khung cảnh và không
khí bi tráng của lịch sử, tác giả đã đặt hành động kịch vào trong “một cung cấm”, nhiều nhân vật
kịch là những nhân vật lịch sử. Nhiều tên đất tên người gắn với triều Lê… Đúng như lời chú thích
sân khấu của tác giả: Sự việc trong vở kịch xảy ra ở Thăng Long trong khoảng thời gian từ năm 1516
đến năm 1517, dưới triều Lê Tương Dực.
5. Chủ đề và định hướng tư tưởng của vở kịch
- Trong lời Đề tựa viết một năm sau khi viết xong vở kịch, chính Nguyễn Huy Tưởng đã
công khai bày tỏ nỗi băn khoăn của mình: “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?
Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải […]. Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ
giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
- Cho đến khi bi kịch hạ màn, người xem vẫn chưa thấy câu trả lời dứt khoát của tác giả. Nói
đúng hơn ông nhường câu trả lời cho người đọc. Mâu thuẫn và tính không dứt khoát trong cách
giải quyết mâu thuẫn này được thể hiện tập trung trong hồi cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài sụp đổ
và bị đốt cháy, nhân dân trước sau vẫn không hiểu gì việc sáng tạo của nghệ sĩ, không hiểu nổi Đan
Thiềm, Vũ Như Tô cũng như “mộng lớn” của hai nhân vật hiện thân cho tài sắc này. Về phía khác,
Đan Thiềm không cứu được Vũ Như Tô và Họ Vũ vẫn không thể, không bao giờ hiểu được việc làm
của quần chúng và của phe cánh nổi loạn.
Mâu thuẫn mà vở bi kịch nêu lên thuộc loại mâu thuẫn không bao giờ và không ai giải quyết cho thật
dứt khoát, ổn thỏa được, nhất là trong thời đại Vũ Như Tô. Mâu thuẫn này may ra có thể giải quyết
được phần nào thỏa đáng khi mà đời sống vật chất của nhân dân thật bình ổn, đời sống tinh thần nhu
cầu về cái đẹp trong xã hội được nâng cao lên rõ rệt.
Mặc dầu vậy, chủ đề và định hướng tư tưởng của vở kịch vẫn được phát triển tương đối sáng
tỏ.
Một mặt, trên quan điểm nhân dân, vở kịch lên án bạo chúa tham quan, đồng tình với việc
dân chúng nổi dậy trừ diệt chúng; nhưng mặt khác, trên tinh thần nhân văn, vở kịch đã ca ngợi
những nhân cách nghệ sĩ chân chính và tài hoa như Vũ Như Tô, những tấm lòng yêu quý nghệ thuật

đến mức quên mình như Đan Thiềm.
Đây là chủ đề được thể hiện chủ yếu qua mâu thuẫn thứ hai của vở kịch: mâu thuẫn giữa
niềm khát khao hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với
lợi ich trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân. Cụ thể: là một nghệ sĩ đầy tài năng và giàu
sáng tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước, muốn làm
đẹp cho đời, nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của ông đã đặt lầm nơi lạc chốn, lạc
điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng chính sinh mệnh của bản thân và của cả
công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của mình. Người đọc, người xem thương người nghệ sĩ có tài
có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp nhưng xa rời thực
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
tế, mà phải trả giá đắt bằng cả sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật đầy tâm huyết sáng tạo cuả
mình
Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc rằng: “Không có
cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý,
nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ
là văn chương mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn
chương”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho
muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc
sống với đòi hỏi của muôn dân”. Một vấn đề đặt ra nữa là “Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo
cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực”.
5. Ý nghĩa phần cuối của lời đề tựa
- Lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô do chính Nguyễn Huy Tưởng viết ngày tháng 2 năm 1942, sau
khoảng một năm viết xong tác phẩm “Than ôi!...Đan Thiềm!”
- Tựa là thành phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề của
mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng

của tác phẩm.
- Qua lời đề tựa trên, Nguyễn Huy Tưởng đã chân thành bộc lộ nỗi băn khoăn của mình: Lẽ phải
thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô? Và ông thú nhận “ta chẳng biết”, tức là không
thể đưa ra một lời giải đáp thoả đáng. Qua vở kịch, có thể thấy chân lí không hoàn toàn thuộc về phía
nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng, vừa nên tiếc. Đồng thời, nhà văn khẳng định: “Cầm bút
chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”, tức là vì cảm phục “tài trời”, nhạy cảm với bi kịch của
những tài năng siêu việt.

MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI - NGUYỄN HUY TƯỞNG
(TIẾT 3)
LUYỆN TẬP
Đề 1.
Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài"
________
A. Mở bài
Trong xã hội cũ, người nghệ sĩ thiên tài có lý tưởng cao đẹp thường lâm vào cảnh ngộ không giải
quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì. Đó cũng chính là bi
kịch của Vũ Như Tô trong vở kịch cùng tên của Nguyễn Huy Tưởng.
B. Thân bài
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho của đất Bắc Ninh
xưa, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Từng gắn bó với phong trào cách mạng trong các tổ chức
văn hoá văn nghệ do Đảng lãnh đạo từ rất sớm, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài

lịch sử để xây dựng tác phẩm có quy mô lớn, dựng lên những bức tranh, những hình tượng hoành
tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc. Ông là một nhà viết kịch tài ba. Văn phong của ông vừa giản dị,
trong sáng, vừa thâm trầm sâu sắc khi đặt ra những vấn đề có tầm triết lý.
2. “Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của
nền kịch Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy
ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng
Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích được học gây ấn tượng sâu sắc nhất là nhân vật
Vũ Như Tô.
MO O N.VN

II. Trình bày cảm nghĩ về bi kịch nhân vật Vũ Như Tô
1. Định nghĩa bi kịch
Hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ vò xé dai dẳng không có cách nào giải thoát. Nhưng
theo từ điển văn học, bi kịch chỉ xảy ra khi có mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão, lí tưởng của cá
nhân với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho cá nhân thực hiện khát vọng, lý tưởng của mình
nên
rơi
vào
thất
bại,
thậm
chí
dẫn
đến
cái
chết
thảm
thương.
2. Những nét chính trong bi kịch Vũ Như Tô
a. Hiểu như định nghĩa nói trên, chúng ta thấy bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ

có tài và có hoài bão lớn, nhưng không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời
sống, đặc biệt là không giải được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì.
b. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân của niềm khao khát say mê sáng tạo cái
đẹp, “là người ngàn năm dễ có một....có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây
lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”
c. Vũ Như Tô là một nghệ sĩ lớn có nhân cách cao đẹp, có hoài bão lớn lao, có tư tưởng, lý tưởng
nghệ thuật cao cả, ông muốn xây dựng một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao” để cho “dân ta
nghìn thu còn hãnh diện” ; muốn xây dựng một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non
sông đất nước. Ông mong muốn cho người đời biết những khát vọng cao đẹp của ông. Đó là ông chỉ
có một hoài bão muốn tô điểm cho đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nòi giống một toà lâu đài
hoa lệ,thách cả những công trình trước sau, tranh tinh xảo với hoá công “để ta xây một Cửu Trùng
Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành, cao cả huy hoàng, giữa
cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai.... Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài”. Hồn ông để cả nơi
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
đấy. Nhìn một cách đơn giản thì mục đích và nguyện vọng của Vũ Như Tô là hết sức cao đẹp. Nó
xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Vũ Như Tô vô cùng
say mê với mơ ước của mình.
d. Nhưng Vũ Như Tô nào có hiểu được sâu xa, trên thực tế, Cửu Trùng Đài đã xây dựng bằng mồ
hôi xương máu của nhân dân và nếu được hoàn thành thì nó cũng chỉ là nơi ăn chơi xa xỉ, sa đoạ của
vua chúa, giống như công trình kiến trúc “Vạn Niên” của triều đình Nguyễn sau này : “Vạn niên là
vạn niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Như vậy, Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi
dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình.Chỉ đứng trên lập trường
nghệ sĩ thuần tuý nên đã vô hình chung, trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân, gây đau khổ cho nhân
dân.
e. Nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa, thậm chí là oán hận kiến
trúc sư đầy tài năng Vũ Như Tô và cuối cùng đã giết chết cả tên hôn quan bạo chúa Lê Tương Dực
lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy cả Cửu Trùng Đài.Vũ Như Tô đúng là một nhân vật bi kịch. Ông không thể

nào trả lời câu hỏi “xây dựng Cửu Trùng Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội? ”. Là một nghệ
sĩ đầy tài năng và giàu sáng tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho
đất nước, muốn làm đẹp cho đời, nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của ông đã đặt
lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng chính sinh mệnh của
bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của mình.Thật đau đớn thay, bi kịch thay
cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ
Như Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn day dứt
một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”. Và vẫn hi vọng thuyết phục được
An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một cách phũ phàng tàn
nhẫn, không như ảo tưởng của Vũ Như Tô. Khi tất cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiềm và ông bị bắt, Cửu
Trùng Đài bị thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt
vọng “Đốt thực rồi! Ôi Đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm!
Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường”. Trong tiếng kêu than ấy, tiếng “Đan
Thiềm, mộng lớn Cửu Trùng Đài” dồn dập vang lên hoà nhập vào nhau thành khúc ca bi tráng, ai
oán, đầy tiếc thương. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”.
MO O N.VN

3 . Phát biểu cảm nghĩ
3.1. Thương người nghệ sĩ có tài có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hi sinh
tất cả cho cái đẹp nhưng xa rời thực tế, mà phải trả giá đắt bằng cả sinh mệnh và cả công trình nghệ
thuật đầy tâm huyết sáng tạo cuả mình
3.2. Hiểu được rằng không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể
chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời.
“Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi
đi tới của văn chương”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình
vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện
thực tế cuộc sống với đòi hỏi của muôn dân.
3.3. Rút ra bài học nhận thức: xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài
năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực.
C. Kết luận

Qua tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy nghĩ sâu
sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời sống nhân
dân. Vì vậy vấn đề tác giả đặt ra ngày ấy, giờ đây bước sang thiên niên kỉ mới, nó vẫn còn nguyên
giá trị.

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Đề 2- (câu 5/10 điểm dành cho đề thi Đại học hoặc 12/20 điểm- dành cho đề thi học sinh giỏi)
- "Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ,
rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ
dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một
người thừa".
(Đời thừa - Nam Cao)
- "Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!".
(Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng)
Nỗi day dứt của Hộ và tiếng kêu đau đớn tuyệt vọng của Vũ Như Tô gợi cho anh (chị) suy nghĩ
gì về tấn bi kịch của người nghệ sỹ trong xã hội cũ? Những vấn đề nào đã được đặt ra qua tấn bi
kịch của họ?
Gợi ý về đáp án:
Nội dung
Điểm
I. Yêu cầu chung: nắm vững kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học (dạng đề đối sánh).
Bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo. Diễn đạt, hành văn trong sáng, lời văn đẹp, ấn
tượng.
0.5đ
II. Định hướng làm bài và biểu điểm
1. Giới thiệu khái quát vấn đề: Kịch Vũ Như Tô được viết năm 1941. Truyện ngắn Đời
thừa được Nam Cao sáng tác năm 1943. Mặc dù khai thác hai đề tài khác nhau, viết bằng

hai thể loại khác nhau, nhưng tư tưởng của họ đã gặp nhau ở nhiều điểm: mối quan tâm đến
số phận của người nghệ sỹ tài năng; những suy tư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời; vấn đề phẩm chất của người nghệ sỹ...Tất cả đều được thể hiện qua tấn bi kịch của hai
nhân vật: Vũ Như Tô và Hộ.
2. Triển khai vấn đề
5,0 đ
2.1. Phân tích tấn bi kịch của hai nhân vật
2.1.1. Giống nhau
2.1.1.1 Địa vị: mặc dù sống ở hai thời đại cách xa nhau, song cả hai đều là nghệ sỹ: Vũ
Như Tô là một kiến trúc sư, còn Hộ là một nhà văn.
2.1.1.2. Phẩm chất
- Là người nghệ sỹ, ở họ đều cháy bỏng một niềm đam mê nghệ thuật
+ Vũ Như Tô: khao khát điểm tô đất nước, đem hết tài ra xây cho đất nước một tòa đài hoa
lệ, "thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công"
+ Hộ: ấp ủ một hoài bão: viết được một tác phẩm "làm mờ hết những tác phẩm cùng ra
một thời”.“Tác phẩm ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”.
- Ở góc độ con người, họ đều là những nhân cách đáng trọng:
+ Vũ Như Tô: có phẩm chất của một đấng trượng phu ở nhân cách cứng cỏi, thái độ coi
thường danh lợi.
+ Hộ: một người giàu lòng nhân ái, vị tha.
2.1.1.3. Số phận: qua tiếng kêu đau đớn của Vũ Như Tô “Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm
gì?...và nỗi day dứt của Hộ “Chao ôi! Hắn đã viết những gì? ... Thế nghĩa là hắn là một kẻ
vô ích, một người thừa”. Người đọc có thể nhận ra: Họ đều lâm vào bi kịch đổ vỡ lý
tưởng, bi kịch phải sống một cuộc đời thừa.
2.1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tấn bi kịch của hai nhân vật: đều dựa trên cơ sở mâu thuẫn
giữa một bên là niềm khát khao sáng tạo, khát khao khẳng định tài năng, khẳng định ý
nghĩa sự tồn tại của cá nhân với một bên là hoàn cảnh, điều kiện sống không cho phép họ
thực hiện khát vọng của mình.
2.1.1.5. Diễn biến mâu thuẫn:
* Hộ:

- Trước khi gặp Từ, Hộ chưa có bi kịch vì lúc ấy Hộ chỉ có một mình “Đói rét không có
nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng”.
- Mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh từ khi Hộ ghép cuộc đời mình vào cuộc đời Từ, bởi từ đó Hộ
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
có cả một gia đình để chăm lo. Để làm tròn bổn phận một người chồng, một người cha, Hộ
phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi
quên ngay sau lúc đọc Cuộc sống cơm áo không cho phép Hộ đầu tư công sức vào nghệ
thuật. Hộ phải “viết để sống”, lấy văn chương làm kế mưu sinh. Cách viết đó không đáp
ứng, thậm chí đi ngược lại yêu cầu của nghệ thuật chân chính “Văn chương không cần…
chưa có”. Ý thức được điều đó, Hộ vô cùng đau khổ “Chao ôi! Hắn đã viết những gì?...một
người thừa”.
* Vũ Như Tô:
- Mâu thuẫn dẫn đến bi kịch: đó là mâu thuẫn giữa niềm khát khao sáng tạo, quan niệm
nghệ thuật cao siêu thuần tuý với lợi ích trực tiếp, thiết thực của đời sống nhân dân.
- Mâu thuẫn nảy sinh từ khi Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, quyết định
xây Cửu Trùng Đài. (Lí do: sưu thuế tăng, thợ giỏi bị bắt bớ, người bị tai nạn, bị chết nhiều
vô kể…).
- Mâu thuẫn được thể hiện:
+ Qua những lời oán thán của nhân dân “Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông,
dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần dân trách móc là vì ông…”.
+ Lời kết tội của bọn nội giám: việc sinh ra quân phản loạn trong triều cũng là vì Vũ Như
Tô.
- Diễn biến của mâu thuẫn:
+ Năm lớp kịch đầu: mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô, thợ thuyền và nhân dân chưa bị đặt vào
thế đối đầu trực tiếp. Nó chỉ mới thể hiện gián tiếp qua lời của các nhân vật trung gian: Đan

Thiềm, bọn nội giám…
+ Kịch tính được đẩy lên từ lớp kịch thứ 6 (khi quân khởi loạn kéo vào nơi Vũ Như Tô
làm việc, gươm giáo sáng loà). Và càng căng thẳng hơn ở lớp kịch 7,8 khi quân khởi loạn
xúc phạm Vũ Như Tô, Đan Thiềm, truy bắt lũ cung nữ, cuối cùng bắt trói cả Đan Thiềm và
Vũ Như Tô.
+ Mâu thuẫn được giải quyết ở lớp kịch thứ 9 với hai sự việc:
Nhân dân đốt phá Cửu Trùng Đài
Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường.
* Thái độ của nhà văn trước tấn bi kịch của hai nhân vật:
- Nam Cao: thấy rõ nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Hộ là do xã hội thực dân phong kiến.
Qua tấn bi kịch của Hộ, Nam Cao lên án xã hội thực dân phong kiến đã bóp chết ước mơ,
tước đi ý nghĩa sự sống chân chính của con người.
- Nguyễn Huy Tưởng: không giải thích được “Than ôi! Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết
Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm!”.
- Trong cái nhìn của chúng ta hôm nay thì cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều có cái phải và
cái không phải:
+ Những kẻ giết Vũ Như Tô:
Phải: ở chỗ đã không đồng tình với việc xây Cửu Trùng Đài.
Không phải: ở hành động phá một công trình nghệ thuật to lớn; giết một nhân tài kiệt xuất.
+ Vũ Như Tô:
Phải ở hoài bão, ước mơ, khát vọng..

Không phải: ở con đường thực hiện lý tưởng (mượn uy quyền, tiền bạc của bạo chúa); ở
lòng đam mê nghệ thuật một cách mù quáng (thứ nghệ thuật Vũ Như Tô đam mê là thứ
nghệ thuật cao siêu thuần tuý, nó xa rời thậm chí đối lập với cuộc sống của nhân dân lúc
bấy giờ).
2.1.2. Khác nhau: ở kết cục của mỗi số phận
- Tấn bi kịch của Hộ tuy đau đớn, dai dẳng và thầm lặng ( sau bi kịch đời thừa, Hộ lâm tiếp
vào bi kịch thứ 2: một con người vốn tôn thờ lẽ sống tình thương, cuối cùng lại vi phạm
chính lẽ sống đó, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn). Nhưng Hộ còn được sống (sống

thừa). Kết cục không đến nỗi quá bi đát.
- Còn Vũ Như Tô:
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Không thực hiện yêu cầu của Lê Tương Dực -> bị giết, bị tru di cửu tộc (chết vào tay Lê 2đ
Tương Dực).
+ Thực hiện yêu cầu của Lê Tương Dực -> Chết vào tay quân khởi loạn và nhân dân.
=> Đằng nào cũng bế tắc! Người nghệ sỹ thiên tài này rơi vào cảnh cùng đường tuyệt lộ
(chỉ có một con đường chết).
2.2. Những vấn đề đặt ra qua tấn bi kịch của hai nhân vật
- Số phận của những nghệ sỹ tài năng trong xã hội cũ (xã hội ấy không có đất dụng võ, đất
sống cho những người tài. Đây có lẽ cũng là tâm sự sâu kín của hai người nghệ sỹ Nguyễn
Huy Tưởng và Nam Cao).
- Cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ nghệ thuật – cuộc đời:
+ Đặt cuộc đời lên trên nghệ thuật -> Người nghệ sỹ phải sống một cuộc sống thừa.
+ Đặt nghệ thuật lên trên cuộc đời -> Người nghệ sỹ có thể sẽ đánh mất nhiều thứ quý
giá khác (nhân phẩm - Hộ, thậm chí phải chết như Vũ Như Tô).
- Vấn đề phẩm chất nghệ sỹ:
0.5 đ
+ Chữ tài phải đi liền với chữ tâm (không thể nói Vũ Như Tô có một cái tâm và một cái trí
sáng suốt khi mượn uy quyền tiền bạc của bạo chúa để thoả mãn khát vọng nghệ thuật của
mình).
+ Cái đẹp phải đi liền với cái thiện thì mới là cái đẹp đáng được tôn thờ.
3. Kết luận
Cả hai tác phẩm đều rất xuất sắc
- Không chỉ đặt ra những vấn đề của đời sống mà còn rút ra những bài học có ý nghĩa

sâu sắc cho những người làm nghệ thuật. Đồng thời được viết bởi những ngòi bút tài hoa,
điêu luyện.
- Thể hiện sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân của tầng lớp trí thức đương thời.

MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 1)

Lời vào bài: Có thể trước khi đến với bài học ngày hôm nay, cái tên Hoài Thanh đối với nhiều em đã
rất quen thuộc. Học văn, có lẽ ai cũng có trong hành trang của mình những lời bình duyên dáng của
ông. Ví như với câu thơ của Xuân Diệu:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều
ông viết: “... cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Câu thơ chỉ mất đi một tí rõ ràng để được
thêm rất nhiều thơ mộng...”.
Khó có thể kể hết được những lời bình hay của Hoài Thanh mà chúng ta đã được thưởng thức
trong hành trình đi tìm kiếm vẻ đẹp của văn chương. Trong khuôn khổ giờ học hôm nay, chúng ta
cùng đến với một tiểu luận của ông. Từ đó, các em có thể hình dung phần nào diện mạo, dáng hình
của nhà phê bình nổi tiếng này.
Tiểu luận có nhan đề là:
Một thời đại trong thi ca
(Trích)
Hoài Thanh
Có những nhà văn đa tài, sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng với Hoài Thanh, trước
sau ông chỉ đi về trên một thể loại: phê bình văn học. Mà chức năng của văn phê bình là thẩm

bình, đánh giá và lý giải về các hiện tượng văn học. Đặc điểm cơ bản nhất: là một dạng văn nghị
luận, đối tượng là sản phẩm nghệ thuật. Do đó, văn phê bình vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ
thuật.
Đọc – hiểu một tác phẩm phê bình, chúng ta phải rất chú ý đến đặc điểm này.
I.
Tìm hiểu chung
1) Tác giả (1909 -1982)
- Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Cả cuộc
đời ông là chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú, mê say cái hay và vẻ đẹp của văn chương.
Như một nhà địa chất cần mẫn, yêu nghề, Hoài Thanh đã phát hiện được không ít vàng ngọc của thơ
ẩn trong lớp cát bụi của thời gian hay trong các mạch chìm nổi của cuộc đời.
- Sự nghiệp phê bình của ông khá đồ sộ, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến là công trình Tuyển tập
đầu tiên về Thơ mới: cuốn Thi nhân Việt Nam (1942). Cho đến nay, công trình này vẫn khẳng định
được tác động sâu rộng của nó với đời sống văn học. Từ trước tới nay, ít có công trình nghị luận văn
chương nào được tái bản nhiều lần như vậy (Tính đến năm 2008, nó đã được in lại tới 34 lần).
- Ông là người ý thức sâu sắc về công việc của nhà phê bình. Ông đã từng phát biểu:“Tìm cái đẹp
trong tự nhiên là nghệ thuật. Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình” và chọn cho mình lối phê
bình “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.
- Ông đã in dấu được phong cách riêng của mình trên từng trang viết. Đó là lối phê bình thiên về
thưởng thức và ghi nhận ấn tượng, với giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế mà tài hoa, hóm hỉnh. Điều đó có
lẽ được thể hiện đầy đủ và sinh động hơn cả trong “áng văn phê bình bất hủ” (Nguyễn Đăng Mạnh)
mà chúng ta sẽ tìm hiểu ngay sau đây.
2) Đoạn trích
a) Xuất xứ và vị trí
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- Bài tiểu luận thuộc phần đầu của tuyển thơ Thi nhân Việt Nam, nó có ý nghĩa quan trọng trong
việc định hướng cho độc giả đón nhận tuyển thơ này.
- Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận. Nó đã thâu tóm vấn đề cốt tuỷ nhất là Tinh thần thơ
mới và kết tinh tất cả những tinh hoa của ngòi bút phê bình này.
b) Nội dung và bố cục
- Nội dung: Vấn đề “Tinh thần thơ mới”.
- Bố cục: 2 phần
+ Phần 1: Nguyên tắc để xác định Tinh thần thơ mới
+ Phần 2: Thâu tóm Tinh thần thơ mới trong khuôn khổ “chữ tôi” và sự vận động của thơ mới
xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó
Có thể nói, thơ mới là một hiện tượng hấp dẫn nhưng phức tạp. Đánh giá về nó đã có bao
công trình đồ sộ, công phu, nhưng cho đến nay chưa có ai vượt được Hoài Thanh về sự khúc
chiết, giản dị mà tinh tế, tài hoa. Để hiểu rõ hơn, chúng ta đi vào đọc hiểu văn bản cụ thể .
II.
Đọc – hiểu văn bản:
Đứng trước một văn bản nghị luận nói chung, chúng ta có thể tìm hiểu theo hai cách:
+ Theo mạch lập luận của tác giả (lối cắt ngang)
+ Theo đặc trưng của thể loại văn nghị luận: cách lập luận, hệ thống luận điểm, luận cứ, luận
chứng (lối bổ dọc). Ở đây, chúng ta chọn cách tìm hiểu theo mạch lập luận của tác giả để dễ theo
dõi.
1. Nguyên tắc để xác định Tinh thần thơ mới
- Mục đích của việc nêu lên nguyên tắc này là Để giới hạn và thống nhất về đối tượng phê bình.
- Việc này rất cần thiết. Nếu không giới hạn và thống nhất được đối tượng phê bình, có thể sẽ có
hiện tượng:
+ Người bênh thơ cũ: chỉ đề cập đến tinh hoa của mấy nghìn năm văn học
+ Người bênh thơ mới: chỉ nhắc đến những bài thơ Đường luật vô vị, nhạt nhẽo, “những cặn
bã của một lối thơ đã đến lúc tàn”.
* Như thế, cuộc tranh luận sẽ thiếu tính khoa học và không đi đến đâu cả. Vậy đây là công việc
rất cần thiết và quan trọng, là nền tảng khoa học cho tác phẩm.
Nhà phê bình không nêu lên nguyên tắc ngay. Ông đã trình bày theo trật tự:

- Bắt đầu từ việc trích dẫn thơ.
+ Hai câu của Xuân Diệu: nặng tính ước lệ, cổ điển
+ Hai câu của một nhà thơ cũ nổi tiếng: giọng điệu trẻ trung, hiện đại.
- Tiếp theo là quá trình lập luận:
+ Mỗi nhà thơ nổi danh đều có thể có những câu thơ hay nhưng không tiêu biểu
+ Mỗi thời đại đều có những bài thơ dở, những tác giả kém cỏi, bất tài
+ Đã không tiêu biểu thì không thể đại diện cho thời đại, đã tầm thường, lố lăng thì
không có tinh thần để mà tìm hiểu
- Cuối cùng: Nêu lên hai nguyên tắc cần triệt để tuân theo về đối tượng phê bình
+ Căn cứ vào cái hay
+ Căn cứ vào đại thể
- Nhận xét về cách lập luận của tác giả:
+ Nhà phê bình không áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình. Ông đã chọn cách lập luận theo lối quy
nạp để thuyết phục người đọc bằng luận chứng tiêu biểu, luận cứ xác đáng và luận điểm rõ ràng. Do
đó, vấn đề được trình bày giản dị, sinh động mà biện chứng, khách quan.
2. Tinh thần thơ mới: cái tôi
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Nhận xét về cách dùng từ “Tinh thần thơ mới”. Thực chất của việc xác định tinh thần thơ mới là
gì? Tinh thần (hay linh hồn) cùng với hình xác là hai phương diện trong sự tồn tại của một cá thể. Để
nhận biết và đánh giá, người ta có thể căn cứ vào hình xác bên ngoài, nhưng có thể căn cứ vào tinh
thần bên trong của nó. Cách dùng từ này cho thấy quan niệm biện chứng của tác giả về đối tượng, lối
nói gợi cảm mà chính xác của ông. Thực chất, việc xác định tinh thần thơ mới là xác định bản chất,
đặc trưng của nó.
Việc xác định đặc trưng của thơ mới – “một thời đại trong thơ ca”, “một cuộc cách
mạng trong thơ ca” - là công việc lớn lao, phức tạp, khó khăn. Một thời đại kéo dài 10 năm, hàng

nghìn bài thơ, hàng trăm tác giả, phân hoá theo hàng chục trường phái khác nhau. Vấn đề Tinh thần,
bản chất...mang tính trừu tượng, khó hình dung. Nó ngang tầm với một đề tài khoa học lớn.
Vấn đề lớn lao, phức tạp ấy đã được tác giả thâu tóm bằng cách đối sánh thơ mới và thơ cũ ở
phương diện chủ thể sáng tạo.
Cách nói: Vừa hàm súc, vừa ấn tượng, vừa lạ lại vừa hay. Lạ vì từ xưa tới nay chưa ai thâu tóm
vấn đề ngắn gọn mà giản đơn như thế. Hay vì nó đã bắt trúng mạch hai dòng chảy thi ca của hai
thời đại này.
- Cách khẳng định vấn đề: hai cách: Hoặc là chứng minh cái tôi chỉ có ở thơ nay. Hoặc chứng minh
cái tôi không có ở thơ xưa. Tác giả đã chọn cách thứ hai.
+ Trên đại thể: Xã hội Việt Nam xưa không có cái tôi. Cá nhân, bản sắc cá nhân chìm đắm trong
gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cách nói giàu hình ảnh, giúp người đọc
hình dung ý thức cá nhân trong thơ xưa mờ nhạt như thế nào.
+ Cá biệt: Vẫn có những bậc kỳ tài ghi hình ảnh của họ vào trong thơ. Nhưng đó không phải là
cái tôi với ý nghĩa tuyệt đối của nó.
- Giọng điệu tranh biện như đang đối thoại cùng người đọc, lôi kéo sự nhập cuộc của họ. Cách dùng
từ xưng hô đặc biệt: dùng từ “họ” để chỉ những bậc kỳ tài của thơ cũ. Từ họ được lặp lại với mật độ
dày đặc (10 lần trên 9 dòng văn) không chỉ là đại từ thay thế, tạo tính liên kết mà còn phản ánh sự
khác biệt cũng như khoảng cách giữa người thời đại sau (nhà phê bình) với người thời đại trước (các
thi nhân thơ cũ). Hệ thống ngôn từ có tính chất biểu cảm, chứa đựng một cách nhìn chưa từng có về
những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương.... Cũng như hầu hết
mọi người, nhà phê bình nhìn về họ với đôi mắt kính nể (vì tài năng của họ), nhưng khác mọi người,
ông còn nhìn họ với đôi mắt thương cảm (vì sự nhút nhát của họ). Đây không phải là thái độ phạm
thượng, vì bao bọc câu chữ là niềm cảm thông sâu xa với những bậc kỳ tài đã nhìn thấy giới hạn
của thời đại, đã cố gắng vượt qua nhưng không thể có sự vươn mình trọn vẹn.
Nhận xét:
Với lập luận chặt chẽ, sắc sảo, cách nói giàu hình ảnh, cảm xúc, giọng điệu tranh biện sôi nổi mà tha
thiết, ngôn từ gần với cách nói hàng ngày, giản dị, hóm hỉnh mà chứa đựng một trí tuệ sáng suốt, một
học vấn uyên bác, một tâm hồn giàu rung cảm, đây là áng văn vừa có tính khoa học, vừa mang tính
nghệ thuật. Phẩm chất khoa học bộc lộ ở những luận điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất
của sự vật, được luận giải một cách chặt chẽ khúc chiết, có tính thuyết phục cao. Còn phẩm chất

nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế, hoá thân thành giọng điệu riêng của tác
giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành lối dẫn dắt, thành thứ ngôn ngữ vừa chính xác, hàm súc vừa uyển
chuyển gợi cảm. Cả hai bình diện khoa học và nghệ thuật cùng hoà hợp với nhau nhuần nhuyễn và
sống động. Không phải ngòi bút phê bình nào cũng đạt được sự nhuần nhuyễn như vậy.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 2)

Giờ trước, chúng ta đã tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm, nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới sự xuất hiện của cái Tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó. Vậy, cái tôi ấy có đặc
điểm như thế nào? Bi kịch của nó ra sao? Giờ học này, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu những nội dung
này trên cơ sở tiếp nối hệ thống kiến thức của giờ học trước:
I. Tìm hiểu chung
II. Đọc hiểu văn bản
1. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới.
2. Tinh thần thơ mới: cái tôi- Sự vận động của thơ mới xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó
2.1. Tinh thần thơ mới: cái Tôi (so sánh với cái Ta)
+ Nội dung của chữ "Tôi" là ý thức cá nhân cá thể trong đời sống tinh thần con người.
+ Nội dung của chữ "Ta" là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong
đời sống tinh thần của con người
- Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong mỗi người. Ở thời trước, cái Ta lấn át hoàn toàn, cái
Tôi không có cơ hội để nảy nở. Còn thời đại này, cái Tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ
mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái Tôi đó.
Tác giả nhìn nhận, đánh giá đối tượng không phải bằng con mắt giản đơn, tĩnh tại, ở đây, nhà phê
bình đã giúp ta chú ý đến sự xuất hiện làm xôn xao dư luận của chữ tôi cá nhân, khắc hoạ sự vận
động của một sinh thể đẹp đẽ nhưng rất mong manh trên hành trình chiếm lĩnh vị trí của nó trong đời

sống văn học.
2.2. Sự vận động của cái tôi thơ mới
+ Ban đầu: “Ngày thứ nhất”: Xuất hiện với vẻ ngoài khác lạ, dáng điệu bỡ ngỡ.
Mọi người đón nhận với thái độ khó chịu, xét nét đầy ác cảm. Ta có thể liên tưởng đến tình cảnh của
một người khách không mời, có người cho rằng đó là cảnh ngộ của một cô dâu mới. Lại có ý kiến
cho rằng đó là tình cảnh của kẻ ngụ cư.
+ Về sau: “Ngày một ngày hai”, cái tôi đã được quen dần. Mọi người có một thái độ khác: nhìn
bằng đôi mắt thương cảm và có sự đồng cảm.
Nhà phê bình đã giúp chúng ta hình dung về chữ tôi trong thơ mới như bằng lối nói hình tượng đặc
sắc: chữ tôi như một con người có diện mạo, cảnh ngộ, số phận, cũng phải chịu áp lực của dư luận
như một con người. Nhưng bi kịch của nó không chỉ là thế. Thậm chí, ngay cả khi thái độ của mọi
người đã thân thiện hơn, bi kịch của nó cũng không vì thế mà giảm bớt.
2.3. Bi kịch của cái tôi: đáng thương, tội nghiệp.
- Đáng thương vì nó nhỏ bé và cô đơn. Tội nghiệp vì nó mang thể trạng yếu đuối và có cuộc sống
bế tắc. Những câu văn sau đây có thể giúp ta hình dung về điều đó:
- Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi.
Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi.
Chữ ta với họ to rộng quá.
So sánh mang tính hình tượng, trong sự đối lập chữ tôi với chữ ta để thấy vóc hình nhỏ bé, lại bị
ràng buộc chật chội nên tù túng, bế tắc. Phải chăng, đó cũng là một thứ giường chiếu hẹp của
những cuộc đời con mà ta được gợi liên tưởng từ đoạn thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:
“...Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn...”
- Vẻ tội nghiệp của cái tôi còn được gợi ra qua so sánh: cùng viết về cái nghèo, nếu Nguyễn Công
Trứ cười cợt với cảnh nghèo, Xuân Diệu lại rên rỉ khóc than. Qua đó, có thể thấy thi nhân ta cơ hồ đã
mất hết cốt cách hiên ngang thuở trước; họ yếu đuối đến khổ sở, thảm hại. Đến đây, ta chợt nhớ đến
những lời tự bạch, tự thương của những cái tôi trong thơ mới: họ thấy mình như con nai bị chiều
đánh lưới, không biết đi đâu đứng sầu bóng tối; họ thấy mình như ở giữa tinh cầu giá lạnh; một vì
sao trơ trọi cuối trời xa; thấy mình là hoa trong rừng thẳm nở trong vô tình; mình khờ khạo lắm ngu
ngơ quá…Rõ ràng, so với những vần thơ khí cốt cách của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, cái tôi thơ mới tội nghiệp hơn hẳn. Có ý kiến cho rằng: trích thơ Nguyễn
Công Trứ ở đây không thật hợp, vì cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ là cái nghèo có phần nhếch
nhác, tiếng cười ở đây mang sắc thái chua chát. Nên trích thơ Nguyễn Khuyến, vì cảnh nghèo trong
thơ ông đẹp và sang, tiếng cười của ông hóm nhẹ, thanh thản. Nhưng thực ra, không phải bao giờ
Nguyễn Khuyến cũng có thể vui trước cảnh nghèo như vậy. Một số bài cũng cay đắng và chua chát
không kém.
- Trở lại với sự so sánh Nguyễn Công Trứ với Xuân Diệu, như thế không phải Hoài Thanh hạ thấp
thơ mới, mà là một cách bênh vực có tình của tác giả. Bởi lẽ con người ấy là sản phẩm của thời đại,
là tiếng nói của thời đại. Ta có thể nhận thấy rất rõ điều này qua cách xưng hô của tác giả ở phần
tiếp theo, nói về các hướng lớn của Thơ mới khi đào sâu vào cái Tôi (hay là những biểu hiện
của cái tôi thơ mới:
“Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng
lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên
cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình
yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn, trở về hồn ta cùng Huy
Cận...”
+ Từ “ta” ở đây không giống với từ “ta” khi nói về tinh thần thơ cũ. Cách xưng hô của tác giả
đã thay đổi: từ TA và HỌ sang CHÚNG TA, TA. Chữ “HỌ” hoàn toàn biến mất, ở đây là chữ TA
nặng trĩu ý thức cá nhân của các nhà thơ mới, trong đó có tác giả. Dường như khoảng cách giữa nhà
phê bình với các thi nhân thơ mới đã bị xoá bỏ hoàn toàn. Từ việc lấy hồn ta để hiểu hồn người, nhà
phê bình đã đồng cảm, hoá thân vào người, nói về nỗi niềm, tình cảnh của người cũng là của chính
mình. “Nếu các nhà thơ trong phong trào Thơ mới là Bá Nha thì họ đã có một Tử Kỳ chính là Hoài

Thanh” (Ngô Văn Phú). Là con đẻ của một thời đại trong thi ca, sống hết mình với lịch sử dân tộc,
ông không thể bặm miệng (lời Hoài Thanh) mà không trải hết mọi vui buồn trên trang giấy. Điều đó
làm nên một hình tượng cái tôi khá hấp dẫn trong những trang văn.
Nhận xét về đoạn văn:
- Đặc sắc của đoạn này là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng một lối văn giàu
nhịp điệu khiến cho văn phê bình mang đậm chất thơ.
+ Về ý tứ: chủ đề bao trùm là nỗ lực đào sâu vào ý thức cá nhân của Thơ mới. Chủ đề được triển
khai thành hai phần chính: một là, khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung; hai là, điểm qua
những gương mặt điển hình cùng những lãnh địa cá nhân điển hình của Thơ mới để thấy được sự
phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân.
+ Về văn phong: có dạng ngôn từ phi khái niệm (không phải là những khái niệm trừu tượng) dung dị
dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng.
+ Cách cấu tứ: tạo ra hình ảnh một độc giả cứ theo chân của những nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi
thơ riêng của mỗi vị.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Đặc biệt, nhịp điệu của đoạn văn hết sức dồi dào. Những câu văn dài, gồm nhiều vế nhịp nhàng, có
sự đắp đổi luân phiên về bằng trắc, tạo giọng điệu du dương, tha thiết như tác giả đang nói về chính
mình. Hệ thống các vế câu có cùng cấu trúc ngữ pháp, với chủ thể được lặp lại liên tiếp, kết hợp hệ
thống cụm từ chỉ cảm xúc, cảm giác, tâm trạng..., diễn tả sự khao khát, đắm say dạt dào của chủ thể
sáng tạo trong nỗ lực tự giải thoát và của nhà phê bình trong sự nhập cuộc. Hệ thống từ ngữ giàu
hình ảnh, kết hợp với một loạt tên tuổi các thi nhân thơ mới đã diễn tả hàm súc, chính xác sự phân
hoá của thơ mới gắn với những phong cách và tên tuổi tiêu biểu. Nhà nghiên cứu phê bình Lê Bá Hán
có nhận xét : “Anh có thể nắm bắt bén nhạy cái “thần” của một tác giả, khái quát được khá tập trung
phần tinh túy nhất của một hồn thơ. Có khi, chỉ với vài từ hoặc một câu ngắn gọn, Hoài Thanh đã diễn
đạt được cái cốt cách của một “nhà”.

- Đây quả là những câu văn đầy chất trí tuệ và cảm xúc. Nhạc tính của nó không chỉ ở sự du dương
trầm bổng của âm điệu mà còn ở sự sôi nổi tha thiết của tâm hồn. Những câu văn được chia thành
nhiều vế đối thanh, đối ý, đối lời, đối nhịp, tạo nên tầng tầng lớp lớp những hình ảnh “lời lời châu
ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Cảm xúc cứ căng tràn để rồi lại chùng xuống thẫn thờ ở câu cuối đoạn.
Đây là đoạn văn thể hiện rõ nhất chất thơ trong văn phê bình của Hoài Thanh. Nó đã giúp người đọc
cùng đồng cảm, thương cảm cho bi kịch của cái Tôi thơ mới.
- Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi. “Thời trước, dầu bị oan
khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỉ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào
một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hòe phủ
trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu
một điều : một điều cần hơn trăm nghìn điều khác : một lòng tin đầy đủ”. Bằng sự giản dị và cô đọng
trong bút pháp mà vẫn không làm mất đi sự mềm mại, quyến rũ của nghệ thuật văn chương với những
câu văn thật trang nhã, đầy chất thơ, tác giả cũng chỉ ra điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi một
cách nghệ thuật.
MO O N.VN

- Tuy nhiên cái tôi thơ mới không chỉ tội nghiệp, đáng thương, nhà phê bình không chỉ nhìn nó
không chỉ với đôi mắt tràn đầy thương cảm. Nhan đề “Một thời đại trong thi ca” đã phần nào hé mở
cho chúng ta câu trả lời cho giải pháp của bi kịch.
2.4. Giải pháp cho bi kịch: dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt...Trên cơ sở giá trị
truyện Kiều, tác giả đã khái quát về vấn đề dân tộc. Theo tác giả, khi gửi tình yêu nước vào tình yêu
tiếng Việt thì trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng, thấy tinh thần nói giống chỉ có biến thiên chứ
không thay đổi. Dân tộc, ngôn ngữ không bị mất đi. Tìm về tiếng Việt, họ vin vào những gì bất diệt,
cần tìm về dĩ vãng đủ để đảm bảo cho ngày mai. Lòng yêu nước có thể biểu hiện phong phú đa dạng,
trong lao động, trong chiến đấu, yêu giang san, tự hào trước nền văn hóa dân tộc. Ở đây, lòng yêu
nước biểu hiện qua tình yêu ngôn ngữ...Nhìn chung, lòng yêu nước trong văn học lãng mạn được thể
hiện gián tiếp, thầm kín, không trực tiếp, sôi nổi, mạnh mẽ như trong văn học cách mạng.
3. Những thành công về nghệ thuật của bài tiểu luận
3.1. Kết cấu chặt chẽ, lập luận khoa học.
3.2. Trình tự lập luận: nêu những biểu hiện khái quát, sau đó, đi vào những dẫn chứng cụ thể. Ví

dụ, đoạn văn nhận định về sự bế tắc của cái tôi. Đời chúng ta...khái quát, sau đó chỉ ra biểu hiện cụ
thể của từng nhà thơ, làm sáng tỏ bằng những dẫn chứng...ngay trong nhận định về từng nhà thơ
cũng khái quát...
3.3. Sự cảm nhận tinh tế bằng văn chương giàu chất nghệ thuật, giàu chất thơ...
+ Lời văn giàu cảm xúc, viết văn nghị luận bằng giọng của người trong cuộc, chia sẻ, đồng cảm. Lấy
hồn tôi để hiểu hồn người.
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Lời văn giàu hình ảnh: những khái niệm được diễn đạt bằng hình ảnh dễ hiểu. Ở người nghệ sĩ
Hoài Thanh, sự tinh tế, sâu sắc trong phong cách phê bình lại được chắp cánh bởi tư duy hình tượng,
bởi những liên tưởng sinh động. Có cảm giác trong tay ông, cây đũa thần – phê bình chạm tới đâu là
ở đấy tất cả sống dậy, có hồn, khơi gợi tưởng tượng và cảm xúc. Một khái niệm trừu tượng như thơ
ca, dưới ngòi bút Hoài Thanh cũng trở nên sống động: “thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi
mộng, mặt đất với các vì sao”.
+ Lời văn giàu nhịp điệu, cách ngắt nhịp câu tạo nên sự cân xứng, nhịp nhàng.
III. Kết luận
- “Một thời đại trong thi ca” là cuốn sách góp phần quyết định tạo nên tên tuổi Hoài Thanh. Nếu
những bài thẩm bình của Hoài Thanh với từng nhà thơ được coi là những bài thơ thì bài tổng kết
phong trào Thơ Mới mang tên Một thời đại trong thi ca thực sự là một bản trường ca, “khúc tuyệt
xướng” về Thơ Mới. “Đọc Thi nhân Việt Nam, trước hết ta gặp một nhà thơ ở giữa các nhà thơ”
(Hoàng Trinh). Hoài Thanh đã xây nên “lâu đài kiến trúc hài hòa, đầy chất thơ” (Đỗ Đức Hiểu). Thi
nhân Việt Nam là “một công trình của thế kỉ” (Nguyễn Văn Hạnh). “Rồi người đời sẽ quên dần và
quên hết các chức tước, các trọng trách mà ông giữ, để chỉ còn và còn mãi mãi tác giả Thi nhân Việt
Nam (Phong Lê). Vâng, chỉ qua phần hướng dẫn đọc hiểu phần cuối bài tiểu luận này thôi, phần nào
ta đã thấy được quan niệm đúng đắn của tác giả trong việc định nghĩa Thơ mới xung quanh vấn đề
cốt yếu là tinh thần Thơ mới, cách luận giải sắc sảo, cách diễn đạt tài hoa, hóm hỉnh, đầy sức thuyết
phục của tác giả.


MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 3)

Nhà văn Nga K.Pautôpxki có câu nói nổi tiếng : “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của
người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp” – Với bài tiểu luận này, phải chăng Hoài Thanh cũng đã dẫn
ta trở về với vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của tâm hồn, cái đẹp trong nội dung miêu tả, cái đẹp ở
phương thức biểu hiện của những tác phẩm đã làm nên Một thời đại trong thi ca.
Để khắc sâu kiến thức trọng tâm này, chúng ta hãy cùng thực hiện một số bài luyện tập:
Câu hỏi 1.
Vẻ đẹp của văn nghị luận trước hết ở hệ thống lập luận. Anh/chị hãy xác định luận điểm, luận
cứ và cách thức lập luận của văn bản, cách dẫn dắt mạch văn của tác giả?
- Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề Tinh thần Thơ mới. Nó được triển khai thành ba
luận cứ:
1 - Giới thuyết nguyên tắc để xác định tinh thần của hai thời đại thơ :
+ không căn cứ vào cục bộ và cái dở
+ mà phải căn cứ vào đại thể và vào cái hay.
2 - Xác định tinh thần Thơ mới là chữ "Tôi", tinh thần thơ xưa là chữ "Ta" :
+ giới thuyết chung về điểm giống và khác của chữ "Ta" và chữ "Tôi"
+ Xác định bản chất Ta là ý thức đoàn thể, Tôi là ý thức cá nhân.
+ Điểm qua về sự xuất hiện của chữ Tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.
3- Nhìn nhận sự vận động của Thơ mới xung quanh cái Tôi và bi kịch của nó :
+ Chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái Tôi trong thời đại mình.
+ Các hướng lớn của Thơ mới đào sâu vào cái Tôi.
+ Điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi.

+ Bi kịch thời đại cái Tôi và giải pháp cho bi kịch bằng lòng yêu Tiếng Việt.
- Cách thức lập luận: từ cụ thể đến khái quát (phần 1); từ những biểu hiện khái quát, đi vào những
dẫn chứng cụ thể (phần 2).
- Cách dẫn dắt mạch văn rất tự nhiên, linh hoạt và độc đáo. Tác giả không dùng lý để dẫn dắt ý, mà
dùng tình để dẫn dắt ý. Mạch văn dược dẫn dắt không phải bằng ngôn ngữ khái niệm với những
phương tiện liên kết của lôgic hình thức, nặng tính tư biện ta vẫn quen gặp trong các bài phê bình
văn học nghiêng về khoa học thuần tuý. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống,
nương theo mạch liên kết của cảm xúc thẩm mĩ. Có thể tìm hiểu cách chuyển từ những ý lớn sang ý
lớn, và từ những ý nhỏ sang ý nhỏ, với hệ thống các phương tiện liên kết biến hoá mà tự nhiên như
thế nào.
- Diễn đạt bằng hình ảnh, bằng thứ ngôn ngữ ít mang tính khái niệm, bằng ấn tượng với cảm giác,
cảm xúc rất tinh tế uyển chuyển.
Câu hỏi 2.
Tinh thần Thơ mới là chữ "Tôi", tinh thần thơ xưa là chữ "Ta". Vậy, nội dung của chữ Tôi và
chữ Ta là gì?
- Nội dung của chữ "Tôi" là ý thức cá nhân cá thể trong đời sống tinh thần con người.
- Nội dung của chữ "Ta" là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong
đời sống tinh thần của con người
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong mỗi người. Ở thời trước, cái Ta lấn át hoàn toàn, cái
Tôi không có cơ để nảy nở. Còn thời đại này, cái Tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ mới
nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái Tôi đó.
Câu hỏi 3.
Hãy phân tích để làm nổi bật những đặc sắc trong đoạn văn:
"Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng

lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên
cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng
Huy Cận" .
- Đặc sắc của đoạn này là những khái quát chính xác, súc tích, lại được viết bằng một lối văn giàu
nhịp điệu khiến cho văn phê bình mang đậm chất thơ.
- Có thể phân tích trên hai bình diện :
+ Về ý tứ: chủ đề bao trùm là nỗ lực đào sâu vào ý thức cá nhân của Thơ mới. Chủ đề được
triển khai thành hai phần chính: một là, khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung; hai là, điểm qua
những gương mặt điển hình cùng những lãnh địa cá nhân điển hình của Thơ mới để thấy được sự
phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân.
+ Về văn phong: chú ý đến dạng ngôn từ phi khái niệm (không phải là những khái niệm trừu
tượng) dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Chú ý đến cách cấu tứ:
tạo ra hình ảnh một độc giả cứ theo chân của những nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi
vị. Đặc biệt chú ý đến nhịp điệu hết sức dồi dào của đoạn thơ này.
Câu hỏi 4. Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới và của tác giả Thi nhân Việt nam thể hiện
tập trung nhất ở điểm nào ?
- Lòng yêu tổ quốc của con người có những biểu hiện vô cùng phong phú. Có lòng yêu nước gắn
liền với đấu tranh. Có lòng yêu nước gắn liền với lao đông sản xuất. Lại có lòng yêu nước biểu hiện
ở sự thiết tha với những giá trị văn hoá, ở nỗ lực sáng tạo ra những giá trị văn hoá.
- Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới nghiêng về dạng thứ ba. Tình yêu của họ thể hiện tập trung
nhất ở lòng yêu tiếng Việt và nên thơ ca dân tộc, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hoá,
trước hết là thơ ca. Họ muốn làm cho tiếng nói của nòi giống đẹp hơn, giàu hơn, càng ngày càng
trường tồn bất diệt. Đó cũng là một lòng yêu nước rất đáng trân trọng và ghi nhận.
Câu hỏi 5. So sánh văn phong của Hoài Thanh trong đoạn trích trên đây với văn phong của
Thế Lữ trong bài "Tựa" viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu.
- Mục đích: bài tập này giúp cho những bạn yêu văn chương có dịp tìm hiểu sâu sắc những vẻ đẹp
thật phong phú và độc đáo của mỗi dạng văn phê bình văn học khác nhau, đồng thời giúp ta rèn
luyện kĩ năng so sánh trong nghiên cứu văn học.
- Nội dung: trên cơ sở nhận ra những điểm gần gũi (về thể phê bình văn học, đối tượng chung đều là

thơ, lối viết đều nghiêng về ấn tượng, cảm xúc, đậm chất nghệ sĩ…), cần tìm ra những điểm khác
biệt, độc đáo của mỗi lối viết ( một đằng là công trình tổng kết cả một phong trào, một đằng là bài
tựa cho một tập thơ của một tác giả ; một đằng nghiêng về những khái quát, lý giải, một đằng
nghiêng về những cảm thụ, thưởng ngoạn, dựng chân dung v.v..)
Câu hỏi 6: “Người ta phân biệt thơ mới, thơ cũ không ở phần xác mà ở phần hồn. Đó là sự xuất
hiện của cái tôi cá nhân thể hiện rất phong phú trên thi đàn, nhưng chung quy lại, ấy là cái tôi
nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non và cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời” (Sgk Ngữ văn
11, chương trình Nâng cao) Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào một số bài thơ mới
đã học, hãy làm rõ nhận định trên.
1. Giải thích nhận định:
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Thơ Mới khác biệt thơ cũ ở phần xác (hình thức): phá bỏ ước lệ, khuôn mẫu gò bó cứng nhắc
trong thơ xưa để thể hiện mọi cảm xúc, biến thái tinh vi phức tạp nhất của tâm hồn.
Điều quan trọng hơn là ở phần hồn (nội dung)- tinh thần Thơ mới “ngày trước là chữ ta, bây
giờ là chữ tôi”.
+ Con người cá nhân trong thơ xưa phải ẩn mình sau cái Ta của cộng đồng, có những tài năng muốn
vượt thoát…nhưng chưa bao giờ dám phô diễn cái tôi.
+ Đến thời hiện đại, cùng với sự chuyển mình của ý thức xã hội, ý thức cá nhân bùng phát mạnh mẽ
thành nguồn cảm hứng chủ đạo.
+ Cái tôi trong thơ thể hiện rất phong phú trên thi đàn, nhưng chung quy nó là cái tôi nhìn đời bằng
cặp mắt tươi trẻ xanh non và cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc sống.
+ Nhận định này rất đúng với các nhà thơ mới. Nhưng cũng cần thấy sự phân cực không phải bao giờ
cũng rõ ràng, ở một số nhà thơ có sự kết hợp.
2. Phân tích, chứng minh:
A. Cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non

- Với cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non nên Xuân Diệu mới thấy:
+ Phát hiện ra bức tranh trần thế là một mâm cỗ thịnh soạn với vô số thực đơn: gần gũi thân quen
như nắng gió hoa lá…tràn đầy sức sống, tươi đẹp, đầy niềm vui như đồng nội xanh rì, cảnh tơ phơ
phất, thần vui gõ ửa…tình tứ quyến rũ như ong bướm, tuần tháng mật, cặp môi gần…
+ Thay đổi cách nhìn về chuẩn mực cái đẹp (nhìn qua lăng kính tình yêu)
+ Bộc lộ những ham muốn khác thường đoạt quyền tạo hóa…
+ Cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan…
- Ta cũng bắt gặp cái tôi ấy trong thơ Hàn. Vẻ đẹp trần thế thôn Vĩ qua hồi tưởng thật:
+ Đẹp tinh khôi, thanh khiết, sống động: nắng mới, vườn mướt, xanh như ngọc.
+ Hữu tình: lá trúc che ngang mặt chữ điền…
B. Cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.
- Mặc dù với Xuân Diệu, cái tôi chủ đạo là cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non, thiết tha
giao cảm với đời, khát khao hưởng thụ nhưng người đọc vẫn nhận ra cái buồn cố hữu mang đặc
trưng thơ mới.
+ Buồn vì sự hữu han của đời người…
+ Buồn vì quy luật cuộc đời có sinh có tử, có tàn phai (một loạt động từ thể hiện sự tiêu tan, mất mát)
+ Cũng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, sau cái tôi say mê với cuộc sống thôn dã là cái buồn chia lìa,
hụt hẫng, nuối tiếc…càng về cuối, nỗi buồn càng đong đầy bởi ảo ảnh nhạt nhòa ngoài tầm tay
với…Kết thúc là câu hỏi nhưng thực chất là tiếng than…Cái buồn của Hàn Mặc Tử còn thể hiện qua
dòng hồi tưởng đứt nối chập chờn vô định.
- Trong ba nhà thơ, cái tôi cô đơn nhất không ai khac là Huy Cận
+ Cảm thức trong thơ Huy Cận là cảm thức về thân phận con người trước vũ trụ lớn lao:
+ Tràng giang có hai đối cực: cái lớn lao rợn ngợp mênh mông vô tận…biểu tượng cho cuộc đời,
dòng đời; cái nhỏ bé lạc loài … biểu tượng cho kiếp người lạc lõng cô đơn bơ vơ…
+ Cuộc đời và con người mất liên lạc: thuyền về nước lại, nắng xuống trời lên,
+ Không tín hiệu: không tiếng, không cầu, không đò…
+ Huy Cận tìm ra đối cực để diễn tả nỗi buồn, sự mất phương hướng của con người trước cảnh nước
mất nhà tan…
Đánh giá: Sự ra đời của thơ mới, sự xuất hiện của cái tôi là bước chuyển mình của văn học…
MO O N.VN


- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 1)

MỞ: Việt Nam, dải đất mảnh mai gầy guộc nằm bên bờ biển Đông suốt lịch sử 4000 năm luôn
phải gồng mình lên để sớm chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa; gần hai ngàn năm phải chống ngoại
bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá; độc lập, tự do cho dân tộc, chủ quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống
còn truyền từ đời này sang đời khác. Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc)
kéo sang giày xéo bờ cõi, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở ". Hơn năm trăm
năm sau, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, trong bài Cáo
bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại
Việt ta ... hùng cứ một phương ". Vẫn với một tinh thần ấy và hơn cả như thế, Tuyên ngôn độc lập
của Bác đã trở thành đỉnh mốc đánh dấu bước phát triển lớn nhất trong lịch sử phát triển quốc gia
dân tộc.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời của bản tuyên ngôn
- Ngày 19/8/45 chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 26/8 tại Hàng Ngang – Hà Nội người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập.
- Ngày 2/9/45 tại quảng trường Ba Đình, người thay mặt chính phủ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước VNDCCH.
2.2. Đối tượng và mục đích sáng tác của bản tuyên ngôn
MO O N.VN

. Đối tượng:

+ Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc.
+ Nhân dân trên thế giới, trước hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ.
+ Đặc biệt là các lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất
nước ta.
Mục đích:
+ Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Bao hàm một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc dư luận thế
giới.
Lời văn:
- Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng
Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà
Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào: “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9/ Thủ đô hoa vàng nắng Ba
Đình/ Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín/ Bỗng vang lên tiếng hát ân tình/ Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh/ Người đứng trên đài, lặng phút giây/ Trông đàn con đó, vẫy hai tay/ Cao cao vầng trán, ngời
đôi mắt/ Độc lập bây giờ mới thấy đây”. Cả đất nước ngây ngất trong niềm hạnh phúc được sống

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
trong kỉ nguyên mới, chấm dứt bao năm sống trong nô lệ tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân
phong kiến.
- Tuyên ngôn độc lập được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường: đất nước đã giành đuợc
độc lập nhưng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại nhằm nô
dịch đất nước ta một lần nữa. Nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật: tiến vào từ
phía Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, sau lưng là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội
Anh, sau lưng là quân viễn chinh Pháp. Chúng nhân danh phe Đồng minh với chiêu bài: lấy lại mảnh
đất bảo hộ đã bị bọn Phát xít Nhật chiếm đóng trong chiến tranh. Chúng ta phải chống thực dân Pháp

- một thành viên chủ chốt của phe Đồng minh nhưng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây
là một vấn đề trọng yếu và cũng vô cùng tinh tế, đòi hỏi sự khôn khéo, sáng suốt và bản lĩnh của người lãnh đạo.
2.5. Bố cục
- Đoạn 1: Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được” cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn.
- Đoạn 2: Tiếp đó đến “Dân tộc đó phải được độc lập”- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng
định thực tế lịch sử là nhân dân ta kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước
VNDCCH.
- Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Bác dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ (1776); Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) -> Hai bản tuyên ngôn được cả thế giới thừa nhận nội dung
phù hợp với mơ ước và quyền lợi của con người. Đó là chân lí không ai có thể chối cãi. Việc trích
dẫn ấy có giá trị sâu sắc. Bác tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ để chặn đứng âm mưu trở lại
xâm lược nước ta của thực dân Pháp.
- Người trích dẫn lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ: “Tất cả mọi người…hạnh phúc”. Bác rất
linh hoạt khi kết hợp với ý kiến của mình “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là” từ khẳng định quyền
con người, Bác đã chuyển nhanh sang quyền của các dân tộc “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, daâ tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
- Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: “Người ta sinh
ra….quyền lợi”. Người khẳng định: “ đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Bác xoáy sâu vào
quyền bình đẳng mọi mặt của con người. Con người hiểu theo nghĩa không phân biệt chủng tộc,
màu da, tổ quốc. Con người nhân loại . Vậy có lí do gì Pháp xâm lược Việt Nam?
- Bác dẫn lời cha ông họ. Ông cha họ đã từng khẳng định, từng tuyên ngôn hùng hồn đanh thép. Có
lẽ nào chúng lại vô tình đi ngược lại và phản bội lời lẽ của ông cha chúng? Đây chính là phương
pháp luận của Bác, là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khôn khéo và tế nhị.
MO O N.VN

Lời văn: Phần mở đầu bản tuyên ngôn có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu
cho phong cách chính luận HCM. Tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở những lí lẽ không

thể chối cãi.
- Ngay từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những chân lý vĩnh cửu về quyền tự do của
dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử ở ngay chính
những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ đang đi ngược lại nguyên tắc đó.
Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã
được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của VN. Cách lập luận của
tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì:
@ Thu hút sự chú ý của dư luận. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền
và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế
giới của dân tộc. Chỉ mới đây thôi, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (mang tên xứ
An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã
là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách
như thế đã cất lên, vang động khắp hoàn cầu.
@ Gợi lại cho người Mĩ và người Pháp nhớ lại những hoàn cảnh tương tự như Việt Nam. Cách đó
200 năm, người Mĩ cũng bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam, cũng bị những người Âu châu sang
khai thác. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Anh Uy-liêm: “Hễ Mĩ làm ra dù một sợi len, một miếng
sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lĩnh sang đóng đầy xứ ngay lập tức”. 1775, dưới sự lãnh đạo của
người anh hùng Oa sinh tơn, lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống đế quốc Anh đã thống trị họ từ đầu thế
kỉ XVII. 4-7-1776, họ tuyên bố Độc lạp và thành lập Liên bang Bắc Mĩ Hoa kì (quen gọi là nước
Mĩ). 15 năm sau bản tuyên ngôn của Mĩ là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp không
chịu được cảnh phải cõng trên lưng, đội trên đầu quyền lực tối cao của chế độ quân chủ, trong đó luật
pháp là do ý thích của nhà vua đặt ra. Như vậy mấy trăm năm trước người Pháp lật đổ chế độ quân
chủ, người Mĩ đánh đuổi thực dân, mấy trăm năm sau, người Việt cùng một lúc đánh đổ cả chế độ
phong kiến và chế độ thực dân, cùng chung khát vọng độc lập tự do như người Mĩ người Pháp... Vừa
nhắc nhớ, vừa có ý đặt ngang hàng cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của

Pháp và Mỹ. Quả thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của
lịch sử xã hội loài người thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ nguyên mới. Đó là
kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn
khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách
mạng tháng Tám.
MO O N.VN

@ Người đã thể hiện sự tôn trọng những danh ngôn bất hủ đã được cả thế giới thừa nhận, những
chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. Ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân dân Mỹ, dân tộc
Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp.
@ Từ quyền bình đẳng và tự do của con người mà tác giả suy rộng ra về quyền bình đẳng tự do của
các dân tộc trên thế giới. Đây là một cách vân dụng khéo léo và đầy sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo
tính chặt chẽ trong lập luận. Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc '' là một đóng góp lớn của TNĐL:
''cống hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự
nâng cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người '' (Giáo sư
Singô Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng
nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu
cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác.
Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. Thế là từ phạm trù nhân quyền - nền móng tư tưởng của cách mạng
tư sản - Bác đã chuyển sang phạm trù chống thực dân - nền móng của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào rồi sẽ trở thành một trong ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chỉ trong một câu văn
ngắn gọn, ta vẫn nhận ra một Hồ Chí Minh như nguời giương cao bó đuốc sáng ngời của tư tưởng
giải phóng dân tộc.
@ Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn vừa nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân
đạo và văn minh của nhân loại, vừa tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo.

- hotline: 04.32.99.98.98



×