Tải bản đầy đủ (.ppt) (79 trang)

NGHỊ QUYẾT về định hướng chiến lược sản phẩm công nghiệp giai đoạn 2011- 2015 và đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 79 trang )

NGHỊ QUYẾT
về định hướng chiến lược

sản phẩm công nghiệp
giai đoạn 2011- 2015
và đến năm 2020
( Số: 05 - NQ/TU, ngày 07/11/2011 )


Đắk Lắk là tỉnh nằm ở trung tâm
vùng Tây Nguyên, có nhiều tiềm năng
để phát triển công nghiệp, nhất là
công nghiệp chế biến nông – lâm
sản, thuỷ điện và các sản phẩm cơ
khí phục vụ nông nghiệp. Những năm
qua, ngành công nghiệp của tỉnh đã
có những bước phát triển nhất định.


Sản phẩm công nghiệp của tỉnh tuy
đa dạng, nhưng nhỏ lẻ, sản phẩm
mới không nhiều. Một số sản phẩm
công nghiệp chế biến từ cà phê, cao
su... của tỉnh tuy bước đầu đã có
thương hiệu, nhưng chủ yếu là chế
biến thô, giá trị gia tăng chưa cao,
khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước còn hạn chế.


Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần


thứ XV đã xác định trong giai đoạn tới
phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế của tỉnh theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nâng cao tỷ trọng
công nghiệp trong GDP và tập trung
xây dựng cho được một số sản phẩm
công nghiệp có giá trị cao, →


có sức cạnh tranh trên thị trường.
Để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện thành công nhiệm vụ
theo tinh thần Nghị quyết XV
Đảng bộ tỉnh đề ra, Tỉnh uỷ ban
hành Nghị quyết về định hướng
chiến lược sản phẩm công nghiệp
2011- 2015 và đến năm 2020 như
sau:


Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP THỜI GIAN QUA


I- KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH
PHÁT
TRIỂN
Giai đoạn
2006 CÔNG

– 2010,NGHIỆP
công nghiệp
của tỉnh có sự phát triển khá mạnh
với tốc độ tăng trưởng GDP công
nghiệp bình quân 21,47%/năm. Giá trị
sản xuất công nghiệp năm 2010 (giá
so sánh 1994) đạt 3.326 tỷ đồng,
gấp hơn 3 lần so với năm 2005.


Trong đó, công nghiệp chế biến
chiếm 76,3%; công nghiệp sản xuất
và phân phối điện, nước ... chiếm
18,6%; công nghiệp khai thác chiếm
5,1%. Tuy có tốc độ tăng trưởng cao,
song tỷ trọng công nghiệp trong nền
kinh tế của tỉnh còn thấp.


Đến năm 2010, GDP công nghiệp
(giá so sánh 1994) chỉ đạt gần
1.700 tỷ đồng, chiếm khoảng
13,3% trong tổng GDP toàn tỉnh,
tăng 4,4% so với năm 2005.


II- TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
MỘT SỐ NHÓM SẢN PHẨM
CÔNG NGHIỆP CHỦ YẾU
1- Sản phẩm công nghiệp khai

khoáng và vật liệu xây dựng cơ
bản đáp ứng được nhu cầu vật
liệu xây dựng thông thường trên
địa bàn, chất lượng sản phẩm
từng bước được cải thiện.


Tuy nhiên, giá trị nhóm sản phẩm
này chiếm tỷ trọng thấp nhất trong
toàn ngành công nghiệp (5,5%),
hầu như chưa có sản phẩm mới
có chất lượng, giá trị cao và quá
trình sản xuất cũng tác động
nhiều đến môi trường;→


sản phẩm chủ yếu là cát, đá xây
dựng, gạch ngói, gạch lát các loại,
bột trét tường, fenspát và đá granít...
Năm 2010 sản lượng cát đạt 913
ngàn m3, gấp 1,5 lần so với năm
2005; đá xây dựng đạt gần 1,7 triệu
m3, gấp 2,7 lần; gạch nung đạt 500
triệu viên, gấp 2,8 lần so với năm
2005, đá granít đạt 25 ngàn m2.


2- Sản phẩm chế biến, chế tạo
khá đa dạng về chủng loại, trong
đó có một số sản phẩm xuất khẩu

chủ lực của tỉnh. Đây là nhóm có
giá trị chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong toàn ngành công nghiệp
(63,1%).


-Các sản phẩm chế biến nông sản:

Bao gồm các sản phẩm chính như
cà phê nhân, đường mía, tinh bột
sắn, hạt điều nhân, cao su latex,
gạo, ngô xay sát, thức ăn gia súc...
Trong giai đoạn vừa qua, công
nghiệp chế biến nông sản tiếp tục
được đầu tư khá mạnh,→


một số sản phẩm đã có cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng như cà phê
nhân, tinh bột sắn … bước đầu đã có
chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài
nước. Năm 2010, sơ chế cà phê nhân
hơn 330 ngàn tấn, gần 15% được chế
biến thành cà phê bột, cà phê hòa tan
chỉ chiếm tỉ lệ tổng sản lượng; →


tinh bột sắn 63,5 ngàn tấn, gấp
3,1 lần so với năm 2005; mía
đường gần 9,7 ngàn tấn, tương

đương với năm 2005; hạt điều
nhân 1.000 tấn, giảm 1/3 lần so
với năm 2005...


Tuy có sự phát triển, song đa số
sản phẩm ở nhóm này chất lượng
chưa cao, mẫu mã hàng hóa
kém, khả năng cạnh tranh thấp,
thiếu vùng nguyên liệu ổn định và
dễ bị ảnh hưởng do biến động
của giá cả trên thị trường.


-Các sản phẩm thực phẩm và đồ uống :
Bao gồm các sản phẩm chính như cà
phê bột, cà phê hoà tan, bia, nước giải
khát... Nhóm sản phẩm này có mức tăng
mạnh. Năm 2010, sản phẩm cà phê bột
đạt trên 17,2 ngàn tấn, gấp 2,8 lần so
với năm 2005; cà phê hoà tan đạt 1,5
ngàn tấn, gấp 2,5 lần so với năm 2005;
sản phẩm mới bia chai Sài Gòn-Đắk Lắk
đạt 63 triệu lít...


Đây là những sản phẩm có chất
lượng, thương hiệu và có giá trị gia
tăng cao nhất trong các sản công
nghiệp của tỉnh. Tuy vậy, hạn chế của

nhóm sản phẩm này là sản phẩm mới
còn ít và khả năng mở rộng thị
trường xuất khẩu cũng đang gặp
nhiều khó khăn.


-Các sản phẩm chế biến lâm sản:
Bao gồm các sản phẩm chính như gỗ
xẻ, gỗ ván tinh chế, đồ gỗ các loại…
Nhóm sản phẩm này có mức tăng
không đáng kể. Năm 2010, gỗ xẻ sản
xuất 32 ngàn m3, tăng 2 ngàn m3 so
với năm 2005; ngược lại gỗ ván tinh
chế giảm mạnh, năm 2010 sản xuất
khoảng 9,8 ngàn m3, giảm 4,7 ngàn
m3 so với năm 2005.


Quá trình phát triển các sản phẩm
này còn khá nhiều bất cập, khai
thác, chế biến gỗ rừng tự nhiên
chưa được quản lý chặt chẽ; gỗ
tinh chế có thị trường nhưng
không phát triển mạnh do công
nghệ chậm đổi mới và thiếu
nguyên liệu.


-Các sản phẩm cơ khí chế tạo, luyện


cán thép: Bao gồm các sản phẩm
chính như bơm tưới, bơm nước, máy
xay xát, chế biến cà phê - nông sản
các loại, sản phẩm đúc, luyện cán
thép, cửa sắt - nhôm, cán tôn... có sự
phát triển khá nhanh. Năm 2010, thép
cán đạt gần 51 ngàn tấn, gấp 24 lần
so với năm 2005; →


bơm tưới đạt 31,7 ngàn chiếc,
gấp 9 lần; máy chế biến nông sản
đạt 5 ngàn chiếc, gấp 4,5 lần so
với năm 2005. Bơm tưới và máy
chế biến nông sản của tỉnh đã
chiếm lĩnh khá tốt thị trường các
tỉnh Tây Nguyên và miền Trung.


-Các sản phẩm hoá chất, phân bón :
Chủ yếu là sản phẩm phân vi sinh các
loại, đồ nhựa, bao bì… có mức tăng
trưởng chậm, chủ yếu phục vụ sản
xuất nông nghiệp trong tỉnh. Năm
2010, phân vi sinh sản xuất được 18,5
ngàn tấn, tăng khoảng 2 ngàn tấn; sản
phẩm nhựa có khoảng 4 ngàn tấn,
giảm 0,4 ngàn tấn so với năm 2005.



-Các sản phẩm hàng tiêu dùng:
Chủ yếu là quần áo, da, giầy
dép… có mức tăng trưởng khá,
đáp ứng nhu cầu trên địa bàn và
một phần xuất khẩu. Năm 2010,
sản phẩm quần áo sản suất được
gần 9 triệu cái, tăng 2,9 lần so
năm 2005; →


×