BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
Phan Xuân Dũng
TẬP BÀI GIẢNG
LỊCH SỬ CHIẾN TRANH
VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
(Lưu hành nội bộ)
HÀ NỘI - NĂM 2017
PHAN XUÂN DŨNG
TẬP BÀI GIẢNG
LỊCH SỬ CHIẾN TRANH
VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
(Tài liệu dùng cho đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh)
HÀ NỘI - NĂM 2017
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1. Chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong lịch sử
chống ngoại xâm từ thế kỷ III TCN đến thế kỷ XVIII
1.1.
Khởi nghĩa và chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta từ thế
kỷ III TCN đến thế kỷ XVIII
1.1.1.
Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc
ta từ thế kỷ III TCN đến thế kỷ XVIII
1.1.2.
Một số đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống
ngoại xâm trong lịch sử
1.2.
Sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam từ thế
kỷ thứ III trước công nguyên đến thế kỷ thứ XVIII
1.2.1.
Một số đặc điểm của nghệ thuật quân sự
1.2.2.
Sự hình thành và phát triển chiến thuật
Chương 2. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 - 1954)
2.1.
Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng Tháng Tám
2.1.1.
Quan điểm về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin
2.1.2.
Sự chuẩn bị về đường lối, quan điểm của Đảng cho tổng khởi
nghĩa tháng Tám
Diễn biến tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Mấy vấn đề nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng Tám
Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến
Tính chất và đặc điểm của cuộc kháng chiến
Giai đoạn 1: Kết hợp kháng chiến ở miền Nam với xây dựng và
bảo vệ chế độ trên cả nước, tiến lên phát động toàn quốc kháng
chiến, đánh thắng chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực
dân Pháp (9/1945 - 12/1947)
Giai đoạn 2: Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, phát triển chiến
tranh du kích, từng bước tiến lên vận động chiến, đánh bại một
bước âm mưu kéo dài mở rộng chiến tranh và chính sách “dùng
người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của
thực dân Pháp (1948 - Thu Đông 1950)
Giai đoạn 3: Giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược, phát
triển tiến công và phản công đánh thắng chiến tranh cao nhất của thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Bắc (1951 - 1954)
Mấy vấn đề nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Các đặc điểm nổi bật của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong
kháng chiến chống Pháp
2.1.3.
2.1.4.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.3.
2.3.1.
1
1
1
10
12
12
15
19
19
19
20
21
24
31
32
32
37
40
45
46
2.3.2.
Nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân
Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp
Chương 3. Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)
3.1.
Nguyên nhân, đặc điểm, tính chất chiến tranh
3.1.1.
Nguyên nhân
3.1.2.
Đặc điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
3.1.3.
Tính chất cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
3.2.
Những bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
3.2.1.
Giai đoạn thứ nhất (7/1954 - cuối 1960)
3.2.2.
Giai đoạn thứ hai (đầu năm 1961 đến giữa năm 1965)
3.2.3.
Giai đoạn ba (từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968)
3.2.4.
Giai đoạn thứ bốn (1969 - 1973)
3.2.5.
Giai đoạn thứ năm (1973 - 4/1975)
3.3.
Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước
3.3.1.
Chỉ đạo chiến lược
3.3.2.
Nghệ thuật chiến dịch
3.3.3.
Sự phát triển về chiến thuật
Chương 4. Một số vấn đề nghệ thuật quân sự trong điều kiện chiến
tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao
4.1.
4.1.1.
4.1.2.
4.1.3.
4.2.
4.2.1.
4.2.2.
4.3.
4.3.1.
4.3.2.
Những vấn đề chung về vũ khí công nghệ cao
Khái niệm
Đặc điểm của vũ khí công nghệ cao
Thủ đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao
của địch trong chiến tranh
Đặc điểm của chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công nghệ
cao và một số vấn đề về nghệ thuật quân sự
Đặc điểm của chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công nghệ cao
Một số vấn đề về nghệ thuật quân sự
Một số biện pháp phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ
khí công nghệ cao
Biện pháp thụ động
Biện pháp chủ động
48
53
53
53
54
54
54
54
58
60
65
68
73
73
75
77
80
80
80
80
82
83
83
84
86
86
89
LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã nhiều lần đứng lên chiến đấu
chống ngoại xâm và đã chiến thắng oanh liệt. Đó là thử thách rất lớn với dân tộc, đồng
thời là nét nổi bật của lịch sử quân sự Việt Nam, là niềm tự hào của quân và dân ta.
Tập bài giảng Lịch sử chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam dùng cho
đào tạo giáo viên Giáo dục quốc phòng và an ninh. Nội dung của tập bài giảng nghiên
cứu một số nội dung cơ bản về các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
trong lịch sử dân tộc; nghệ thuật quân sự đánh giặc giữ nước của dân tộc ta từ thế kỷ
thứ III trước công nguyên đến nay, góp phần nâng cao kiến thức lịch sử quân sự, xây
dựng và nâng cao niềm tự hào về truyền anh hùng của dân tộc, vận dụng sáng tạo và
linh hoạt phương thức và nghệ thuật đánh giặc của cha ông ta vào trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tập bài giảng gồm 04 chương: Chương 1. Chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt
Nam trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ thứ III TCN đến thế kỷ thứ XVIII; Chương
2. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954); Chương 3.
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975); Chương 4. Một số vấn đề
nghệ thuật quân sự trong điều kiện chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Tập bài giảng được biên soạn trên cơ sở sở những tài liệu chính thống về lịch sử
quân sự được giảng dạy trong các nhà trường quân đội.
Tác giả đã có nhiều cố gắng, song trong quá trình biên soạn vẫn không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà
khoa học và các đồng nghiệp để Tập bài giảng được hoàn thiện hơn.
Chương 1
CHIẾN TRANH VÀ NGHỆ QUÂN SỰ VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM TỪ THẾ KỶ III TRƯỚC CÔNG NGUYÊN
ĐẾN THẾ KỶ XVIII
1.1. Khởi nghĩa và chiến tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ thế kỷ III
trước công nguyên đến thế kỷ XVIII
1.1.1. Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh từ thế kỷ III trước công nguyên
đến thế kỷ XVIII
1.1.1.1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên - kháng chiến chống quân
Tần và kháng chiến chống quân Triệu
Nước Việt Nam thời Hùng Vương gọi là Văn Lang. Nước Văn Lang có cương
vực khá rộng lớn, tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ của nước ta ngày nay,
một phần phía nam Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Đó là địa bàn cư trú
của hai bộ tộc lớn là người Âu Lạc và người Lạc Việt. Văn Lang là nhà nước đầu tiên
của dân tộc ta, đã đạt được một số thành tựu xây dựng nền văn minh sông Hồng, nổi
bật là các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Nhưng, vừa dựng nước, nhân
dân ta đã phải đánh giặc giữ nước.
Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến
chống quân Tần (cuối TK III tr.CN). Lúc đó, ở Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng thống
nhất đất nước, thiết lập đế chế nhà Tần, một nhà nước quân chủ chuyên chế bạo
ngược. Về đối nội, bên cạnh một số chính sách mở mang phát triển nông nghiệp, công
thương nghiệp, nhà Tần đã giết hại hàng chục vạn hàng binh, đốt sách, chôn sống học
trò, bắt nhân dân xây dựng thành trì, cung điện, lăng tẩm … Về đối ngoại, nhà Tần mở
rộng các cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Vua Tần đã huy động 50 vạn quân
thôn tính các dân tộc Việt ở phía nam sông Trường Giang, trong số đó có hàng vạn
quân xâm lược đã tiến vào lãnh thổ Văn Lang.
Trước sức mạnh của quân Tần, người Việt đã trốn vào rừng, ngày ẩn, đêm hiện,
tiến hành cuộc chiến tranh du kích rộng lớn. Sử chép rằng “Người Việt đều vào rừng ở
với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt”, “họ cùng nhau cử người tuấn kiệt lên
làm tướng để đêm đêm ra đánh quân Tần”
Cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm (218 - 208 tr.CN). Nhân dân Văn Lang do
vua Hùng và Thục Phán lãnh đạo đã anh dũng đứng lên chống xâm lược. Khi quân
Tần mệt mỏi, suy yếu, người Việt tập trung lực lượng, tổ chức nhiều trận đánh tiêu diệt
nhiều địch, đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tần.
Cuộc kháng chiến thắng lợi đã thể hiện ý chí quật cường, tinh thần đoàn kết, trí
thông minh và khả năng tài giỏi đánh giặc của tổ tiên ta ngay từ buổi đầu lịch sử dựng nước.
Sau khi đánh tan quân Tần, Thục Phán lên thay Hùng Vương, tự xưng là An
Dương Vương, đổi tên nước là Âu Lạc. Do nhu cấu bức thiết của cuộc chiến đấu chống
ngoại xâm, An Dương Vương đã lo xây dựng tiềm lực đất nước, đặc biệt chú ý xây
dựng thành Cổ Loa và chế nỏ Liên Châu mà dân gian thường gọi là “Nỏ thần”. Thời kỳ
này, ở Nam Trung Quốc xuất hiện nước Nam Việt của Triệu Đà. Lợi dụng lúc nhà Tần
sụp đổ, nhà Hán mới lên, Triệu Đà xưng đế, lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên
Ngung (Quảng Châu) và tiến hành chiến tranh mở rộng lãnh thổ xuống phía nam.
1
Theo sử sách và truyền thuyết dân gian thì nhiều lần Triệu Đà đem quân xuống
xâm lược Âu Lạc, nhưng do Âu Lạc có lực lượng quân sự mạnh, có vũ khí tốt và thành
trì kiên cố, nên nhiều lần quân Triệu bị đánh bại. Biết không thể chinh phục được Âu
Lạc bằng vũ lực, Triệu Đà thay đổi thủ đoạn, xin giảng hoà với An Dương Vương, và
xin cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thuỷ sang ở rể. Do chủ
quan mất cảnh giác, An Dương Vương đã mắc mưu Triệu Đà, để đất nước rơi vào tay
giặc. Cuộc chiến tranh xâm lược của Triệu Đà và cuộc kháng chiến của nhân dân Âu
Lạc diễn ra từ năm 184 - 179 tr.CN. Cuộc kháng chiến đã để lại bài học “mất cảnh
giác”, đến mất nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Từ đây, nước ta trải qua hơn mười thế kỷ chìm đắm dưới ách đô hộ của phong
kiến phương Bắc.
1.1.1.2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành độc lập
dân tộc trong giai đoạn Bắc thuộc
Dưới ách thống trị của chính quyền đô hộ, trải qua 5 triều đại của Trung Quốc
là nhà Triệu nhà Hán, nhà Lương, nhà Tuỳ và nhà Đường, bọn phong kiến phương Bắc
luôn tìm cách vơ vét của cải, áp bức, bóc lột, đồng hoá dân ta, biến nước ta thành
quận, huyện của chúng.
Nhân dân ta quyết không chịu khất phục, đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên
cường, bền bỉ đấu tranh, chống áp bức, giành độc lập, bảo vệ đất nước, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc. Tiêu biểu là một số cuộc khởi nghĩa và chiến tranh sau đây:
a, Khởi nghĩa và kháng chiến chống Đông Hán, dưới sự lãnh đạo của Hai Bà
Trưng trong các năm 40 - 44
Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, nhân dân Âu lạc đã nhất tề vùng đứng lên
khởi nghĩa chống lại ách thống trị tàn bạo của nhà Đông Hán, giành quyền độc lập và
đóng đô ở Mê Linh, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Hà Nội). Từ năm 42, quân xâm lược
Đông Hán do Mã Viện chỉ huy tiến vào nước ta. Cuộc kháng chiến do Hai Bà Trưng
lãnh đạo bị thất bại.
b, Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248)
Sau khi cuộc chiến tranh giữ nước do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị thất bại (năm 44),
nhân dân ta vẫn liên tục nổi dậy đấu tranh chống sự cai trị của nhà Hán, nổi bật là cuộc
khởi nghĩa do Bà Triệu - Triệu Thị Trinh lãnh đạo. Từ núi Nưa (Thanh Hóa), Bà Triệu
lãnh đạo nhân dân đứng lên chống quân Ngô, khiến cho “toàn thể Giao Châu chấn động”.
Ý chí và quyết tâm của Triệu Thị Trinh “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ,
chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi để nhân dân ta khỏi lầm than, đắm
đuối”. Giặc Ngô lo sợ, cử danh tướng Lục Dận làm thứ sử, đàn áp khởi nghĩa. Do lực
lượng chênh lệch, quân khởi nghĩa bị thất bại, Triệu Thị Trinh anh dũng hy sinh.
c, Cuộc khởi nghĩa Lý Bí (542) và cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Lương
do Triệu Quang Phục lãnh đạo (545 - 550)
Dưới ách đô hộ của nhà Lương, nhân dân khắp nơi nổi lên khởi nghĩa, tiêu biểu là
phong trào của Lý Bí. Lý Bí được nhiều anh hùng hào kiệt hưởng ứng chiếm được phủ
thành Long Biên, đập tan chính quyền đô hộ nhà Lương, thành lập nhà nước Vạn Xuân.
Năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên tiến đánh nước ta. Lúc
đầu quân của Lý Nam Đế chống cự không nổi phải rút lui. Tướng Triệu Quang Phục
tiếp tục lập căn cứ ở Dạ Trạch, xưng là Triệu Việt Vương, tiến hành cuộc kháng chiến
2
lâu dài. Năm 550, Triệu Việt Vương phản công giành thắng lợi, đất nước được độc lập
trong một thời gian.
d, Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tuỳ (603)
Năm 603, nhà Tùy cử Lưu Phương chỉ huy quân xâm lược Vạn Xuân. Lý Phật
Tử cùng các tướng là Lý Đại Quyền, Lý Phố Đỉnh… lãnh đạo nhân dân chống giặc.
Mặc dù quân Tùy bị nhân dân ta đánh tổn thất lớn, nhưng lực lượng của chúng vẫn
mạnh, nhà Tuỳ đã đánh tan lực lượng kháng chiến, tiếp tục đặt quyền cai trị ở nước ta.
e, Các cuộc khởi nghĩa chống chính quyền đô hộ nhà Đường và sự nghiệp
giành quyền tự chủ của họ Khúc (từ giữa TKVII đến đầu TKX)
Dưới ách đô hộ của nhà Tùy rồi nhà Đường, ngọn lửa đấu tranh chống xâm
lược của nhân dân ta khi âm ỉ, lúc bùng cháy lên và tỏa lan khắp nơi, tiêu biểu là:
- Khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, năm 687
- Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế), năm 722
- Khởi nghĩa Phùng Hưng, từ năm 766 - 779
- Khởi nghĩa Dương Thanh, từ 819 - 820
Đầu thế kỷ X, nhân lúc triều chính nhà Đường ở Trường An suy yếu và chính
quyền đô hộ nhà nhà Đường trên đất nước ta đang tan rã, hào trưởng đất Hồng Châu
(Ninh Giang - Hải Dương) là Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ, chiếm phủ Thành
Tống Bình, tự xưng là Tiết độ xứ. Tuy còn mang danh hiệu là một chính quyền của
nhà Đường, nhưng về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ,
kết thúc thống trị của bọn phong kiến phương Bắc ở nước ta.
g, Hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Nam Hán (930 - 931) và 938
Năm 930, vua Nam Hán cử Lương Khắc Trinh đưa quân xâm lược nước ta.
Khúc Thừa Mỹ (cháu Khúc thừa Dụ) đem quân chống giặc, nhưng thế giặc quá mạnh,
Khúc Thừa Mỹ bị bắt. Sau đó, một danh tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ tiếp
tục lãnh đạo cuộc kháng chiến. Năm 931, khi có thời cơ, Dương Đình Nghệ tổ chức
phản công, đánh tan quân xâm lược Nam Hán.
Đến năm 938, vua Nam Hán lại cử thái tử Hoàng Thao đem binh thuyền tiến
công xâm lược. Lực lượng kháng chiến do Ngô Quyền chỉ huy đã tổ chức trận địa bãi
cọc trên sông Bạch Đằng và đánh tan quân Nam Hán. Chiến thắng Bạch Đằng (938),
đất nước ta hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến Trung
Hoa. Lịch sử dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự chủ.
Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, lịch sử dân tộc ta trải qua
bao thăng trầm. Nhưng trước âm mưu thâm độc của kẻ thù, dân tộc ta vẫn đứng vững,
không bị đồng hoá. Sự cố kết dân tộc ngày bền chặt hơn, ý thức độc lập tự chủ và tinh
thần đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta ngày càng kiên quyết hơn, không bao giờ
dứt, khi âm thầm, khi công khai dữ dội nhằm lật đổ chính quyền đô hộ. Ý thức độc lập tự
chủ và tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm là điều kiện chính trị - tinh thần chủ yếu
khiến cho các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cứu nước ngày càng thu hút sự tham gia của
đông đảo mọi tầng lớp nhân dân. Trong các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh đó, nghệ thuật
quân sự Việt Nam bắt đầu hình thành và phát triển, đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự
Việt Nam phát triển phong phú trong giai đoạn cổ - trung đại.
3
1.1.1.3. Các cuộc chiến tranh chống xâm lược từ cuối thế kỷ thứ X đến thế kỷ XVIII
a, Hai cuộc chiến tranh chống quân Tống cuối thế kỷ thứ X và thế kỷ thứ XI
- Chiến tranh chống quân Tống lần thứ nhất (981)
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nam Hán thứ hai, đất nước ta trải
qua 36 năm hoà bình dưới triều Ngô. Năm 965, xẩy ra loạn 12 sứ quân. Năm 968,
Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước. Triều đình chia nước thành 10 đạo. Năm 974, vua
Đinh ra quy chế thập đạo quân, cả nước có 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ,
mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Thời bình, số quân thường trực
không nhiều, thời chiến nhà nước dựa vào quy chế để động viên lực lượng, tổ chức
quân đội đánh giặc cứu nước.
Sau khi lập được quyền cai trị trên toàn Trung Quốc và trở thành nhà nước
phong kiến cường thịnh, năm 981, nhà Tống phát binh xâm lược nước ta.
Tháng 4/981, quân thủy, bộ nhà Tống theo ba đường đánh sang. Cánh quân bộ
tiến theo hướng Cao Bằng và Lạng Sơn, cánh quân thủy tiến vào sông Bạch Đằng. Các
đạo quân đều hướng vào thành Đại La, rồi từ Đại La đánh chiếm Hoa Lư. Quân và dân
Đại Cồ Việt, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đã chặn đánh quân địch ở Hoa Bộ (Lạng
Giang - Bắc Giang). Đạo thủy binh địch bị ta chặn đánh ở cửa sông Bạch Đằng không
vào được nội địa để hội quân theo kế hoạch. Sau đó, ta đã tổ chức trận mai phục lớn
tiêu diệt gọn quân của Hầu Nhân Bảo tại Đồ Lỗ (Phủ Lỗ thuộc huyện Sóc Sơn) cách
Đại La 30 ki-lô-mét về hướng bắc- đông bắc. Được tin đạo quân Hầu Nhân Bảo bị tiêu
diệt, đạo quân thủy phải rút lui,, đạo quân của Tôn Toàn Hưng hoảng sự rút chạy về
nước. Chớp thời cơ, quân ta truy kích tiêu diệt hơn một nửa đạo quân này tại Tây Kết,
kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh.
Trong cuộc chiến tranh chống xâm lược này, triều Đinh và Tiền Lê đã nhanh
chóng xác định được phương lược của cuộc kháng chiến, biết lợi dụng địa hình, địa thế
mà chọn các khu vực tác chiến có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Đồng thời, biết vận dụng
linh hoạt các hình thức tác chiến phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu trên từng khu vực
nhất định, thực hiện phản công đánh bại quân địch trên tuyến đầu của Tổ quốc.
- Cuộc chiến tranh chống quân Tống lần thứ hai (1075 - 1077)
Sau thắng lợi của kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất, triều đình Lê trị
vì đất nước được gần 30 năm. Năm 1009, vương triều chuyển từ tay họ Lê sang tay
họ Lý. Để xây dựng lực lượng vũ trang phòng thủ đất nước, triều Lý ban hành và thực
hiện chính sách “Ngụ binh ư nông”. Chính sách này gồm hai nội dung cơ bản, một là
chế độ binh dịch đối với tất cả các đinh tráng, hai là chế độ quân lính được phiên về
sản xuất, trong đó một phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập, các phiên khác về nhà
sản xuất tự túc lương thực.
Vào những năm sáu mươi, đầu những năm bảy mươi ở thế kỷ XI, triều Tống,
đứng đầu là Tống Thần Tông lại tập trung lực lượng để xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, triều Lý, mà trụ cột là Thái úy Lý Thường
Kiệt đã đề ra kế sách đánh giặc giữ nước với mưu lược táo bạo “Tiên phát chế nhân”
(ngồi yên đợi kẻ giặc đến, sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó), chủ động
mở cuộc tiến công trước sang đất giặc để triệt phá các căn cứ xuất phát xâm lược và
thế mạnh của giặc. Thực hiện kế hoạch, từ hạ tuần tháng 10/1075 đến tháng 3/1076,
Lý Thường Kiệt đã chỉ huy quân thủy, bộ bất ngờ tiến công vào căn cứ của địch ở sát
4
biên giới phía Bắc nước ta, trong đó có ba thành lớn của địch là Ung Châu, Khâm
Châu và Liêm Châu.
Tháng 8/1076, 30 vạn quân Tống, trong đó có 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn
quân phụ, chia làm 3 hướng tiến công xâm lược nước ta. Đạo chủ lực do Quách Quỳ
chỉ huy bị ta đánh chặn đứng trước trước phòng tuyến nam sông Như Nguyệt, buộc
phải chuyển vào phòng ngự để chờ đạo thủy binh và đối phó với lực lượng thổ binh
của ta. Đạo thủy binh bị chặn đánh tại Đông Kênh. Kế hoạch phối hợp tác chiến, chi
viện cho bộ binh bị thất bại. Đến tháng 2/1077, quân ta chuyển sang tiến công, tổ chức
hai trận đánh lớn vào các cụm quân của địch ở bờ bắc sông Như Nguyệt, gây cho
chúng nhiều thiệt hại lớn, hơn một nửa quân địch bị tiêu diệt. Trong tình thế tiến công
không nổi, phòng ngự cũng chẳng xong, nếu tiếp tục ở lại sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, nên
đầu tháng 3/1077, khi ta cử biện sĩ sang gặp Quách Quỳ để “bàn hòa”, Quách Quỳ
buộc phải chấp nhận giải pháp đó, thực chất là ta đã buộc chúng phải chịu thất bại, rút
quân về nước.
Trong cuộc chiến này, với quyết tâm giành quyền chủ động cao nhất, triều Lý
đã mở cuộc tiến công chiến lược, triệt phá các căn cứ xuất phát tiến công của địch
ngay trên đất chúng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng chuẩn bị xâm lược của
địch, phá tan uy thế địch khi chúng chưa kịp tiến hành chiến tranh xâm lược nước
ta.Ta đã tiến hành xây dựng phòng tuyến kiên cố, khéo kết hợp các lực lượng và các
phương thức tác chiến, chặn đứng được bước tiến của địch và kịp thời chớp thời cơ
chuyển sang tiến công nhanh chóng giành toàn thắng.
b, Ba cuộc chiến tranh chống quân Nguyên - Mông thế kỷ XIII
- Chiến tranh chống quân Nguyên - Mông xâm lược lần thứ nhất (1258)
Năm 1226, triều Lý bị thay thế bởi triều Trần. Triều Trần đặc biệt chăm lo công
cuộc bảo vệ đất nước, chế độ “ngụ binh ư nông” tiếp tục được thực hiện. Lực lượng vũ
trang thời Trần có quân triều đình, quân địa phương, quân của các vương hầu và dân
binh. Quân đội được xây dựng thep phương châm “binh lính cốt tinh không cốt nhiều”.
Năm 1246, quân đội đã có tổ chức và quy củ chặt chẽ bao gồm cả bộ binh và thủy binh.
Đầu năm 1246, khoảng 30 vạn quân kỵ binh Mông Cổ từ Vân Nam vượt biên
giới theo lưu vực sông Hông, sông Lô tiến vào xâm lược nước ta. Quân ta chặn đánh
địch ở Bạch Hạc (Phú Thọ), gây cho chúng một số tổn thất, rồi chủ động rút về Bình
Lệ Nguyên (Hương canh - Vĩnh Phúc). Địch đến Bình Lệ Nguyên, trận chiến giữa ta
và địch ở đây xảy ra hết sức quyết liệt, nhưng sau đó ta nhận thấy chưa thể đánh bại
quân địch nên đã chủ động rút khỏi Bình Lệ Nguyên. Hôm sau, ta chặn đánh địch ở
Phủ Lỗ (huyện Sóc Sơn - Hà Nội), rồi từ Thăng Long tiếp tục rút về vùng Thiên Mạc (
Khoái Châu - Hưng Yên) cách Thăng Long 30 ki-lô-mét. Chỉ sau 9 ngày địch vào
Thăng Long, nhà Trần đã tổ chức phản công quân địch được. Ngày 29/1/1258, quân ta
đánh địch ở Đông Bộ Đầu, quân Mông Cổ bị thất bại nặng nề phải tháo chạy về nước.
Cuộc kháng chiến của quân và dân Đại Việt chống quân Mông Cổ năm 1258 giành
được thắng lợi.
Trong cuộc chiến tranh chống xâm lược, trước thế giặc mạnh, nhà Trần đã kịp
thời thay đổi ý định và phương thức tác chiến để bảo toàn lực lượng, thực hiện vườn
không nhà trống, đẩy địch vào thế khó khăn, tạo nên cục diện chiến trường có lợi cho
ta. Đồng thời nhà Trần gấp rút củng cố lực lượng, nắm thời cơ phản công đánh địch ở
Đông Bộ Đầu, kết thúc chiến tranh.
5
- Cuộc chiến tranh chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai (năm 1285).
Sau khi thôn tính toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, lập nên triều Nguyên. Quân
Mông - Nguyên xúc tiến chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai. Để lấy cớ đánh nước
ta, địch đưa ra nhiều yêu sách hết sức láo xược, đồng thời cho quân đánh chiếm Chiêm
Thành hòng bao vây, vu hồi vào phía nam nước ta. Vua Trần cự tuyệt mọi yêu sách ,
tích cực chuẩn bị kháng chiến chống xâm lược, đồng thời đem quân và thuyền chiến
giúp Chiêm Thành chống kẻ thù chung.
Cuối tháng 1/1285, các đạo quân Nguyên gồm 60 vạn tên, chia làm 3 cánh tiến
vào nước ta. Từ Quảng Tây, địch tiến vào Lạng Sơn, từ Vân Nam tiến theo lưu vực
sông Lô và đạo quân của Toa Đô từ phía nam đánh ra. Trên mặt trận phía bắc, ta từng
bước chặn địch, sau đó chủ động rút về Trường Yên (Ninh Bình) và Thiên Trường
(Nam Định). Ở hướng Nam, địch chiếm được Nghệ An, rồi tiến ra Thanh Hoá. Hướng
Bắc. Tiếp đó, quân địch từ hai hướng bắc và nam hợp vây đại quân ta tại Thiên
Trường và Trường Yên. Trần Quốc Tuấn đã cho một bộ phận cơ động ra vùng biển
Đông Bắc để nghi binh, lừa địch, còn đại quân rút vào rừng núi miền Tây Thanh Hoá
để củng cố lực lượng, chuẩn bị phản công và tiến công. Trong khi đó, quân và dân ta ở
vùng sau lưng địch nổi dậy đánh chúng ở khắp nơi, tiêu hao nhiều sinh lực địch, đẩy
chúng vào tình trạng khốn đốn. Khi thời cơ thuận lợi, nhà Trần quyết định phản
công.Tháng 4/1285, đại quân ta lần lượt tiến công quân địch ở A Lỗ (bên bờ sông
Luộc phía bắc Thái Bình), thắng lớn ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương (Thường Tín
- Hà Nội), sau đó tiến vào Thăng Long. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân
ta,Thoát Hoan phải cho quân rút khỏi Thăng Long sang đóng ở bờ bắc sông Hồng
(khu vực Gia Lâm), rồi tìm đường rút chạy về nước. Trên đường rút chạy, địch bị quân
ta chặn đánh quyết liệt suốt từ Vạn Kiếp tới biên giới phía Bắc, gây cho chúng nhiều
thiệt hại nặng. Khi chạy về nước, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho quân lính
khênh cùng với đám tàn binh chạy về Tư Minh. Đạo quân địch rút theo hướng Tây
Bắc cũng bị thổ binh của ta chặn đánh, gây cho chúng nhiều thiệt hại lớn. Đạo quân
của Toa Đô kéo quân từ Thanh Hoá ra đã bị quân ta tiêu diệt ở Tây Kết vào ngày
24/6/1285. Sau hai tháng phản công, quân và dân Đại Việt đã quét sạch 60 vạn quân
Nguyên ra khỏi bờ cõi. Cuộc kháng chiến giành được thắng lợi hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến lần này, ông cha ta đã đánh giá đúng so sánh lực lượng
giữa ta và địch, kịp thời thay đổi ý định và phương thức tác chiến là nghi binh, lừa địch,
đưa quân lên rừng núi để bảo toàn lực lượng; phối hợp chặt chẽ giữa tác chiến của lực
lượng vũ trang với nhân dân các địa phương; kết hợp đánh địch cả trước và sau, bên sườn;
khống chế các đường vận chuyển, triệt phá lương thảo của địch, đẩy chúng vào thế khó
khăn. Quân và dân Đại Việt đã nắm đúng thời cơ, thực hành phản công bằng những trận
đánh lớn, buộc địch phải rút quân. Trên đường địch rút chạy, quân ta liên tục truy kích,
chặn đánh tiêu diệt phần lớn quân Nguyên và giành thắng lợi rất oanh liệt.
- Cuộc chiến tranh chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1287 - 1288)
Bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai, triều đình
Nguyên lại gấp rút chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ ba.
Tháng 12/1287, khoảng 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tiến sang xâm
lược nước ta theo ba đường: Lạng Sơn, lưu vực sông Hồng và sông Bạch Đằng. Dưới
sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn, quân ta vừa đánh chặn để kiềm chế và tiêu hao lực
lượng của địch, vừa rút về hạ lưu sông Hồng để bảo toàn lực lượng. Trên hướng ven
biển Đông Bắc, quân ta do Trần Khánh Dư chỉ huy đã tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền
6
lương của Trương Văn Hổ tại Vân Đồn, Hạ Long (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Ngày
27/1/1288, Thoát Hoan cho quân từ Vạn Kiếp tiến về Thăng Long và đuổi theo vua
Trần. Sau một thời gian lùng sục không có kết quả, quân địch phải lần lượt kéo về
Thăng Long. Địch luôn gặp khó khăn về lương thảo, lúng tíng về chiến lược, thường
xuyên phải đối phó với quân và dân các địa phương và luôn phải đề phòng tình huống
bị quân nhà Trần tiến công lớn bất ngờ. Trước tình hình đó, Thoát Hoan phải rút quân
từ Thăng Long về Vạn Kiếp rồi sau đó chạy về nước. Đạo quân bộ rút theo đượng
Lạng Sơn, đạo quân thủy rút theo sông Bạch Đằng. Bằng một trận phục kích tài tình,
kết hợp giữa bộ binh với thủy binh, vận động tiến công với cản phá bằng trận địa cọc
ngầm của quân và dân ta, ngày 9/4/1288, ta đã tiêu diệt gọn đạo thủy binh của Ô Mã
Nhi tại sông Bạch Đằng. Đạo quân bộ của địch bị ta chặn đánh gây nhiều thiệt hại.
Ngày 19/4/1288, Thoát Hoan cùng tàn quân chạy về tới Tư Minh. Quân và dân Đại
Việt đã quét sạch quân địch ra khỏi bờ cõi nước ta.
Trong cuộc kháng chiến lần này, ông cha ta đã chủ động thực hiện kế hoạch tác
chiến theo chủ trương và ý định chiến lược đã đề ra, buộc địch phải điều quân đối phó,
không phát huy được sở trường của chúng, cuối cùng phải rút lui. Trần Khánh Dư đã
bố trí thế trận và lực lượng tiêu diệt đoàn thuyền lương, làm đảo lộn toàn bộ kế hoạch
tiến công của địch. Chọn địa bàn quyết chiến sáng tạo, bố trí quân mai phục, kết hợp
với trận địa cọc ngầm, lợi dụng quy luật thủy triều, quân dân nhà Trần đã đánh trận
tiêu diệt lớn tại sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh.
c, Hai cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược đầu thế kỷ XV
- Kháng chiến của nhà Hồ chống quân Minh xâm lược (1406 - 1407)
Năm 1400, triều Trần bị phế truất, thay thế bằng triều Hồ do cha con Hồ Quý
Ly đứng đầu. Để bảo vệ đất nước, Nhà Hồ tăng thêm nhiều quân, xây dựng các phòng
tuyến phòng thủ với quy mô rất lớn. Triều Hồ cho đóng thuyền chiến cỡ lớn, sáng chế
loại hỏa pháo tên là súng Thần cơ để trang bị cho quân đội. Lấy cớ giúp họ Trần khôi
phục lại vương quyền, tháng 11/1406, Minh Thành Tổ huy động khoảng 80 vạn quân
theo hai đường đánh vào nước ta. Từ Quảng Tây, địch đánh vào Lạng Sơn và từ Vân
Nam theo lưu vực sông Lô đánh xuống. Trước những tiến công ồ ạt của giặc Minh,
nhà Hồ cũng đã chặn đánh địch và giành được một số thắng lợi nhất định, nhưng cha
con Hồ Quý Ly chỉ phòng ngự bị động nên bị quân Minh tiến đánh vỡ hết phòng tuyến
này đến phòng tuyến khác. Tháng 1/1407, địch chiếm thành Đa Bang (Ba Vì - Hà
Nội), sau đó đánh chiếm Đông Đô. Trong tháng 3 và 4 năm 1407, quân nhà Hồ tổ chức
một số trận đánh ở Hoàng Giang, Mộc Đức, Muộn Hải (thuộc Hà Nam). Thượng tuần
tháng 5/1407, đại quân nhà Hồ dùng khoảng 7 vạn quân thuỷ bộ từ Hoàng Giang phản
công đánh địch ở Hàm Tử nhưng bị thất bại. Vua quan nhà Hồ cùng tướng lĩnh, binh sĩ
còn lại rút chạy bào Thanh Hóa, sau đó vào Nghệ An. Ngày 12/6/1407, quân Minh
tràn tới Nghệ An, chỉ trong thời gian ngắn, cha con Hồ Quý Ly và những người trong
triều Hồ lần lượt sa vào tay giặc. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ đến
đây chấm dứt.
Trong cuộc xâm lăng của nhà Minh, nhà Hồ đã sớm tổ chức phòng thủ đất
nước, thế nhưng nhà Hồ chỉ chú trọng về mặt quân sự, mà không chăm lo cố kết lòng
dân. Khi quân Minh tràn sang, nhà Hồ chỉ tiến hành tác chiến chính quy, mà chủ yếu
là phòng ngự đơn thuần chứ không động viên được lực lượng toàn dân đánh giặc. Do
vậy, quân nhà Hồ luôn ở vào thế bị động, phải chịu từ thất bại này đến thất bại khác và
cuối cùng bị thất bại hoàn toàn. Lần thứ hai trong lịch sử dân tộc ta bị mất nước.
7
- Cuộc kháng chiến chống quân Minh những (1418 - 1427)
Giặc Minh chiếm được nước ta nhưng chúng không sao đè bẹp được ý chí độc
lập, tự chủ của dân tộc ta. Từ những năm của thập kỷ thứ hai, thế kỷ XV, phong trào
khởi nghĩa chống quân Minh của nhân dân ta luôn bùng nổ và lan rộng khắp nơi, trong
đó tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.Từ năm 1418 đến
giữa năm 1423, nghĩa quân dựa vào rừng núi Thanh Hoá tổ chức đánh du kích chống
địch vây quét và tiêu hao, tiêu diệt, làm suy yếu địch, đồng thời bảo toàn lực lượng ta.
Nghĩa quân không những bảo toàn được lực lượng mà còn phát triển được lực lượng,
giữ vững và mở rộng địa bàn hoạt động. Sau hơn một năm hòa hoãn với địch, bắt đầu
từ tháng 10/1424 - 8/1426, nghĩa quân tiến công vào phía nam để mở rộng vùng giải
phóng, xây dựng và phát triển lực lượng. Nghĩa quân đã giải phóng được Diễn Châu Nghệ An - Thanh Hoá - Tân Bình và Bình Thuận. Tại đây, lực lượng của nghĩa quân
không những được nhân lên gấp bội về số lượng mà còn được tăng cường về vũ khí
trang bị và biên chế tổ chức, hình thành những binh chủng cần thiết và những thứ quân
khác. Nghĩa quân đẩy mạnh các hoạt động giáo dục chính trị, tinh thần, tích cực huấn
luyện quân sự, trình độ tác chiến cho binh sĩ. Tháng 9/1426, những đơn vị đầu tiên của
nghĩa quân tiến ra Đông Đô. Tháng 11/1426, quân ta phục kích tiêu diệt 6 vạn địch ở
Tốt Động và Chúc Động (Chương Mỹ - Hà Nội). Sau đó, tăng sức ép, vừa tiến công
bằng những đòn quân sự tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, vừa đẩy mạnh hoạt động
tiến công trên mặt trận địch vận làm xói mòn ý chí xâm lược của chúng. Quân ta đã
đẩy quân địch trong thành Đông Quan do Vương Thông chỉ huy vào tình thế khốn
quẫn. Tháng 10/1427, nghĩa quân tiêu diệt 10 vạn viện binh của địch do Liễu Thăng
chỉ huy ở Chi Lăng - Xương Giang. Đánh tan 5 vạn quân viện binh của địch do Mộc
Thạch chỉ huy ở sát biên giới tỉnh Vân Nam. Sau khi tiêu diệt được viện binh của
giặc, nghĩa quân vừa tiếp tục chuẩn bị tiến công nếu địch ngoan cố chống cự, vừa
đưa tang vật chiến bại của các đạo viện binh đến thành Đông Quan khiến cho bọn
Vương Thông ở Đông Quan khiếp sợ. Đồng thời quân ta tiếp tục tiến công địch trên
khắp các mặt trận cả quân sự và binh địch vận. Trong tình thế tuyệt vọng, Vương
Thông phải mở cửa thành ra hàng dưới hình thức một “hội thề”, cam kết rút về nước
vào ngày 10/12/1427.
Cuộc kháng chiến chống xâm lược giải phóng đất nước của nhân dân ta do Lê
Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo đã toàn thắng.
Trong cuộc kháng chiến, thời gian đầu nghĩa quân đã chọn rừng núi phía Tây
Thanh Hoá tiến hành chiến tranh du kích lấy ít địch nhiều, yếu chống mạnh là hoàn
toàn đúng đắn. Với phương châm, chiến lược chính xác nên trong thời gian ngắn, quân
ta đã giải phóng nhiều tỉnh ở phía nam, làm thay đổi cục diện chiến trường, phát triển
cuộc khởi nghĩa thành chiến tranh giải phóng quy mô lớn. Quá trình chiến đấu, nghĩa
quân đã nhạy bén phát hiện sự xuất hiện của thời cơ, chớp thời cơ mở cuộc tiến công
ra Đông Đô, vây thành, diệt viện, kết hợp tiến công bằng quân sự với tiến công bằng
địch vận, buộc lực lượng của địch ở thành Đông Quan phải đầu hành, giành thắng lợi
quyết định cho cuộc chiến tranh.
d, Hai cuộc kháng chiến chống quân Xiêm và quân Thanh cuối thế kỷ thứ XVIII
- Cuộc chiến tranh chống quân Xiêm (1784 - 1785)
Thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng toàn diện. Phong trào
khởi nghĩa của nông dân nổ ra nhiều nơi. Từ ấp Tây Sơn - phủ Quy Nhơn (tỉnh Bình
Định) bùng nổ cuộc khởi nghĩa của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
8
Lữ lãnh đạo. Lực lượng nghĩa quân Tây Sơn phát triển nhanh, một đội quân có tinh
thần chiến đấu cao, kỷ luật nghiêm, trình độ kỹ, chiến thuật giỏi, tổ chức thành các đội,
cơ, đạo, doanh. Doanh là tổ chức cao nhất, trong doanh có các đạo bộ binh, pháo binh,
kỵ binh, tượng binh. Thủy binh có các đạo binh thuyền mạnh. Vũ khí trang bị phát
triển cao hơn so với trước, trong đó có súng trường, nhiều đại bác và loại vũ khí đặc
biệt gọi là “hỏa hồ”, loại súng dùng để phun lửa. Từ năm 1776 đến 1783, quân Tây
sơn đã mở 5 cuộc tiến công vào đất Gia Định. Sau lần tiến công thứ 5, lực lượng quân
sự của triều Nguyễn ở đây bị tiêu diệt về cơ bản. Trước tình hình đó, Nguyễn Ánh đã
chạy sang cầu viện quân Xiêm hòng khôi phục lại cơ đồ thống trị của chúng. Tháng
7/1784, khoảng 5 vạn quân Xiêm chia làm hai đường thủy, bộ đánh vào vùng Gia
Định. Bộ phận quân Tây Sơn ở Gia Định vừa đánh kìm bước tiến của địch, tiêu hao
lực lượng của chúng, vừa rút dần lực lượng về Mỹ Tho tổ chức trận địa phòng thủ chờ
đại quân từ Quy Nhơn vào. Tháng 12/1784, đại quân Tây Sơn từ Quy Nhơn, do
Nguyễn Huệ chỉ huy tiến vào chuẩn bị trận tiến công quét sạch quân xâm lược. Đêm
ngày 18, rạng ngày 19/1/1785, bằng một trận phục kích lớn trên đoạn sông Mỹ Tho
từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, phối hợp chặt chẽ giữa bộ binh, thuỷ binh, pháo binh,
quân ta đã tiêu diệt tại trận gần 4 vạn quân Xiêm, bọn tàn quân hoảng sợ tháo chạy về
nước. Khi quân địch mới sang, mặc dù nghĩa quân ở Gia Định ít hơn địch, nhưng do
khéo tập trung và cơ động lực lượng nên đã tổ chức được nhiều trận đánh nhằm kìm
chân và tiêu hao quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đại quân cơ động tổ chức phản
công, tiến công. Khi phản công, tuy lực lượng ít hơn địch, nhưng với nghệ thuật tài
giỏi đã tạo được thế và lực áp đảo, tiêu diệt gần 4 vạn quân Xiêm trong thời gian ngắn.
- Chiến tranh chống quân Thanh xâm lược (1788 - 1789)
Những năm 1786 – 1788, nghĩa quân Tây Sơn đã hai lần tiến ra Bắc để lật đổ
chế độ chúa Trịnh. Lê Chiêu Thống đã cầu cứu nhà Thanh hòng khôi phục ngai vàng
của mình. Tháng 11/1788, khoảng 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tiến
vào xâm lược nước ta. Quân địch theo 4 đường thủy, bộ Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên
Quang và Quảng Ninh. Trước sức mạnh của địch, quân ta từng bước chặn địch, sau đó
rút khỏi Thăng Long về Tam Điệp (Ninh Bình) và Biện Sơn (Thanh Hoá). Ngày
21/12/1788, sau khi nắm được tình hình, Nguyễn Huệ quyết định ngay ngày hôm sau
xuất quân tiến ra Bắc. Ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là
Quang Trung. Sau lễ đăng quang, Nguyễn Huệ thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc. Ngày
26/12/1788, đại quân ra đến Nghệ An. Quang Trung cho đóng quân tại đây hơn 10
ngày để tuyển thêm quân và tổ chức cuộc duyệt binh lớn. Sau khi duyệt binh, Quang
Trung hạ lệnh tiến quân. Đến ngày 15/1/1789, Quang Trung chỉ huy đại quân ra tới
Tam Điệp và hội quân với Ngô Văn Sở. Tại đây, Quang Trung vạch phương án tác
chiến táo bạo: Thần tốc đại phá quân Thanh trong dịp tết Kỷ Dậu (1789). Quang
Trung trực tiếp chỉ huy đạo quân chủ lực tiến đánh các vị trí xung yếu của địch ở nam
Thăng Long. Các đạo quân khác do các đô đốc Bảo, Long, Tuyết, Lộc chỉ huy đồng
thời tiến công đánh chiếm ở Đại Áng (Thường Tín - Hà Tây - Hà Nội), Khương
Thượng (thuộc Thăng Long), Hải Dương và chặn đường rút chạy của chúng ở Lạng
Giang - Yên Thế (thuộc Bắc Giang)
Đêm ngày 25/1/1789 (tức 30 tết âm lịch), quân ta bắt đầu tiến công. Bằng sức
mạnh tiến công thần tốc và mãnh liệt, chỉ trong vòng 5 ngày đêm, quân ta đã toàn
thắng cuộc tiến công chiến lược, tiêu diệt và quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ
cõi nước ta.
9
Trong cuộc chiến tranh chống quân Thanh, lúc đầu giặc mạnh, quân ta ở Thăng
Long tạm thời rút lui tạo sự chuyển hóa chiến lược có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Từ
Phú Xuân, đại quân của Nguyễn Huệ hành quân thần tốc, thực hiện kế hoạch tác chiến
táo bạo, chọn hướng tiến công chiến lược chính xác, kết hợp tiến công trên nhiều
hướng, tạo nên thế đánh mãnh liệt, đánh bại đội quân xâm lược hung hãn trong thời
gian ngắn.
1.1.2. Một số đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống ngoại
xâm trong lịch sử
1.1.2.1. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, nạn ngoại xâm là mối đe doạ thường
xuyên và nguy hiểm nhất đối với sự sống còn của đất nước. Vì thế, khởi nghĩa và chiến
tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta đã diễn ra hầu như liên tục và thường xuyên
Nước ta có tài nguyên phong phú, lại ở vào vị trí địa lý quan trọng của vùng
Đông Nam Á, vì thế nhiều đế chế cường thịnh, nhiều thế lực xâm lược đều thèm khát
và đã âm mưu thôn tính không những để bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, khai thác tài
nguyên mà còn để biến nước ta thành một đầu cầu chiến lược bành trướng khắp vùng
Đông Nam Á.
Kháng chiến chống Tần và chống Triệu Đà xâm lược chứng tỏ ngay từ buổi đầu
dựng nước, dân tộc ta đã phải tiến hành chiến tranh giữ nước. Trong hơn 10 thế kỷ bị
đô hộ, nhân dân ta phải liên tục tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh chống phong kiến
phương Bắc xâm lược. Trong giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ phong kiến
Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV, nhân dân ta đã phải nhiều lần chống xâm
lược như 2 lần chống nhà Tống (981 và 1075 - 1077); 3 lần chống quân Mông Nguyên (1258, 1285 và 1288); 2 lần chống Minh (đầu thế kỷ XV) và nhiều lần chống
sự xâm phạm biên giới và xâm lược của Chiêm Thành. Trong nửa cuối thế kỷ XVIII,
nhân dân ta đã phải 2 lần chống xâm lược, đó là kháng chiến chống Xiêm (1785) và
chống Thanh (1789).
Kể từ thế kỷ thứ III tr.CN đến thế kỷ XVIII, nhân dân ta đã phải tiến hành 15
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cùng hàng 100 cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải
phóng. Chúng ta đã trải qua 12 thế kỷ đấu tranh chống ngoaị bang. Họa mất nước có
khi kéo dài 10 năm, 100 năm, có những thế kỷ nhân dân ta phải nhiều lần đứng lên
đánh giặc. Điều đáng chủ ý ở đây là độ dài thời gian, tần số xuất hiện và số lượng các
cuộc kháng chiến giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng ở Việt Nam quá lớn
so với nhiều nước trên thế giới. Chính vì thế, dựng nước gắn liền với giữ nước là một
quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
1.1.2.2. Phần lớn trong các cuộc chiến tranh, kẻ thù dân tộc thường là những
thế lực xâm lược to lớn, có những đạo quân xâm lược động gấp nhiều lần ta. Vì thế,
dân tộc Việt Nam phải “lấy nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.
Kẻ thù của dân tộc trong lịch sử chủ yếu là các thế lực phong kiến phương Bắc
và ở biên giới phía nam. Hoàn cảnh cụ thể của mỗi cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cứu
nước có khác nhau, nhưng điểm chung xuyên suốt ở những cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh chống xâm lược của dân tộc ta trong suốt thời kỳ cổ - trung đại là với một dân
tộc nhỏ, dân ít, dân tộc ta phải thường xuyên đương đầu và đánh thắng các thế lực xâm
lược có đất nước rộng lớn, dân số đông, quân đội thường trực đông và mạnh đã từng
chinh phục nhiều quốc gia trên thế giới, lại ở sát liền biên giới phía Bắc.
10
Nhà Tống, trong lần xâm lược lần thứ hai (1075-1077), đã huy động hơn 30 vạn
quân các loại. Khi ấy, dân số Đại Việt có khoảng 4 triệu người, quân thường trực nhà
Lý có chừng 5 đến 6 vạn người. Đế chế Nguyên trong hai lần xâm lược Đại Việt cuối
thế kỷ XIII (1285, 1288) đã huy động tất cả trên một triệu lượt quân, trong đó cuộc
xâm lược năm 1285 có 60 vạn, cuộc xâm lược năm 1288 có 50 vạn. Lúc đó, nhà
Nguyên đã thống trị toàn bộ Trung Quốc có quân hùng, tướng mạnh. Lúc đó, nước ta
có khoảng 5 đến 6 triệu dân và quân thường trực của vương triều Trần lúc huy động
cao nhất chỉ khoảng 30 vạn.
Cuối thế kỷ XVIII, nhà Thanh đã sử dụng 29 vạn quân tiến quân chiếm đóng Thăng
Long, còn đội quân của Nguyên Huệ có chừng 10 vạn. Trong quá trình chiến tranh,
quân thù còn có khả năng huy động những đạo viện binh lớn và chi viện các mặt cho
chiến trường.
Chủ trương lấy nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, yếu chống mạnh là phổ biến và trở
thành quy luật trong chiến tranh chống ngoại xâm trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.
1.1.2.3. Qua thực tiễn lịch sử khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược có thể
phân ra hai loại: các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc; các cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Các cuộc khởi nghĩa chiến tranh giải phóng dân tộc như khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, khởi nghĩa Lý Bí và các khởi nghĩa dưới thời Đường đô hộ; khởi
nghĩa và chiến tranh giải phóng dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi – Nguyễn Trãi (khởi
nghĩa Lam Sơn).
Các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc như kháng chiến chống quân Tần, chống
Triệu, chống Nam Hán, chống Tống, chống Mông – Nguyên, chống Minh thời Hồ,
chống Xiêm và chống Thanh vv…
Hai loại hình nói trên có tính chất khác nhau:
- Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc diễn ra trong điều kiện nước ta có chính quyền,
quân đội chống lại các đạo quân xâm lược từ bên ngoài tiến vào.
- Còn khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng được tiến hành trong điều kiện đất
nước đang bị đô hộ, lực lượng ta phát triển từ không đến có, từ yếu đến mạnh, ta phải
đánh thắng kẻ thù từng bước.
1.1.2.4. Lịch sử khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược chứng tỏ truyền
thống yêu nước, ý chí quật cường, quyết chiến quyết thắng và tài thao lược kiệt xuất
của dân tộc Việt Nam
Trong tiến trình lịch sử của mình từ thế hệ này đến thế hệ khác, dân tộc ta đều phải
đối mặt với những khó khăn, thử thách vô cùng nghiệt ngã, mà thử thách thường xuyên và
lớn nhất là phải chiến đấu và chiến thắng những kẻ thù cường bạo. Ngọn lửa chiến tranh
đã tôi luyện truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự chủ của nhân dân ta. Lịch sử đã hun
đúc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và trở thành truyền thống lâu dài. Nó là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử dân tộc, là tư tưởng, tình cảm thiêng liêng nhất của nhân
dân ta. Vì thế như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu
nước, đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước”
Dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm không chỉ bằng ý chí và tinh
thần yêu nước, mà bằng cả trí tuệ Việt Nam. Tài dùng binh, mưu cao, mẹo giỏi, biết
11
địch, biết ta biểu hiện phong phú trong quá trình lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống
thù trong, giặc ngoài. Dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng là nội dung bao
quát của nghệ thuật quân sự Việt Nam, một nền nghệ thuật truyền thống lấy nhỏ thắng
lớn, lấy yếu chống mạnh xưa nay.
Tinh thần Việt Nam cùng với trí tuệ Việt Nam, ý chí chiến đấu ngoan cường kết
hợp với tài thao lược càng làm tăng thêm sức mạnh giữ nước. là cơ sở để dân tộc ta lập
nên những chiến thắng oanh liệt. Bạch Đằng, Như Nguyệt, Đông Bộ Đầu, Chương
Dương - Thăng Long, Tốt động - Chúc Động, Chi Lăng - Xương Giang, Rạch Gầm Xoài Mút, Ngọc Hồi - Đống Đa … mãi mãi được khắc ghi vào lịch sử dân tộc Việt
Nam như những chiến công hiển hách, tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí quật cường
vì độc lập tự do và trí tuệ tài ba đánh giặc cứu nước, để lại những tấm gương chói lọi
và bài học sâu sắc cho muôn đời con cháu chúng ta.
1.2. Sự hinh thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam từ thế kỷ thứ III
trước công nguyên đến thế kỷ thứ XVIII
Từ cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đến thế kỷ thứ XVIII, nghệ thuật
đánh giặc cứu nước của tổ tiên ta bao gồm: Nghệ thuật quân sự của khởi nghĩa,
nghệ thuật quân sự của chiến tranh giải phóng và nghệ thuật quân sự của chiến
tranh giữ nước. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể của các cuộc chiến tranh
chống giặc ngoại xâm, tổ tiên ta đã đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam từng bước
hình thành và phát triển.
1.2.1. Một số đặc điểm của nghệ thuật quân sự
1.2.1.1. Nghệ thuật quân sự của chiến tranh chính nghĩa, tự vệ chống xâm lược
a, Mục đích chiến tranh của dân tộc ta nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền
của đất nước
Trong tất cả các cuộc chiến tranh, tổ tiên ta đều nhất quán mục đích là bảo vệ
độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của đất nước, bảo vệ nền văn
hiến và phẩm giá của con người Việt Nam
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống Đông Hán được nêu rõ mục đích:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng”
Trong kháng chiến chống Tống bài thơ của Lý Thường Kiệt khẳng định rõ mục
đích của chiến tranh:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Trần Nhân Tông nói lên mục đích chiến tranh của dân tộc ta nhằm: “ Sơn hà
thiên cổ điện Kim Âu”
Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ” khẳng định chiến tranh của dân tộc ta
chống xâm lược là chiến tranh chính nghĩa.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn “Lấy đại nghĩa để thắng
hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”
12
Nguyễn Huệ chống quân Thanh đã nêu rõ mục đích “Đánh cho nó trích luân bất
phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà tri hữu chủ”.
b, Nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta hoàn toàn đối lập với nghệ thuật quân sự
của phong kiến phương Bắc
Mục đích chiến tranh chi phối nghệ thuật quân sự. Do mục đích chiến tranh
khác nhau nên nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta và nghệ thuật quân sự của phong kiến
phương Bắc hoàn toàn đối lập nhau.
Nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta là nghệ thuật quân sự của chiến tranh giải
phóng và chiến tranh giữ nước.
Nghệ thuật quân sự của phong kiến phương Bắc là nghệ thuật quân sự của chiến
tranh xâm lược, bành trướng, nhằm thực hiện cuồng vọng “bình thiên hạ”.
1.2..1.2. Nghệ thuật quân sự “Cả nước chung sức đánh giặc”
Đây là quan điểm rất tiến bộ của tổ tiên ta so với đương thời, đồng thời cũng là
đặc điểm mang tính truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay.
a) Trước họa xâm lăng, tổ tiên ta sớm biết đoàn kết để giữ nước, sớm biết gắn
quyền lợi của Tổ quốc với quyền lợi của gia đình và bản thân
Trong chiến tranh, dân tộc ta sớm nhận thức được tinh thần “nước mất thì nhà
tan”, nên mỗi khi có giặc xâm lược thì mọi người dân đều đứng lên đánh giặc cứu
nước, cứu nhà với trách nhiệm “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” và đứng lên
đánh giặc với ý chí và quyết tâm “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Thời Trần, sau
kháng chiến chống xâm lược của giặc Nguyên - Mông, kiểm tra lại, cả nước chỉ có hai
thôn khi giặc đến không đánh, còn tất cả mọi nơi, nhân dân ta đã chủ động đứng lên
đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi hình thức, với mọi thứ vũ khí sẵn có trong tay.
b) Tổ tiên ta sớm nhận thức được sức mạnh của toàn dân và biết dựa vào dân
đánh giặc
Tổ tiên ta đã nhận thức được vai trò của nhân dân trong chiến tranh và biết dựa
vào dân để tiến hành chiến tranh.
Lý Thường Kiệt coi sự đủ ăn là ý nguyện của dân, là gốc của nước, nên ông
luôn chăm lo việc an dân và phát huy sức mạnh của nhân dân trong chiến tranh.
Tổng kết kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, Trần Quốc Tuấn đã
nêu rõ: Sở dĩ nước ta thắng được giặc ngoại xâm qua các thời đại là do dân tộc ta đã
biết đồng lòng đánh giặc, cả nước chung sức và đi đến kết luận “Vua tôi đồng lòng,
anh em hòa mục, nhà nước chung sức, giặc tự bị bắt”, hoặc “khoan thư sức dân để làm
kế rễ sâu, gốc vững, đó là thượng sách để giữ nước”.
Nguyễn Trãi coi sức dân mạnh như nước “Phúc chu thủy, tín dân do thủy” - sức
dân mạnh có thể đỡ thuyền và lật thuyền.
Kháng chiến chống Thanh vua Quang Trung khi ra tới Nghệ An, Thanh Hóa đã
được nhân dân hăng hái hưởng ứng. Trong thời gian ngắn, hàng vạn đinh tráng nô nức
nhập quân ngũ, đưa tổng số nghĩa quân lên tới 10 vạn.
Thời nhà Hồ, tuy có số quân động, có nhiều thành quách kiên cố nhưng vẫn bị
thất bại trước cuộc xâm lược của nhà Minh. Thất bại đó do nhiều nguyên nhân, đó là
không cố kết được lòng dân, không biết dựa vào dân để đánh giặc. Tả tướng Hồ
Nguyên Trừng khi nhận thấy điểm yếu nghiêm trọng này đã phải thốt lên “Thần không
ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không thôi”.
13
c) Tổ tiên ta luôn giương cao ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc để phát huy lòng
yêu nước, tinh thần đoàn kết và sức mạnh của toàn dân đánh giặc
Tổ tiên ta biết phát huy lòng yêu nước, đoàn kết của nhân dân, tạo được sức mạnh
quân, dân. Quân và dân ta luôn hiệp sức chiến đấu, tạo nên một thế chiến lược rất mạnh
“làm cho địch thế lớn mà rỗng, quân nhiều mà tản, lúc ta đánh chỗ này, lúc ta đánh chỗ
khác, làm cho địch hợp thì khó tụ được, chia thì khó giữ được”, hoặc “Lai vô ảnh, khứ vô
hình”, “Giương Đông, kích Tây”, làm cho quân địch luôn bị động đối phó và cuối cùng đi
đến thất bại trong các cuộc chiến tranh trước sức mạnh của quân và dân ta.
1.2.1.3. Nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh
Trong lịch sử chiến tranh thời cổ - trung đại, dân tộc ta luôn phải tiến hành
chiến tranh trong điều kiện địch có ưu thế hơn ta về kinh tế, quân đội, đất rộng, người
đông. Muốn đánh thắng chúng, ông cha ta đã sáng tạo ra nghệ thuật đánh giặc tài tình
và độc đáo hoàn toàn khác với binh pháp của thế lực phong kiến phương Bắc.
a) Trong chiến tranh, ông cha ta luôn chủ động đánh theo cách đánh của ta
Trong các cuộc chiến tranh ta thường lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ đánh lớn.
Các cuộc chiến tranh chống quân Mông – Nguyên, cách đánh của ta là “dĩ đoản
chế trường”, nghĩa là lấy đoản binh để thắng trường trận. Khi địch đang mạnh, ông cha
ta không không đánh theo cách đánh dàn trận để quyết chiến với địch mà tổ chức đánh
nhỏ, căng, kéo, phân tán địch để đánh tiêu hao lực lượng của chúng. Khi địch đã bị dàn
mỏng, phân tán, đứt quãng, không ứng cứu được cho nhau, tức là trường trận đã sa vào
tử đại, lúc đó địch mạnh trở thành yếu. Cách đánh đó của ông cha ta đã làm cho kỵ
binh thiện chiến của quân Mông – Nguyên không phát huy được sở trường và cả ba
lần đều bị thất bại.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi đã tổng kết cách đánh:
“Lấy yếu chống mạnh thường đánh bất ngờ, lấy ít địch nhiều thường dùng mai phục”.
b) Trong các cuộc chiến tranh, ông cha ta đã kết hợp chặt chẽ các phương thức
và thủ đoạn tác chiến
Trong chiến tranh chống quân Tống lần thứ hai, Lý Thường Kiệt đã sử dụng và
kết hợp chặt chẽ các phương thức tác chiến và cách đánh như thủy chiến, công thành,
rút lui, phòng ngự, phản công và tiến công đánh bại quân địch.
Trong ba lần đánh Mông - Nguyên, trước sức mạnh của giặc, quân Trần tổ chức
rút lui để bảo toàn lực lượng, sau đó tổ chức phản công, tiến công tiêu diệt đánh bại địch.
Trong cuộc chiến tranh chống quân Thanh, phương thức tác chiến của Quang
Trung là “đánh nhanh, thắng nhanh, giải quyết nhanh”. Để bảo đảm đánh nhanh, thắng
nhanh, mọi hành động chiến đấu đều phát huy cao độ yếu tố bí mật, bất ngờ, táo bạo,
thần tốc, tiến công trên nhiều hướng, thực hiện bao vây, chia cắt, kết hợp tiến công
chính diện với thọc sâu, vu hồi vào bên sườn và sau lưng địch, tiêu diệt gọn từng bộ
phận, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch.
c) Trong các cuộc chiến tranh, ông cha ta giỏi tạo thời cơ và lập thế trận
Trong các cuộc chiến tranh, ông cha ta giỏi tạo thời, lập thế để đánh những trận
“Sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay”. Trong tạo thời, lập thế đã giải quyết xuất sắc
hai vấn đề là mưu và kế, mưu lừa địch và kế điều địch; luôn lừa và điều địch theo ý
định của ta, dụ địch vào thế trận mà ta đã bố trí sẵn để tiêu diệt.
14
Nói về tạo thời lập thế, Trần Quốc Tuấn chỉ rõ: “Phải xem xét quyền biến như
đánh vờ, tùy thời mà làm”. Nguyễn Trãi khẳng định: “Biết địch, biết ta, biết mạnh, biết
yếu”, phải lấy xưa mà nghiệm nay, phải tạo thời và lập thế để vận dụng cách đánh
đúng đắn. Quang Trung nói: “Người khéo thắng là ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải
lấy mạnh để đè yếu, lấy nhiều để hiếp ít” vv…
Những vấn đề trên nói lên tài thao lược kiệt xuất của tổ tiên ta trong cuộc chiến
tranh chống xâm lược.
1.2.1.4. Nghệ thuật quân sự của ta luôn mang tính tư tưởng tiến công, giành thế
chủ động trong phản công và tiến công tiêu diệt địch
a) Tư tưởng chỉ đạo mọi hành động tác chiến của dân tộc ta trong các cuộc
chiến tranh là tích cực tiến công tiêu diệt địch
Trong các cuộc chiến tranh ta luôn chủ động tiến công liên tục, dồn dập, tiến
công từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn cục trong suốt quá trình chiến tranh.
Trong các giai đoạn đầu của các cuộc chiến tranh, mặc dù quân địch rất mạnh, ta
vẫn tích cực tiến công nhỏ và vừa, nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, tạo ra sự thay đổi
tương quan lực lượng và cục diện chiến trường theo chiều hướng có lợi cho ta nhanh
chóng chuyển sang phản công, tiến công lớn, quét sạch quân địch ra khỏi bờ cõi nước ta.
b) Vận dụng sáng tạo nghệ thuật phản công và tiến công
Ngô Quyền, Lê Hoàn đã thực hiện phản công trong cuộc chiến tranh chống
quân Nam Hán năm 938 và chống Tống năm 981, giành thắng lợi bằng những trận
phản công, tiến công lớn.
Trong chiến tranh chống Tống lần thứ hai (1075- 1077), Lý Thường Kiệt chủ
động tiến công sang Ung - Khâm - Liêm trong chiến tranh chống Tống lần thứ hai
(1075 - 1077) để triệt phá căn cứ xuất phát của địch. Sau khi chặn đứng quân địch
trước chiến tuyến sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã kịp thời chuyển sang phan
công và tiến công đánh bại quân địch.
Trong kháng chiến chống quân Minh, nghĩa quân Tây Sơn thực hành tiến công
từ đánh nhỏ đến lớn, khi có thời cơ đã nhanh chóng tiến quân ra vùng Đông Đô thực
hiện những trận đánh lớn tiêu diệt quân thù.
Nét nổi bật trong nghệ thuật quân sự của Quang Trung là phản công và tiến
công tốc quyết, tốc thắng. Năm lần tiến công vào Gia Định, hai lần tiến công ra Bắc,
hai lần tiến công thần tốc tiêu diệt 4 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nếu chỉ thực hiện phòng ngự thụ động sẽ dẫn
đến thất bại làm mất nước như thời An Dương Vương, thời Hồ Quý Ly.
Những đặc điểm trên phản ánh tính quy luật của nghệ thuật quân sự Việt Nam
của một dân tộc nhỏ luôn phải đứng lên chống lại các thế lực xâm lược lớn mạnh hơn
nhiều lần. Những đặc điểm đó chỉ ra mục đích, phương thức, nghệ thuật tiến hành chiến
tranh mà cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và là một trong cơ sở để đề ra đường lối
và phát triển nghệ thuật quân sự trong chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Sự hình thành và phát triển chiến thuật
Trong các cuộc chiến tranh, cách đánh của cha ông ta đều nhằm hạn chế chỗ
mạnh, khoét sâu chỗ yếu của giặc, đồng thời phát huy được sức mạnh của con người
và các dân tộc Việt Nam. Những hình thức chiến thuật mà cha ông ta thường vận dụng
15
rất phong phú, sáng tạo, đa dạng như tập kích, phục kích, vây thành, diệt viện, công
thành, thủy chiến và phòng ngự.
1.2.2.1. Tập kích và phục kích
Tập kích: Là dùng xung lực, hoả lực, các phương tiện chiến tranh bất ngờ tiến
công tiêu diệt sinh lực địch.
Phục kích: Là tại khu vực, trận địa đã được bố trí sẵn, dùng xung lực, hoả lực, các
phương tiện chiến tranh bất ngờ tiến công khi địch lọt vào trận địa theo ý định của ta.
Chiến thuật phục kích, tập kích là cách đánh sở trường trong nghệ thuật quân sự
Việt Nam từ xưa tới nay được ông cha ta vận dụng phổ biến trong các cuộc chiến
tranh. Cách đánh tập kích, phục kích phù hợp với so sánh lực lượng giữa ta và địch,
trong hoàn cảnh ta thường phải đánh với những đạo quân xâm lược có ưu thế hơn ta về
sở trường. Điều kiện đại hình, địa lý, thời tiết, khí hậu của nước ta cho phép ta dùng
cách đánh phục kích, tập kích.
Cho đến thế kỷ XV, cách đánh tập kích, phục kích đã trở thành một nguyên tắc
chỉ đạo tác chiến của nghĩa quân Lam Sơn “Lấy ít địch nhiều thường dùng mai phục,
lấy yếu chống mạnh thường đánh bất ngờ”.
Cách đánh tập kích, phục kích đã được ông cha ta vận dụng với nhiều quy mô khác
nhau như đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn. Tiêu biểu là trận phục kích trên sông Bạch
Đằng, đánh bại quân Nam Hán và tiêu diệt đạo thuỷ binh của Ô Mã Nhi năm 938 và
năm 1288. Kết hợp tập kích, phục kích tiêu diệt địch ở Tốt Động - Chúc Động tháng
11/1426 và ở Chi Lăng - Xương Giang tháng 10/ 1427. Phục kích tiêu diệt 4 vạn quân
Xiêm năm 1785.
1.2.2.2. Thuỷ chiến
Tác chiến trên sông, trên biển, đã trở thành cách đánh truyền thống của nghệ
thuật quân sự Việt Nam. Trong thủy chiến có nhiều trận đánh tiêu biểu như trận Bạch
Đằng tiêu diệt thủy binh Nam Hán năm 938, trận Vân Đồn ta tiêu diệt đoàn thuyền
lương của địch, trận đánh trận Bạch Đằng, ta tiêu diệt đạo thuỷ binh của Ô Mã Nhi
năm 1288, trận Rạch Gầm - Xoài Mút (Mỹ Tho) ta tiêu diệt quân Xiêm năm 1785.
Trong thủy binh chiến, cha ông ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề lớn về
nghệ thuật quân sự như chọn địa bàn tác chiến có nhiều lợi thế, lợi dụng thiên nhiên,
quy luật thuỷ văn để thiết lập thế trận; phát huy các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà
để giành thắng lợi; cơ động và thực hành tác chiến nhanh, mạnh, tiêu diệt gọn quân
địch; hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh, thủy binh trong quá trình chiến đấu.
1.2.2.3. Công thành
Trong chiến tranh, ông cha ta không chủ trương đánh thành và cho rằng: “đánh
thành là hạ sách”. Nhưng khi cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ do yêu cầu của chiến
lược đề ra và khi có điều kiện, ông cha ta cũng đã tiến hành một số trận công thành
như thành Ung Châu, thành Xương Giang, các trận đó đã đạt tới trình độ khá cao về
nghệ thuật quân sự. Trận đánh thành Ung Châu là là trận đánh lớn và ác liệt nhất trong
cuộc tiến công sang Ung - Khâm - Liêm. Có hạ được thành Ung Châu thì mới thực
hiện được mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công. Thành Ung Châu được xây dựng
kiên cố, có tường cao, hào sâu, trong thành có 6 vạn quân địch. Sau khi đã bố trí lực
lượng chặn viện binh của địch từ phía bắc xuống tại Côn Lôn và đã bao vây thành,
quân ta bắt đầu công phá. Qua 42 ngày, đêm vây hãm và tiến công quyết liệt, hết dùng
vân thê (thang mây) xếp nối nhau trèo lên mặt thành, lại dùng tên độc, máy bắn đá bắn
16
vào; hết đào đường hầm để chui dưới chân thành lại dùng đến phép hỏa công đốt phá.
Cuối cùng, quân ta đem hàng vạn bao đất chồng lên nhau thành bậc cao sát tường và
đến ngày 1/3/1076, quân ta đã tràn vào đánh chiếm được thành kiên cố này.
Chiến thuật đánh thành ngày càng phát triển trong quá trình chiến tranh. Thời
Quang Trung, chiến thuật đánh thành đã được hoàn thiện thêm một bước. Trong chiến
tranh, quân Tây Sơn đã hạ được nhiều thành của quân Nguyễn, quân Trịnh, trong đó
có những thành lớn như Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long… Trong cuộc tiến công
tiêu diệt quân Thanh, trận đánh đồn Ngọc Hồi là ác liệt nhất. Để diệt đồn Ngọc Hồi,
quân Tây Sơn đã dùng voi chiến, đại bác, hỏa hổ cùng với bộ binh được trang bị lá
chắn để đột kích. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân Tây Sơn địch phải tháo chạy
và bị cánh quân của Đô đốc Bảo mai phục tiêu diệt tại Đầm Mực. Trong trận Ngọc
Hồi, Quang Trung đã giải quyết xuất sắc các vấn đề chiến thuật như tập trung ưu thế
lực lượng cả xung lực và hỏa lực, đột kích xung phong ở chính diện, nhanh chóng phát
triển vào bên trong, đồng thời chú trọng đánh vào bên sườn và phía sau địch, hình
thành thế bao vây, chia cắt. Đạo quân của Đô đốc Bảo là lực lượng ở Yên Duyên hình
thành thế bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch.
1.2.2.4. Phòng ngự
Trong lịch sử chiến tranh chống giặc ngoại xâm, tác chiến phòng ngự diễn ra
không nhiều. Mục đích của phòng ngự là xây dựng trận địa, bố trí lực lượng, ngăn chặn,
tiến công tiêu hao, tiêu diệt bộ phận quân địch; làm chậm bước tiến công của địch, giam
chân địch …, tạo điều kiện cho ta tiến hành phản công và tiến công lớn tiêu diệt địch.
Phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt là trận phòng ngự
thành công và có quy mô lớn. Tại đây, ta đã xây dựng tuyến phòng thủ chạy dọc bờ
nam sông Như Nguyệt dài gần một trăm ki-lô-mét từ chân núi Tam Đảo đến Vạn
Xuân, trọng điểm là từ khúc sông bến đò Như Nguyệt (Tam Giang - Yên Phong - Bắc
Ninh) tới bến đò Thị Cầu (Đáp Cầu - Tiên Sơn - Bắc Ninh) dài khoảng 30 ki-lô-mét.
Lợi dụng địa thế sông nước Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng ở bờ nam sông một
chiến lũy kiên cố. Trên bờ có tường cao mấy thước, phía trước ngay sát mặt sông ken
dạy mấy lớp dậu tre vững chắc, dưới sông có các thuyền chiến đi lại tuần tiễu cảnh
giới, trên thành có các trại quân bố trí liên tục để canh phòng. Phía sau luỹ thành có đại
quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy bố trí ở những vùng xung yếu tai phủ Thiên Đức (Đông
Anh - Hà Nội và Tiên Sơn - Bắc Ninh) để sẵn sàng tổ chức những trận phản đột kích
mãnh liệt, đánh bại các mũi tiến công thọc sâu của địch. Đồng thời, một lực lượng thủy
binh mạnh gồm 2 vạn quân, 400 chiến thuyền do hai hoàng tử là Hoàng Chân và Chiêu
Văn chỉ huy được bố trí tại sông Lục Đầu sẵn sàng cơ động, tiếp ứng cho các mặt trận.
Chiến đấu phòng ngự trên chiến tuyến sông Như Nguyệt đã chặn đứng các cuộc
tiến công của quân Tống, buộc chúng phải chuyển vào phòng ngự bị động, tạo điều
kiện thuận lợi để quân ta phản công, tiến công đánh bại quân địch.
Nghệ thuật quân sự đánh giặc cứu nước của tổ tiên ta đã hình thành và phát
triển trong bối cảnh chung của sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng đương
thời, mặt khác, nó lại có tác động gián tiếp tới sự phát triển của các lĩnh vực đó. Thực
tiễn đấu tranh chống ngoại xâm trong lịch sử nước ta cho thấy, nghệ thuật quân sự của
tổ tiên ta đã hình thành và phát triển trong điều kiện một dân tộc đã có nền văn hiến
được xây dựng và phát triển trong nhiều thế kỷ, từ nền văn minh sông Hồng, đỉnh cao
là nền văn minh Đại Việt từ những thế kỷ V đến thế kỷ XVIII, có sự lãnh đạo của các
triều đại có chính sách trị nước và kế sách giữ nước tiến bộ mà tiêu biểu là các vương
17
triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ và Tây Sơn. Dân tộc ta có truyền thống yêu
nước, thể hiện lòng yêu nước, thương nòi nồng nàn, ý thức tự chủ, tự cường mạnh mẽ,
tinh thần đoàn kết cao và ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù mãnh liệt. Đó là những
nền tảng vững chắc, là nguồn gốc sức mạnh của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong
các cuộc chiến tranh.
Nghiên cứu về chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong lịch sử chống
ngoại xâm từ thế kỷ thứ III trước công nguyên đến thế kỷ thứ XVIII, chúng ta thấy
mặc dù ông cha ta luôn phải đương đầu với các thế lực xâm lược phương Bắc lớn
mạnh hơn ta nhiều lần. Nhưng trong các cuộc chiến tranh đó, dân tộc ta không những
dám đánh mà còn biết đánh và đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Truyền thống và những kinh nghiệm quý báu về chiến tranh và nghệ thuật quân
sự của ông cha ta trong thời kỳ lịch sử đó đã được dân tộc ta tiếp tục vận dụng, kế
thừa, phát triển và đã lập nên những chiến công to lớn trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Những truyền thống và kinh nghiệm đó ngày nay vẫn được
Đảng ta, quân và dân ta tiếp tục vận dụng và phát triển lên đỉnh cao mới trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1. Từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ XVIII các cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh diễn ra như thế nào?
2. Đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống ngoại xâm của dân
tộc ta từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ XVIII?
3. Đặc điểm của nghệ thuật quân sự Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ III trước công
nguyên đến thế kỷ XVIII?
4. Sự hình thành và phát triển chiến thuật trong các cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ XVIII?
18
Chương 2
LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
2.1. Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong Cách mạng tháng Tám
2.1.1. Quan điểm về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin
Thực tiễn cuộc đấu tranh vũ trang thắng lợi của toàn dân ta trong Cách mạng
tháng Tám đã chứng tỏ sự lãnh đạo tài giỏi, sáng tạo của Đảng. Trong Tổng khởi
nghĩa, việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ phong
trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị và nổi dậy của quần
chúng cả nước đã làm sáng rõ thêm một số quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin về
đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa vũ trang.
Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn coi lãnh đạo, chỉ đạo và
thực hành khởi nghĩa là một nghệ thuật. Nói về thời cơ phát động khởi nghĩa, trong
cuốn “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản”, V.I. Lênin viết “Khi bước
vào thời kỳ hoạt động thực tiễn của quần chúng - thời kỳ phân bố - nếu như có thể nói
như thế - những đạo quân đông hàng triệu người - thời kỳ bố trí tất cả những lực lượng
của một giai cấp, của một xã hội nào đó để đấu tranh một trận cuối cùng và quyết
định” thì “phải xem xét những lực lượng có tác dụng lịch sử của tất cả các giai cấp
(nhất thiết là của tất cả các giai cấp, không trừ một giai cấp nào cả) trong một xã hội
nhất định, đã được bố trí hoàn toàn đầy đủ cho một trận đánh quyết định chưa, đã được
bố trí sao cho (1) Tất cả các lực lượng giai cấp thù địch với chúng ta lâm vào cảnh khá
bối rối phải xâu xé lẫn nhau khá nhiều, đã suy yếu đi nhiều vì một cuộc đấu tranh quá
sức chúng; (2) Sao cho tất cả các phần tử trung gian, do dự, bấp bênh, không ổn định tức giai cấp tiểu tư sản, phái dân chủ tiểu tư sản đối lập với giai cấp tư sản - bị lột mặt
nạ đầy đủ trước nhân dân và khá bẽ bàng vì sự phá sản của họ trong thực tiễn; (3) Sao
cho trong nội bộ giai cấp vô sản phải nảy sinh một trào lưu tư tưởng mạnh mẽ tán
thành hành động kiên quyết nhất, dũng cảm và cách mạng nhất chống giai cấp tư sản...
chỉ lúc đó cách mạng mới chín muồi,... thắng lợi của chúng ta mới được đảm bảo.
Trong tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức”, khi bàn về khởi nghĩa,
Ăng-ghen nhấn mạnh: “Khởi nghĩa là một nghệ thuật, cũng y như chiến tranh hay bất
cứ nghệ thuật nào khác, khởi nghĩa phải tuân theo một số quy tắc nhất định, đảng nào
mà quên mất những quy tắc ấy sẽ không tránh khỏi bị tiêu vong... Thứ nhất, không bao
giờ được đùa với khởi nghĩa, trừ phi đã hoàn toàn quyết tâm đối phó với những hậu
quả của trò đùa khởi nghĩa là một bài toán có những đại lượng rất bất định mà giá trị
có thể thay đổi hàng ngày; lực lượng của đối phương có đủ mọi ưu thế về tổ chức, về
kỷ luật và quyền uy vốn có từ lâu; nếu không có những lực lượng mạnh hơn hẳn để đối
phó với đối phương thì chắc chắn là sẽ thua và bị tiêu diệt. Thứ hai, một khi đã bước
vào con đường khởi nghĩa, phải hành động với một quyết tâm rất lớn và phải giành thế
tấn công. Phòng ngự là sự diệt vong của mọi cuộc khởi nghĩa vũ trang; khởi nghĩa sẽ
thất bại ngay trước khi đọ sức với kẻ thù. Phải tấn công đối phương một cách bất ngờ
khi lực lượng của nó còn tản mạn; từng ngày, phải giành được những thắng lợi mới, dù
nhỏ đi nữa; phải giữ vững ưu thế tinh thần do cuộc nổi dậy đầu tiên đem lại; phải tranh
thủ những phần tử dao động bao giờ cũng đi theo lực lượng mạnh nhất và luôn luôn
tìm đứng về phía vững chắc nhất; phải buộc kẻ thù rút lui trước khi nó có thể tập hợp
lực lượng chống lại...”.
19
Trong bức thư nhan đề “Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa vũ trang” gửi Ban Chấp
hành trung ương Đảng Công nhân dân chủ - xã hội (b) Nga, Lênin viết: “Muốn thắng
lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng mà phải dựa
vào giai cấp tiên phong, đó là điểm thứ nhất. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào cách
mạng của nhận dân, đó là điểm thứ hai. Khởi nghĩa phải dựa vào bước ngoặt trong lịch
sử của cuộc cách mạng đang lên khi mà tính tích cực của những bộ phận tiên tiến trong
nhân dân lên cao hơn cả, khi mà những dao động trong hàng ngũ địch và trong hàng
ngũ những người bạn mềm yếu, lừng chừng và không kiên quyết của cách mạng, mạnh
hơn cả... nhưng một khi đã có đầy đủ ba điều kiện ấy mà lại không chịu coi khởi nghĩa
là một nghệ thuật, như thế là phản lại chủ nghĩa Mác, phản bội cách mạng”.
2.1.2. Sự chuẩn bị về đường lối, quan điểm của Đảng cho tổng khởi nghĩa
tháng Tám
Thấm nhuần quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi
nghĩa và đấu tranh cách mạng, ngay từ khi mới ra đời, trong Luận cương chính trị
(tháng 10 năm 1930) Đảng đã sớm xác định con đường đánh đổ chính quyền thực dân,
phong kiến, giành chính quyền về tay công nông là con đường vũ trang lao động:
“Nhiệm vụ của Đảng là phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô
sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng. Đến lúc sức cách mạng lên rất
mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe cách
mạng, quần chúng công nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hy sinh chiến đấu, thì Đảng
phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch, nhận và giành lấy
chính quyền cho công nông”.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11 năm 1939) họp ở Bà Điểm (Nam Bộ) đã
nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh: “Tất cả mọi vấn đề của cách mạng, cả
vấn đề điền địa, cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết “. Bởi vì lúc này, mâu
thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với đế quốc xâm lược trở thành mâu thuẫn chủ yếu,
cần “dự bị những điều kiện bước tới bạo động, làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Tháng 10 năm 1940, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc
Ninh) khẳng định chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung ương
lần thứ 6, là đúng. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 quyết nghị đặt hẳn vấn đề khởi
nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự của cách mạng: “Đảng phải chuẩn bị để gánh
lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương vũ trang
bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập”. Tuy nước ta “chưa đứng trước một tình thế
trực tiếp cách mạng” nhưng do tình hình quốc tế và trong nước ngày càng sôi động,
cách mạng nước ta có thể nổ ra bằng những cuộc khởi nghĩa địa phương ở những nơi
có điều kiện tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) tại Pắc Bó (Cao Bằng) tán thành các
nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và lần thứ 7 về chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, đã đi đến nhận định: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc
phát xít Pháp-Nhật là mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết một cách cấp
bách. Hội nghị nhấn mạnh:” Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải
đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải
quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những đoàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội nghị quyết định
20