MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC SINH YẾU KÉM
TẠI TRƯỜNG THPT THÁI HÒA
I. Mở đầu:.
1. Lý do chọn đề tài:
Sản phẩm của giáo dục là năng lực và chất lượng nguồn nhân lực tương lai của
một đất nước, trong đó, mục tiêu của giáo dục phổ thông là hình thành và phát triển
nền tảng tư duy, trí tuệ của con người trong thời đại mới, đào tạo ra những con người
vừa “hồng vừa chuyên”, đủ đức đủ tài. Ngày 26/8/2017, Bộ GD-ĐT đã ban hành chỉ
thị về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2016 – 2017 của ngành.Theo đó, phương hướng
chung là: Tăng cường kỷ cương, nền nếp và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, giáo dục phổ thông chú trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, kỹ năng sống, ý thức, trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng đồng, khắc
phục tình trạng dạy thêm, học thêm sai quy định. Để đáp ứng được mục tiêu trên đòi
hỏi đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục phải có tâm huyết, tận tụy với nghề, có
đủ phẩm chất, trình độ và năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp giáo dục, tạo bước chuyển biến nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, khắc
phục những bất cập, hạn chế đã và đang tồn tại.
Một trong những tình trạng đang tồn tại ở tất cả các trường, các cấp học hiện nay
là vấn đề HS học yếu, kém, học sinh bỏ học. Đây quả là một thực trạng đáng quan
ngại, là mối lo ngại chung cho toàn nghành, đòi hỏi cần có những biện pháp chấn chỉnh
kịp thời để không còn tái diễn trong những năm học tới. Thực tế cho thấy, việc học
sinh học yếu, kém, bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không
chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội. Khi học yếu, bỏ
học, tâm trạng chán chường, mặc cảm luôn đè nặng khiến những học sinh này thường
dễ bị kích động, lôi kéo. Từ đó có thể hình thành nên một lượng thanh thiếu niên thất
học, lêu lổng, dễ sa vào các thói hư tật xấu như bỏ nhà đi lang thang, gây gỗ, trộm cắp,
kết bè phái. Thậm chí một số trường hợp có thể sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp
luật.
Xuất phát từ thực trạng đáng quan ngại trên, trong những năm học gần đây và
đặc biệt trong năm học 2016 – 2017, tôi đã có những biện pháp quản lí, chỉ đạo cụ thể,
thiết thực để bồi dưỡng học sinh yếu, kém, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện tại trường THPT Thái Hòa.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu chất lượng đội ngũ, tình hình địa phương, thực trạng học sinh yếu
kém, học sinh bỏ học tại trường THPT Thái Hòa, từ đó, tìm ra nguyên nhân dẫn đến
thực trạng, đưa ra các biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ, chất lượng học
sinh yếu kém và chất lượng giáo dục toàn diện của trường THPT Thái Hòa.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đội ngũ giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, tình hình địa phương
- Đối tượng học sinh yếu kém tại trường Thpt Thái Hòa
- Những biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng học sinh yếu kém
4. Kế hoạch nghiên cứu: Thực hiện trong năm học 2016 – 2017 ( từ tháng 8/2016 đến
tháng 5/2017)
- Xây dựng ý tưởng .
- Lập danh mục tài liệu nghiên cứu
- Xây dựng đề cương nghiên cứu
- Lập kế hoạch thực hiện đề tài, thực nghiệm đề tài trong thời gian năm học
- Rút kinh nghiệm từ thực tiễn
5. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu các tài liệu, điều tra, so sánh, đưa ra giải
pháp và rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
II. Nội dung.
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
Đội ngũ trong trường trung học phổ thông là nguồn nhân lực của nhà trường bao
gồm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giáo viên, nhân viên trong trường. Đội ngũ giáo
viên là lực lượng chủ chốt giữ vai trò quan trọng để biến các mục tiêu giáo dục thành
hiện thực. Trong văn kiện hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khóa VIII đã
khẳng định: “ Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục”. Trong nhà
trường trung học phổ thông, người thầy có sự tác động mạnh đến quá trình hình thành
và phát triển nhân cách của người học sinh. Khác với các loại hình lao động khác, lao
động sư phạm của người giáo viên là loại hình lao động mang tính đặc thù. Đối tượng
lao động sư phạm ở đây là học sinh với lứa tuổi có sự phát triển cao về tâm lí, sinh lý,
có nhu cầu cao về trí tuệ và tình cảm. Phương tiện lao động là nhân cách người thầy
cùng các thiết bị dạy học, trong đó nhân cách người thầy có vai trò quan trọng nhất.
Thời gian lao động của người giáo viên không chỉ là thời gian quy định trong chương
trình mà cần mang tính năng động, sáng tạo cộng với niềm say mê nghề nghiệp và tinh
thần trách nhiệm trước thế hệ trẻ và toàn xã hội. Hiệu quả và sản phẩm lao động sư
phạm là nhân cách phát triển toàn diện đạt mục tiêu phát triển của nhà trường. Nhà
trường không được phép “ sản xuất ra phế phẩm”. Học sinh tốt nghiệp trung học phổ
thông phải đáp ứng những nhu cầu phát triển của bản thân, gia đình và xã hội. Để đáp
ứng nhu cầu này đòi hỏi đội ngũ giáo viên trong nhà trường phải thường xuyên học
tập, bồi dưỡng, rèn luyện, từ đó mới có đủ khả năng thực hiện sứ mệnh của mình, mới
xứng đáng là nguyên khí của một trường trung học phổ thông. Với tính chất đặc thù
trong lao động sư phạm của người giáo viên được nêu ở trên, người cán bộ quản lý
trường học cần phải hiểu đúng tầm quan trọng của công tác xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên, đó là vấn đề sống còn quyết định chất lượng dạy học của nhà
trường.
Đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng học sinh yếu kém là
một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Nó đáp ứng được việc “Học
thật thi thật”, việc “chạy theo thành tích” mà ngành giáo dục đang thực hiện.
Thật ra bất cứ hoạt động nào của giáo viên trên lớp cũng đều giáo dục
cao, đều giúp cho học sinh ham thích học tập và học tập có tiến bộ. Trong một
tiết dạy, trong buổi lao động, buổi nói chuyện, một phong trào hoạt động của
đội, của nhà trường đều cung cấp kiến thức cho học sinh, đều có thể giúp đỡ học
sinh yếu kém tiến bộ hơn. Điều quan trọng là giáo viên có biết cách áp dụng để
giúp đỡ học sinh yếu kém hay không. Khi học sinh học yếu kém không những các em
hụt hẫng đi kiến thức mà các em còn mất đi sự tự tin, tính năng động... và điều này ảnh
hưởng đến cả cuộc sống sau này của các em. Nhiều em vì học yếu kém mà bỏ học...
sau này sẽ không có công ăn việc làm tốt đẹp, năng suất lao động thấp kém ảnh hưởng
đến đời sống gia đình...Do đó việc giúp đỡ học sinh yếu kém, chỉ đạo nâng cao chất
lượng học sinh yếu kém học tập có tiến bộ là một công việc rất quan trọng của người
giáo viên, người làm công tác quản lí.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
Trường THPT Thái Hoà đóng trên địa bàn xã Thái Hoà - huyện Hàm Yên - Tỉnh
Tuyên Quang. Địa bàn tuyển sinh của nhà trường chủ yếu gồm các xã phía nam của
huyện Hàm Yên: Thái Hòa, Thái Sơn, Hùng Đức, Đức Ninh, Thành Long. Đây đều là
là các xã miền núi, trình độ dân trí chưa cao, đời sống của nhân dân còn nhiều khó
khăn, thu nhập chính của người dân là từ kinh tế nông – lâm nghiệp thuần túy, trong đó
có các xã thuộc vùng kinh tế đặc biệt khó khăn như Hùng Đức, Thành Long ( thuộc
vùng 135) .
Tổng số cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường là 59 người, trong đó 100%
giáo viên đều đạt chuẩn nhưng đội ngũ giáo viên đa số còn trẻ, đa phần là nữ giới đang
ở độ tuổi sinh nở, nuôi con nhỏ, trong đó có rất nhiều giáo viên nhà ở xa trường trên 20
Km. Những khó khăn trên cũng ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công
việc. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của một bộ phận giáo
viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm chưa cao. Sự kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và tổ
chức hội phụ huynh trong việc giáo dục học sinh yếu kém, học sinh cá biệt còn hạn
chế. Việc thực hiện phân loại học sinh trong lớp để lên kế hoạch bồi dưỡng, tổ chức
phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém hiện nay chưa thật tích cực.Trong khi, công việc
này lại đòi hỏi nhiều công sức, sự kiên trì và tâm huyết của những người có liên quan.
Tình hình quản lý nề nếp học tập của học sinh hiện nay cũng chưa thật tốt. Đối
với những học sinh lười học, học kém thì việc phải ngồi liên tục trong lớp ở tất cả các
tiết học, các buổi học thực sự là một “cực hình”. Khi đó, sức nặng của bản Nội quy nhà
trường không đủ để răn đe nên những học sinh này luôn tìm cách trốn học. Trốn học
nhiều làm cho kết quả học tập ngày càng giảm sút, điểm tổng kết thấp dưới trung bình,
tất nhiên phải lưu ban. Bên cạnh đó, do bận rộn với công việc mưu sinh nên rất nhiều
phụ huynh đã không quản lý nổi tình hình học tập của con em mình, cứ thấy con em
hàng ngày đi học nhưng thực tế chúng đi đâu, làm gì phụ huynh không hề biết.Thậm
chí có phụ huynh khi thấy nhà trường mời đến họp xét kỷ luật học sinh mới biết con
mình đã vi phạm nghiêm trọng Nội quy nhà trường. Nhiều gia đình do nhiều lí do khác
nhau, gần như không hề quan tâm đến việc học hành của con cái. Bên cạnh đó, Internet
và Games phát triển kéo theo tình trạng học sinh mê các trò chơi điện tử dẫn đến học
tập sa sút và bỏ học.
Chất lượng tuyển sinh đầu vào hàng năm còn thấp, lỗ hổng kiến thức các năm
học trước ở nhiều học sinh mới tuyển lớn ( ví dụ: điểm sàn đầu vào lớp 10; một số năm
học liền kề ). Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỉ lệ học sinh yếu
kém còn nhiều.
Nhiều học sinh do hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em phải phụ giúp gia đình
làm kinh tế nên không có nhiều thời gian dành cho việc học. Một số học sinh thiếu
hứng thú học tập, một phần do tiết dạy của thầy cô trên lớp chưa tạo được hứng thú
thực sự cho học sinh, một phần do học sinh chưa có nhận thức đúng đắn về động cơ và
mục đích học tập của bản thân, kết hợp với sự thiếu quan tâm của gia đình và lỗ hổng
kiến thức từ trước nên có tâm lí trây ì, ngại học, lười học.
Nhận thấy rõ những nguyên nhân cốt yếu ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục
của nhà trường, trong những năm vừa qua, BGH đã có kế hoạch chỉ đạo dài hạn, chỉ
đạo giáo viên có các biện pháp tổ chức khoa học, khâu bồi dưỡng hợp lý đối với đối
tượng học sinh yếu, kém nên hàng năm nhà trường đã giảm được tỉ lệ học sinh yếu
kém, tuy nhiên tỉ lệ giảm chưa cao .
Xuất phát từ thực trạng trên, trong năm học 2016 – 2017, với cương vị là phó
hiệu trưởng, phụ trách công tác chuyên môn, tôi nhận thấy cần phải có những biện
pháp cụ thể, hữu hiệu, triệt để hơn nữa nhằm khắc phục nguyên nhân, đẩy lùi thực
trạng, nâng cao chất lượng dạy và học, giảm tối đa tỉ lệ học sinh yếu, kém, học sinh bỏ
học
3. Các biện pháp đã được sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để giảm tỷ lệ học sinh yếu kém, giải quyết triệt để tình trạng học sinh bỏ học không
phải là việc dễ dàng, cần có các giải pháp đồng bộ, có sự đồng tâm, hợp lực của toàn
thể đội ngũ cán bộ giáo viên, sự phối kết hợp chặt chẽ của gia đình học sinh, các tổ
chức, đoàn thể, các cấp, các ngành. Sau đây, là những biện pháp cụ thể tôi đã thực hiện
tại trường THPT Thái Hòa trong năm học 2016 – 2017.
3.1 Biện pháp tổ chức ôn tập, phụ đạo bồi dưỡng kiến thức cho học sinh yếu, kém
* Bước 1: Phát hiện, nghiên cứu đối tượng, lập hồ sơ theo dõi
BGH chủ động xây dựng kế hoạch khảo sát và tổ chức khảo sát, rà soát chất
lượng học sinh toàn trường ở tất cả các môn học, đặc biệt là đối với các môn khoa học
tự nhiên, khoa học xã hội và môn ngoại ngữ.
Chỉ đạo giáo viên thực hiện kế hoạch khảo sát chất lượng học sinh. Ngay từ đầu
năm tổ chức ngay một đợt khảo sát chất lượng đầu năm và cần phải tiến hành thật
nghiêm túc, việc đánh giá học sinh phải được thực hiện một cách khách quan, chính
xác, công bằng...Sau khi thực hiện việc khảo sát, rà soát, đánh giá chất lượng học sinh,
giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lập danh sách học sinh yếu, kém của từng lớp,
từng môn học, kể cả những học sinh trung bình có biểu hiện giảm sút chất lượng học
tập, xác định mức độ và nguyên nhân yếu kém của học sinh ở từng môn học, để từ đó
xây dựng kế hoạch và tổ chức phụ đạo, giúp đỡ các em vươn lên trong học tập.
Sau khi phát hiện đối tượng, giáo viên tiến hành nghiên cứu tìm hiểu, phân tích
nguyên nhân đối với từng đối tượng cụ thể, sau đó lập hồ sơ học sinh yếu kém, lưu giữ
hồ sơ để thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin liên quan đến đối tượng.
• Bước 2: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đối tượng.
Sau khi đã có kết quả phân loại học lực học sinh, cần lựa chọn những giáo viên có
năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm tốt, tiến hành phụ đạo, bồi dưỡng kiến
thức cho những học sinh yếu kém. Việc phụ đạo cho học sinh; có thể tổ chức chung
cho một số lớp hoặc theo khối lớp; lập danh sách có kiểm tra, cho điểm, đánh giá, theo
dõi kết quả học tập phụ đạo của mỗi học sinh.
Chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn đưa nội dung bồi dưỡng học sinh yếu, kém từng
môn học vào các buổi sinh hoạt chuyên môn ngay từ đầu năm học. Tại các buổi sinh
hoạt này, các giáo viên tập trung trao đổi, thảo luận bàn về nguyên nhân và biện pháp
để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là việc bồi dưỡng đối tượng học
sinh yếu kém của từng môn học cụ thể.
Chỉ đạo, tổ chức Hội thảo cấp trường bàn về các biện pháp nâng cao chất lượng
học sinh yếu kém. Hội thảo đã tạo điều kiện cho các giáo viên trao đổi kinh nghiệm,
học tập lẫn nhau qua việc chia sẻ sáng kiến của mỗi người và đã chọn ra được những
sáng kiến hay, có chất lượng tốt. Từ những kinh nghiệm và giải pháp đã đã được bàn
bạc, rút kinh nghiệm trong buổi hội thảo, từ những sáng kiến hay, thiết thực được ghi
nhận, các tổ chuyên môn, cá nhân giáo viên hoàn thiện kế hoạch bồi dưỡng học sinh
yếu, kém. Kế hoạch phải được xây dựng một cách khoa học, có nội dung chương trình
bồi dưỡng cụ thể, sát đối tượng để tránh tình trạng dạy tràn lan cho tất cả học sinh theo
kiểu học đại trà, và “làm cho có” theo kiểu hình thức.
BGH, trực tiếp là phó hiệu trưởng phụ trách công tác chuyên môn kiểm tra, kí
duyệt kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu, kém của từng giáo viên, từng tổ chuyên môn
và lên kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu, kém cho tất cả các khối lớp, các môn học phù
hợp với điều kiện cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và kế hoạch năm học của nhà trường.
* Bước 3: Chỉ đạo, thực hiện kế hoạch bồi dưỡng đối tượng .
Quán triệt, đôn đốc đội ngũ cán bộ giáo viên thực hiện tốt các công việc và yêu
cầu sau:
Giáo viên được phân công nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh yếu kém thực hiện theo
chương trình đã xây dựng và theo thời khóa biểu của nhà trường, trong quá trình thực
hiện, giáo viên phải thường xuyên đánh giá, cập nhật hồ sơ theo dõi sự tiến bộ của học
sinh, kịp thời điều chỉnh nội dung và phương pháp bồi dưỡng cho hợp lí, sát đối tượng.
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh nhằm mục đích nắm được tình hình học tập
của các em, một mặt là giúp các em có thể nêu lên những thắc mắc về những điều các
em chưa hiểu trong tiết học chính khoá để giáo viên có thể giải đáp cho học sinh đồng
thời hướng dẫn cho học sinh làm bài tập, giải quyết những khó khăn, mặt khác ở
những buổi phụ đạo này, giáo viên từng bước bồi dưỡng kiến thức còn thiếu cho học
sinh, từng bước lấp đầy những chỗ hổng kiến thức của học sinh, giúp học sinh có
những kiến thức cơ bản nhất theo yêu cầu của chương trình học.
Giáo viên cần động viên, khích lệ ý thức, thái độ học tập cho học sinh. Giáo viên
phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng mang tính nghiêm khắc, tuyệt
đối không được đuổi học sinh ra ngoài, gây áp lực hoặc xúc phạm học sinh. Thường
xuyên kiểm tra đến vở ghi của các em, ưu tiên những câu hỏi, những bài tập vừa sức
cho các em. Điều đáng lưu ý ở đây là giáo viên luôn tôn trọng và làm cho học sinh cảm
thấy vẫn được tôn trọng, khuyến khích , tuyên dương khen ngợi kịp thời đối với từng
tiến bộ nhỏ của các em. Từ đó giáo viên làm cho các em có lòng tin vào bản thân mình
và cảm thấy vẫn còn giá trị với thầy cô và bạn bè và tập thể lớp.
Cuối mỗi học kì, nhà trường tổ chức bàn giao kết quả phụ đạo những học sinh
này cho giáo viên chủ nhiện lớp và giáo viên dạy chính khóa lớp đó để tiếp tục theo
dõi năng lực học tập của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn phải kết
hợp chặt chẽ, theo dõi, thông tin kịp thời đến gia đình về tình hình chuyển biến của
từng học sinh. Nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh học tập, gia đình
dành nhiều thời gian cho các em học tập ở nhà. Việc xét lên lớp, cho lưu ban đối với
học sinh chỉ giải quyết vào dịp kết thúc năm học theo quy chế đánh giá, xếp loại học
sinh ( Quyết định số 40 và 51) của Bộ GD&ĐT và Điều lệ trường trung học.
Tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn phối hợp với BGH nhà trường thường
xuyên nhắc nhở, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, đặc biệt là
hiệu quả, chất lượng của các buổi học để kịp thời đôn đốc, chấn chỉnh những thiếu sót,
hạn chế trong hoạt động này.
3.2 Một số biện pháp tăng cường chỉ đạo các hoạt động chuyên môn, bồi dưỡng
giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, khắc phục tình trạng học
sinh yếu, kém.
3.2.1 Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, tác phong
lành mạnh, bồi dưỡng long nhân ái, yêu nghề cho giáo viên:
- Làm cho cán bộ giáo viên trong nhà trường nhận thức rõ vai trò quan trọng và
mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Thường xuyên cho giáo viên sinh hoạt nâng cao tư tưởng chính trị, coi trọng
công tác dân chủ đặc biệt khâu đoàn kết trong nội bộ, giáo dục tập thể để thấy rõ vai
trò to lớn của đoàn kết (đoàn kết là nguyên nhân của mọi thắng lợi).
- Coi trọng công tác động viên, tuyên truyền, mạnh dạn đặt niềm tin vào giáo
viên để khơi dậy sự năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong đội ngũ. Xây dựng
mối đoàn kết gắn bó giữa giáo viên và phụ huynh học sinh, nêu rõ được trách nhiệm
của mỗi bên để cùng phối hợp giáo dục.
- Xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa giáo viên với lãnh đạo Đảng, chính quyền
địa phương, với BGH cũng như các tổ chức đoàn thể, cùng phối hợp làm công tác giáo
dục để giáo dục dào tạo thực sự là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
- Đặc biệt coi trọng tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm trong việc tự học, tự bồi
dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng với nhiệm vụ mới
của giáo dục. Luôn coi trọng kết quả chất lượng giáo dục, lấy học sinh làm thước đo
cuối cùng để đánh giá chất lượng và sự cố gắng của đội ngũ giáo viên.
- Trong quá trình bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, phẩm chất đạo đức
của người thầy phải được coi trọng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người thầy phải xứng
đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Phải xây dựng thói quen làm việc có kỷ
cương, nề nếp, lương tâm, trách nhiệm. Thông qua bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho
thầy cô giáo có niềm tự hào gắn bó với nghề, với trường để tạo động lực phát triển nhà
trường. Hàng năm, nhà trường kết hợp với tổ chức công đoàn cho giáo viên nghiên cứu
luật giáo dục, luật công chức. Xây dựng hòm thư góp ý để kịp thời điều chỉnh các hành
vi thiếu chuẩn mực của giáo viên
-
Bồi dưỡng lòng nhân ái sư phạm cho đội ngũ giáo viên là nội dung quan trọng
trong công tác bồi dưỡng chất lượng giáo viên. Tình yêu thương học sinh là điểm xuất
phát của mọi sự sáng tạo sư phạm và làm cho giáo viên có trách nhiệm cao với công
việc. Tình yêu thương học sinh thể hiện trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục, đó
cũng là điểm xuất phát của tình yêu nghề nghiệp. Để tăng thêm lòng yêu nghề của
người thầy, tập thể học sinh có sự tác động mạnh. Nhà trường kết hợp với tổ chức
Đoàn thanh niên và Hội cha mẹ học sinh trong trường giáo dục con em, xây dựng kỷ
cương nề nếp dạy học để tăng thêm lòng yêu trường, mến lớp trong mỗi người thầy
3.2.2. Xây dựng kế hoạch, quy chế làm việc khoa học nhằm nâng cao hiệu
quả của các hoạt động dạy và học trong nhà trường:
Thực hiện chỉ đạo các tổ, các cá nhân làm việc theo kế hoạch, tất cả công việc
phải được kế hoạch hoá, cụ thể hóa, tiêu chuẩn hoá, phải tuân thủ các quy định cụ thể:
Quy dịnh về hồ sơ giáo viên; Quy định về soạn bài, chấm bài; Quy định về hội họp,
chế độ thông tin báo cáo... Thông qua các quy chế trên để cán bộ giáo viên có lề lối
làm việc khoa học, từ đó siết chặt được kỷ cương, nề nếp trong nhà trường.
3.2.3. Tăng cường củng cố hoạt động của tổ chuyên môn nhằm nâng cao
chất lượng học sinh yếu kém
Hoạt động hiệu quả của mỗi giáo viên sẽ tạo ra điều kiện tốt nhất để mỗi giáo
viên tự học hỏi lẫn nhau về kiến thức, chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, từ đó nâng
cao trình độ năng lực của mình. Với vai trò như vậy đòi hỏi tổ chuyên môn phải được
tổ chức hợp lý và hoạt động có nề nếp và khoa học. Chỉ đạo tổ chuyên môn phải: Có
nội dung sinh hoạt cụ thể bằng kế hoạch hàng tháng, hàng kỳ, cả năm học. Nội dung
sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn phải có đủ các nội dung như: Đánh giá kết quả công
tác tuần trước; Triển khai công tác tuần tới; Thảo luận, thống nhất chương trình ; Có kế
hoạch kiểm tra thường xuyên việc thực hiện quy chế chuyên môn, quy định của nhà
trường; Phân công cụ thể người giúp đỡ những giáo viên mới ra trường hoặc những
giáo viên còn yếu về từng mặt; Tập trung trí tuệ xây dựng và ứng dụng các chuyên đề
dạy học mang tính cụ thể, thiết thực như:
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học
+ Các biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học chính khóa và
học ôn
+ Cách dạy bài khó trong chương trình
+ Nội dung và biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém, học sinh giỏi, nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện
+ Biện pháp bồi dưỡng học sinh yếu kém trong giờ dạy chính khóa
+ Cách sử dụng có hiệu quả đồ dùng, phương tiện dạy học...
3.2.4 Phát động phong trào viết SKKN trong toàn trường, tập trung vào yêu
cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng học sinh yếu kém, nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
Quy định viết sáng kiến kinh nghiệm là một tiêu chí trong đánh giá thi đua của
giáo viên. Tuyệt đối không để việc viết sáng kiến trong nhà trường chỉ là một “phong
trào” trên sách vở, lí thuyết, xa rời thực tiễn, thiếu tính ứng dụng. Để làm được điều
đó, tôi đã:
- Động viên khích lệ 100 % giáo viên đăng kí đề tài sáng kiến các cấp
- Định hướng giáo viên lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: tập trung vào giải
quyết các vấn đề còn tồn đọng, các nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, của ngành
giáo dục, đặc biệt là vấn đề “ Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá”, Bồi
dưỡng học sinh giỏi, học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện...
- Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên lập đề cương sáng kiến
- Chỉ đạo, tổ chức thảo luận đề cương sáng kiến cấp tổ, cấp trường giúp mỗi giáo
viên hoàn thành bản đề cương sáng kiến, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình xây dựng đề cương và thực hành sáng kiến
- Đánh giá chính xác hiệu quả ứng dụng của từng sáng kiến
- Nêu gương điển hình, nhân rộng những sáng kiến hay, những việc làm tốt...
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra của Ban giám hiệu và của tổ chuyên
môn.
Kiểm tra là một trong bốn nội dung, chức năng của người cán bộ quản lý
trong công việc quản lý nhà trường. Kiểm tra là vũ khí, là động lực cho sự phát triển.
Trong nhà trường, thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra chính là nhắc nhở mọi
người làm việc đúng, đồng thời phát hiện kịp thời những mặt tốt để phát huy, tìm ra
những mặt hạn chế để khắc phục. Thói quen nghiêm túc, làm việc có kế hoạch khoa
học trong công việc không phải tự nhiên ai cũng có mà hầu hết được hình thành và
phát triển trong suốt cả quá trình công tác mà lúc đầu thường là chưa tự giác. Nói tóm
lại là làm tôt công tác kiểm tra theo đúng nguyên tắc, thiết thực sẽ tạo nên hiệu quả
đích thực, giúp mỗi người ngày càng tự giác và nghiêm túc hơn.
Chúng tôi xác định nội dung kiểm tra là việc thực hiện các quy định về chuyên
môn như: kế hoạch giảng dạy, soạn giáo án, thực hiện chương trình, thực hiện chế độ
kiểm tra cho điểm, việc chấm, chữa bài cho học sinh, việc dự giờ thăm lớp, tự học,
công tác chủ nhiệm và một số công tác khác. Ngoài kiểm tra theo lịch chúng tôi chú
trọng việc kiểm tra đột xuất, nhất là dự giờ đột xuất và việc thực hiện quy chế chuyên
môn. 100% giáo viên được dự giờ đột xuất ít nhất 1 lần trong một học kỳ. Sử dụng kết
quả kiểm tra để nhắc nhở, rút kinh nghiệm những giáo viên thực hiện chưa tốt hoặc có
thiếu sót trong quá trình công tác, đồng thời tuyên dương, khích lệ những cá nhân làm
tốt từ đó nhân rộng điển hình. Khi cán bộ, giáo viên bị nhắc nhở 2 – 3 lần mà vẫn
không sửa chữa sẽ bị kiểm điểm.
Vì việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên từ tổ đến Ban giám hiệu nên
không có giáo viên nào vi phạm quy chế chuyên môn. Trong quá trình kiểm tra chủ
yếu phát hiện ra một số tồn tại của giáo viên để nhắc nhở. Nhờ kiểm tra nhắc nhở mà
những thiếu sót này dần dần được khắc phục.
3.3 Tăng cường phối kết hợp với gia đình học sinh và các tổ chức đoàn thể trong
công tác bồi dưỡng học sinh yếu kém.
Cần tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Cụ thể, cần có
một sự phối hợp chặt chẽ, có chiều sâu giữa: Ban giám hiệu - Giáo viên chủ nhiệm –
Cha mẹ học sinh – Chính quyền, Đoàn thể địa phương để tất cả những học sinh có biểu
hiện sa sút về học tập hoặc vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật phải được quản lý và có
biện pháp ngăn ngừa, giáo dục ngay từ đầu. Hơn lúc nào hết, đối với những học sinh
này rất cần sự nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng, nhiệt tình của các lực lượng trong
xã hội.
3.3Tổ chức khen thưởng, động viên giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh yếu kém :
Bồi dưỡng học sinh giỏi đã khó, bồi dưỡng học sinh yếu kém đạt chất lượng lại
càng khó hơn. Vì thế cần phải có sự động viên, đây là biện pháp quan trọng nhằm kích
thích, động viên sự tích cực hoạt động và nhiệt tình của giáo viên làm cho chất lượng
và hiệu quả công việc ngày càng tốt hơn, điều quan trọng là làm sao lôi cuốn được
phong trào học bồi dưỡng của học sinh yếu kém vì đối tượng này rất lười học.
Ban giám hiệu cần có biện pháp kích thích giáo viên về mặt tinh thần (khen
trước hội đồng đối với giáo viên đạt chỉ tiêu đề ra). Sự quan tâm đặc biệt của Ban
giám hiệu là điểm rất quan trọng, giúp giáo viên hết mình với trường, với phong trào
như: Thường xuyên thăm hỏi, trao đổi về công tác bồi dưỡng học sinh yếu kém của họ,
giúp đỡ ngay khi có khó khăn, đề xuất, đừng để họ nản chí, luôn tạo cho giáo viên sự
hưng phấn trong quá trình bồi dưỡng, từ đó chính mình cũng phát hiện ra những giải
pháp hay mà mình cần phải tiếp tục chỉ đạo trong công tác này.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Bằng tác động của những giải pháp trên, chất lượng của đội ngũ của trường
được nâng lên một cách rõ rệt:
- Về tư tưởng chính trị: Giáo viên đã phấn khởi bám trường, bám lớp, tâm huyết,
say sưa với nghề. Trong công việc, mọi người có ý thức tự giác thực hiện nghiêm túc
chủ trương, chương trình chính sách của Đảng, pháp luạt của nhà nước, các quy định
của ngành, của trường. Thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
Nhà nước, tích cực tham gia các hoạt động và các công việc đạt hiệu quả cao hơn.
- Về chuyên môn: Qua kiểm tra, dự giờ thăm lớp, qua các đợt khảo sát chất
lượng, đánh giá xếp loại học sinh cuối năm, các hội thi cho thấy chất lượng chuyên
môn, chất lượng giáo dục, chất lượng mũi nhọn cũng được đẩy mạnh.
BIỂU 1: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
Xếp
loạiXếp
loạiXếp
phẩm
chất
chính
trị
Năng
lực
chuyên
môn
chủ nhiệm
SL Số
GV lớp TỐT
KHÁ TB
TỐT KHÁ TB
YẾU TỐT KHÁ
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
Năm
học
loại
TB
SL %
20152016
20162017
BIỂU 2: CHẤT LƯỢNG HỌC SINH
Xếp
loạiXếp
hạnh
kiểm
học lực
Số Số
lớp HS HTĐĐ CĐĐ G
K
SL % SL % SL % SL
Năm
học
loạiHS
lớp
%
TB
SL %
lênHT
CTTH
Y
SL % SL %
SL %
2015-2016
2016-2017
Qua bảng thống kê chất lượng đội ngũ và chất lượng học sinh cho thấy chất lượng
toàn diện năm học 2016 – 2017 tăng nhiều so với năm học 2015 - 2016. Tỷ lệ học sinh
có học lực xếp loại Khá, Giỏi được tăng đáng kể. Đặc biệt tỷ lệ học sinh yếu giảm
mạnh. Đây là thắng lợi bước đầu mà bản thân tôi thiết nghĩ mình cần phải có những
biện pháp, những kinh nghiệm có giá trị hơn nữa để đưa chất lượng giáo dục của nhà
trường ngày một nâng cao.
III. Kết luận và kiến nghị:
1. Kết luận:
Việc giúp đỡ học sinh yếu kém học tập có tiến bộ là một công việc lâu dài và tiến
hành thường xuyên. Nếu chúng ta chú trọng đến nó sẽ mạng lại lợi ích rất lớn cho công
tác giáo dục
Thấy được hiệu quả tích cực của việc đổi mới trên, bản thân tôi sẽ tiếp tục vận
dụng nội dung này trong các năm học kế tiếp, đồng thời trao đổi kinh nghiệm với đồng
nghiệp để tiếp tục phát huy những điểm tích cực của sáng kiến và thấy được những hạn
chế cần khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường.
Phần trình bày trên đây chỉ là những kinh nghiệm được đúc kết từ thực tiễn dạy, là
những điều mà các đồng nghiệp có thành tích tốt đã làm. Với những kinh nghiệm còn
mang tính chủ quan, chắc chắn độ sâu sắc chưa cao nhưng tôi rất mong đây sẽ là tiếng
nói nhỏ để cộng hưởng cùng những trăn trở của đồng nghiệp, của toàn ngành và rất
mong nhận được những ý kiến góp ý từ phía đồng nghiệp cho bài viết nhỏ này.
2. Kiến nghị:
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO