Tải bản đầy đủ (.ppt) (24 trang)

Tư liệu Đông NAm Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 24 trang )


Bài Thực Hành
Các nước ĐÔNG NAM Á
MALAYSIA


Quốc kỳ Quốc huy




Malaysia (tiếng Mã Lai: Malaysia;âm Hán Việt: Mã Lai Tây Á) là một
liên bang gồm mười ba bang tại Đông Nam Á.Nước này gồm hai vùng địa lý
bị chia tách bởi Biển Đông

Bán đảo Malaysia (hay Tây Malaysia) trên Bán đảo Malay có biên giới
trên bộ ở phía bắc với Thái Lan và thông qua Đường nổi Johor-Singapore
và Đường nối Malaysia-Singapore thứ hai ở phía nam nối với Singapore.
Nó gồm chín lãnh thổ quốc vương hồi giáo (Johor, Kedah, Kelantan,
Negeri Sembilan, Pahang, Perak, Perlis, Selangor và Terengganu), hai
bang dưới sự lãnh đạo của Thống đốc (Malacca và Penang), và hai lãnh
thổ liên bang (Putrajaya và Kuala Lumpur).

Đông Malaysian (hay Borneo thuộc Malaysia) chiếm phần phía bắc đảo
Borneo, giáp biên giới với Indonesia và bao quanh Vương quốc Hồi giáo
Brunei. Nó gồm các bang Sabah và Sarawak lãnh thổ liên bang Labuan .

Cái tên "Malaysia" được chấp nhận năm 1963 khi Liên bang Malaya (tiếng
Malay: Persekutuan Tanah Melayu), Singapore, Sabah và Sarawak hình
thành một liên bang 14 bang. Singapore đã rời khỏi liên bang năm 1965
và sau đó trở thành một quốc gia độc lập.



Dù chính trị thuộc quyền thống trị của người Malay, xã hội Malaysia
hiện đại không đồng nhất, với cộng đồng người Trung Quốc và Ấn Độ khá
lớn. Chính trị Malaysia đáng lưu ý ở cái gọi là tính cộng đồng của nó;
ba thành phần chính của Barisan Nasional đều giới hạn đảng viên trong
sắc tộc của mình. Tuy nhiên, cuộc tranh giành bạo lực lớn duy nhất
giữa các cộng đồng từ khi giành được độc lập là vụ náo loạn chủng tộc
ngày 13 tháng 5 năm 1969 xảy ra khi chiến dịch vận động của một tranh
cử bị các vấn đề sắc tộc gây ảnh hưởng.

"Ma Lay" theo tiếng Mã Lai là "hoàng kim".


ايسيلم
Persukutuan Malaysia
Khẩu hiệu
Bersekutu Bertambah Mutu
(tiếng Mã Lai: "Đoàn kết là sức mạnh")Quốc ca
Negaraku

Thủ đôKuala Lumpur và Putrajaya

2°30′B, 112°30′ĐThành phố lớn nhấtKuala Lumpur

Ngôn ngữ chính thứctiếng Mã Lai

Chính phủquân chủ lập hiến liên bang

Vua Thủ tướng:Mizan Zainal Abidin
Abdullah Ahmad BadawiĐộc lập Từ Anh (chỉ Malaya)31 tháng 8 năm

1957 - Liên bang (với Sabah, Sarawak và Singapore² )16 tháng 9
năm 1963

Diện tích - Tổng số329,758 km² (hạng 64)
- Nước (%)0,3%Dân số - Ước lượng 200526.207.102 (hạng 46
) - Điều tra 200023.953.136 (hạng 46) - Mật độ78 /km² (hạng 97)
GDP (PPP)Ước tính 2005 - Tổng số290 tỷ đô la Mỹ (hạng 33) - Theo
đầu người12.106 đô la Mỹ (hạng 62)HDI (2003)0,796 (trung bình) (
hạng 61)

Đơn vị tiền tệRinggit Malaysia (RM) (MYR)Múi giờSST (UTC+8)

Tên miền Internet.my

Mã số điện thoại+60¹¹ 020 từ Singapore
² Singapore đã trở thành nước độc lập từ ngày 9 tháng 8 năm 1965


Địa lí
Địa lí

Vị trí địa lý
Đất nước Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á. Bán đảo xinh đẹp này tiếp giáp với Thái Lan và 1/3 đảo Borneo, giáp
với các nước như Brunei, và biển của Trung Quốc về phía Nam, và phía Nam của đất nước Việt Nam

Tọa độ địa lý
230 độ về phía Bắc , 112,30 độ về phía Đông

Diện tích
Tổng diện tích lãnh thổ là 329.750 km2 , trong đó diện tích đất liền chiếm 328.550 km2 và diện tích biển chiến 1.200 km2


Đường biên giới đất liền
Đường biên giới đất liên có tổng chiều dài là 2.669 km, trong đó đường biên giới đất liền của các quốc gia tiếp giáp như
sau: Brunei 381 km, Indonesia 1.782 km, Thailand 506 km

Đường bờ biển
Dài 4.675 km (trong đó bán đảo Malaysia dài 2.068, phía Đông Malaysia dài 2.607 km)

Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới , ẩm và đặc biệt có gió mùa hàng năm ở những khu vực phía Tây Nam (kéo dài từ tháng 4 đến tháng
10) và khu vực Đông Bắc ( kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 của năm sau)

Độ cao so với mặt biển
Điểm thấp nhất đạt 0m tại khu vực Ấn Độ Dương, và điểm cao nhất đạt được là 4.100m tại khu vực Gunung Kinabalu

Vấn đề môi trường hiện nay
Vấn đề ô nhiễm môi trường từ các chất thải công nghiệp và xe cộ; ô nhiễm nguồn nước từ các ống dẫn dầu thô; nạn
chặt phá rừng bừa bãi, và khói bụi/ khói mờ tỏa ra từ các đám cháy rừng ở nước lân cận Indonesia

Ghi chú về địa lý
Ở vị trí chiến lược dọc theo eo biển Malacca và biển Trung Quốc về phía Nam


Lịch Sử

Bán đảo Malay đã phát triển thịnh vượng nhờ vị trí trung tâm của mình trên những con đường thương mại trên biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và
Trung Đông. Ngay từ sớm, Ptolemy đã thể hiện trên tấm bản đồ của mình một dấu hiệu được dịch là "Bán đảo vàng", Eo Malacca được gọi là
"Sinus Sabaricus". Từ giữa tới cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đa số Bán đảo cũng như Quần đảo Malay were nằm dưới tầm ảnh hưởng của Srivijaya
.


Mọi người cho rằng ban đầu đây là những quốc gia Hindu hay Phật giáo. Bằng chứng đầu tiên của Hồi giáo trên bán đảo Malay có niên đại từ thế
kỷ 14 tại Terengganu, nhưng theo Biên niên sử Kedah, Maharaja Derbar Raja thứ 9 của Vương quốc Hồi giáo Kedah đã cải sang đạo Hồi và đổi
tên thành Quốc vương Hồi giáo Muzaffar Shah. Từ đó đã có 27 quốc vương Hồi giáo cai trị Kedah.

Có rất nhiều vương quốc Malay ở thế kỷ thứ 2 và 3 CE, theo các nguồn thông tin Trung Quốc, con số này lên tới 30. Kedah – cũng được gọi là
Kedaram hay Kataha, trong tiếng Pallava hay tiếng Phạn cổ – là con đường thương mại cũng như xâm lược trực tiếp của các nhà buôn và vua
chúa Ấn Độ. Rajendra Chola, hiện được cho là đã khiến Kota Gelanggi bị tàn phá, đã giày xéo Kedah năm 1025 nhưng người kế tục ông, Vir
Rajendra Chola, đã tiêu diệt một cuộc nổi dậy Kedah và đuổi quân xâm lược. Sự xuất hiện của Chola khiến tầm ảnh hưởng của Srivijaya, triều
đình đã gây anh hưởng trên Kedah và Pattani và thậm chí tới cả Ligor, giảm sút.

Một Famosa được người Bồ Đào Nha xây dựng ở thế kỷ 15.

Vương quốc Ligor Phật giáo chiếm quyền kiểm soát Kedah một thời gian ngắn sau đó, và vị vua của nó Chandrabhanu đã dùng nơi này làm căn
cứ tấn công Sri Lanka ở thế kỷ 11, và thậm chí đã được nhắc tới trên một bản văn khắc đá tại Nagapattinum ở Tamil Nadu và trong biên niên sử
Sri Lanka, Mahavamsa. Trong thiên niên kỷ đầu tiên, người dân trên bán đảo Malay đã chấp nhận Hindu giáo và Phật giáo và sử dụng ngôn ngữ
tiếng Phạn cho tới khi họ cải theo Đạo Hồi, nhưng không trước khi Hindu giáo và Phật giáo và tiếng Phạn lẫn vào trong quan điểm về thế giới của
người Malay. Những dấu vết về những ảnh hưởng trong các quan niệm chính trị, cơ cấu xã hội, nghi lễ, ngôn ngữ, nghệ thuật và văn hóa vẫn còn
tồn tại cho đến ngày nay.

Có những thông báo về các vùng khác cổ hơn Kedah – ví dụ vương quốc cổ Ganganegara, quanh Bruas tại Perak, – khiến lịch sử Malaysia thậm
chí được kéo lùi xa hơn tới tận thời cổ đại. Nếu đó chưa đủ là bằng chứng, một bài thơ Tamil, Pattinapillai, ở thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, đã
miêu tả những hàng hóa từ Kadaram tràn ngập trên những đường phố thủ đô Chola; một vở kịch tiếng Phạn thế kỷ thứ bảy, Kaumudhimahotsva,
coi Kedah như Kataha-nagari. Agnipurana cũng đề cập tới một lãnh thổ được gọi là Anda-Kataha với một trong những biên giới được xác định bởi
một đỉnh cao, mà các nhà sử học tin là Gunong Jerai. Những câu chuyện trong Katasaritasagaram miêu tả cuộc sống thanh lịch tại Kataha. Đầu
thế kỷ 15, Vương quốc Hồi giáo Malacca được thành lập dưới một triều đại do Parameswara, một hoàng tử từ Palembang với liên hệ huyết thống
với hoàng gia Srivijaya, người đã phải bỏ chạy khỏi Temasek (Singapore hiện nay) sáng lập. Parameswara đã quyết định thành lập vương quốc
của mình tại Malacca sau khi chứng kiến một tai nạn bất ngờ khi một chú nai trắng đá một trong những con chó săn của ông. Ông coi đó là một
dấu hiệu may mắn và đặt tên cho vương quốc của mình là "Melaka" theo tên loài cây ông đang ngồi dưới nghỉ ngơi. Ở thời đỉnh cao, vương quốc
hồi giáo đã kiểm soát nhiều vùng hiện là Bán đảo Malaysia, nam Thái Lan (Patani), và bờ biển phía đông Sumatra. Nó đã tồn tại trong hơn một thế
kỷ, và khoảng thời gian này chính là lúc Đạo Hồi lan tràn ra hầu hết Quần đảo Malay.Malacca là cảng thương mại tiền đồn thời ấy tại Đông Nam

Á.[9]

Năm 1511, Malacca bị người Bồ Đào Nha chinh phục, và họ đã lập ra một thuộc địa ở đó. Những người con trai của vị quốc vương Hồi giáo cuối
cùng của Malacca đã thành lập nên những vương quốc Hồi giáo ở nhiều địa điểm khác trên bán đảo - Vương quốc Hồi giáo Perak ở phía bắc, và
Vương quốc Hồi giáo Johor (ban đầu là sự tiếp nối của Vương quốc Hồi giáo Malacca) ở phía nam. Sau khi Malacca sụp đổ, ba bên chiến đấu
giành quyền kiểm soát Eo Malacca: người Bồ Đào Nha (tại Malacca), Vương quốc Hồi giáo Johor, và Vương quốc Hồi giáo Aceh. Cuộc xung đột
này kéo dài đến tận năm 1641, khi người Hà Lan (liên minh với Vương quốc Hồi giáo Johor) giành quyền kiểm soát Malacca.



Tòa nhà Vua Hồi giáo Abdul tại Kuala Lumpur nơi đóng trụ sở của Tòa án Cấp cao Malaya và Tòa án
Thương mại. Kuala Lumpur từng là thủ đô của Liên minh các Bang Malay và thủ đô Malaysia hiện nay.

Anh Quốc đã thành lập thuộc địa đầu tiên của mình tại bán đảo Malay năm 1786, với việc cho thuê
đảo Penang cho Công ty Đông Ấn Anh của Quốc vương Hồi giáo Kedah. Năm 1824, người Anh nắm quyền
kiểm soát Malacca sau Hiệp ước Anh-Hà Lan 1824 phân chia quần đảo Malaya giữa Anh và Hà Lan, Malaya
thuộc vùng của Anh. Năm 1826, Anh Quốc lập thuộc địa chưa độc lập (crown colony)
Straits Settlements, thống nhất ba vùng thuộc sở hữu của họ tại Malaya: Penang, Malacca và
Singapore. Straits Settlements nằm dưới quyền quản lý hành chính của Công ty Đông Ấn tại Calcutta
cho tới năm 1867, khi quyền này được chuyển giao cho Văn phòng Thuộc địa tại London.

Cuối thế kỷ 19, nhiều bang Malay đã quyết định nhờ sự giúp đỡ của Anh để giải quyết các cuộc xung
đột nội bộ của họ. Tầm quan trọng trong thương mại của ngành mở thiếc tại các bang Malay với các
thương gia tại Straits Settlements khiến chính phủ Anh phải can thiệp vào các bang sản xuất thiếc
trên Bán đảo Malay. Chính sách ngoại giao thuyền chiến của Anh được áp dụng để mang lại giải pháp
hòa bình cho sự bất ổn do những tên cướp Trung Hoa gây ra, và Hiệp ước Pangkor năm 1874 đã mở
đường cho sự mở rộng ảnh hưởng Anh tại Malaya. Tới đầu thế kỷ 20, các bang Pahang, Selangor, Perak
, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Liên minh các Bang Malay (không nên nhầm với Liên
bang Malaya), trên thực tế nằm dưới quyền điều khiển của các Toàn quyền được chỉ định để cố vấn
cho các vị vua cai trị Malay. Trên danh nghĩa người Anh chỉ là "cố vấn", nhưng trên thực tế họ có

ảnh hưởng mang tính quyết định với mọi vị vua cai trị Malay.

Năm bang còn lại trên Bán đảo Malay, được gọi là Các bang Malay không Liên minh, tuy không trực
tiếp nằm dưới quyền quản lý của London, cũng đã chấp nhận các cố vấn Anh ở đầu thế kỷ 20. Trong số
họ, bốn bang phía bắc là Perlis, Kedah, Kelantan và Terengganu từng nằm dưới tầm ảnh hưởng của
Xiêm trước kia.

Trên đảo Borneo, Sabah được cai quản như thuộc địa chưa độc lập British North Borneo, tuy Sarawak
đã được Brunei chấp nhận là một vương quốc riêng của gia đỉnh Brooke, những người cai trị như
những Rajahs Trắng.

Sau khi người Nhật chiếm Malaya) trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sự ủng hộ của dân chúng cho
một nền độc lập ngày càng tăng.[10] Những kế hoạch hậu chiến của Anh nhằm thống nhất quản lý hành
chính Malaya dưới một thuộc địa duy nhất được gọi là Liên minh Malaya hình thành trong sự phản đối
mạnh mẽ từ người Malay, họ phản đối sự nhu nhược của tầng lớp cai trị Malay và việc trao quyền
công dân cho những người Trung Quốc.Liên minh Malaya, được thành lập năm 1946 và gồm tất cả các
vùng đất thuộc quyền quản lý của Anh tại Malaya ngoại trừ Singapore, đã giải tán năm 1948 và bị
thay thế bởi Liên bang Malaya, giữ lại quyền tự trị của những vị vua cai trị các bang Malay dưới
sự bảo hộ của Anh.

Trong thời gian này, những người nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Malaya đã tung ra các
cuộc tấn công du kích nhằm đẩy lực lượng Anh khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya, như nó từng
được gọi, kéo dài từ 1948 tới 1960, và dẫn tới một chiến dịch chống nổi dậy kéo dài của quân đội
Khối thịnh vượng chung Anh ở Malaya. Chống lại tình hình này, nền độc lập cho liên minh trong Khối
thịnh vượng chung đã được trao ngày 31 tháng 8 năm 1957.



Năm 1963 Liên bang được đổi tên thành Malaysia với sự chấp nhận của các thuộc địa khi
ấy của Anh là Singapore, Sabah (British North Borneo) và Sarawak. Vương quốc Hồi giáo

Brunei, dù ban đầu thể hiện ý muốn gia nhập Liên bang, đã rút khỏi kế hoạch hợp nhất vì
sự chống đối từ một số phe phái nhân dân cũng như những tranh cãi về việc chi trả các
khoản đặc lợi dầu mỏ và vị thế Vương quốc Hồi giáo của kế hoạch hợp nhất.

Buổi đầu độc lập đã gặp trở ngại bởi cuộc xung đột với Indonesia (Konfrontasi) về việc
thành lập Malaysia, sự rút lui năm 1965 của Singapore và cuộc tranh giành sắc tộc dưới
hình thức những cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969.[8][16] Philippines cũng đưa ra tuyên bố
chủ quyền với Sabah trong giai đoạn đó vì Vương quốc Hồi giáo Brunei nhượng lại những
lãnh thổ đông bắc của họ cho Vương quốc Hồi giáo Sulu năm 1704. Tranh cãi lãnh thổ
này vẫn đang tiếp diễn.Sau những vụ bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969, Chính
sách Kinh tế Mới gây nhiều tranh cãi – được dự định làm gia tăng phần sở hữu trong nền
kinh tế của các bumiputra ("người bản xứ", gồm cả cộng đồng người Malay đa số, nhưng
không phải luôn là người bản xứ) đối lập với các nhóm sắc tộc khác - được Thủ tướng
Tun Abdul Razak đưa ra . Từ đó Malaysia đã duy trì một sự cân bằng sắc tộc-chính trị
mong manh, với một hệ thống chính phủ nỗ lực tổng hợp các lợi ích phát triển kinh tế với
chính trị và các chính sách kinh tế dành ưu tiên cho Bumiputra.

Trong khoảng thập niên 1980 và giữa thập niên 1990, Malaysia trải qua thời kỳ tăng
trưởng kinh tế đáng kinh ngạc với Thủ tướng Tun Dr Mahathir bin Mohamad.[19] Giai
đoạn này cũng là sự chuyển đổi từ nền kinh tế dựa trên nông nghiệp sang chế tạo và công
nghiệp trong những khu vực như máy tính và hàng điện tử tiêu dùng. Cũng ở thời gian
này, bộ mặt Malaysia đã thay đổi với sự xuất hiện của nhiều dự án lớn. Đáng chú ý nhất là
những dự án như Tháp đôi Petronas (khi ấy là toà nhà cao nhất thế giới), Sân bay Quốc
tế KL (KLIA), Đường cao tốc Bắc-Nam, Đường đua F-1 Sepang, Siêu Hành lang Truyền
thông (MSC), đập thuỷ điện Bakun và Putrajaya, một thủ đô hành chính liên bang mới.

Cuối thập niên 1990, Malaysia rung động bởi cuộc Khủng hoảng tài chính Châu Á cũng
như tình trạng chính trị bất ổn do việc sa thải phó thủ tướng Dato' Seri Anwar Ibrahim.[20]
Năm 2003, Tiến sĩ Mahathir, thủ tướng có thời gian cầm quyền dài nhất tại Malaysia về
hưu, nhường chỗ cho phó thủ tướng Abdullah Badawi.



Chính Trị

Malaysia là một Liên bang Quân chủ theo bầu cử lập hiến . Nguyên thủ quốc gia Liên bang
Malaysia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Vua Malaysia. Yang di-Pertuan
Agong được bầu với nhiệm kỳ năm năm trong số chín người thừa kế các Quốc vương Hồi
giáo của các bang Malay; bốn bang kia, theo chế độ Thống đốc, không tham gia vào việc
lựa chọn ngôi vua.

Hệ thống chính phủ tại Malaysia theo sát hình thức hệ thống nghị viện Westminster, một di
sản thời kỳ thuộc địa Anh. Tuy nhiên, trên thực tế quyền lực được trao nhiều hơn cho nhánh
hành pháp chứ không phải lập pháp, và tư pháp đã bị suy yếu sau những mưu toan của
chính phủ thời thủ tướng Mahathir. Từ khi độc lập năm 1957, Malaysia đã nằm dưới sự điều
hành của một liên minh đa đảng, được gọi là Barisan Nasional (trước kia gọi là Liên minh).

Quyền lập pháp được phân chia giữa liên bang và các cơ quan lập pháp bang. Lưỡng viện
gồm hạ viện, Viện đại biểu hay Dewan Rakyat (dịch nghĩa "Viện Nhân dân") và thượng viện,
Senate hay Dewan Negara (dịch nghĩa "Viện Quốc gia").219 thành viên của Viện đại biểu
được bầu từ các đơn vị bầu cử một đại biểu được lập ra dựa trên số dân với nhiệm kỳ tối
đa 5 năm. Tất cả 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được bầu bởi 13 quốc hội
bang, 2 đại diện cho lãnh thổ liên bang Kuala Lumpur, 1 cho mỗi lãnh thổ liên bang Labuan
và Putrajaya, và 40 do nhà vua chỉ định. Bên cạnh Nghị viện ở mức độ liên bang, mỗi bang
đều có một viện lập pháp riêng (Tiếng Malay:Dewan Undangan Negeri) đại biểu của các
viện này được bầu từ các đơn vị bầu cử một đại biểu. Bầu cử nghị viện được tổ chức ít nhất
một lần mỗi năm năm, cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra tháng 3 năm 2004.Nội các được
lựa chọn trong những thành viên của cả hai viện và chịu trách nhiệm trước viện của mình.[

Các chính phủ bang do các chief ministers lãnh đạo (Menteri Besar tại các bang Malay hay
Ketua Menteri tại các bang không do lãnh đạo do thừa kế cầm quyền). quốc hội bang

(Dewan Undangan Negeri) lựa chọn người lãnh đạo này có tham khảo ý kiến các quốc
vương Hồi giáo hay các Thống đốc

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×