HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP
HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC TRONG VIỆC
PHỐI HỢP HOÀN THIỆN HỒ SƠ ĐƯA ĐỐI TƯỢNG VÀO
CƠ SỞ GIÁO DỤC BẮT BUỘC GIAI ĐOẠN 2015-2020
Người thực hiện
: Khổng Đình Trưởng
Lớp
: B10.14
Chức vụ
: Phó Trưởng phòng
Đơn vị công tác
: Phòng Tư pháp huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc
Người hướng dẫn : GVCC,TS. Đỗ Trung Hiếu
HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Học viện Chính trị
Khu vực I đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt,
xin trân trọng cảm ơn GVCC,TS. Đỗ Trung Hiếu – Nguyên Trưởng khoa Nhà
nước và pháp luật - Học viện Chính trị khu vực I đã giúp tôi nghiên cứu, xây
dựng Đề án.
Đồng thời, Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh
Phúc, Lãnh đạo Huyện ủy– UBND huyện Vĩnh Tường, Phòng Tư pháp huyện
Vĩnh Tường đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu lý luận chính trị và
hoàn thành khóa học này để phục vụ cho quá trình công tác tại đơn vị.
Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ Công an huyện Vĩnh Tường đã cung cấp
cho tôi nhiều thông tin, tài liệu và sự nhiệt tình hưởng ứng thực hiện Đề án trong
thời gian tới. Đồng thời tôi cũng xin cám ơn Lãnh đạo UBND, phòng Tư pháp
huyện An Lão- Thành phố Hải Phòng là nơi tôi đến nghiên cứu thực tế, đã dành
cho tôi nhiều tình cảm và kinh nghiệm công tác trong thực tiễn giúp tôi bổ sung,
hoàn thiện Đề án này.
Tôi cũng rất cảm ơn các đồng chí, đồng nghiệp cùng cơ quan, các bạn cùng
khóa lớp B10.14 CCLLTT và tập thể Phòng Tư pháp huyện Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Phúc đã ủng hộ, động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành Đề án cũng
như khóa học này.
Dù rằng, bản thân đã hết sức cố gắng, song đây là nội dung mới Đề án
không tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy
giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp để Đề án được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Khổng Đình Trưởng
MỤC LỤC
1. Lý do xây dựng đề án..................................................................................................1
2. Mục tiêu của đề án.......................................................................................................3
2.1. Mục tiêu chung.........................................................................................................3
2.2. Mục tiêu cụ thể.........................................................................................................3
3. Giới hạn của đề án.......................................................................................................4
3.1. Về đối tượng của đề án.............................................................................................4
3.2. Về không gian...........................................................................................................4
B. NỘI DUNG................................................................................................5
1. Cơ sở xây dựng đề án..................................................................................................5
1.1. Cơ sở khoa học.........................................................................................................5
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý............................................................................................8
1.3. Cơ sở thực tiễn........................................................................................................10
2. Nội dung thực hiện của đề án....................................................................................12
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án........................................................................................12
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án.........................................................14
2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện......................................................................23
2.4. Các giải pháp thực hiện đề án.................................................................................24
3. Tổ chức thực hiện đề án.............................................................................................29
3.1. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án..................................................................29
3.2. Tiến độ thực hiện đề án...........................................................................................33
3.3. Kinh phí thực hiện các hoạt động của đề án...........................................................34
4. Dự kiến hiệu quả của đề án.......................................................................................35
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề án....................................................................................35
4.2. Đối tượng hưởng lợi của đề án...............................................................................36
4.3 Những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện đề án và tính khả thi của đề án..............36
1. Kiến nghị...................................................................................................................41
2. Kết luận.....................................................................................................................41
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính góp phần quan trọng vào
việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trong đó hệ thống các quy định pháp
luật về áp dụng các Biện pháp xử lý hành chính có vai trò quan trọng trong
việc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, bảo vệ và
bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của công dân. Các biện pháp này là
những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước, hạn chế đến quyền cơ bản
của công dân (đặc biệt đối với những đối tượng nhạy cảm là trẻ em, vị thành
niên), người bị áp dụng các Biện pháp xử lý hành chính này ít nhiều bị hạn
chế tự do và một số quyền lợi khác. Vì vậy cần được xem xét quyết định
theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, bảo đảm khách quan, chính xác theo
đúng tinh thần “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người” đã được khẳng định tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013. Riêng các quy định liên quan đến
việc áp dụng các Biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét,
quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014. Luật Xử lý vi phạm hành
chính chính là kết quả của tiến trình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. So với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì
Luật Xử lý vi phạm hành chính có nhiều quy định mới về hình thức xử lý,
thẩm quyền Xử lý vi phạm hành chính, thủ tục xử phạt và thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính cũng như mức xử phạt. Và một trong
2
những điểm mới quan trọng của Luật Xử lý vi phạm hành chính là quy định
về các Biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định.
Theo quy định tại Phần thứ ba của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì
có 4 Biện pháp xử lý hành chính, bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào
Cơ sở giáo dục bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trong đó, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có
thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,
đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quyết định áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn.
Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về việc áp dụng Biện pháp
xử lý hành chính đưa người vào Cơ sở giáo dục bắt buộc có hiệu lực thực
hiện kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, tuy nhiên đến nay Tòa án nhân dân
huyện Vĩnh Tường chỉ mới xem xét quyết định đưa vài trường hợp vào Cơ
sở giáo dục bắt buộc, do còn nhiều khó khăn, vướng mắc về quy định, thủ
tục và nhất là trong quan hệ phối hợp giữa các cơ quan thực hiện việc lập hồ
sơ đề nghị áp dụng Biện pháp xử lý hành chính này, cụ thể như:
- Việc lập hồ sơ của các đơn vị chức năng, nhất là cấp xã còn thiếu sót
cần phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhiều nội dung, nhiều lần mới đảm
bảo tính pháp lý để chuyển sang Tòa án nhân dân đề nghị xem xét ra quyết
định theo quy định của pháp luật.
- Việc áp dụng quy trình, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị phòng Tư
pháp huyện Vĩnh Tường kiểm tra tính pháp lý chưa thống nhất và chưa đúng
quy định.
3
- Các cơ quan, đơn vị thực hiện việc lập hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ
sở giáo dục bắt buộc chưa có sự phối hợp chặt chẽ, rời rạc trong từng giai
đoạn củng cố hoàn thiện hồ sơ.
Từ những lý do nêu trên cho thấy cần phải có sự phối hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa các cơ quan có trách nhiệm lập hồ sơ đưa đối vào Cơ sở giáo
dục bắt buộc, đó là sự phối hợp giữa phòng Tư pháp huyện với Ủy ban nhân
dân các xã, thị trấn và với Công an huyện… để thống nhất thực hiện trình tự,
thủ tục hoàn thiện hồ sơ đưa đối vào Cơ sở giáo dục bắt buộc vừa hiệu quả
vừa đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Đảm bảo việc thi hành nghiêm các quy định của pháp luật nói chung,
Luật Xử lý vi phạm hành chính nói riêng và nhất là việc áp dụng Biện pháp
xử lý hành chính đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tạo được mối quan hệ phối hợp chặt chẽ và thống nhất trong quá
trình lập hồ sơ đưa đối vào Cơ sở giáo dục bắt buộc giữa phòng Tư pháp với
Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn; Công an huyện và các cơ quan, đơn vị liên
quan khác.
- Thực hiện việc lập hồ sơ đưa đối vào Cơ sở giáo dục bắt buộc đảm
bảo đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra oan, sai, và vi phạm pháp
luật khác.
- Tuyên truyền cho người dân hiểu và chấp hành đúng các quy định
của pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính nói chung và Biện pháp xử lý
hành chính nói riêng.
- Đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người bị đưa vào Cơ sở giáo
dục bắt buộc.
4
- Không để xảy ra các trường hợp hồ sơ chuyển sang Tòa án nhân dân
huyện bị trả lại để bổ sung.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Về đối tượng của đề án
Mối quan hệ công tác giữa các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc
củng cố hoàn thiện hồ sơ đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc, đó là: Mối quan hệ
giữa phòng Tư pháp với Ủy ban nhân dân cấp xã và với Công an huyện.
3.2. Về không gian
Đề án được thực hiện trên địa bàn huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.3. Về thời gian
Đề án được triển khai thực hiện trong giai đoạn 2015-2020.
5
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
- Đề án được xây dựng dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
nhất là Triết học Mác-lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử), làm cơ sở phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận chung là Khoa học pháp lý, trong đó trực tiếp là các
nội dung sau:
+ Biện pháp xử lý hành chính: là biện pháp được áp dụng đối với cá
nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là
tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào
trường giáo dưỡng; đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
+ Biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc: là Biện pháp xử lý
hành chính được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật
tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, thời gian áp dụng biện pháp
đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc từ 6-24 tháng để người vi phạm lao động,
học văn hóa, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của Cơ sở giáo dục bắt
buộc.
+ Cơ sở giáo dục bắt buộc: là tổ chức do Bộ Công an thành lập, sáp
nhập, giải thể; được thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ
Công an, bảo đảm phù hợp với đặc điểm yêu cầu của công tác quản lý, giáo
dục, cai nghiện ma túy, chữa bệnh, dạy nghề, thể dục, thể thao, vui chơi giải
trí cho trại viên và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ
sinh môi trường.
+ Thẩm quyền quyết định áp dụng các Biện pháp xử lý hành chính:
6
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền quyết định áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc:
là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) thực hiện hành vi xâm phạm tài
sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài; tài sản, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã
hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa
bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định.
(Không áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc đối với
các trường hợp sau đây: Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
Nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi; Người đang mang thai có chứng nhận của
bệnh viện; Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng
tuổi được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận).
+ Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc:
là các văn bản, tài liệu do các cơ quan chức năng thu thập được đối với hành
vi vi phạm của đối tượng được sử dụng để đề nghị Tòa án nhân dân huyện
xem xét ra quyết định đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc; hồ sơ
gồm có bản tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp luật của
người đó; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã áp dụng; bản tường
trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ; bản trích
lục tiền án, tiền sự (nếu có) và các tài liệu khác có liên quan.
+ Hoàn thiện hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo
dục bắt buộc là việc Phòng Tư pháp, Công an huyện kiểm tra hồ sơ để xác
7
định đủ hay không đủ điều kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện xem xét ra
quyết định đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc.
+ Kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ: là hoạt động công vụ của Công
chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, Trưởng phòng tư pháp cấp huyện nhằm xác
định sự phù hợp, đầy đủ theo quy định của pháp luật Xử lý vi phạm hành
chính đối với các vấn đề sau: Sự phù hợp và đầy đủ của tài liệu, giấy tờ có
trong hồ sơ; Sự phù hợp về đối tượng và thời hiệu áp dụng biện pháp Xử lý
vi phạm hành chính; Sự phù hợp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập hồ sơ
đề nghị.
Kết quả nghiên cứu tính pháp lý của hồ sơ phải xác định: Hồ sơ đề
nghị đã bảo đảm về tính pháp lý hay chưa; trường hợp chưa bảo đảm về tính
pháp lý, thì cần phải bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện những tài liệu, giấy tờ gì
có trong hồ sơ đề nghị.
+ Hiệu quả là: đạt được một kết quả giống nhau nhưng sử dụng ít thời
gian, công sức và nguồn lực nhất.
+ Phối hợp hoạt động: là việc các cơ quan chức năng (Phòng Tư
pháp, Công an huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn) cùng nhau làm theo
một kế hoạch chung (có căn cứ, quy định cụ thể) để đạt mục đích hoàn thiện
hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc.
+ Hiệu quả hoạt động phối hợp: là lợi ích, hiệu quả trong công tác lập
hồ sơ như: đảm bảo các yêu cầu về pháp luật, không để xảy ra tình trạng
oan, sai, sót lọt đối tượng; tiết kiệm được kinh phí, nhân lực, thời gian...
* Tiêu chí đánh giá hiệu quả phối hợp để hoàn thiện hồ sơ đưa vào
Cơ sở giáo dục bắt buộc:
- Hồ sơ đảm bảo đúng quy định của pháp luật về Xử lý vi phạm hành
chính, không để xảy ra tình trạng oan, sai hoặc phải bổ sung nhiều lần.
8
- Giảm thời gian kiểm tra tính pháp lý của phòng Tư pháp đối với hồ
sơ đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc từ 05 ngày xuống còn 3 ngày.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Đề án được xây dựng trên cơ sở quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) xác định
nhiệm vụ trọng tâm thứ hai là: Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ
tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh
hoạt của nhân dân;
- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo hướng: “Hình thành cơ chế
pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư
pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình
quản lý, tổ chức thi hành pháp luật”, “tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công
quyền trước Tòa án”.
- Nghị quyết số 24/2012/QH13 ngày 20/6/2012 của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Xử lý vi pham
hành chính.
- Chỉ thị số 17/2014/CT-UBND ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về thực hiện quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 về các Biện pháp xử lý hành chính.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
9
Việc lập hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc và mối quan
hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng trên địa bàn huyện Vĩnh
Tường, tỉnh Vĩnh Phúc được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý sau:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013):
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng
11 năm 2003;
- Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012;
- Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20 tháng 01 năm 2014 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp
dụng các Biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân;
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm
hành chính;
- Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính
phủ quy định chế độ áp dụng Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã,
phường, thị trấn;
- Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2014 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng, thi hành Biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng và Cơ sở giáo dục bắt buộc;
- Thông tư số 20/2014/TT-BTP ngày 25 tháng 9 năm 2014 của Bộ Tư
pháp về ban hành các biểu mẫu để sử dụng trong quá trình áp dụng Biện
pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp thay thế
xử lý hành chính quản lý tại gia đình đối với người chưa thành niên theo quy
định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại
xã, phường, thị trấn;
10
- Thông tư số 48/2014/TT-BCA ngày 17/10/2014 của Bộ Công an
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP
ngày 30 tháng 9 năm 2013 quy định chế độ áp dụng Biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Thông tư số 39/2014/TT-BCA ngày 12/9/2014 của Bộ Công an Quy
định biểu mẫu để sử dụng khi áp dụng Biện pháp xử lý hành chính đưa vào
Cơ sở giáo dục bắt buộc;
- Thông tư số 43/2014/TT-BCA ngày 08/10/2014 của Bộ Công an
Quy định chi tiết thi hành Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014
quy định chế độ áp dụng, thi hành Biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng và Cơ sở giáo dục bắt buộc;
- Thông tư số 42/2014/TT-BCA ngày 25/9/2014 của Bô Công an Quy
định về biểu mẫu sử dụng trong Công an nhân dân khi áp dụng và thi hành
Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của
liên Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về việc Quy định việc lập dự toán, quản lý,
sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại
cơ sở.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Từ khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành, việc áp
dụng các Biện pháp xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chính cũng được thực hiện. Mặc dù công tác triển khai thi hành Luật
Xử lý vi phạm hành chính được thực hiện rộng khắp theo kế hoạch, nhưng
việc triển khai thực hiện Luật chưa thực sự hiệu quả do Luật Xử lý vi phạm
hành chính có nhiều quy định mới, phức tạp như nội dung áp dụng các Biện
pháp xử lý hành chính (lập hồ sơ đưa đối tượng vào Trường Giáo dưỡng, Cơ
11
sở giáo dục bắt buộc, Cơ sở cai nghiện bắt buộc). Việc xem xét, áp dụng
Biện pháp xử lý hành chính này là nhiệm vụ mới được giao cho phòng Tư
pháp và Tòa án nhân dân huyện; trình tự, thủ tục áp dụng cho việc lập hồ sơ
đối với các đối tương bị áp dụng Biện pháp xử lý hành chính của Công an
huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và các cá nhân liên quan đều có sự
thay đổi. Vì vậy các cơ quan, đơn vị, địa phương ngại thực hiện hoặc lúng
túng trong thực tiễn công tác. Điều này thể hiện qua số liệu về các đối tượng
vi phạm hành chính bị đề nghị áp dụng các biện pháp hành chính năm 2014
là rất ít, chủ yếu là các vụ vi phạm xảy ra trước 01/01/2014 và được xem
xét, áp dụng theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008).
Mặt khác, Qua khảo sát tại địa phương thấy rằng, hiệu quả áp dụng
biện pháp xử lý hành chính còn hạn chế, nhất là biện pháp giáo dục tại xã,
phường thị trấn còn mang tính hình thức, đưa vào mang tính thủ tục để làm
cơ sở cho áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc, số đối tượng thật sự tiến bộ
còn hạn chế, kể cả đối tượng vi phạm lần đầu và đối tượng đã được đưa đi
cai nghiện. Việc xem xét, áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma tuý vào
diện quản lý khó khăn do việc xét nghiệm người nghiện chủ yếu bằng vận
động, thuyết phục cùng gia đình đưa đối tượng đi xét nghiệm, trường hợp
đối tượng không tự nguyện chấp hành thì không có cơ chế để bắt buộc họ đi.
Thực tế cho thấy các đối tượng cần được áp dụng Biện pháp xử lý
hành chính có số lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, số hồ sơ mà các cơ quan,
đơn vị chức năng và Tòa án nhân dân đã thụ lý để xem xét, giải quyết còn ít,
chưa phản ánh đúng yêu cầu tình hình an ninh trật tự của địa phương. Thực
tế này có nhiều nguyên nhân, về nguyên nhân khách quan còn có những
lúng túng, vướng mắc nhất định trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng Biện
pháp xử lý hành chính như: thiếu văn bản hướng dẫn, văn bản hướng dẫn
12
chưa thống nhất, chưa có cơ chế phối hợp cụ thể giữa các cơ quan, đơn vị;
nguyên nhân chủ quan là: một số cơ quan, đơn vị còn chậm chễ trong việc
thụ lý hồ sơ đề nghị.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
phòng Tư pháp trong công tác phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng
hoàn thiện hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc giai đoạn 20152020 là cần thiết và cấp bách, nhằm đưa công tác này của huyện dần đi vào
nề nếp, đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân, góp phần ổn định tình
hình chính trị, an ninh trật tự, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Vĩnh Tường là huyện đồng bằng nằm ở phía Tây Nam tỉnh Vĩnh
Phúc, trong vùng trọng điểm kinh tế Đồng bằng Bắc bộ. Huyện gồm 03 thị
trấn và 26 xã, có vị trí nằm giữa 03 đô thị lớn là Thành phố Việt Trì (tỉnh
Phú Thọ); Thành phố Vĩnh Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và Thị xã Sơn Tây (TP Hà
Nội) với tổng diện tích tự nhiên là 14.189,98 ha, dân số hơn 200.000 người.
Với vị trí địa chính trị thuận lợi đó, nhất là từ giữa năm 2014 Cầu
Vĩnh Thịnh (cây cầu dài nhất bắc qua sông Hồng) nối phía Nam huyện
Vĩnh Tường (cầu đi qua 3 xã Tam Phúc, Vĩnh Ninh và Vĩnh Thịnh) với thị
xã Sơn Tây- Hà Nội; Đầu năm 2015 cầu Hạc Trì nối phía Tây Bắc của
huyện Vĩnh Tường (xã Việt Xuân) với Thành phố Việt Trì- Phú Thọ, các
hoạt động giao thương buôn bán và sinh hoạt diễn ra rất thuận tiện, phục vụ
tốt hơn cho phát triển kinh tế của huyện và khu vực. Tuy nhiên, đó cũng là
yếu tố mà các đối tượng xấu lợi dụng địa bàn giáp ranh để thực hiện tội
phạm và hoạt động tệ nạn xã hội nên địa bàn sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức
tạp, khó lường, nhất là các vi phạm về trật tự, an toàn xã hội.
13
Mặt khác, việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực trật tự
xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Theo báo cáo của Công an huyện về công tác
giữ gìn an ninh trật tự trong những năm qua vẫn chưa thực sự đáp ứng được
yêu cầu. Đó là vì lực lượng mỏng, trình độ không đồng đều, kinh phí phục
vụ công tác eo hẹp, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ phục vụ chiến đấu thiếu, cũ
chưa. Phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, manh động hơn.
Đối với hoạt động của phòng Tư pháp cũng chưa thực sự đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong một số nội dung công tác, nhất là trong công tác kiểm
tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng Biện pháp xử lý hành chính, đó là
do số lượng biên chế thiếu chưa đảm bảo theo Đề án vị trí, việc làm và
Quyết định số 1950/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án "Xây dựng tổ chức bộ máy, biên chế triển
khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về Xử lý vi
phạm hành chính của Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ
quan tư pháp địa phương”;
Hệ thống văn bản pháp luật còn có nhiều bất cập, khó thực hiện trong
thực tế; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng, giữa cơ quan chuyên
môn của huyện với cơ sở còn chưa hợp lý, kinh phí phục vụ công tác theo
quy định mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính về phần áp dụng Biện
pháp xử lý hành chính chưa đáp ứng yêu cầu… là những yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng, hiệu quả công tác của phòng Tư pháp nói riêng và của các
cơ quan tư pháp và các đơn vị liên quan nói chung.
Vì vậy, việc tạo ra cơ chế phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong công
tác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động vì nhiệm vụ chung là điều rất cần
thiết hiện nay.
14
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp huyện Vĩnh
Tường:
Tại Khoản 2, Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014
của Chính phủ, quy định: phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Ủy
ban nhân dân huyện có nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân huyện
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành
pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa
giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi, hộ tịch, chứng thực, bồi thường
nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính
và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Hiện tại, phòng Tư pháp huyện Vĩnh Tường có tổng số 06 cán bộ,
công chức gồm: 01 Trưởng phòng, 02 Phó trưởng phòng và 03 chuyên viên.
Những năm qua phòng Tư pháp luôn thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, được tặng thưởng nhiều Bằng khen của huyện, tỉnh và Bộ Tư
pháp.
2.2.2. Quy trình thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
2.2.2.1. Điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là người
thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước
ngoài; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước
ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú ổn định.
2.2.2.2. Các bước tiến hành
15
Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc được thực hiện như sau:
- Đối với người vi phạm có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
- Đối với người không cư trú tại nơi có hành vi vi phạm pháp luật thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải xác minh; trường hợp xác định được
nơi cư trú thì có trách nhiệm chuyển người đó kèm theo biên bản vi phạm về
địa phương để xử lý; trường hợp không xác định được nơi cư trú của người
đó thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
- Trường hợp người vi phạm do cơ quan Công an cấp huyện hoặc
Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm
pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối
tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc theo quy định tại Điều 94 của Luật
Xử lý vi phạm hành chính thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành
xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc đối với người đó.
- Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị như nêu trên, cơ quan đã
lập hồ sơ phải thông báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện
của họ về việc lập hồ sơ. Những người này được quyền đọc hồ sơ và ghi
chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được
thông báo. Sau khi người bị áp dụng hoặc người đại diện của họ đọc xong
hồ sơ thì hồ sơ được gửi cho Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện.
Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng phòng
Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ và
chuyển Trưởng Công an cùng cấp.
16
Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ, Trưởng Công an huyện quyết định
việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân huyện áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
2.2.3. Kết quả thực hiện công tác phối hợp hoàn thiện hồ sơ đưa
đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc:
2.2.3.1. Kết quả công tác phối hợp với Ủy ban nhân dân các xã, thị
trấn trong thực hiện quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ áp dụng Biện
pháp xử lý hành chính
Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính; Nghị định
số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế
độ áp dụng Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ
quy định chế độ áp dụng, thi hành Biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng và Cơ sở giáo dục bắt buộc và các Văn bản hướng dẫn
thi hành. Phòng Tư pháp huyện phối hợp với Ủy ban nhân dân các xã, thị
trấn thực hiện những nội dung sau:
Một là: Xác định đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Trong việc xác định đối tượng thuộc diện áp dụng biện pháp Giáo dục
tại xã, phường, thị trấn, các xã, thị trấn thường gặp khó khăn trong việc xác
định tuổi của người vi phạm; tính chất, mức độ hành vi vi phạm…Cụ thể
như: Tại khoản 2 và khoản 3, Điều 90 Luật Xử lý vi phạm hành chính có sự
giao thoa về độ tuổi (từ 14-16 tuổi) nhưng căn cứ để áp dụng biện pháp Giáo
dục tại xã, phường, thị trấn là khác nhau. Ví dụ, Cháu A 15 tuổi tham gia
đánh bạc và bị bắt cùng với những người khác, tang vật thu được là 30 triệu
đồng tiền Việt Nam. Trong trường hợp này với những người từ đủ 16 tuổi
trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc, tuy nhiên cháu A
17
không phải chịu trách nhiệm hình sự vì theo theo quy định tại “Điều 12 Bộ
luật Hình sự quy định: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
Cháu A không chỉ không phải chịu trách nhiệm hình sự mà cũng
không thuộc diện áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn vì tội
Đánh bạc với mức tiền như vậy là tội ít nghiêm trọng (Mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù) nên cháu không thuộc đối
tượng quy định tại khoản 2, Điều 90. Cháu A chỉ bị xử phạt vi phạm hành
chính bằng hình thức Cảnh cáo và được tính là 1 lần vi phạm theo khoản 3,
Điều 90.
Sở dĩ phòng Tư pháp phải hướng dẫn nội dung nêu trên vì theo quy
định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung
năm 2008) thì cháu A sẽ thuộc đối tượng áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã,
phường, thị trấn. Các xã, thị trấn chưa tiếp cận đầy đủ với những quy định
mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Hai là: Phòng Tư pháp huyện đã chỉ đạo về nghiệp vụ cho công chức
Tư pháp- Hộ tịch cấp xã kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ, đồng thời cung cấp
văn bản hướng dẫn, mẫu văn bản sử dụng trong thu thập hồ sơ, tài liệu và
giải thích rõ những vấn đề còn vướng mắc để Trưởng Công an cấp xã thực
hiện và tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành đúng quy
định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
18
Ba là: Đối với những hồ sơ còn thiếu sót cần sửa đổi, bổ sung phòng
Tư pháp huyện trực tiếp tham gia nghiên cứu và hướng dẫn cách khắc phục
khi cán bộ xã, thị trấn đem hồ sơ lên xin ý kiến.
Bốn là: Thống nhất việc sử dụng mẫu số 01/GDTX ban hành kèm
theo Thông tư số 42/2014/TT-BCA ngày 25 tháng 9 năm 2014 của Bộ Công
an quy định về biểu mẫu sử dụng trong Công an nhân dân khi áp dụng và thi
hành Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và Mẫu số
01 ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BTP ngày 25/9/2014 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định các biểu mẫu để sử dụng trong quá trình áp
dụng Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện
pháp thay thế xử lý hành chính quản lý tại gia đình đối với người chưa thành
niên.
Trong năm 2014 và những tháng đầu năm 2015, phòng Tư pháp đã
phối hợp với Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn kiểm tra 87 hồ sơ áp dụng
biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, sau khi sửa đổi bổ sung các hồ
sơ đều đảm bảo tính pháp lý để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết
định áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
2.2.3.2. Kết quả công tác phối hợp với Công an huyện trong thực hiện
quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt
buộc
Sau khi được giáo dục tại xã, thị trấn (Đã chấp hành xong thời hạn
Giáo dục tại xã, thị trấn) hoặc đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà
tiếp tục có hành vi vi phạm theo quy định tại Khoản 1, Điều 94 Luật Xử lý
vi phạm hành chính thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc trường hợp
người vi phạm do Công an huyện, Công an tỉnh (Gọi tắt là cơ quan công an)
trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào Cơ
19
sở giáo dục bắt buộc theo quy định tại Điều 94 của Luật này thì cơ quan
Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ
sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc đối với
người đó.
* Công tác phối hợp giữa phòng Tư pháp và Công an huyện được
thực hiện như sau:
Phòng Tư pháp tiếp nhận hồ sơ do cơ quan lập hồ sơ chuyển đến. Do
Công an huyện là cơ quan trực tiếp thụ lý, điều tra các vụ việc nên trình tự,
thủ tục và nội dung được thực hiện cơ bản đảm bảo đúng quy định (chưa
phát hiện hồ sơ nào vi phạm trình tự, thủ tục điều tra). Hồ sơ do Cơ quan
công an chuyển đến thường có những lỗi như: thiếu ngày tháng năm trong
tài liệu thu thập được, còn có văn bản chưa đúng thể thức văn bản hành
chính. Do vậy công tác phối hợp giữa Phòng Tư pháp với Công an huyện
chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu nhanh hồ sơ để rút ngắn thời gian
phục vụ cho việc bổ sung hồ sơ đảm bảo tính pháp lý.
Việc phối hợp giữa phòng Tư pháp với Ủy ban nhân dân cấp xã được
thực hiện ngay từ khi lập hồ sơ áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường,
thị trấn, kết quả được mô tả như nêu trên.
Trong năm 2014 và những tháng đầu năm 2015, phòng Tư pháp đã
phối hợp với Công an huyện kiểm tra 12 hồ sơ đề nghị đưa vào Trường Giáo
dưỡng- Cơ sở giáo dục bắt buộc do Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và
Công an huyện chuyển đến. Có 08 hồ sơ đủ điều kiện chuyển Công an
huyện đề nghị Tòa án nhân dân xem xét ra quyết định đưa vào Cơ sở giáo
dục bắt buộc, kết quả Tòa án nhân dân huyện ra quyết định áp dụng Biện
pháp xử lý hành chính đưa vào Trường Giáo dưỡng - Cơ sở giáo dục bắt
buộc đối với 08 đối tượng. Trong đó có 02 đối tượng đưa vào Trường Giáo
dưỡng; 06 đối tượng đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc). Còn 04 hồ sơ (do
20
Ủy ban nhân dân cấp xã chuyển đến cần sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn
thiện để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc trong
thời gian tới).
Nhìn chung việc lập hồ sơ áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã,
phường, thị trấn và hồ sơ chuyển đến Tòa án nhân dân huyện đề nghị áp
dụng Biện pháp xử lý hành chính đã được thực hiện theo trình tự, thủ tục;
đảm bảo công khai, khách quan, công bằng; đúng thẩm quyền, đúng đối
tượng, đúng hành vi vi phạm theo quy định pháp luật. Vì vậy, đến nay chưa
có trường hợp khiếu nại, khởi kiện khi bị áp dụng Biện pháp xử lý hành
chính.
Kết quả trên là sự nỗ lực, cố gắng trong phối hợp công tác giữa Phòng
Tư pháp với chính quyền các xã, thị trấn và các cơ quan chức năng của
huyện, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sâu sát của Huyện ủy, sự chỉ đạo, điều
hành tập trung, kiên quyết của lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện và sự nhiệt
tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong huyện.
2.2.4. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Một là: Cán bộ, công chức cấp xã chưa nghiên cứu và hiểu đúng các
quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định,
hướng dẫn có liên quan nên hồ sơ nhiều sai sót trong thực hiện: sai thẩm
quyền; tài liệu thu thập về các vi phạm của đối tượng không đầy đủ, thiếu
chính xác, thậm chí có tài liệu thu thập không đúng quy định; Biểu mẫu sử
dụng trong hồ sơ không thống nhất, không đúng hướng dẫn tại Nghị định số
81/2013/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 01/2011/TT-BNV của Bộ
Nội vụ về hướng dẫn thể thức trình bày văn bản hành chính.
* Điển hình là: hồ sơ đề nghị đưa đối tượng Phan Văn Thạch- SN
1965, Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: thôn Xuân Lai- xã Vũ Di- H.Vĩnh
21
Tường- T.Vĩnh Phúc vào Cơ sở giáo dục bắt buộc. Kết quả nghiên cứu xác
định những sai sót trong hồ sơ như sau:
Sai sót về thẩm quyền ban hành công văn đề nghị Phòng Tư pháp
kiểm tra tính pháp lý, sai sót trong thẩm quyền đề nghị Tòa án nhân dân xem
xét ra quyết định đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục bắt buộc.
Sai sót về nội dung thu thập tài liệu: Bỏ trống thời gian, trùng thời gian, hồ
sơ thu thập không đúng với thực tế, nhiều tài liệu không khách quan, có
những yếu tố vi phạm nguyên tắc điều tra vụ việc…
Hai là: Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính còn
nhiều điểm chưa thống nhất, gây khó khăn trong thực hiện; Công tác phối hợp giữa các
cơ quan, đơn vị liên quan và Ủy ban nhân dân cấp xã còn nhiều hạn chế. Lãnh đạo Ủy
ban nhân dân cấp xã chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc thi hành Luật Xử lý vi
phạm hành chính, nhất là việc áp dụng Biện pháp xử lý hành chính nên hiệu quả công tác
đạt thấp.
Ba là: Các đơn vị liên quan như: Công an huyện, Ủy ban nhân dân
cấp xã chưa tập trung thường xuyên đến việc thực hiện áp dụng các Biện
pháp xử lý hành chính nên có những thời điểm Công an huyện đôn đốc các
xã, thị trấn chuyển sang phòng Tư pháp huyện hơn 20 hồ sơ đề nghị nghiên
cứu tính pháp lý để áp dụng Biện pháp xử lý hành chính. Đây là việc rất khó
khăn cho phòng Tư pháp vì số lượng cán bộ, công chức ít, nhiều đầu mối
công việc phải thực hiện; mặt khác, thời hạn để nghiên cứu theo quy định
của pháp luật chỉ có 05 ngày… do vậy không thể đáp ứng yêu cầu về chất
lượng nghiên cứu hồ sơ và thời gian theo luật định.
Bốn là: Việc bổ sung, sửa đổi hồ sơ sau khi nghiên cứu còn rất chậm,
Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định thời hạn cho việc sửa đổi,
bổ sung hồ sơ sau khi cơ quan chức năng của huyện (phòng Tư pháp, phòng
Lao động – Thương binh & xã hội, Công an huyện) chuyển về Ủy ban nhân
dân cấp xã; có hồ sơ không thể khắc phục được do yếu tố thời hạn, thời hiệu
22
và đối tượng cùng những người liên quan đến vụ việc không có mặt tại địa
phương, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả công tác này.
Năm là: Kinh phí phục vụ công tác thi hành pháp luật về áp dụng các Biện
pháp xử lý hành chính còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
* Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên do
Một là: Trình độ cán bộ cấp xã không đồng đều, có cán bộ trình độ
chuyên môn còn hạn chế; cán bộ, công chức cấp xã chưa thực sự tìm hiểu kỹ
Luật Xử lý vi phạm hành chính, nhất là phần quy định áp dụng các Biện pháp
xử lý hành chính nên khi thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật.
Hai là: Các quy định của pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính còn có
điểm chưa rõ ràng đã làm cho các cơ quan chức năng của huyện và chính
quyền địa phương lúng túng, chưa có sự thống nhất cả về nhận thức và phối
hợp thực hiện.
Ba là: Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới quyết định xử
phạt: Khoản 3 Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có
thẩm quyền Xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm phát hiện quyết định
về Xử lý vi phạm hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót và
phải kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới theo
thẩm quyền”. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng như Nghị
định số 81/2013/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể về thủ tục, nội dung, biểu
mẫu, những trường hợp nào phải sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới
quyết định xử phạt... dẫn đến những khó khăn, lúng túng trong triển khai áp
dụng.
Bốn là: Nhận thức của một số cấp ủy Đảng cơ sở về thi hành Luật Xử
lý vi phạm hành chính còn chưa đầy đủ (chủ nghĩa kinh nghiệm) nên thiếu