TÌNH MẪU – TỬ TRONG THƠ LỆ THU
(Bùi Thị Thương – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18)
1. Tình mẫu-tử nguồn cảm hứng củathơ ca Việt Nam
Tình mẫu-tử ln là cảm hứng bất tận của thơ ca. Có rất nhiều bài
thơ, bài hát hay về tình mẫu–tử, nhiều ca từ trở nên bất tử với thời gian.
Nói đến tình mẫu-tử, không thể không nhắc đến những bài ca dao, những
câu hát ru, những câu chuyện cổ tích mà từ thuở nằm nơi, mỗi con người đã
được đắm chìm trong nó. Tình mẫu-tử cao q, thiêng liêng, đã được ơng
cha từ ngàn đời xưa ca ngợi, và trân trọng. Đó là tình u của mẹ, sự hi
sinh, thương u vơ bờ bến, với một mong mỏi duy nhất là con thơ nên
người. Tình mẫu-tử, đến từ lời hát ru mà ai cũng nghe ít nhất một lần, ở đó
ta thấy được lịng u con, hi sinh bản thân mình của mẹ: Gió mùa thu mẹ
ru con ngủ/ năm canh chầy thức đủ năm canh, hay như: Nuôi con cho được
vuông tròn/ Mẹ già dầu dãi, xương mòn, gối lay… Qua những lời ru viết về
tình mẫu-tử, là những bài học làm người, những bài học về đức hi sinh:
Nuôi con chẳng quản chi thân/ Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Chính
tình u thương, sự nâng đỡ, chở che ấy, đã giúp con thơ từng bước chập
chững vào đời. Khơng có tình cảm nào thiêng liêng, trong ngần như vậy.
Nên thơ ca luôn dành vô vàn các mỹ từ ca ngợi tình mẫu-tử.
Khơng chỉ với ca dao, đối với các nhà thơ hiện đại, tình mẫu-tử là đề
tài khơi gợi nhiều xúc cảm. Người đọc bắt gặp trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm một tình mẫu-tử thiêng liêng, qua bài Mẹ và quả. Mượn hình ảnh
bầu, bí, tác giả nói về nỗi vất vả, giọt mồ hôi của mẹ nuôi con như chăm
trồng một thứ quả mà chẳng mong ngày gặt hái:Lũ chúng tơi từ tay mẹ lớn
lên / Cịn những bí và bầu thì lớn xuống / Chúng mang dáng giọt mồ hơi
mặn / Rỏ xuống lịng thầm lặng mẹ tơi. Trong bài Con cị củaChế Lan
Viên, mượn hình ảnh con cị trong ca dao, tác giả đã tái hiện lại cuộc đời
của một con người từ khi bé thơ đến trưởng thành, mẹ vẫn là người mãi yêu
thương, chở che, dõi bước theo con cả chặng đường đời: Con dù lớn vẫn là
con của mẹ/ Đi hết đời lịng mẹ vẫn theo con. Chính tình yêu với con là
nguồn sống của người mẹ, tiếp thêm sức mạnh cho mẹ, dù là trong cả chiến
tranh gian khổ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm với bài Khúc hát ru những
em bé lớn trên lưng mẹ, lại cho thấy tình mẫu – tử là sức mạnh to lớn: Mặt
trời của bắp thì nằm trên đồi/ Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng, bằng hình
ảnh ẩn dụ, tác giả ví đứa con như mặt trời, là nguồn sống, nguồn sáng, dẫn
đường cho mẹ, để mẹ chiến đấu, mẹ lên rẫy, mẹ nuôi bộ đội, và giúp mẹ
vượt qua mọi nỗi vất vả. Như vậy, có thể thấy tình mẫu tử chứa sức mạnh
lớn lao, và là nguồn cảm hứng đẹp trong thơ ca.
Tiếp nối nguồn cảm hứng đó, trong sáng tác của mình, Lệ Thu cũng
dành riêng những vần thơ ngọt ngào, da diết cho tình Mẫu-tử. Lệ Thu, một
người con của đất Bình Định can trường, lại là một nữ nhà báo chiến
trường. Trải qua những năm tháng khói lửa của dân tộc, chị đã dâng hiến
tuổi thanh xuân của mình, hi sinh cả hạnh phúc cá nhân, hi sinh tình mẫu
tử. Nên hơn ai hết, chính bản thân chị cảm nhận sâu sắc sự mất mát khi
chứng kiến nỗi đau chiến tranh hằn trên vai người thân: cậu, ông, cha, anh,
em, và đặc biệt là mẹ. Là một người phụ nữ, mang trong mình trái tim đa
cảm với cuộc đời, là một cơng dân có trách nhiệm với đất nước, bên cạnh
những vần thơ về lòng tự hào dân tộc, thơ Lệ Thu là những vần thơ của
chính trái tim, tình cảm của bản thân chị.
Đến tháng 8 năm 2014, nhà thơ Lệ Thu đã có 10 tập thơ được xuất
bản, tính từ tập thơ đầu tiên là “Xứ Sở Loài Chim Yến” (năm 1980) và
tuyển tập “Điềm Đạm Việt Nam” với 268 bài thơ (và một trường ca gồm
12 chương) “tổng kết” một chặng đường dài làm thơ của chị. Trong chặng
đường dài ấy, thơ chị khơng phơ trương, khơng bóng bẩy, khơng căng cơ
mà nhẹ nhàng, điềm tĩnh như chính con người Lệ Thu trong cuộc sống.
Tuy nhiên, chính những vần thơ nhẹ nhàng, sâu lắng ấy lại nhận được sự
đồng cảm trong trái tim bạn đọc. Dọc theo dòng chảy trong thơ chị khơng
khó để nhận ra tình Mẫu – tử được chị viết như để trải lòng, viết cho người
và cũng là viết cho mình.
2. Tình Mẫu – tử trong thơ Lệ Thu: viết cho mình cũng là viết
cho người
Trái tim Lệ Thu dường như rung lên những nhịp thổn thức khi nhắc
đến tình mẫu-tử. Lệ Thu đã từng phải nhìn mẹ: Trước mũi súng và xe tăng,
mẹ đứng/ Nhìn theo con hun hút cuối con đường, rồi chị -một người mẹ, đã
phải gửi con để vào chiến trường, nếm trải qua bao cảm giác sinh ly tử biệt.
Chính những điều ấy, đã ni lớn cảm xúc mẫu-tử trong trái tim nhà thơ và
trở thành nguồn thi hứng mãnh liệt trong sáng tác. Trong tuyển Điềm đạm
Việt Nam,Lệ Thu dành riêng phần II –Mẹ - Con với 41 bài thơtrong tổng
số 268 bài thơ, chiếm 15,29%để viết về đề tài mẫu –tử.
Tình mẫu – tử chính là cội nguồn cho sự sinh sôi của cuộc sống cũng
như cội nguồn cho những sáng tạo hình thành và phát triển. Làm mẹ, khơng
chỉ là thiên chức mà cịn là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của người phụ nữ.
Đó là khi cảm nhận đứa trẻ đang hình thành trong cơ thể mình, những
tháng ngày chờ mong nó lớn dần lên và ngày đứa bé chào đời cũng là ngày
hạnh phúc vỡ ịa. Bởi vậy, chia lìa núm ruột, là mất mát và hi sinh quá lớn,
mà chỉ những người mẹ mới có thể thấu hiểu.
Lệ Thu khẳng định mẹ là Người duy nhất trên đời:Người duy nhất
trên đời khơng tính tốn cùng ta/ Đó là Mẹ/ người cho ta sự sống/…Người
chẳng thể dìu ta trên đường đời mãi mãi/ nhưng mãi mãi trái tim người/
nâng đỡ bước chân ta! Vâng, mẹ là người mang nặng, đẻ đau, lo lắng cho
đứa con thơ của mình, sau bao vấp ngã, bao sóng gió, phong ba…mẹ vẫn
bên cạnh, với mẹ, con ln là đứa trẻ thơ bé dại, luôn cần chở che. Mượn
hình ảnh đàn gà, Lệ Thu thấy tấm lịng bao dung của người mẹ:Thống
bóng diều hâu/ linh giác mẹ gà/ che chở đàn con/ xịe đơi cánh. Tình mẫu –
tử là tình cảm thiêng liêng của vạn vật, khơng chỉ riêng con người, cả
những loài động vật ngoài kia cũng thương u và bảo vệ con của mình.
Mẹ ln là nơi con có thể quay về, đểsà vào lịng rồi khóc ngon lành như
một đứa trẻ, dù đã tóc bạc da mồi. Dù đã là một ông vua hay một tên trộm,
dù có hồn hảohay thiếu sót…với mẹ, con vẫn bé bỏng, vẫn cần yêu
thương bảo vệ, và là người hoàn hảo nhất trong mắt mẹ. Vậy nên:Với mẹ
con là tất cả/ Sướng vui, kiêu hãnh, mong chờ…/ Đường đời lỡ khi vấp
ngã/ Biết rằng mình chẳng bơ vơ. (Cịn Mẹ).
Lệ Thu dành khá nhiềusáng tácviết về hình ảnh người mẹ. Với Mẹ
của mình- bà Lê Thị Nhâm,thơ Lệ Thu mang tình cảm da diết cùng sự đau
xót vì những vất vả, hi sinh…của cuộc đời, của chiến tranh:Con ra đi
nghoảnh mặt lại thẩn thờ/ Mẹ đang đứng – nơi ngày xưa mẹ đứng/ Trước
mũi súng và xe tăng mẹ đứng/ Nhìn theo con hun hút cuối con đường/ Mẹ
đứng nơi này một nắng hai sương/ Mái tóc mỗi ngày mỗi bạc/ Mẹ đứng nơi
này chắt chiu từng hạt thóc/ Lại nuôi con như thuở mới ra đời (Nơi mẹ
đứng) hay Phơi mình dưới nắng chói chang/ nhọc nhằn kéo lên gàu nước/
Những giọt mồ hơi tn/ gió xịa tóc bạc (Cánh đồng của mẹ). Mẹ chính là
tiếng gọi thiêng liêng của mỗi người. Bất cứ ai cũng sợ, sợ một ngày:Má
mất sẽ ra sao?/ Tôi tự hỏi ngàn lần như thế/ Lịng nghẹn lại trước bao điều
có thể (Khi tóc má bạc rồi). Nhưng đối với mẹ:Chẳng ai tránh được con
đường tử sinh/…Thơi con, ở lại giữu mình/ Đừng buồn thế thái nhân tình
bạc đen/ Đừng khinh thân phận thấp hèn/ Đừng tâng bốc kẻ uy quyền giàu
sang…(Lời mẹ). Trước lúc ra đi,mẹ khơng nghĩ gì cho bản thân mình, chỉ
mong muốn con có thể giữ tâm bình thản trước sóng gió cuộc đời:Chơng
gai mẹ vượt đời này/ Cầu cho con những tháng ngày yên vui (Lời mẹ)
Mẹ luôn dạy dỗ và hướng đứa con ngoan của mình đến những giá trị
đạo đức nhân sinh cao đẹp: Đừng khinh thân phận thấp hèn/ Đừng tâng
bốc kẻ uy quyền giàu sang(Lời mẹ). Trong bài Dặn con,Lệ Thu có nói Nếu
mỏi/ con ngồi đâu cũng được/ miễn đừng làm nát cỏ non/ Muốn cao hơn/
con đứng đâu cũng được/ trừ trên đầu bạn con/ Muốn đến đích/ con đi
đường nào cũng được/ đừng vừa đi vừa mắng mỏ đường mòn! (Dặn
con),hay Con ơi con! Mẹ ghi vào quyển sách/ mai lớn khôn con hãy đọc lời
này/ phải biết thương người và hãy sống mê say/ nếu phải chết chọn cái
chết nào đẹp nhất (Lời thương gửi lại). Mẹ luôn dành cho con những dặn
dò, những lời khuyên nhủ, dạy cho con điều hay lẽ phải, đó chính là cơ sở
để con bước vào đời, trở thành một người cơng dân tốt có ích cho nước,
cho dân. Mẹ luôn theo con trên mọi nẻo đường, mọi giai đoạn, từ khi sinh
ra cho đến khi tóc ngả màu sương gió, mẹ vẫn một lịng cưu mang.
Từ trái tim thổn thức thương yêu dành riêng cho mẹ mình, Lệ Thu
thể hiện nỗi lịng với những người mẹ Việt Nam anh hùng trong thời khói
lửa, với tất cả sự trân trọng, kính u và xót thương cho những hi sinh của
các bà, các mẹ.
Trong Nơi mẹ đứng Lệ Thu nói: Đất nước mình dằng dặc chiến
tranh/ Những đứa trẻ sinh ra – những chàng trai chiến trận/ Trái tim mẹ
yêu thương căm giận/ Cay đắng, ngọt ngào đời mẹ vẫn là con. Vì khói lửa
chiến tranh,các mẹ chấp nhận sự hi sinh, cho con yêu ra chiến trường, dù
biết có thể cái chết đang chờ đợi những đứa con bé bỏng: Ai biết chỗ nằm
con mẹ lúc hi sinh/ xin nhắn giúp về bà … ở xóm… thơn…huyện…tỉnh…/
…Mẹ ơi/ hình hài dáng vóc/con mẹ giờ phiêu dạt cánh rừng xa/xương cốt
chẳng cịn đâu/ nhưng con có cửa nhà/ có lửa ấm đêm đêm từ trái tim mẹ
vọng (Nhắn tìm).
Trong bài thơ, Chuyện kể dưới chân hòn kẽm đá dừng nhà thơ cho
thấy nỗi đau của người mẹ mất con trong chiến tranh, những ám ảnh dằn
vặt tâm hồn người mẹ, dù bao nhiêu năm đã trôi qua:Mẹ chong mắt bốn
mươi năm/ bàng hồng mê tỉnh…/ngỡ tiếng khóc con mình cịn văng vẳng
đâu đây. Chị kể lại câu chuyện của mẹ Lê Thị Nghè, đã tự tay “giết tiếng
khóc” của đứa con mình “chỉ là đứa trẻ sơ sinh khóc vì đói và khát” để
cứu “hai trăm con người/ đang trốn chui trốn nhủi” và ngồi kia là:lính
Mỹ, Nam Hàn…/súng lăm lăm, súng lùng sục, vây càn,/ dỏng tai lần theo
tiếng khóc.Cịn sự đau xót nào hơn khi mẹ hi sinh sự sống đứa con thơ vì
sự sống của dân làng, để rồi hồn mẹ cũng chết: Tiếng khóc bặt rồi/ lặng cả
lòng hang/ trong tay mẹ lạnh dần cái xác/…hồn mẹ cũng theo con… “bấy
chừ đã chết”.
Sự hi sinh của những người mẹ trong chiến tranh, còn là sự đau đớn
để lại dù cuộc chiến đã lùi vào dĩ vãng sau bao nhiêu năm. Trong bài Mầm
xanh của mẹ ở đâu (Thác lời người mẹ có con nhiễm chất độc da cam)Lệ
Thu đã nói lên nỗi đau chung của bao nhiêu người mẹ, họ hi sinh tuổi trẻ
của mình xếp bút nghiên lên đường vì cuộc chiến. Nhưng khi họ gieo mầm
xanh cuộc sống, khi họ sinh ra một sinh linh bé bỏng, chất độc màu da cam
đã:làm cho con tơi khơng thành hình thành vóc/ chỉ cục thịt vơ hồn làm sao
sống giữa thế gian? Bằng sự đau xót của tấm lòng người mẹ, chị đã kêu
lên:Ta hỏi trời, hỏi đất/ hỏi kẻ cầm đầu chiến tranh xâm lược/ kẻ hám lợi
sát nhân/ con ta đâu?. Sau khi hòa bình lập lại, với những hậu quả mà chất
độc màu da cam đã gây ra cho nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh
với Mỹ, Ngày 31 tháng 1 năm 2004, nhóm bảo vệ quyền lợi nạn nhân Chất
độc da cam, Hội Nạn nhân Chất độc da cam/dioxin Việt Nam (The
Vietnam Association of Victims of Agent Orange/Dioxin - VAVA) đã kiện
hơn ba mươi công ty Mỹ phải bồi thường do trách nhiệm gây ra thương
tích vì đã sản xuất chất hóa học này. Nhưng, đến nay việc khắc phục hậu
quả vẫn chưa thực sự được thực hiện thỏa đáng. Với tất cả những đau xót
đó, với sự phẫn nộ do hậu quả của nó để lại, Lệ Thu đã lên tiếng trong thơ
mình:Sao cịn chối quanh/ cịn phân trần/ khi hàn triệu trái tim/ đã thành
luật sư, tòa án/ khi những đứa con tuổi ba mươi không thể/ thành người
lớn/ khi trùng trùng quái thai/ vẫn sống làm nhân chứng?/ Con ta đâu???/
Mầm xanh của mẹ ở đâu!!! Một câu cảm thán như một câu hỏi từ đáy lòng
được đưa ra đầy đau xót, khiến người đọc cũng khơng thơi ám ảnh.
Mẹ là một tiếng gọi chứa đựng sự yêu thương, sự gắn liền, đó là
máu, là thịt của Mẹ. Nhưng trong bài thơ Người mẹ chưa một lần sinh nở
Lệ Thu đã kể về câu chuyện của Chị Sỏi:Trọn một thời tuổi trẻ đi qua/ Chị
làm mẹ khi chưa từng làm vợ/ Chị làm mẹ khi chưa từng sinh nở/ Mà đàn
con quấn qt quanh mình. Đó là câu chuyện của một người con gái đẹp, có
người yêu hi sinh ở chiến trường Trường Sơn, còn chị Sỏi:Hai mươi năm
mang trái tim người mẹ/ chị nuôi con cho cả hai miền/ …Đàn con thiếu mẹ
thiếu cha/ đinh ninh chị là của nó/ Những đơi mắt rưng rưng bao lần gọi
“Mẹ”/ Chị ơm chúng vào lịng/ và tất cả tình thương gửi vào đám trẻ.
Viết về tình mẫu – tử, Lệ Thu cảm nhận bằng trái tim của một người
mẹ, một người phụ nữ. Bởi thế, lời thơ của chị dịu dàng,đằm thắm và thấu
hểu. Trong bàiĐừng hỏi Lệ Thu viết:Đừng hỏi mẹ có đau gì khơng/ vì mẹ
sẽ trả lời:khơng đau gì cả/ Đừng hỏi mẹ có buồn gì khơng/ vì mẹ sẽ trả lời:
khơng buồn cả… Người mẹ trên thế gian này đều vậy, luôn dành tất cả cho
con mà khơng địi hỏi gì cả. Nên: Tốt nhất hãy nhìn chân mẹ/ bước run
trước bậc thềm nhà/ tốt nhất hãy nhìn tóc mẹ/ trắng dần trước áng thờ cha/
Tốt nhất hãy nhìn lưng mẹ/ mỗi ngày cịng xuống bên ta.Con hãy nhìn và
cảm nhận, “thời gian chạy qua tóc mẹ”!Có thể thấy, tình mẫu – tử, như
một chiếc cầu nối giữa những tình cảm riêng-chung, cá nhân – cộng đồng,
được thể hiện hịa quyện trong thơ Lệ Thu. Đó khơng chỉ là tiếng lịng của
riêng chị mà thơ chị như đang nói hộ tiếng lòng của mỗi người.
Và mong rằng những ai cịn mẹ xin đừng làm mẹ khóc! Bởi cuộc đời
mẹ chẳng có giây phút sống cho riêng mình!
3. Lệ Thu với “Viết cho Con”: để vơi bớt nỗi nhớ thương trong
lòng
Khi trở thành một người mẹ, mới hiểu tấm lòng của những người
mẹ.Lệ Thu sau những vần thơ da diết dành cho mẹ, là những trang viết đầy
tình cảm cho con mình. Lệ Thu rời con từ khi con cịn bé để vào vùng
chiến. Những tình cảm yêu thương, mong nhớ đứa con thơ đến cháy lòng
được Lệ Thu thổ lộ nỗi lòng vào từng vần thơ. Bài Viết cho con là lời tâm
tình Lệ Thu dành cho con:Biết con thiệt thịi hơn nhiều đứa trẻ/ vì thiếu
bàn tay mẹ lo chăm/ Nhưng lòng con sẽ sáng mặt trăng rằm/ Khi lịch sử
sang trang con vẫn nhìn thấy mẹ/ Khi Tổ quốc gọi tên từng thế hệ/ Trong
vinh quang con khơng phải cúi đầu. Chị như trần tình lí do để tuổi thơ con
lớn lên mà khơng có mẹ bên cạnh. Tất cả cũng vì con, để con tự hào về mẹ,
Tổ quốc, để con lớn lên không phải làm “ nô lệ”... nên bây giờ mẹ phải ra
đi. Lệ Thu cho biết bài thơ Viết cho con ra đời vào những năm 1973, khi
chị vào thường trú tại Trung Trung bộ để làm phó đồn phóng viên Đài
Phát thanh giải phóng. Trong những ngày tháng ấy, chị gửi con thơ lại quê
nhà. Với sự thương nhớ con, bài thơ ra đời, và được in trên tạp chí Văn
nghệ giải phóng, sau này được in lại trên Văn nghệ quân độivào năm 1974.
Anh em đồng đội ở Hà Nội, đã mang những số báo có bài thơ đến cho con
trai Lệ Thu là Trần Nam Bình, khi đó đang học lớp một.Anh đã giữ gìn đến
ngày chiến thắng 1975, mẹ con gặp lại nhauvà đó là một kỉ vật vơ cùng quý
giá. Lệ Thu hiểu sự thiệt thòi của con, với chị để con có cuộc đời trọn vẹn
chị phải nén u thương tận trái tim mình, làm trịn nhiệm vụ với tổ quốc.
Nhưng bao năm tháng ấy, tình yêu dành cho con không phút nào ngơi. Chị
dành cho con tất cả niềm thương nhớ và tình thương để rồi:Xin cơn bấc
thổi về, thổi nhẹ/ Xin trưa nồng cái nắng bớt oi/ Xin bình n từng giấc ngủ
trong nơi.
Trong Lời ru một thuở,Lệ Thu gửi gắm tình yêu vào lời ru cho con ở
nơi xa lắm, ở tận chiến trường:Nhớ con ru gió, ru mây/ ru hoa, ru
trái....suối đầy, mẹ ru/ “Ru” con, lại tiếng bom thù/...Lời ru của mẹ đi tìm/
về con – giấc ngủ lặng chìm bờ tre. Rồi chị dặn dị con thơ của mình với
bài Năm mười tám tuổi của con, Chị viết: Má muốn dìu bước con qua nẻo
ngoặt/ muốn chắn mũi tên thù bắn phía sau lưng/ muốn chân con đừng
bước ngập ngừng/ muốn ánh điện sáng hơn trong giảng đường đại học.
Tuy nhiên, năm mười tám tuổi của con là những năm tháng:bao sự kiện bất
ngờ/ những phát minh khoa học dịêu kỳ/ những điều lớn lao/ và những điều
phi lí/ – những điều khác xa tuổi thơ con hằng nghĩ.../Mười tám tuổi/ con
ơi/ bao thử thách/ Má thương con/ thương cả chặng đường dài... Bởi vì
những đổi thay, những chênh vênh nên máthương cả chặng đường dài ấy
của con. Bởi những đổi thay ấy quá khác thời con đang sống, và má luôn là
người dìu bước chân con.
Là một người Mẹ, người cơng dân có trách nhiệm, Lệ Thu ln ý
thức giáo dục con mình những ý chí, hồi bão tốt đẹp bởi: “Nếu phải chết,
chọn cái chết nào đẹp nhất”.Chính tình mẫu – tử là nguồn thi hứng bất tận
để nhà thơgửi gắm tâm sự, tình cảm của mình, và cả câu chuyện của đất
nước, của thời cuộc. Đó cũng là những câu chuyện của hi sinh, đau thương
của năm tháng chiến tranh.Qua đó, thấy được màu xanh hịa bình này, được
đánh đổi bằng máu, nước mắt, và sự chia ly của những con tim cháy bỏng
yêu thương.
Có thể nói, xu hướng đào sâu vào cái tôi cá nhân sau 1975 là xu
hướng chung của hầu hết các nhà thơ.Tuy nhiên, Lệ Thu khơng để mình
hịa lẫn mà ln giữ cho mình một chút dấu ấn riêng. Tình mẫu - tử, là một
trong những nét đẹp thơ Lệ Thu. Nó khơng chỉ là những vần thơ da diết của
một người con dành cho mẹ, là tình yêu thương của một người phụ nữ dành
cho con mình. Mà ở đó cịn thấy được sự hi sinh, đau xót… của chiến
tranh, nỗi niềm chung của đời. Điều đó khiến thơ Chị rất gần gũi, thân
quen, nhưng khơng thể “ăn liền” mà cần có thời gian chiêm nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Đồng
Tháp, Đồng Tháp.
[2] Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
[3] Mai Bá Ẩn, Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện
đại, , ngày 17/3/2014.
[4] Báo Bình Định (2015), Lệ Thu và nhật ký “Nữ nhà báo chiến
trường”, Địa chỉ: [truy cập ngày
31/08/2015].
[5] Phạm Quốc Ca (2003), Những đặc điểm cơ bản của thơ Việt Nam
sau 1975, Luận án tiến sĩ ngữ văn, TPHCM.
[6] Chu Xuân Diên (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
[7] Trương Đăng Dung (2013), Tác phẩm văn học nhìn từ lý thuyết
tiếp nhận, Nxb Khoa học Xã hội, H.N.
[8] Phong Điệp, Cuộc phiêu lưu của những cái Tôi (2014), Nxb Tổng
hợp Tp. Hồ Chí Minh.
[9] Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học,
HN.