Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

CÁI tôi TRỮ TÌNH TRONG THƠ ĐINH THỊ THU vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.35 KB, 11 trang )

HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ ĐINH THỊ THU VÂN
(Đoàn Thị Thúy Kiều – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18)
Bản chất của thơ trữ tình là sự hiện diện của cái tôi. Theo nhận định của
PGS.TS Lê Lưu Oanh: “Cái tôi thực chất là khái niệm về cấu trúc nhân cách mang
tính phổ quát. Hiện tượng cái tôi vừa mang tính xã hội-lịch sử, vừa phân biệt cái
độc đáo và khẳng định tính tích cực của nhân cách cá nhân.” [6, tr.18]
Cái tôi trữ tình là biểu hiện của cách nhận thức và suy tư của chủ thể trước
thế giới hiện thực; qua những điểm nhìn nghệ thuật thể hiện tư tưởng, cá tính sáng
tạo của người nghệ sĩ. Ở đây, cái tôi trữ tình được hiểu theo nghĩa rộng là “bản
chất chủ quan của thể loại trữ tình” [6, tr.22]
Cái tôi trữ tình nếu chia theo loại hình nội dung có các dạng thức: “Cái tôi –
sử thi; Cái tôi – thế sự; Cái tôi – đời tư;…” [6, tr.57]
Nói đến Long An, ta nghĩ ngay đến cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, các
dòng sông, máy xay xát, cá đồng, chuột đồng,…Và ở đấy, không thể thiếu tiếng
thơ trầm buồn của nữ thi sĩ Đinh Thị Thu Vân. Nguyễn Đông A đã từng nhận định:
“Thơ của cô đã thu hút biết bao trái tim bạn đọc, làm đau xé lòng phụ nữ, dẫm nát
tan trái tim cứng rắn của đàn ông”. Cho tới nay cô đã có 4 tập thơ (3 tập thơ riêng
và 1 tập in chung) được nhận 3 giải thưởng (Giải C Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1979; Tặng thưởng thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1982,
1896). Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ cô được biểu hiện rõ nét trên ba
phương diện: Cái tôi công dân; Cái tôi yêu đương khao khát, cuồng nhiệt và Cái tôi
cô đơn, tuyệt vọng trong tình yêu. Ba phương diện ấy thống nhất, hòa hợp với nhau
một cách khó tách bạch để làm nên một gương mặt thơ có cá tính sáng tạo đậm nét
trong thơ Long An nói riêng và trong thơ Việt đương đại nói chung. Sau đây, chúng
tôi xin trình bày những phương diện của cái tôi trữ tình trong thơ của nữ nhà thơ
này.
1. Cái tôi công dân
Lúc mới cầm bút, mảng đề tài chính của Đinh Thị Thu Vân là quân đội với tập
thơ đầu tay Thay cho lời hát ru anh, (1984, NXB Long An). Tập thơ này thể hiện
con người công dân – chiến sĩ mang cảm hứng lịch sử, thời đại, dân tộc. Khương


Minh Ngọc trong Một vài cảm nghĩ thay lời giới thiệu cho tập thơ này đã viết:
“Đất nước Việt Nam, miền quê Long An chiến tranh liên miên và anh bộ đội
chính là hình ảnh trung tâm của mọi tâm khảm. Trên đất nước này, ai mà không
thương, không yêu, không quý anh bộ đội Cụ Hồ. Huống chi Thu Vân là con gái.
Mấy mươi năm qua, biết bao nhiêu nhà thơ già dặn đã nói đến anh bộ đội, ca ngợi
anh bộ đội, mở rộng lòng mình với anh bộ đội. Tưởng chừng như mọi ý thơ, mọi tứ
1


thơ đã mòn cạn hết rồi. Nhưng Thu Vân vẫn cứ nói về anh bộ đội mà giọng thơ
không giống một ai cả, thì thầm mà lưu loát, ngọt ngào mà làm bừng tỉnh với
những hình tượng rất gần, rất quen mà bất ngờ đến ngạc nhiên, mở rộng mà e ắp,
tưởng là của anh, của chị, của chúng ta mà không phải của chúng ta. Tưởng
không phải của chúng ta mà ngẫm lại là của chúng ta” [9].
Đinh Thị Thu Vân nói đến cái tôi công dân qua anh bộ đội – con người có ý thức
cao độ về trách nhiệm xã hội, trách nhiệm trước lịch sử (Những bàn tay vẫy; Hậu
Giang; Riêng với biên phòng; Con tem quân đội; Chiều cuối cùng ở trường
huấn luyện v.v…); Cái tôi trữ tình ngợi ca, tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên, địa lý của
quê hương, đất nước và về chiến thắng của nhân dân ta (Biển không phải là bài
thơ tự do; Nụ cười em - hạt phù sa; Bến đò xưa em về lại; Nếu không có ngày ba
mươi tháng tư); Cái tôi thấm nghiệm nhìn thẳng vào hiện thực của chiến tranh
(Núi của tôi, Nếu mai anh về; …); Cái tôi của em hậu phương, tình yêu lứa đôi
hòa lẫn tình yêu Tổ quốc (Bài thơ lục bát của anh; Nhật ký mùa mưa, Con còng
vôi trốn ai; Không đề; Phút cầm tay; Thay cho lời hát ru anh...). Với các chủ đề
về đất nước và con người trong chiến tranh cách mạng, Thu Vân đã khắc họa cái
tôi công dân nồng nàn trong tập thơ này.
Chẳng hạn, bài thơ Những bàn tay vẫy không chỉ nói đến giây phút chia tay
các anh thanh niên lên đường nhập ngũ: “có bàn tay bạn bè tôi/ vẫy theo mở một
khoảng trời trẻ trung/ vẫy chậm là lúc vấn vương/ vẫy nhanh là lúc nghe thương
rộn ràng” mà còn nói về cuộc chia ly mang màu sắc lí tưởng và người ra đi hiểu

được sứ mệnh của mình: “đủ cho tôi mãi mặn nồng/ra đi bằng những bước chân
bồi hồi/ ước mơ hiểu giọt mồ hôi/ ước mơ hiểu được cuộc đời, hiểu ai…”. Rời quê
hương, gia đình, bạn bè,…họ lên đường với tất cả nhiệt huyết của tuổi thơ một
lòng nhắm thẳng quân thù. Và có cả niềm tự hào về thiên nhiên quê hương, đất
nước qua bài Biển không phải là bài thơ tự do: “khác nhau không, lời ca ngợi
những loài rong/ những bãi cát nằm ven bờ biển rộng/ với lời ngợi ca bao la cá lạ/
những giếng dầu những quặng mỏ tài nguyên”. Đặc biệt được nhà thơ nhắc đến đó
là hình ảnh “mẹ”, người đã chịu nhiều vất vả như trong bài Nhật ký mùa mưa:
“mà lòng em thuở đó quá đơn sơ/ngỡ nghe mẹ học ngoan là đã đủ và đêm đêm vẫn
bình yên giấc ngủ/ mặc mẹ dầm mưa, ngâm giống, đắp bờ”. Lúc này đây, nhà thơ
nhận thức ra người mẹ thứ hai trong cuộc đời mình, người mẹ ấy lớn hơn và rất đỗi
thiêng liêng, cao quý - đó là mẹ Tổ quốc: “em có yêu được trọn tâm hồn/ khi giờ
mới hiểu mùa mưa một nửa?/ mồ hôi chưa đổ, em có đợi hạt lúa nảy mầm/ thì nỗi
đợi chờ cũng chỉ làm xốn xang một nửa/ tình em với mưa đâu bằng mẹ bây giờ”.
Cái tôi thể hiện niềm reo vui, niềm tự hào, ngợi ca về chiến thắng qua bài thơ Nếu
không có ngày ba mươi tháng tư cô viết: “nếu không có ngày ba mươi tháng tư”
thì em: “không một lần dám sống hy sinh rồi em sẽ đến với tình yêu bằng nửa trái
tim yếu đuối/ còn nửa kia, đành giữ lại…để nghi ngờ” và “có thể rồi quên cả màu
của lúa/ quên bài địa lý quê hương những miền nào đất đen, đất đỏ…”. Tất thảy
2


với những tự vấn thảng thốt và đầy trực cảm: “ngày tháng trước em là con ốc nhỏ/
con ốc đa nghi cuộn mình trong vỏ” đã hiện lên chân dung của một nữ thi sĩ mảnh
mai có chút gì yếu đuối nhưng rất thật lòng. Thơ chính là sự chắt lọc của tâm hồn,
và sự kiện ngày ba mươi tháng tư đã thanh lọc lại tâm hồn, lối nghĩ, cách sống. Kết
thúc bài thơ là một lời chia sẻ tâm tình, bởi cô đã: “em đổi những bé mọn của tâm
hồn lấy lắm ngọt êm/ Lòng vẫn nghĩ tháng tư làm nhân chứng/ ôi nhân chứng bao
dung, nhân chứng vô cùng người lớn/làm thế nào em có thể đền ơn!”. Vâng, tháng
tư như một con người, cá thể không chỉ là một nhân chứng lịch sử mà còn là nhân

chứng cuộc đời. Và ngày ba mươi tháng tư là cứu cánh, là điểm tựa, là hy vọng, và
chúng ta làm thế nào có thể đền ơn được với những mất mát hy sinh của biết bao
đồng đội để có một ngày ba mươi tháng tư trọn vẹn trong đời.
Nếu các bài thơ trong chiến tranh nói đến cái chết không phải là sự mất đi,
tan biến mà là sự thăng hoa, bay lên, tan vào đất nước thì với Thu Vân, cái chết
được phản ánh chân thực nhưng từ đó là động lực chiến đấu: “Ôi người chết nằm
sâu trong hóc đá/ Phút cuối cùng tóc còn quấn tìm nhau; Cho phút này tôi nâng
tóc trên tay/ Nghe mười ngón bồn chồn muôn hạt máu/muôn hạt máu cứ giục tôi đi
chiến đấu/ Máu của tôi mà cứ ngỡ bao người!/…Nghe như là tim núi gọi tim tôi/
Đập thao thức cùng nhịp tim Tổ quốc” (Núi của tôi). Tình cảm riêng tư, đời
thường của người lính khi có những phút lặng chiến sĩ nghĩ về mình trong bài Nếu
mai anh về: “Anh hỏi nếu mai về từ biên giới/ Một bàn chân anh gửi lại chiến
trường/ Nếu bàn tay năm ngón mở yêu thương/ Không còn nữa…em có còn tha
thiết?”. Đó là những giây phút dồn nén chất trữ tình nhất. Cũng là tình yêu đôi lứa
nhưng ở đây, tình yêu lứa đôi hòa lẫn tình yêu tổ quốc, trong cùng chung một
nhiệm vụ: “đời anh- áo lính, rừng xanh/em ru sao để không thành thờ ơ” (Thay
cho lời hát ru anh); hay tâm trạng của anh lính không biết ngỏ lời cùng em như
thế nào khi nhiệm vụ còn nặng trên vai qua bài “nụ cười em – hạt phù sa”: “Nốt
ruồi em, cuối chân mày/ Tôi nhìn, ngỡ giọt mồ hôi mặn mà/ Lòng chưa chở được
phù sa/ Nói thương em với quê nhà làm sao?”. Để rồi anh tiền tuyến cầm súng
chiến đấu, em hậu phương với hình ảnh lao động cần cù, chịu thương, chịu khó,
một tâm hồn hiền hậu, trong sáng: “Tôi thèm chút vị đòng đòng/ Đưa tay định bứt
đau lòng nên thôi/ Lúa còn non quá em ơi/ Em chăm chút lẽ nào tôi hững hờ; Thu
hoạch đầu mùa, đồng chí huyện ủy bắt tay/ Những ngón tay chai gặp nhau chợt
mền đi, em khóc”. Hẹn nhau lời hứa đợi chờ: “Ra chiến trường, người yêu hẹn:
mai sau…/ Mắt đăm đắm nhìn mắt em rạng rỡ/ Em cuối xuống di chân trên lối rạ/
Nụ cười ngoan lời hứa đợi chờ”.
Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ý thức được
trách nhiệm của người cầm bút trước thời đại, Đinh Thị Thu Vân đã viết nên những
vần thơ phản ánh cuộc sống chiến đấu của quân và dân ta. Cuộc sống, chiến đấu

của nhân dân, hình ảnh những người lính ra trận, hình ảnh quê hương tươi đẹp,
những dòng sông, bãi bờ, ngọn núi đã đi vào thơ cô như một niềm tự hào, yêu và
3


gắn bó sâu nặng với quê hương của mình. Ngợi ca về mảnh đất Long An anh hùng
trong chiến đấu và miệt mài trong lao động. Chiến tranh làm cho con người cá
nhân không ít thì nhiều cũng không thể tách rời con người cộng đồng, con người cá
thể và con người công dân có sự gặp gỡ thật tự nhiên.
Tóm lại, cái tôi công dân đã tạo nên vẻ đẹp riêng tràn đầy tình yêu quê
hương, đất nước của thơ Đinh Thị Thu Vân. Và khắc họa hình tượng người chiến
sĩ, hình tượng nhân dân là hai hình tượng trung tâm vừa mang tính cụ thể vừa
mang tính khái quát.
2. Cái tôi yêu đương khao khát, cuồng nhiệt
Tính chất sử thi của nền văn học Việt Nam 1945-1975 được quy định bởi
trạng thái sử thi của đời sống cách mạng và kháng chiến. Ra khỏi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, ra khỏi lối sống cộng đồng “Cả đất nước có một tâm hồn, có
chung gương mặt”, con người dần dần tự ý thức lại về cá nhân [1].
Khác với lúc mới cầm bút, mảng đề tài chính của Đinh Thị Thu Vân là viết
về quân đội, thì trong 3 tập thơ sau này nhà thơ đi sâu vào mảng tự sự, trữ tình.
Ngoài tập thơ Thay cho lời hát ru anh, cả ba tập thơ: Một ngày ta ngoái lại,
Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ, Email xanh, cô dành trọn cho tình yêu.
Chính là sự kế tiếp một hành trình bền bỉ: Hành trình tình yêu. Đây là các tập thơ
tiếp tục đánh dấu thành công sự nghiệp nghệ thuật của Đinh Thị Thu Vân. Cùng
với cái tôi công dân, thơ Thu Vân luôn suy tư về cuộc đời, về chính mình, hình
thành nên cái tôi trữ tình đời tư – thế sự.
Sau năm 1975, dưới sự thay đổi của điều kiện lịch sử - xã hội, điểm nhìn và
cảm hứng trữ tình thay đổi:
“Tình yêu thời chiến có đặc thù rất rõ. Tình yêu là nơi yên tĩnh, là sự thanh
thản, là phút lặng trong chiến tranh, là biểu hiện của sự sống bất diệt trong bom

đạn, là hậu phương, nơi gửi gắm hi vọng, đợi chờ của người ra trận. Đó là loại
tình yêu mang lí tưởng xã hội cao cả, mang nét chung của một thế hệ, một giai
đoạn lịch sử.
Tình yêu hiện nay là một cõi miền rất riêng tư với các dạng vẻ vĩnh cửu của
nó: mất mát, tan vỡ, hòa hợp, hờn giận, nỗi đau đớn tinh thần, sự trống rỗng vô
vọng, niềm khắc khoải, chênh vênh, day dứt, dự cảm, nồng nàn,…Nó phức tạp hơn
và trần tục hơn”.[6, tr. 103]
Thơ tình của Đinh Thị Thu Vân tô đậm nét cảm nhận về tình yêu trần thế. Bên
cạnh nhu cầu về một hạnh phúc đời thường, tình yêu trần tục, sự thức tỉnh những
nhu cầu cá nhân còn thể hiện ở nội dung: khẳng định cá tính. Thơ cô đã khẳng định
con người - cá nhân - tình yêu rất mạnh mẽ, cuồng nhiệt, đam mê. Cái tôi trong thơ
Thu Vân là cái tôi dồi dào cảm hứng lãng mạn - Một cái tôi lúc nào cũng khao khát
yêu và được yêu.
4


Ở đoạn đầu và đoạn cuối bài thơ Những ngày xa có đến ba lần nhắc đến chuyện
“hôn em đi nhé…hôn em đi nhé”, đó chính là thời điểm bản ngã được giải phóng.
Một đòi hỏi tha thiết, đầy khát khao: “Hôn em đi nhé, chiều đang trách/ Môi chẳng
vì môi – bướm ngại vời/ Tim chẳng vì tim – hoa ngượng phấn/ Gió ngại ngần mơn
gió tha phương…”; “Hôn em đi nhé…ngày xa cách/ Lòng vẫn rung non nớt đợi
muôn trùng/ Và đồi núi và rừng sâu biển lạnh/ Có là gì khi khát cháy gọi chờ
mong!”. Và đoạn cuối bài thơ: “Hôn em nhé, mai ta về với đất/ Góc bể chân trời
có lẽ bớt xa xôi…” . Những lời thơ đậm chất lãng mạn trên đã giúp tác giả nhấn
mạnh niềm khao khát của mình trong tình yêu. Câu thơ như dần dần xiết chặt lại,
làm người ta có cảm giác nghẹn lòng. Hay trong bài thơ “Dành cho em đôi phút
lắng lòng đi”: “Dành cho em năm mười phút thôi anh/ Năm mười phút hình dung
những ngày mai khi mình xa nhau vĩnh viễn”. Với Thu Vân, không có ngày mai mà
chỉ có hôm nay, nên yêu thương cô khao khát và trân trọng từng phút, từng giây.
Sợ không còn cơ hội yêu được nữa: “Để em có tháng ngày yêu cuống quýt/ yêu

héo mòn, xao xác, rưng rưng/ Yêu như thể anh là người thứ nhất/ Yêu như là lần
cuối yêu thương” (Ba mươi năm). Yêu đương cháy bỏng, hết lòng và muốn được
yêu nhiều hơn thế nữa: “Yêu cho hết lòng em/ Vẫn e rằng chưa đủ/ Thương đến
cuối cuộc đời/ Biết đâu còn dở dang” (Điệp khúc). Cô yêu cho đến hơi thở cuối
cùng: “Yêu như là cạn sức/ Yêu như là cạn tim/ Yêu như là cạn máu/ Không còn
lần yêu thêm!” (Mang nỗi buồn tay trắng). Dường như một khi phụ nữ đã yêu thì
không gì có thể ngăn nổi, như tình yêu trong thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng hết sức
mãnh liệt: “Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình
yêu/ Để ngàn năm còn vỗ” (Sóng). Hai chữ “ngàn năm” trong con sóng của Xuân
Quỳnh đã đẩy khát vọng hòa nhập trong biển lớn tình yêu bất tử.
Biểu hiện rõ nhất của “yêu” là “nhớ”. Ở Thu Vân, cái tôi mang nỗi nhớ nồng
nàn da diết, nỗi nhớ ấy vượt qua mọi khoảng cách không gian, mọi giới hạn thời
gian, tồn tại trong ý thức và cả trong tiềm thức, luôn luôn thường trực, chờ dịp là
trổi dậy. Chẳng hạn bài thơ Nhớ với duyên cớ:
“Anh à
Em trở dậy nửa khuya
Vì nhớ”
Từ đó:
“Nhớ quá
Nhớ như sắp được hôn người!
Nhớ
Nhớ
Nhớ”
Lẽ thường tình, vì càng “nhớ quá” nên lại càng khao khát:
“Em chỉ muốn gục trên vai anh
5


Vùi nhớ
Làm sao cho em vài tích tắc

Vài tích tắc thôi mà
Vài tích tắc
Vùi thương trên vai xa…”
Trái tim người phụ nữ ấy, yếu đuối quá, mỏng manh làm sao !. Một tình yêu
thiết tha, nhẹ nhàng. Cô ước ao giản đơn thôi, nhỏ nhoi thôi, cho e “vài tích tắc
thôi mà”. Nỗi nhớ trải dài miên man, sâu lắng, nỗi nhớ đã thấm vào xương tủy của
nàng, quanh quẩn vò xé trái tim bé nhỏ. Và lại một lần nữa cô “nhớ”: “anh à, em
nhớ, em nhớ, nhớ mà không thể nói/ vừa đó thôi, đã hứa, chẳng tìm đâu”(Chiều).
Hương vị nồng nàn nhất trong thơ Thu Vân đó chính là nỗi nhớ, điệp ngữ “em
nhớ” diễn tả nỗi nhớ không thể thốt ra thành lời, chỉ vừa đó thôi đã thấy nhớ, nhớ
người vô cùng.
Thu Vân thường hay nhấn mạnh cái tôi của mình, đó là cách cô dùng từ ngữ
xưng hô trong thơ tình: tôi, em,..Sự xuất hiện đều đặn, dày đặc các đại từ ngôi thứ
nhất trong thơ đã thể hiện sự khát khao, cuồng nhiệt trong tình yêu. Yêu mới nhớ,
nhớ mới khát khao mang đầy màu sắc trần thế. Thậm chí trong quá trình đi tận
cùng đam mê trần thế ta sẽ bắt gặp sự ngây ngất mà cô muốn gửi đến, có những
khao khát hạnh phúc đời thường nam nữ: “vai anh rộng để em thèm bé nhỏ/ mơ
một ngày yên ngủ giữa vòng tay/ một ngày thôi lơi lỏng áo quên cài…” (Nhớ).
Hay là: “em nhớ lắm, héo mòn đêm trở giấc/ không làm sao vấn vít thịt da hồng”
(Nhớ…). Những dòng thơ chân tình, yêu thương đến đắng đót nhớ nhung này
không phải dễ viết. Cái cảm thức “em thèm bé nhỏ”, thèm: “Một ngày thôi lơi lỏng
áo quên cài”, “Vấn vít da thịt nồng”, chứng tỏ cô yêu đến quên mình. Mạch thơ
khoáng đạt, tràn đầy cảm xúc yêu đương đến tận cùng. Phải dám yêu, dám sống
mãnh liệt như cô mới có thể làm được những câu thơ như thế. Đó cũng là những
câu thơ đẹp thanh thoát và giàu sức gợi cảm vì ngôn ngữ thân xác gắn chặt với
nhịp thơ của tình yêu. Rất tự nhiên và chân thật!
Cái tôi đầy hi vọng và tin tưởng tình yêu chung thuỷ, chân thành sẽ vượt qua
những biến động của cuộc sống, những thăng trầm của cuộc đời để đến được bến
bờ hạnh phúc: “May mắn cho em, anh đã không hứa hẹn tháng ngày yêu, để em
lao đến bên anh, biết mỏi mòn mong ngóng, để em lao đến bên anh, biết đợi chờ hi

vọng – hi vọng mỏng như mây, ngọt ngào em vẫn bám, hi vọng thoáng như buồm,
em thánh thiện mà tin” (May mắn). Một tình yêu trong sáng, đắm say. Dù chỉ có
một chút hi vọng, em vẫn hi vọng; dù có chờ đợi, em vẫn chờ: “tri kỷ ơi, đã xanh
gầy nhịp thở/đã rơi rơi nghìn giọt buốt ngây hồn/tri kỷ ơi anh có về với gió/vuốt ve
chiều cho ấm lại hoàng hôn?” (Tri kỷ ơi anh có về với gió). Cô khao khát một tâm
hồn đồng cảm, thấu hiểu để đáp ứng được tình yêu mãnh liệt, vô bờ của trái tim
mình. Đây cũng chính là một nét đẹp trong cái tôi trữ tình của nhà thơ.
6


Có một câu ngạn ngữ Pháp “Trái tim có những lí lẽ riêng của nó mà lí trí
không thể biết được”. Đúng vậy, trái tim luôn có tiếng nói riêng của nó. Cái tôi
khao khát, cuồng nhiệt trong tình yêu là khát khao vô cùng chính đáng của Đinh
Thị Thu Vân. Trong tình yêu có những biểu hiện của trần thế, của nỗi nhớ, của hi
vọng,.. cũng là những điều dễ hiểu. Và mong muốn được yêu trọn đầy, yêu dâng
trọn trái tim yêu cho người mình yêu của Thu Vân là điều hết sức cao cả.
3. Cái tôi cô đơn, tuyệt vọng trong tình yêu
“Thơ tình của các tác giả phụ nữ hiện nay đáng chú ý bởi cách nói táo bạo,
thẳng thắn về những bi kịch và ước muốn cá nhân (Xuân Quỳnh, Dư Thị Hoàn,
Đinh Thị Thu Vân,..). Nhưng ẩn đằng sau tất cả cái mạnh mẽ, dữ dội ấy là ý thức
sâu xa về thân phận, về những nỗi bất hạnh muôn đời của kiếp phụ nữ đã từng có
trong thơ xưa”. [6, 105]
Buồn và cô đơn là hai trạng thái tinh thần phổ biến trong thơ Mới (1932 –
1945) nhưng lại hiếm gặp trong thơ ca giai đoạn 1945 – 1975. Tuy nhiên, đến cuối
thế kỉ XX, nỗi buồn và sự cô đơn của cái tôi cá nhân lại “phục sinh” trong thơ của
nhiều nhà thơ trong đó có Đinh Thị Thu Vân. Ba tập thơ: Một ngày ta ngoái lại,
Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ, Email xanh của cô không chỉ có niềm
khao khát, cuồng nhiệt trong tình yêu mà còn có cả nỗi buồn, sự cô đơn và tuyệt
vọng.
Đau khổ, cô đơn là sự biểu lộ về “cái tôi” đậm nét. Cái tôi cô đơn trong thơ

cô cũng có nhiều biểu hiện phong phú, phức tạp. Trước hết là cảm giác bơ vơ,
trống trãi vì không tìm được “tri âm” trong trái tim mình, như các bài: “Có thể
buồn hơn không”, “Không đề”, “Trái tim rao bán”,… Nỗi cô đơn thấm đẫm trong
thơ: “Của em chưa nỗi buồn sâu đáy mắt/ Câu thơ bay trong giấc ngủ chập chờn/
Của em chưa ngọt ngào anh đánh mất/ Giữa trưa chiều hoang lạnh lắm cô đơn”
(Cuối con đường đơn chiếc). Hay: “Trong khuất vắng lòng anh, em đã đến/ Vội
vàng yêu như chẳng cách nào hơn/ Thêm lần nữa đời trôi không bờ bến/ Phía
chân trời rờn lạnh nỗi cô đơn” (Không đề). Tâm trạng của cô dường như đồng
nhất, hòa nhập vào giấc ngủ, trong chiều hoang lạnh, giá buốt. Phải chăng vì thế
mà lời thơ cất lên đầy bi ai, thống thiết?. Trần Mạnh Hảo đã từng phân tích: bài
Một nửa đường đang khuất: “Không ai đợi tôi về sau cánh cửa/ Không nồng nàn
không ấm áp bao dung/ Tôi như sống nửa đời đêm giấu lửa/ Một nửa dường đang
khuất phía mông lung…”. Hãy đọc to lên bài thơ này, sẽ thấy nó hay hơn là đọc chỉ
bằng mắt. Đọc to lên để mình được nghe âm vang bài thơ, để tai mình cùng mắt
mình và mọi giác quan cùng tham dự vào hồn thơ, mới thấy nỗi cô đơn - hay là
tâm hồn thi sĩ như lửa tự giấu mình trong đêm đang đòi bùng cháy cùng hồn tri âm
tri kỷ [3].
Cái tôi của Thu Vân cô đơn đến khắc khoải và đơn độc. Cô đã chủ động đi
tìm mình, giải nghĩa và cố giũ bỏ nó để sống và để yêu:
7


“Em đâu tiếc…chỉ là hoang lạnh quá
Là cô đơn là rét buốt tê hồn
Em đâu tiếc, chỉ là không cánh cửa
Không chút lòng bám víu để đầy vơi!”
Tự nhắc mình:
“Đâu phải tình yêu – sương khói đấy, và mây
Và bọt sóng đang đùa trêu – lần cuối đấy
Không phải tình yêu đâu, V ơi, đừng đắm đuối

Đừng hao gầy, thôi đừng ước một đời say…”
(Không phải tình yêu)
Mang môtip đối thoại với chính mình trong tư thế tự ngắm mình: “Tôi gọi
tên tôi”. Đây là một trong những trạng thái muốn tách mình ra khỏi thế giới để
được thấy mình, cái tôi, rõ nhất. Motip di tìm bản thân là một motip chứa đựng
khát vọng khẳng định mình. Cô vươn lên luyện trái tim cứng cáp, tự nhủ và chiêm
nghiệm, nhạy cảm phô bày tất cả cái tốt đẹp lẫn cái phù phiếm ấy: “Chưa qua hết
những cung đường trôi nổi/ Tháng sáu mưa tôi dừng lại để quay về/ Tháng sáu
mưa tôi ngồi nghe cô quạnh nhắc/ Thôi hãy quay về…/ Mình yêu lấy mình thôi”
(Phù du ơi phù du buồn đến nỗi..). Cái tôi nhạy cảm day dứt về giới hạn của tình
yêu, đừng mơ hồ nữa và sự hữu hạn của kiếp người nên bằng sự chiêm nghiệm của
một trái tim đa cảm và sự từng trải, nhà thơ đã sớm nhận ra “Phải tự yêu lấy mình
thôi”.
Nỗi cô đơn còn đến từ cảm giác bất lực trong việc níu giữ bước đi tàn nhẫn
của tình yêu, bất lực trước người vô tâm khi cô đã cố níu giữ nó: “ không giữ được
trên bờ mi được nữa/ nước mắt em sẽ tan vỡ mai này/ đành phải khóc trước nhau
lần cuối/ trước vô tâm người đã tặng cho người” (Là ngày mai đừng vội hôm
nay). Vì thái độ chấp nhận, vì ý thức được tình thế như nó đang tồn tại, vì biết
dừng lại với sự dịu dàng đầy kiêu hãnh nên: “Sớm nay/ tôi buông mây/ Buông gió/
Buông người/ Buông chối bỏ lòng tôi rệu nát” (Mãi còn với tàn khuya). Phải
chăng vì lẽ đó cô lại càng thấy buồn, cô đơn và buông lơi.
Đinh Thị Thu Vân sẵn sàng thế chấp tất cả vì tình yêu, cho dù đó chỉ là tình
yêu đơn phương, không được đền đáp, không được nhận lại và không được chia sẻ.
Thế nhưng cô cũng đã tự giễu chính mình bằng những câu thơ đầy chua xót khi
những khao khát về một hạnh phúc đời thường cũng không thể có: “Đủ tất cả chỉ
là không thể có/ Một căn phòng và gối ấm nghìn đêm/ Một buộc ràng bền bỉ bình
yên/ Một ngăn bếp rộn tiếng cười son sắt” (Lá khô). Ước ao của cô chính là ước
ao bình thường của bao người phụ nữ, một người yêu nồng nàn, một người vợ tảo
tần, thủy chung, một người mẹ luôn chở che, yêu thương con. Bên cạnh khát vọng
tình yêu lí tưởng là khát vọng về tình yêu, hạnh phúc đời thường cũng không thể

trọn vẹn.
8


Thu Vân yêu cuồng nhiệt, cháy bỏng nhưng đổi lại là những mất mát, đổ vỡ
và thất vọng tột cùng: “Tháng sáu mưa, tôi ngồi nghe gió nhắc/ Vạn dặm đường
mây…tơ tóc xa mù/ Vạn dặm đường thương….tình yêu tàn tạ khuất/ Tàn tạ niềm hi
vọng giữa phù du”. (Phù du ơi phù du buồn đến nỗi). Chúng ta nhận ra ngay sự
cam chịu trong thơ cô. Quá tha thiết với cuộc sống và tình yêu vì thế khi chạm phải
ít nhiều sai lệch với tâm tưởng của mình, đâm ra hoài nghi, rồi dùng nỗi đa cảm
vốn có để trấn an, khỏa lấp.
Vì quá yêu, quá cuồng nhiệt nên có lúc cô đã ngộ nhận để rồi cũng phải nhận
lấy những thất bại về mình: “Có thể xót đâu hơn đau xót đã từng/ Có thể nát tan
hơn vạn lần xưa tan nát/ Có thể sống như là đã chết/ Có thể tận cùng tuyệt vọng,
tận cùng đêm ” (Là ngày mai đừng vội hôm nay). Đây chính là những lời giãi bày,
những lời tâm tình của một con người đã từng trải qua những vấp váp, bể dâu. Cô
luôn nhận về mình những thiệt thòi, những tủi nhục. Đọc thơ cô “thấy chừng như
linh hồn mình không còn nguyên vẹn, đã bị mất đi phần nào chăng? Bởi, cái giống
linh hồn này lạ lắm; có cái MẤT là CÒN, mà có khi CÒN lại MẤT! [2]
Tuyệt vọng đến nỗi cô đem trái tim mình – niềm kêu hãnh cuối cùng - rao bán:
“Có thể/ Rồi sẽ đến một ngày/ Tôi phải xót xa/ Xót xa/ Đem trái tim mình rao
bán”. Dường như với cô, ngày ấy sẽ đến: “Một ngày/ Mù khơi hạnh phúc/ Biền
biệt tình yêu/ Còn lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng/ Rồi tôi sẽ
phũ phàng/ Rao bán”. Cô bán không cần lựa chọn người mua, không cần giá cả:
“Một ngày/ Mòn mỏi trong ảo vọng/ Tôi sẽ đem bán đi trái tim mình/ Không cần
lựa chọn người mua/ Không cần sòng phẳng!” (Trái tim rao bán). Nên “Em đã
biết trái tim đã trơ lì, ngạo nghễ, nghông nghênh, em đã biết vô tâm trên chính
đắng cay mình, biết tàn nhẫn khinh mình trong nước mắt” (May mắn). Tư thế của
nhân vật trữ tình trong tình yêu của cô là tư thế đáng trân trọng, cô dám chịu trách
nhiệm, công khai thừa nhận những lỗi lầm, mất mát, đau khổ, con người đối diện

với nỗi bất hạnh của chính mình. Về nỗi lỡ cuộc tình, về sự tan vỡ.
Cái tôi của cô mang một nội dung thẩm mĩ đẹp vì nó bộc lộ chân thật những
suy nghĩ rất riêng của nhà thơ về con người, về tình yêu hôm nay. Ba tập thơ sau
này là ba tập thơ tình nồng cháy, một tình yêu bị thương. “Cái tôi” chủ thể - nàng
thơ có thể là chính tác giả, người nói hộ cho tâm trạng của rất nhiều trái tim yêu
đương là phụ nữ. Nhìn lại chặng đường hoạt động nghệ thuật ta thấy Đinh Thị Thu
Vân sáng tác không nhiều nhưng tất cả những gì cô mang đến đều để lại ấn tượng
đặc biệt trong lòng độc giả.
Như vậy, căn cứ theo phương thức bộc lộ chúng tôi nhận thấy trong thơ
Đinh Thị Thu Vân có ba dạng thức của cái tôi trữ tình là cái tôi công dân; cái tôi
yêu đương khao khát, cuồng nhiệt và cái tôi cô đơn, tuyệt vọng trong tình yêu. Cả
ba cái tôi ấy đã làm nên thế giới nghệ thuật thơ Đinh Thị Thu Vân lấp lánh chất
9


lãng mạn và in đậm cá tính sáng tạo của tác giả như Nguyễn Đông A nhận xét
trong bài bạt có cái tựa Đinh Thị Thu Vân và nỗi buồn tay trắng…: "Thơ của Thu
Vân là thơ tình yêu đau khổ. Thơ của cô càng đọc càng thấm bởi độ đậm đặc của
sâu lắng. Bởi thơ của cô là tiếng thở dài trăn trở, là tiếng khóc, tiếng thổn thức từ
trong lòng – thơ mang một tậm trạng day dứt đến thẫn thờ, một nỗi buồn sâu thăm
thẳm. Bởi thơ của cô là tình yêu từ một phía, cô cho mà không nhận lại hoặc có
nhận nhưng rất ít….. Thu Vân đã trải lòng, đã đi tới tận cùng cảm xúc qua từng
câu thơ gan ruột" [11].
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Quốc Ca, Trữ tình cá nhân trong thơ Việt Nam sau năm 1975,
.
[2] Evan (2005), “Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại – thơ, Đinh Thị Thu Vân”,
vanhaiphong.com
[3] Trần Mạnh Hảo (2005), “Đinh Thị Thu Vân - những câu thơ em viết mất
linh hồn, giaitri: vnexpress.net

[4] Nguyên Hậu (2012), “Đinh Thị Thu Vân - “Người dấu lửa trong thơ”,
vannghetiengiang.vn
[5] Phạm Đức Nhì (2016), “Trái tim rao bán - bài thơ đầy bản sắc”, tvan.net
[6] Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990 , NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[7] Phạm Hồng Phước (2015), “Đinh Thị Thu Vân: Tình buồn “one way”,
ww.phamhongphuoc.net
[8] Nguyễn Đức Phước (2005), “Đinh Thị Thu Vân: Xao xác lá vàng em
nhặt giữ riêng em”, forum.phunuviet.net
[9] Đinh Thị Thu Vân (1984), Thay cho lời hát ru anh, NXB Long An,
Long An.
[10] Đinh Thị Thu Vân (2005), Một ngày ta ngoái lại, NXB Long An, Long
An.
[11] Đinh Thị Thu Vân (2015), Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ, NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội.
[12] Đinh Thị Thu Vân (2016), Email xanh, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Họ và tên: Đoàn Thị Thúy Kiều
Lớp: Cao học Văn học Việt Nam K18
Email:
10


SĐT: 01649560129

11



×