MỞ ĐẦU
Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, khoa học - kỹ thuật phát triển như vũ
bão. Việc bùng nổ thông tin và xu thế quốc tế hóa của thời đại đã đặt ra những
vấn đề về lối sống, về quan hệ ứng xử, sử dụng các thành tựu của khoa học
thực tiễn... Trong cầu trường như vậy, không thể không bàn đến vấn đề văn
hoá; bởi "các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động
xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương...
biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển". (Nghị quyết
Hội nghị thứ V của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII).
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Tiếp tục kế thừa văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI khẳng
định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo
theo nhu cầu phát triển của xã hội”. Tuy nhiên, bên cạnh tiến bộ đã đạt được,
giáo dục ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập mà Đảng quan tâm nhất là
chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp. Chưa giải quyết đồng bộ 3 nhiệm
vụ của giáo dục: “dạy chữ”, “dạy nghề” và “dạy người”. Hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục”, vì
vậy việc nghiên cứu “Tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục và sự ảnh hưởng
của “Nhân - Lễ - Nghĩa” tới đời sống xã hội hiện nay” là vấn đề hết sức cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
PHẦN I
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
I. Sơ lược về cuộc đời của Khổng Tử:
Khổng Tử (551-479TCN) tên là Khâu, tự là
Trọng Ni, ông là nhà triết học, nhà chính trị và là
nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Quốc cổ đại. Tổ tiên
Khổng Tử là người nước Tống dời sang nước Lỗ.
Ông được sinh ra ở nước Lỗ - nơi bảo tồn nhiều di
sản văn hóa nhà Chu.
Khổng Tử được 3 tuổi thì bố mất. Là người
thông minh, lớn lên trong thời loạn lạc, các nước chư hầu gây họa binh đao,
tranh giành quyền binh, chiến tranh liên miên hàng thế kỷ khiến trăm họ lầm
than, điêu đứng từ đó Khổng Tử ôm mộng binh bang, tế thế, lập trí giúp nước,
cứu đời, thực thi những hoài bão của mình. Song tới năm 35 tuổi, Khổng Tử
không được vua các nước chư hầu tin dung nên bèn về quê hương mở trường
dạy học theo đúng lễ xuất xứ của bậc đại quân tử “Tiến vi quan, đạt vi sư”.
Học trò khắp nơi đến theo học. Họ kính cẩn gọi ông là tiên sư, học trò của
ông đã có lúc lên đến 3000 người, trong đó nổi lên là Nhan Hồi và Tăng Sâm.
Khổng Tử có 4 năm làm quan tại nước Lỗ với các chức vụ: Đại tư khấu,
Nhiếp tướng sự. Nhưng vua nước Lỗ hoang dâm, mê đắm tửu sắc, không
màng tới chính sự. Từ đó Khổng Tử đã nhìn thấy kết cục chẳng có gì tốt đẹp
ở nhà vua, cho nên ông xin từ quan về quê dạy học và toàn tâm nghiên cứu,
xác định lại các loại sách đời trước và viết bộ Xuân Thu nổi tiếng. Khổng Tử
thọ 73 tuổi.
II. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử:
Hạt nhân tư tưởng của Khổng Tử đề xướng và xuyên suốt truyền bá
trong các lớp môn sinh là “ nhân”, chữ nhân theo quan niệm của Ông mang
một ý nghĩa rộng lớn, gắn bó chặt chẽ với đạo - đạo đức - lòng yêu thương
con người, yêu thương vạn vật. Theo Khổng Tử, gốc của nhân là hiếu lễ
nghĩa, trung thực vị tha, xả thân cứu người như chính Khổng Tử đã nói:
“Theo ta, người có đức nhân là: Bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc
sống thì phải giúp người khác đứng vững trong cuộc sống. Mọi việc đều có
thể từ mình mà nghĩ đến người khác, có thể nói đó là biện pháp thực hiện điều
nhân”. (Luận Ngữ - Ung dã). Nhân theo Khổng Tử còn là: “kỷ sở bất dục, vi
thư ư nhân”. Để thực hiện được Nhân, Khổng Tử cho rằng con người phải có
lễ. Lễ là các quy phạm đạo đức hợp thành một hệ thống quy tắc xử thế. Trong
suốt cuộc đời làm thầy của mình, bên cạnh dạy chữ, bao giờ Khổng Tử cũng
chú trọng vào dạy người, ở đây đề cao thuyết đức trị.
Từ nội dung của học thuyết mà Khổng Tử đã áp dụng vào giáo dục
mang tính nhập thế và tích cực. Ông đề xướng “thuyết tôn hiền”. Những tư
tưởng ấy của Khổng Tử trong bối cảnh rối ren của xã hội đương thời rất khó
thực hiện, song đó là những quan niệm có giá trị được thế hệ sau kế thừa, phát
triển và đến nay vẫn còn đáng trân trọng về nội dung, chủ trương và cả
phương pháp giáo dục.
1. Mục tiêu giáo dục:
Là đào tạo, bồi dưỡng người “nhân”, “quân tử” để làm quan, điều hòa
mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ nghĩa” trong xã hội đầy rối ren. Xét về mặt
chính trị về cơ bản là bảo thủ, ít tiến bộ, nhưng về giáo dục thì mang tính tiến
bộ và vượt thời đại.
Khổng Tử cho rằng học là để ứng dụng, để có ích với đời, với xã hội,
chứ không phải chỉ để làm quan sang, bổng hậu. Tiếp đó, học để hoàn thiện
nhân cách, để làm người quân tử với chí khí của bậc đại trượng phu - hình
mẫu của con người trong xã hội phong kiến. Người quân tử trước hết phải tu
dưỡng đạo đức thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).
Khổng Tử quan niệm: “người quân tử ăn không được đầy đủ, ở không được
yên vui, làm việc siêng năng và thận trọng với lời nói, tìm người đạo đức để
sửa mình; như vậy mới được coi là người ham học”. Thứ ba mới là học để tìm
tòi điều lý, ký đó là của trời đất vạn vật rất phức tạp. Khi tìm ra được hệ thống
điều lý thì có thể hiểu được sự khác nhau của sự vật. Với quan điểm này, giáo
dục góp phần làm nên bản chất xã hội của con người. Với mục đích này,
Khổng Tử đã thể hiện tư tưởng vượt thời đại, một xã hội muốn phát triển
vững mạnh phải có con người đủ đức, đủ tài. Vì thế Đảng và Nhà nước ta chủ
trương giáo dục là quốc sách hàng đầu góp phần xây dựng thành công Chủ
nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhằm thực hiện mục
đích chính trị của Nho gia, là thể hiện tư tưởng thân dân của nhà cầm quyền.
Bởi vì người làm quan có giáo dục sẽ hiểu được chức phận của mình không
làm điều hại dân, người dân có giáo dục sẽ hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi
của mình để thực hiện.
2. Chủ trương giáo dục của Khổng Tử:
Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”, bất cứ ai
chỉ cần “đem cho thầy một bó nem” là ông đều nhận làm học trò, không phân
biệt giai cấp, quý tiện, sang hèn. Tư tưởng này được học trò Mạnh Tử kế thừa
và phát huy đường lối bình dân giáo dục của Khổng Tử trên phạm vi quảng
đại, với các hình thức đa dạng. Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương
hình thành một mạng lưới trường công từ làng đến kinh đô, từ trường hương
học đến trường quốc học, đó là trường để giáo hóa dân chúng. Hệ thống
trường học mở rộng theo quan niệm của Mạnh Tử là điều kiện, là biện pháp
thiết thực để bình dân giáo dục.
3. Nội dung giáo dục:
Nội dung giáo dục luân lý đạo đức của Khổng Tử được thể hiện trong
“Luận ngữ”. “Luận ngữ” chủ trương rèn luyện tính thiện cho dân bằng
phương pháp “cất nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên
nhau làm điều thiện” (4, tr 40). Mục đích giáo dục đều thể hiện cho dân không
làm điều ác, không phạm tội. Nếu không giáo hóa dân, để dân phạm tội rồi
giết, như vậy tàn ngược. Với quyết định này, thì trước hết phải dạy cho dân
biết điều thiện, ác để mà thực thi.
Những chủ trương của Khổng Tử, là những nội dung giáo dục nhằm
phục vụ quan điểm chính trị, nhằm cải tạo xã hội đương thời. Ông tuyệt nhiên
không phải dạy “văn học”, dạy “ngôn ngữ”. Khổng Tử rất coi trọng việc học
Kinh Thi, không học Kinh Thi thì không biết gì để nói. Theo Khổng Tử, Kinh
Thi có thể làm cho phấn khởi, có thể làm cho ta đoàn kết, có thể làm cho ta
biết căm thù, gần thì để thờ cha mẹ, xa thì thờ vua, nhưng căn bản là bồi
dưỡng đức hạnh, kiến thức, để “thờ cha”, “thờ vua”.
Ngoài ra, nội dung giáo dục của Khổng Tử còn thể hiện trong việc giáo
hóa huấn luyện kỹ năng thực hành cho dân. Khổng Tử cho rằng “Bậc thiện
dạy dân bảy năm thì có thể dung dân vào việc chiến đấu được”, “đưa dân
không được dạy dỗ ra đánh giặc, tức là bỏ dân” (4 tr 227). Quan niệm này thể
hiện trong quan niệm của Khổng Tử ít nhiều quý trọng sinh mệnh con người,
dù đó là tính mạng của tứ dân bách tính tầm thường. Nguyễn Hiến Lê cho
rằng: dạy dân tới bảy năm mới đưa ra trận, cổ kim chưa thấy bao giờ. Quả
đúng như vậy! Sau bảy năm người dân được giáo hóa rèn luyện, sẵn sang
xông pha nơi trận mạc, liều chết với giặc để giữ nước.
Tuy nhiên trong lĩnh vực huấn luyện kỹ năng thực hành cho dân,
Khổng Tử không tránh khỏi những hạn chế xã hội. Trung Hoa thuở ấy là xã
hội nông nghiệp, thế mà Khổng Tử không dạy cách làm ruộng làm vườn. Khi
Phàn Trì xin ông dạy cách trồng cây, thì ông đã trách rằng: “Gã Phàn Trì chí
nhỏ hẹp lắm thay!. Người bề trên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì dân chúng
bốn phương sẽ đem đến phục dịch mình. Cần khi phải học nghề cày cấy”
(Luận Ngữ; Tử Lộ). Khổng Tử coi việc làm ruộng là của kẻ tiểu nhân, còn kẻ
sỹ “hà tất phải học làm ruộng”. Đây là tư tưởng xem thường chân tay của
Khổng Tử. Không chỉ xem thường kẻ lao lực, Khổng Tử còn không tin vào
khả năng nhận thức của họ. Khổng Tử viết “Dân khả sự do chi, bất khả sự tri
chi” (4, tr 143), đây là chủ trương “ngu dân” của Khổng Tử. Tuy nhiên. Ông
chủ trương “hữu giáo vô loài”, đây là mâu thuẫn giữa tư tưởng thân dân và
lập trường quý tộc của ông. Về sau tư tưởng này được Mạnh Tử khắc phục.
4. Phương pháp giáo dục:
Về mặt phương pháp dạy học ông có một số quan điểm cá biệt có tính
chất duy vật chất phác tiến bộ, đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự trong việc dạy
học và cách tổ chức thi cử ở nước ta hiện nay. Phương pháp giáo dục của
Khổng Tử thể hiện:
Thứ nhất, học như thế nào?
Theo Khổng Tử người học phải có nhu cầu nhận thức, ham hiểu biết,
khám phá cái mới; phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận
thức. Người dạy không chỉ truyền đạt tri thức mà cái cơ bản là dạy năng lực
sáng tạo, dạy phương pháp để người học tự tìm đến tri thức. Ông nói: “kẻ nào
không cố công tìm kiếm, ta chẳng chỉ vẽ. Khi vào không bộc lộ tư tưởng của
mình, ta chẳng khai sáng cho. Kẻ nào ta dạy mà không biết hai ta chẳng dạy”.
Trong quá trình học, Khổng Tử bắt học trò phải suy nghĩ, “học không suy
nghĩ thì vô ích. Suy tư mà không học thì kết quả cũng chỉ bằng không” (Luận
Ngữ). Với quan điểm này, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc nêu:
“đổi mới phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục, phát huy tính tích
cực và năng lực chủ động, sáng tạo của người học, thực hiện cân đối, hợp lý
dạy kiến thức – dạy nghề - dạy người trên cơ sở lấy dạy người làm căn bản,
nhằm đào tạo con người có nhân cách và bản lĩnh có đủ kiến thức cần thiết,c ó
năng lực lành nghề”.
Ngoài ra, Khổng Tử còn đề cao việc ứng dụng vào cuộc sống những
điều đã học. Ông nói: “Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh
Thi, được bật quốc trưởng trao quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị
chẳng xuôi; được phái đi sứ đến các nước ở bốn phương, nhưng tự mình
chẳng có tài ứng đối, người ấy dẫu học nhiều cũng trở nên vô ích” (Luận
Ngữ, Tử Lộ). Quan điểm này được Đảng và Nhà nước ta tiếp tục kế thừa,
trong Văn kiện Đại hội X khẳng định: mở rộng qui mô, đồng thời chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
Thứ hai, thái độ của người học và người dạy:
Đối với người học:
Theo Khổng Tử, ngoài học Thầy, học trong sách vở còn học cả trong
cuộc sống “ba người cùng đi, tất có người làm thầy; lựa cái hay của người này
mà học, xét cái quấy của người kia mà tự sửa mình” (Luận Ngữ),
VỀ VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI CỦA NHO GIÁO VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH MAI
Tóm tắt
Một trong những nội dung quan trọng của Nho giáo là bàn về con
người và đào tạo con người. Vì là sản phẩm của xã hội phong kiến nên Nho
giáo vẫn còn có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đào tạo,
giáo dục con người, Nho giáo cũng có những đóng góp đáng kể. Trên tính
thần tiếp thu có phê phán tư tưởng Nho giáo, Hồ Chí Minh đã để lại cho
chúng ta những quan điểm giáo dục có giá trị, là định hướng cho sự nghiệp
giáo dục ở nước ta ngày nay.
Nho giáo là triết thuyết lớn trong lịch sử tư tưởng phương Đông. Với
lịch sử hơn 2500 năm, Nho giáo có ảnh hưởng lớn đến nhiều nước phương
Đông, trong đó có Việt Nam. Là một học thuyết chính tri – đạo đức, Nho giáo
đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo con người. Nho giáo cho rằng,
giáo hóa con người là một trong những nhiệm vụ cơ bản của nhà cầm quyền
và cũng là phương tiện hữu hiệu để đưa xã hội từ “loạn” (loạn lạc) thành
“bình” (thái bình, thịnh trị).
Ngày nay, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nhân tố con
người và việc phát huy vai trò năng động chủ quan của con người là điều kiện
tiên quyết để phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định “giáo
dục là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay đang có
những vấn đề bức xúc trước đòi hỏi của sự phát triển và hội nhập. Một trong
những vấn đề bức xúc đó là việc tìm tòi và vận dụng một triết lý thích hợp
cho nền giáo dục mới, vừa phát huy được kinh nghiệm truyền thống của dân
tộc, vừa mang tính hiện đại để sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nền
giáo dục phong kiến Việt Nam đã có hàng ngàn năm theo Nho học. Mặc dù,
quan điểm giáo dục và đào tạo con người của Nho giáo có những hạn chế nhất
định, song vẫn có mặt tích cực. Do vậy, nghiên cứu quan niệm của Nho giáo
về vấn đề đào tạo con người là cần thiết. Bài viết chỉ ra một số nội dung cơ
bản của Nho giáo về vấn đề đào tạo con người và sự vận dụng của Hồ Chí
Minh. Chúng ta có thể kế thừa tư tưởng đó trong sự nghiệp “trồng người” ở
Việt Nam hiện nay.
1.
Đào tạo con người là một nội dung quan trọng của Nho giáo
Thời Xuân Thu – Chiến quốc, loạn lạc, chiến tranh liên tục xảy ra.
Khổng Tử nói rằng đó là thời kỳ “quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ,
tử bất tử”(vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo
cha, con không phải đạo con)[1, tr.483]. Những cuộc chiến tranh đều nhằm
mục đích tranh bá, tranh vương. Mạnh Tử nói rằng: “đánh nhau giành đất,
giết người thây chất đầy đồng, đánh nhau giành thành, giết người thây chất
đầy thành”[2, tr.26-27]. Sinh ra và lớn lên trong thời loạn lạc, Khổng Tử nhận
thấy rằng xã hội bất ổn, có chiến tranh là do con người “vô đạo” (không có
đạo đức), do vậy, theo ông, cần phải đưa con người trở về “hữu đạo” (có đạo
đức) bằng cách “giáo hóa” (giáo dục).
Nho giáo là học thuyết quan tâm đặc biệt đến vấn đề con người. Khi
bàn về con người, các nhà nho đưa ra học thuyết “tính người”. Theo họ, tính
người là cái bẩm sinh, là cái “tiên thiên” (có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự
nhiên mà trời phú cho con người và con người bẩm thụ lấy). Khái niệm “tính
người” của các nhà nho có nội hàm hẹp hơn (chỉ nói đến cái bẩm sinh), nhưng
ngoại diên của nó lại rộng hơn.
Trong thiên Dương Hóa, Khổng Tử nói: “bản tính người ta gần giống
nhau, thói quen khiến xa nhau” (Tính tương cận dã, tập tương viễn dã) [1,
tr.614]. Ở đây, Khổng Tử mới chỉ nói một cách chung chung rằng lúc đầu tính
người ta đều giống nhau, nhưng sau do nhiều cái bên ngoài tác động mà khiến
người ta khác nhau. Khổng Tử chưa giải thích một cách rõ ràng về bản tính
con người là thiện hay ác. Đến Mạnh Tử, ông đã nói một cách cụ thể hơn về
tính người: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Theo ông, tính thiện được thể hiện
ở tứ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí. Nhờ có các đức ấy mà người ta mới khác loài
cầm thú. Ông cho rằng con người khác loài cầm thú chỉ có vậy, nếu giữ được
là người quân tử, không giữ được là tiểu nhân. Tứ đức ấy có nguồn gốc từ “tứ
đoan” (bốn đầu mối), ông nói: “Do đó mà xét, không có lòng trắc ẩn, chẳng
phải là người; không có lòng tu ố, chẳng phải là người; không có lòng từ
nhượng, chẳng phải là người; không có lòng thị phi, chẳng phải là người vậy.
Lòng trắc ẩn là đầu mối của điều nhân, lòng tu ố là đầu mối của điều nghĩa,
lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí vậy” ( Do thị
quan chi: vô trắc ẩn chi tâm, phi nhân dã; vô tu ố chi tâm, phi nhân dã; vô từ
nhượng chi tâm, phi nhân dã; vô thị phi chi tâm, phi nhân dã. Trắc ẩn chi
tâm, nhân chi đoan dã; tu ố chi tâm nghĩa chi đoan dã; từ nhượng chi tâm, lễ
chi đoan dã; thị phi chi tâm, trí tri đoan dã)[1, tr.861]. Mạnh Tử cho rằng,
người ta có bốn đầu mối nêu trên ví như người có hai tay, hai chân vậy. Vì
con người có nhân, nghĩa, lễ, trí nên con người khác loài cầm thú. Theo ông,
những quy phạm đạo đức ấy mới chỉ manh nha ở trong lòng con người, vì
vậy, con người mới khác loài vật là có “thiện đoan” (tính thiện). Do đó, nếu
con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì có thể trở thành bậc thánh nhân.
Ngược lại, nếu để thiện đoan bị mai một đi thì con người trở nên ích kỷ, nhỏ
nhen không khác gì loài cầm thú. Từ những nội dung trên, ta có thể thấy,
Mạnh Tử nói về tính thiện của con người là để chỉ cái bản chất của con người,
để phân biệt với các tồn tại khác.
Đối lập với thuyết “tính thiện” của Mạnh Tử, Tuân Tử lại đưa ra thuyết
“tính ác”. Ông viết: “Tính của con người là ác, còn thiện là do con người làm
ra. Tính của con người, sinh ra là có sự hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành
ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo
tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có; sinh ra có lòng ham
muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra
dâm loạn mà lễ nghĩa văn lý không có. Như thế thì theo cái tính của người ta,
thuận cái tính của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận, làm loạn
cái lý mà mắc lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép tắc để cải hóa đi, có
lễ nghĩa để dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lý mà thành ra trị.
Xét vậy mà thấy rõ tính của con người là ác, mà cái thiện là do con người làm
ra vậy”
(Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã. Kim nhân chi tính, sinh nhi
hữu hiếu lợi yên, thuận thị, cố tranh đoạt sinh, nhi từ nhượng vong yên. Sinh
nhi hữu tật ác yên, thuận thị, cố tàn tặc sinh nhi trung tín vong yên; sinh nhi
hữu nhĩ mục chi dục, hữu hiếu thanh sắc yên, thuận thị cố dâm loạn sinh, nhi
lễ nghĩa văn lý vong yên. Nhiên tắc tòng nhân chi tính, thuận nhân chi tình,
tuất xuất vu tranh đoạt hợp vu phạm phận, loạn lý nhi quy ư bạo. Cố tất
tương hữu sư pháp chi hóa, lễ nghĩa chi đạo, nhiên hậu xuất từ nhượng, hợp
vu văn lý nhi quy vu trị. Dụng thử quan chi; nhiên tắc nhân chi tính ác minh
hỹ, kỳ thiện giả ngụy dã)[3, tr.354].
Theo Tuân Tử, lòng hiếu lợi, lòng đố kỵ và ham muốn dục vọng là đầu
mối của tính người (tính ác), khi mới sinh ra đã có rồi. Còn các đức nhân,
nghĩa, lễ, trí là do bậc thánh nhân đặt ra, chứ không phải do trời sinh ra. Ở
đây, Tuân Tử thừa nhận “Tứ đoan”, nhưng khác với Mạnh Tử, “Tứ đoan” ấy
không có sẵn mà phải qua giáo dục mới có được. Ở luận điểm này, Tuân Tử
đã nhận thấy vai trò tác động của nhân tố xã hội, của sự học tập đối với tính
người. Từ đó, Tuân Tử chủ trương học theo lễ nghĩa để hoàn thiện con người,
đề cao việc giáo hóa con người nhằm điều tiết cái bản năng, hướng con người
tới cái thiện: “Tính ác của người ngày nay, tất phải có việc học tập trước rồi
sau mới có chính, có lễ nghĩa trước rồi sau mới có trị” (Kim nhân chi tính ác,
tất tương đãi sư pháp nhiên hậu chính, đắc lễ nghĩa nhiên hậu trị)[3, tr.355].
Như vậy, Mạnh Tử và Tuân Tử đã triển khai tư tưởng “tính tương cận”
của Khổng Tử theo hai hướng khác nhau. Xét về mặt hình thức, dường như tư
tưởng của các ông đối lập nhau. Về mặt nội dung thì tư tưởng của hai ông bổ
sung cho nhau và cùng thống nhất ở chỗ cho rằng phải giáo dục con người và
mục đích là hướng thiện.
Bàn về tính người, các nhà nho sau này đưa ra nhiều quan điểm khác
nhau, nhưng họ cũng đều thống nhất ở quan điểm con người cần phải giáo
dục.
Về quan điểm giáo dục, Khổng Tử cho rằng mọi người đều cần được
giáo dục; nội dung của giáo dục là đạo đức và nhân cách.
Trong “Luận Ngữ” thiên Vệ Linh Công có viết: “Khổng Tử nói : “Về
việc dạy dỗ không phân biệt loại người” (Tử viết: Hữu giáo vô loại)[1,
tr.588]. Từ quan điểm giáo dục có tính cách mạng đó (Khổng Tử mở đầu cho
chế độ tư học, trước ông, ở Trung Quốc chỉ có quan học - giáo dục chỉ dành
riêng cho quý tộc), ông đã dạy cho tất cả những ai có mong muốn và ý thức
học, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, khôn ngu. Ông nói: “Đối với
những người đem lễ xin học từ một bó nem trở lên, ta chưa hề chối người nào,
không dạy bảo” (Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối dã – Luận
Ngữ, Thuật Nhi)[1, tr.347]. Đây là tư tưởng mang tính tiến bộ của Khổng Tử,
thể hiện tính nhân bản cứu đời của ông. Ở thời đại ông, sự phân chia đẳng
cấp, xã hội còn nhiều bất công là điều không thể khắc phục được, ông luôn
mong muốn tạo ra những nhân tố mới, tiến bộ nhằm cải cách dần thể chế xã
hội cũ. Quan điểm giáo dục, đào tạo con người của Khổng Tử chính là nhằm
thực hiện hoài bão này. Do vậy, đối tượng chủ yếu trong giáo dục của Nho
giáo nói chung và Khổng Tử nói riêng là đào tạo những người thuộc giai cấp
thống trị; đào tạo những người thuộc giai cấp khác nhưng có thể bố sung cho
giai cấp thống trị; đào tạo những người dân biết “đạo” (đạo lý).
Các học thuyết ra đời ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc, cũng có chú ý tới
việc giáo hóa dân. Phái Mặc gia khuyên mọi người học những điều Thiên Tử
cho là đúng. Cái gì Thiên Tử khen thì dân cũng khen, chê thì dân chê. Phái
Pháp gia mới chỉ có ý định dạy cho dân biết pháp luật để họ đừng trái phép
nước. Tuy nhiên, chỉ có Nho giáo mới coi trọng nhiệm vụ dạy dân. Nho giáo
đòi hỏi nhà cầm quyền chăm lo tới việc dạy dân ngang với việc nuôi dân. Nho
giáo chú ý đến việc giáo hóa dân không hoàn toàn vì quyền lợi của dân mà
chủ yếu là vì bảo vệ và duy trì quyền lợi của giai cấp thống trị. Việc dạy dân,
giáo hóa dân của Nho giáo là để dễ bề sai khiến dân, cai trị dân trong vòng
cương tỏa của trật tự xã hội phong kiến. Như vậy, quan điểm giáo dục của
Nho giáo thể hiện lập trường giai cấp rất rõ ràng. Quan điểm giáo dục của
Nho giáo hướng tới mục tiêu cao nhất là “trị quốc, bình thiên hạ”.
Nội dung đào tạo của Nho giáo là làm cho mọi người hiểu và
thực hiện đạo làm người – đạo vua tôi, đạo cha con, đạo chồng vợ, đạo anh
em, đạo bằng hữu, đạo thày trò; là làm cho người người hữu đạo, nhà nhà hữu
đạo, thiên hạ hữu đạo. Với mục đích trên, Nho giáo thiên về giáo dục chính trị
- đạo đức.
Khổng Tử nói rằng: “Nên để tâm trí vào đạo, nắm vững đức
hạnh, noi theo điều nhân, vui thích với lục nghệ” (Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư
nhân, du ư nghệ - Luận Ngữ. Thuật Nhi)[1, tr.346].
Trước hết, đào tạo con người của Nho giáo được thực hiện theo
phương châm “tiên học lễ, hậu học văn”. Lễ là một trong những phạm trù lớn
và cơ bản của Nho giáo. Nội hàm của Lễ phong phú. Lễ là lễ nghi (của các
việc quan, hôn, tang, tế); là quy định của xã hội về cách cư xử, giao tiếp giữa
người với người; là quy định ngôi thứ, vị trí mỗi người trong xã hội; là những
chuẩn tắc, quy củ không thái quá, không bất cập…Khổng Tử rất coi trọng lễ,
một mặt, ông bảo vệ các lễ nghi, kỷ cương, luân lý của nhà Chu (Tây chu),
mặt khác ông đề ra những nguyên tắc, nội dung mới hợp lý hóa những tư
tưởng đó theo chiều hướng tiến bộ. Chẳng hạn, ông yêu cầu mọi người khi
thực hiện lễ cần phải chú trọng cả nội dung và hình thức, cần có thái độ thành
tâm và kính trọng…Sau Khổng Tử, lễ được bổ sung thêm nội dung mới,
nhưng nhìn chung nội dung chính của lễ vẫn là luân lý, chuẩn mực, quy phạm
của đạo đức phong kiến. Nho giáo coi việc giáo dục đạo đức là vị trí hàng
đầu và đặc biệt quan trọng. Tư tưởng trên đã chi phối nền giáo dục thời phong
kiến ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. Lễ được giáo dục sâu sắc đến mức
trở thành tiêu chuẩn để đánh giá hành vi con người, huy động được toàn thể
xã hội biết quý trọng người có lễ, khinh ghét người vô lễ, thậm chí đến mức
con người thà chết chứ không bỏ lễ.
Việc đào tạo con người theo lễ mang tính khắt khe đã gò bó, trói buộc
con người, thủ tiêu tính năng động sáng tạo của cá nhân, làm cho con người
thụ động và do đó xã hội trì trệ. Nhưng việc dạy và học theo lễ cũng có mặt
tích cực ở chỗ, nó đã thể hiện sự nghiêm khắc của việc tu dưỡng đạo đức cá
nhân, nó là chất keo gắn bó con người trong xã hội, có vai trò quan trọng
trong việc duy trì ổn định, trật tự của xã hội phong kiến.
Nho giáo chú ý giáo dục nhân cách con người theo các quy phạm đạo
đức trong đạo “cương – thường” (tam cương – ngũ thường), khuyên con
người giữ và thực hiện đạo lý, giữ cái danh trong sáng của mình. Thực hiện
giáo dục nhân cách bằng sự gương mẫu, bằng sự tu thân, cảm hóa người của
người cầm quyền – người có nghĩa vụ giáo hóa dân. Khổng Tử nói: “Bản thân
(nhà cầm quyền) ngay thẳng, tuy không ra lệnh, mọi việc vẫn trôi chảy; bản
thân không ngay thẳng, dẫu có ra lệnh dân cũng chẳng theo” (Kỳ thân chính,
bất lệnh nhi hành. Kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất cùng – Luận Ngữ. Tử Lộ)
[1, tr.502]. Khổng Tử cho rằng, làm chính sự (việc nước) cũng như giáo dục
nếu bản thân mình không ngay thẳng thì không thể làm cho người khác ngay
thẳng được. Do vậy, việc giáo dục phải dùng nhân cách của mình để cảm hóa
học trò: “Chính trị là ngay thẳng. nếu ngài lấy điều ngay thẳng dẫn dắt mọi
người, thì ai lại dám không ngay thẳng?” (Chính giả chính dã. Quân suất dĩ
chính, thục cảm bất chính – Luận Ngữ. Nhan Uyên)[1, tr.487].
Nho giáo chủ trương giáo dục “Tứ giáo”: “Phu Tử lấy bốn điều để dạy
người: văn chương, đức hạnh, lòng trung thực và lòng thành tín” (Tử dĩ tứ
giáo: văn, hạnh, trung, tín – Luận Ngữ. Thuật Nhi)[1, tr.361]. Trong “tứ
giáo”, Khổng Tử vẫn coi trọng và lấy đức hạnh là cơ bản. Nội dung giáo dục
là Thi, Lễ, Nhạc, Thư, Dịch và Xuân Thu (Lục Kinh). Mục đích của việc học
nội dung trên chính là để có được lòng nhân (Đức nhân – phẩm chất đạo đức
cao quý nhất của con người mà Nho giáo luôn mong muốn mọi người có
được, đặc biệt là người quân tử). Ông nói: “Người mà không có lòng nhân,
dùng lễ sao được? Người mà không có lòng nhân, dùng nhạc sao đươc?”
(Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?- Luận Ngữ
- Bát Dật)[1, tr.239].
Những nội dung giáo dục của Nho giáo nêu trên đã cho thấy việc Nho
giáo đề cao giáo dục đạo đức (dạy đạo làm người) là điều hợp lý và có ý
nghĩa không chỉ trước đây mà còn cho đến ngày nay. Ở đâu và lúc nào, nếu
không chú trọng việc giáo dục đạo đức cho con người là ở đó, khi đó, đạo đức
xã hội có vấn đề, lấy yêu cầu của hiện tại ra mà phê phán người xưa là phi
lịch sử.
2.
Sự kế thừa quan điểm giáo dục Nho giáo của Hồ Chí Minh
Cũng như rất nhiều nhà nho chân chính khác, Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến việc giáo dục con người. Kế thừa tư tưởng “học không biết chán, dạy
không biết mỏi” của Khổng giáo, ngay từ thời thanh niên, Người đã từng làm
thày giáo và khi trở thành vị Chủ tịch nước, Người luôn quan tâm đến việc
giáo dục, đào tạo con người. Theo Hồ Chí Minh, mọi người cần phải học, học
để làm việc, học để làm người, làm cán bộ để suốt đời phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
Nếu như trước đây Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền phải
chăm lo đời sống vật chất cho dân, phải giáo hóa dân để thực hiện đường lối
“đức trị”, thì ngày nay vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước
phồn vinh, Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở mọi người hãy:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
(Hồ Chí Minh đã mượn câu nói trên của Quản Trọng để chỉ ra
tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục)
Ở đây, chúng ta thấy có sự tương đồng giữa tư tưởng Nho giáo
xưa và tư tưởng Hồ Chí Minh nay. Trong học thuyết Nho giáo, con người là
trung tâm thì nay, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng tất cả là vì con người.
Khi nghiên cứu về con người, Nho giáo chủ yếu bàn về tính
người, đề cao giáo dục và cho rằng nhờ có giáo dục mới làm cho con người
trở nên thiện, giảm bớt tính ác. Kế thừa tư tưởng trên của Nho giáo, thấy mặt
hạn chế của học thuyết “tính người” là đã quá tuyệt đối hóa yếu tố bẩm sinh.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên[4, tr.383]
Hồ Chí Minh đã thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục, sự
tác động của các yếu tố xã hội đối với việc hình thành và phát triển nhân cách
của con người. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng
khi nhìn nhận về tính người và trong giáo dục con người, Người viết: “Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng
người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách
làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không
phải đập cho tơi bời”[7, tr.558]. Đó chính là quan điểm giáo dục tiến bộ - phát
huy mặt tốt, mặt mạnh của mỗi cá nhân và loại bỏ dần những mặt tiêu cực,
mặt xấu.
Ở Nho giáo, nội dung giáo dục chủ yếu là đạo đức, là đề cao đạo
đức của người cầm quyền, nhấn mạnh tu thân để làm gương, để giáo hóa dân.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc của người cách mạng. Người viết: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ…Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng
, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[5,tr.283]. Do vậy, người
cán bộ phải giữ gìn đạo đức cách mạng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Không chỉ chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, Hồ chí Minh
khẳng định mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo nên những con
người vừa “hồng” vừa “chuyên”[7,tr.510] (có đức và có tài). Người nhấn
mạnh mục đích giáo dục phải gắn liền với nội dung giáo dục; giáo dục phải
toàn diện: “Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đến các mặt: đạo
đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản
xuất”[6,tr.190].
Ý nghĩa của quan điểm giáo dục của Nho giáo là đã tạo nên tinh thần
hiếu học, đề cao tri thức. Tuy nhiên, tri thức theo Nho giáo chỉ được bó hẹp
trong những lời dạy của bậc thánh nhân được ghi lại trong “Tứ thư” (Sách
Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung) và “Ngũ kinh” (Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu). Yêu cầu của việc học tập chỉ là
nhớ và thuộc lòng những điều trong đó mà không cần sự vận dụng sáng tạo.
Điều này đã tạo thành lối học theo kiểu “tầm chương trích cú”, lối học chỉ là
“thuật” (nói lại, nhắc lại) mà “bất tác” (không sáng tác thêm). Hồ Chí Minh
yêu cầu học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn.
Hồ Chí Minh là điển hình mẫu mực trong việc lựa chọn, kế thừa
những mặt tích cực trong quan điểm giáo dục, đào tạo con người của Nho
giáo. Những lời dạy của Người đã trở thành phương pháp luận trong chiến
lược xây dựng con người mới “xứng tầm thời đại”, đáp ứng yêu cầu đổi mới
toàn diện đất nước của Đáng ta hôm nay.