Tải bản đầy đủ (.docx) (232 trang)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG CHỨC DANH CÔNG TÁC DÂN VẬN NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.86 KB, 232 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG
CHỨC DANH CÔNG TÁC DÂN VẬN NĂM 2017

Hà Nội – 6/2017

MỤC LỤC


Bài 1. Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
Bài 2. Tổ chức và hoạt động của Ban dân vận cấp ủy các
cấp hiện nay
Bài 3. Công tác dân vân của Nhà nước và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở
Bài 4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với công tác vận động
các tầng lớp nhân dân trong tình hình mới
Bài 5. Công tác vận động công nhân, nông dân, trí thức,
doanh nhân trong tình hình mới
Bài 6. Công tác vận động thanh niên, phụ nữ, cựu chiến
binh và người Việt Nam ở nước ngoài
Bài 7. Nội dung, phương thức vận động đồng bào dân tộc
thiểu số
Bài 8. Công tác vận động tín đồ, chức sắc tôn giáo hiện nay
Bài 9. Nghiệp vụ và một số tình huống công tác dân vận

1
36
47


80
86
122
160
196
215


Bài 1
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
I. NHÂN DÂN, MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sức mạnh to
lớn của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm nhân dân Việt Nam là tất cả những
người Việt Nam không phân biệt dân tộc, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, tầng lớp
xã hội, lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, v,v, những người không đi ngược lại lợi
ích của quốc gia, của dân tộc, và cả những người Việt Nam ở nước ngoài.
Người khẳng định rõ vị trí, vai trò quan trọng của nhân dân đối với quốc
gia và cách mạng. Nhân dân là gốc của nước, là lực lượng của cách mạng.
“Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”1.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải của một
hai cá nhân anh hùng nào. “Thiên thời” không bằng “địa lợi”, “địa lợi” không
bằng “nhân hoà”. Nhân hoà là quan trọng hơn hết. Nhân dân là lực lượng cơ bản
của cách mạng. Nước lấy dân làm gốc.
“Gốc có vững cây mới bền.
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”2.
Nước ta là nước dân chủ. Dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ, mọi

quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhân dân có đoàn kết thì mới có sức
mạnh để cách mạng đi tới thắng lợi.
Kinh nghiệm trong nước và các nước đều chứng tỏ cho chúng ta biết: Có
lực lượng của dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được, không
có dân thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề
một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 276.
22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 410.

3


to lớn, nghĩ mãi không ra.

4


“Dễ mười lần không dân cũng chịu.
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, về vị trí, vai trò sức mạnh to lớn của
nhân dân trong cách mạng và xã hội đặt nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
việc xây dựng, đổi mới nội dung, phương pháp công tác dân vận của Đảng ta
hiện nay.
2. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
a- Đảng là người lãnh đạo, đồng thời là người đầy tớ của nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng quần chúng nhân
dân không được tổ chức và giác ngộ thì chỉ là một đám đông không có sức
mạnh. Quần chúng nhân dân có sức mạnh vô địch khi được giác ngộ, tập hợp
lại, đoàn kết dưới sự lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn của Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng trước hết cần phải có Đảng. Đảng là nhân

tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng là người lãnh đạo, đồng thời, phải
là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Điều này không hề có mâu thuẫn.
Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau, mà có
quan hệ biện chứng thống nhất trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo và nhân dân
làm chủ. Nhân dân chịu sự lãnh đạo của Đảng nhưng có quyền làm chủ xã hội.
Đảng lãnh đạo nhưng phải trung thành với lợi ích của giai cấp, của nhân dân và
dân tộc. Cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đối với Đảng ta và mỗi cán
bộ, đảng viên, không có gì cao cả hơn là phục vụ nhân dân.
Toàn Đảng cũng như mỗi đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân,
hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Đảng cũng như mỗi đảng viên có sự thống nhất giữa tư tưởng và hành
động, nói đi đôi với làm, bằng chính sách và hành động cụ thể làm cho dân tin,
dân phục, dân yêu.
Đảng cần thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đảng
cần có dân để có sức mạnh về vật chất và tinh thần, trí tuệ, có dân là có tất cả,
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 212.

5


mất dân là mất tất cả. Vì mục đích, lợi ích của Đảng là mục đích, lợi ích của giai
cấp, của nhân dân, của dân tộc. Đảng không có mục đích và lợi ích nào khác.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng ta là để lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Sự gắn bó máu
thịt giữa Đảng với dân là điều kiện quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
b- Nhân dân là người chịu sự lãnh đạo, đồng thời là người chủ xã hội
Trong mỗi thời điểm lịch sử, nhân dân luôn cần có người giác ngộ, đưa
đường chỉ lối, cần có người lãnh đạo, quản lý. Song, trong suốt chiều dài lịch sử
dân tộc cũng như lịch sử mỗi quốc gia, quần chúng nhân dân là người sáng tạo
ra lịch sử, là chủ thể xã hội. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất

và giá trị tinh thần, những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Vai trò của nhân dân ngày càng tăng lên trong quá trình lịch sử phát triển xã hội
loài người cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Trong quá trình đó
quyền làm chủ của nhân dân ngày càng tăng.
Hồ Chí Minh khẳng định: Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân
làm chủ.
“ Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể (Tức là Đảng năm 1949 chưa ra hoạt động công khai) từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1.
Dân là chủ và dân làm chủ, cũng có nghĩa là dân có quyền lợi nhưng đồng
thời có nghĩa vụ thực hiện đường lối chính sách của Đảng, góp phần xây dựng
Đảng, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo đồng
thời là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
c- Không ngừng củng cố sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với Dân trong
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 698.

6


sự nghiệp đổi mới.
Sự liên hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân là đòi hỏi tự nhiên, khách
quan, là điều kiện tất yếu để cách mạng giành thắng lợi.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng. Khi chưa
giành được chính quyền cũng như khi Đảng đã trở thành người lãnh đạo chính
quyền, mối liên hệ máu thịt của Đảng với nhân dân làm cho nguồn sức mạnh

của Đảng, của cách mạng tăng lên gấp bội.
Chính quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Dân góp phần đảm bảo tính
đúng đắn của đường lối chính sách của Đảng. Vì đường lối chính sách của Đảng
phản ánh được nguyện vọng, lợi ích của nhân dân.
Quần chúng nhân dân là người thực hiện đường lối chính sách của Đảng.
Nếu không làm cho quần chúng tự giác, chủ động và sáng tạo thực hiện thì
không một nhiệm vụ nào của cách mạng có thể hoàn thành tốt đẹp.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng viên đồng thời là cán bộ, công
chức Nhà nước càng phải thực hiện đúng trách nhiệm vừa là người lãnh đạo,
quản lý, vừa là người công bộc phục vụ nhân dân.
Nếu cán bộ, công chức không làm tròn chức trách công bộc sẽ trở nên xa
dân, không tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, thành ra quan liêu, mệnh
lệnh, cửa quyền, hách dịch. Bệnh quan liêu và những biểu hiện đa dạng của nó
làm cho giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, làm suy yếu sức
mạnh của Đảng, Nhà nước và của cả chế độ mới.
Cho nên, việc tăng cường củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
Dân chính là thực chất của công tác dân vận của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
3- Dân vận và công tác dân vận
a- Dân vận
Theo nghĩa thông thường, Dân vận là công tác dân vận của các tổ chức
dân vận của Đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Dân vận cũng còn có nghĩa là cán bộ, đảng viên phải làm gương trước
nhân dân, mọi hành động của cán bộ, đảng viên là vì dân, mang lại hiệu quả
thiết thiết thực cho nhân dân.
7


b- Công tác dân vận
Trong tác phẩm Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa công tác dân
vận là: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để bỏ sót một

người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên
làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể (Đảng) đã giao cho”1.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới hiện nay, có thể
định nghĩa công tác dân vận là công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động,
thuyết phục mọi người dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, nhằm xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hoặc nói một cách cụ thể hơn: Công tác dân vận là toàn bộ những hoạt
động của Đảng và của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhằm tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục và tổ chức
mọi người dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng
của Đảng.
II- ĐIỀU KIỆN MỚI VÀ NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHÊ
CỦA CÔNG TÁC DÂN VẬN HIỆN NAY
1- Điều kiện mới của công tác dân vận hiện nay
a- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân, lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền
vững.
Sự nghiệp này đòi hỏi đẩy mạnh công tác dân vận để động viên toàn dân
cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển.
Tăng cường kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo
dục, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, s.đ.d, tr 698.

8



Công nghiệp hóa-hiện đại hóa tác động đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế dẫn
đến biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp, hình thành nên các giai tầng xã hội mới,
phong phú, đa dạng, đồng thời, có sự biến đổi ngay trong mỗi giai cấp và tầng
lớp xã hội.
Trong quá trình đó, công tác dân vận của Đảng cần đổi mới theo hướng
phù hợp với sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp và vì sự công bằng giữa các giai
tầng xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, các giới trong toàn xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi công tác dân
vận của Đảng phải góp phần vào việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước phát triển.
Phải quan tâm đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân, từ tầng lớp ưu trội
cho đến tầng lớp yếu thế trong xã hội, thực hiện khuyến khích nhân dân làm
giàu chính đáng, đồng thời tích cực xóa đói giảm nghèo. Coi việc có một bộ
phận dân cư giàu lên trước là cần thiết cho sự phát triển.
b- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân và đi đôi với việc mở rộng, phát huy
dân chủ
Trong quá trình đổi mới, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có tầm quan
trọng đặc biệt. Đảng ta khẳng định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Nhà nước bảo đảm quyền công dân, quyền con người, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân. Đội ngũ cán bộ công chức phải giỏi
quản lý và biết làm công tác dân vận tốt.
Công tác dân vận của Đảng trực tiếp góp phần vào việc phát huy dân chủ,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước và quản lý xã
hội. Cụ thể là:
Nhân dân tham gia bầu cử các đại biểu của mình vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp.

Nhân dân tham gia xây dựng, đánh giá chủ trương, chính sách của Nhà
9


nước ở Trung ương và chính quyền các cấp ở địa phương; góp ý kiến điều chỉnh,
bổ sung, sửa chữa các chủ trương chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
Nhân dân có quyền khiếu nại, tố cáo, phát hiện và đề nghị thanh tra, xử lý
các biểu hiện quan liêu tham nhũng, tiêu cực, các vụ việc vi phạm chính sách,
luật pháp, đạo đức của cán bộ công chức.
Nhân dân có quyền đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước và cán bộ công
chức phải công khai mọi hoạt động của mình, cung cấp thông tin kịp thời theo
quy định để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Nhân dân tham gia quản lý xã hội thông qua các tổ chức, thiết chế phi nhà
nước. Đó là các Đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, tự nguyện, tự quản, tự quyết
định với những hình thức hoạt động đa dạng, linh hoạt, hỗ trợ cho các công việc
quản lý Nhà nước, giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh trong đời sống cộng
đồng. v,v.
c- Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế
Hiện nay, nước ta chủ động và tích cực hội nhập kinh tế và hội nhập quốc
tế trên tất cả các lĩnh vực. Chủ trương của Đảng là phát huy sức mạnh tổng hợp
trong công tác đối ngoại. Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng, Ngoại giao của
Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Công tác dân vận có vai trò quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân.
Mục đích nhằm làm cho dư luận thế giới, nhân dân các nước đồng tình, ủng hộ,
đoàn kết, giúp đỡ Việt Nam, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân
các nước trên thế giới với nhân dân Việt Nam. Lực lượng làm đối ngoại nhân
dân là tất cả các tổ chức, cá nhân có khả năng tác động vào các đối tác nước
ngoài nhằm đạt mục tiêu trên.
Trong đối ngoại nhân dân, công tác dân vận nhằm xử lý mối quan hệ giữa
người với người nhằm chinh phục trái tim và khối óc của nhân dân thế giới,

phương thức hoạt động đa dạng về hình thức, linh hoạt về cách ứng xử, phong
phú về nội dung, bền vững về hiệu quả. Cần kết hợp chính trị đối ngoại với kinh
tế đối ngoại, kết hợp đối ngoại với quốc phòng, an ninh, văn hóa.
Đồng bào ta định cư ở nước ngoài là một bộ phận quan trọng không thể
10


tách rời của dân tộc Việt Nam, là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt
Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác giữa
nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chúng ta coi trọng công tác vận động và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
đồng bào định cư ở nước ngoài, khuyến khích đồng bào hướng về quê hương,
góp phần xây dựng đất nước.
c- Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới,
cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa-hiện đại hóa đã tạo được tạo ra.
Quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết. Khả
năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng tăng thêm. Đó là
thời cơ lớn cho đất nước ta phát triển, cất cánh bay lên.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước những nguy cơ lớn.
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với ngay các nước trong khu vực và trên thế
giới.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
nghiêm trọng.
- Những biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa. “Tự diễn biến”. “Tự
chuyển hóa” có diễn biến phức tạp.
- Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, gây
bạo loạn, lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng thay đổi

chế độ chính trị ở nước ta.
Tình hình, bối cảnh trên tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen, tạo
ra những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển đất nước nói chung và đối
với công tác dân vận nói riêng. Công tác dân vận phải chủ động nắm thời cơ và
những thuận lợi để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội - một động lực quan trọng
thúc đẩy đất nước đi lên. Đồng thời, công tác dân vận cũng luôn tỉnh táo, góp
phần vào việc đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, khắc phục những khó khăn để
11


đất nước có thể bước vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ và bền vững.
2- Những thành tựu, hạn chế của công tác dân vận hiện nay
a- Những thành tựu của công tác dân vận trong sự
nghiệp đổi mới vừa qua
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân
vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất
nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng
cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương về
công tác dân vận. Trên cơ sở đó, công tác dân vận đã đạt được những kết quả
quan trọng. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới. Đã có nhiều chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội, xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được
kiện toàn, củng cố, đổi mới phương thức hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đã
có nhiều hình thức hoạt động vận động nhân dân, tích cực tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các phong trào thi

đua yêu nước, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác vận động
người Việt Nam ở nước ngoài. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên, hội viên được chăm lo, bảo vệ; công tác tập hợp, phát triển đoàn viên, hội
viên được chú trọng; công tác giáo dục thế hệ trẻ được quan tâm.
Công tác dân vận thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã
hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
b- Những hạn chế, yéu kém của công tác dân vận trong thời gian qua.
12


Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo
chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân...để có chủ trương, chính sách phù hợp.
Việc thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận
chưa kịp thời, nhất là cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ". Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng về công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính
sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được
giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, làm giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
c- Nguyên nhân của những hạn chế và yếu kém trong công tác dân vận
Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những
nguyên nhân chủ quan. Một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai
trò của công tác dân vận; chưa thấy hết trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức
lãnh đạo, chỉ đạo công tác này.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo,
quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận chậm được đổi mới, chưa
theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn.
Tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội ở một số
cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh đạo, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân,
không làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân. Chưa xác định rõ trọng
tâm, trọng điểm và bố trí đủ nguồn lực cho việc triển khai, thực hiện chủ trương,
chính sách công tác dân vận. Phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa
phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ,
thanh niên, người theo đạo. Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm
công tác dân vận, đoàn thể chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, có rất
13


nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham
nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, là thách thức đối với mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng.
Thực tiễn đòi hỏi Đảng cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo đối với
công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; phát
huy sức mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
III. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI CÔNG
TÁC DÂN VẬN
1- Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ
Tổng kết 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, (bổ sung và phát triển năm 2011),

Đảng ta tổng kết rút ra một bài học quan trọng có giá trị định hướng cho công
tác dân vận trong thời kỳ mới.
“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”1.
“Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là
nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng

11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 65;
65-66.

14


kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành
công”2.
Quan điểm nói trên là sự tổng kết thực tiễn sự nghiệp đổi mới và cũng là
trực tiếp rút ra từ việc thực hiện quan điểm chỉ đạo công tác dân vận mà Đảng ta
đã nêu ra từ các Đại hội VIII, IX, X.
Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng các thiết
chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích
của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức phải thật
sự là công bộc của nhân dân.
Tiếp tục, bổ sung, phát triển những quan điểm nói trên về Công tác dân

vận, tại Đại hội XI năm 2011, Đảng ta nêu ra tư tưởng chỉ đạo cơ bản cho công
tác dân vận trong tình hình hiện nay. Đó là:
Một là: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nhân dân là người chủ xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân là bản chất và cũng là qui luật hình
thành, phát triển và tự hoàn thiện của nhà nước ta. Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân. Cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham
gia quản lý xã hội của nhân dân. Cần xây dựng cơ chế cụ thể để nhân dân thực
hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp.
Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ
luật, kỷ cương xã hội.

22 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, s.đ.d, tr 65-66.

15


Phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn
diện của con người. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.
Hai là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng.
Xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc. Đề cao tinh thần
dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, v,v, để tập hợp, đoàn kết mọi
người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ
lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ
sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe,
học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin
dân, tôn trọng những người có ý kiến khác.
Làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính
kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. Mới đây, Nghị quyết
số 25-NQ/TW ngày 3-6-2013 Hội nghị Trung ương 7 khoá XI về tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, đã
khẳng định rõ quan điểm chỉ đạo đầu tiên trong công tác dân vận của Đảng hiện
nay là:

16


“Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; nhân dân là chủ,
nhân dân làm chủ”1
Vận dụng quan điểm này trong giai đoạn hiện nay, Tất cả các chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước ta đều phải nhằm vào mục tiêu làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện những mục tiêu đó không ai khác chính là nhân dân. Nên công
tác dân vận của Đảng phải nhằm vào mục tiêu biến các chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành các phong trào
thi đua yêu nước, thành các hành động của nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ
chính trị của địa phương, ngành và các đơn vị cơ sở. Hồ Chí Minh khẳng định
rõ: Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Thông qua phát động các
phong trào thi đua yêu nước, nhiều hình thức, phương pháp dân vận dược áp
dụng có hiệu quả trong thực tế, thúc đẩy các ngành, các cấp, các địa phương
hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Để phát huy sức mạnh, trí tuệ, tính sáng tạo, quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải
thực hiện phương châm Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Thực hiện tốt
các quy chế dân chủ ở cơ sở, làm tốt công tác dân tộc và công tác tôn giáo, đại
đoàn kết dân tộc trên cơ sở không ngừng củng cố, tăng cường khối liên minh
công nông trí thức trong tình hình mới.
2- Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,
đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, quyền lợi
phải đi đôi với nghĩa vụ công dân.
Đã có một thời chúng ta đề cao thái quá lợi ích tập thể một cách chung
chung, trìu tượng mà không quan tâm đúng mức đến lợi ích thiết thân của cá
nhân người lao động. Đến nay, khuynh hướng này cũng vẫn chưa mất hẳn.
Công tác dân vận cần quát triệt tinh thần kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập
thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của người dân, chứ không chỉ hô hào
11 Nguồn Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,

http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?
topic=191&subtopic=9&leader_topic=990&id=BT661331748

17


chung chung.

Bởi vì, lợi ích là cái thúc đẩy con người hoạt động. Lợi ích chung của sự
phát triển xã hội được thể hiện và thực hiện một phần quan trọng qua lợi ích
chính đáng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng.
Công tác dân vận cần làm cho mỗi người quan tâm tới lợi ích chính đáng
của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động của họ sẽ góp phần
thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển
kinh tế xã hội.
Thực tiễn công cuộc đổi mới và công tác dân vận cho thấy nhất thiết phải
kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích chung, trong đó lợi ích thiết thân của
người dân là động lực phát triển trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
Công tác vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết
bảo vệ và đáp ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, kết hợp hài
hòa các lợi ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Đúng như Đảng ta
khẳng định trong công tác dân vận hiện nay cần: ”Chú trọng lợi ích trực tiếp
của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những
gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh”1.
Trong công tác dân vận, phát động các phong trào thi đua yêu nước cần
khắc phục những lệch lạc theo hai hướng cực đoan.
- Chỉ nhấn mạnh một chiều lợi ích tập thể, cộng đồng và nghĩa vụ công
dân, huy động sức dân mà coi nhẹ bồi dưỡng sức dân.
- Chỉ chú ý vấn đề kinh tế, lợi nhuận kinh doanh đơn thuần, nhấn mạnh lợi
ích cá nhân và quyền lợi mà quên mất mặt văn hóa, tiến bộ, công bằng xã hội.
Chỉ thấy quyền lợi mà quên nghĩa vụ, chỉ thấy lợi ích cá nhân và gia đình mà coi
nhẹ lợi ích của tập thể, của xã hội, của cộng đồng.
3- Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với
công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
11 Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3-6-2013 Hội nghị Trung ương 7 khoá XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, nguồn Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?

topic=191&subtopic=9&leader_topic=990&id=BT661331748

18


Đó là một quan điểm chỉ đạo mới được đưa ra tại Hội nghị Trung ương 7
khoá XI. Công tác dân vận là một nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng. Đó
là Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân.
Để giữ được vai trò lãnh đạo, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng. Và, Đảng cũng chịu sự giám sát của nhân dân. Công tác dân vận phải đi
đôi với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Đó chính là
sự cụ thể hoá yêu cầu về xây dựng Đảng cầm quyền mà Cương lĩnh của Đảng
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã vạch ra: “Ðể đảm đương được vai trò lãnh
đạo, Ðảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất
trong Ðảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Ðảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Ðảng
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực,
có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi
dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc”1.
Công tác dân vận đi đôi với xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền trong
sạch vững mạnh đòi hỏi: Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng,
noi theo.
Trong thời gian tới, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI
”Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tập trung giải quyết

những vấn đưề bức xúc trong nhân dân, củng cố lòng tin, tăng cường quan hệ
gắn bó giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Cụ thể là: Tiếp tục thực hiện tốt đợt
tự phê bình và phê bình để làm chuyển biến công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Sớm triển khai thực hiện nền nếp các quy chế, quy định về giám sát và phản
11 Đang Công san Viêt Nam: Văn kiên Đai hôi đai biêu toàn quôc lân thư XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2011, tr 89-90.

19


biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, Quy định về
thăm dò tín nhiệm cán bộ trong Đảng, trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp. Nghiên cứu ban hành quy định về thăm dò tín nhiệm cán bộ lãnh đạo các
cấp trong nhân dân và sửa đổi luật pháp để nhân dân có quyền được bãi miễn
những cán bộ lãnh đạo ở các cấp do mình bầu ra không còn xứng đáng. Sớm
nghiên cứu, ban hành Luật trưng cầu ý dân, Luật biểu tình. Làm chuyển biến rõ
nét, đẩy lùi và ngăn chặn có hiệu quả tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Tập trung
giải quyết tốt những vấn đề bức xúc của nhân dân, tình hình tụt hậu, lạm phát,
kinh tế suy thoái. Thực hiện tốt hơn các chính sách an sinh xã hội, xoá đói, giảm
nghèo, chính sách đối với người có công.
4- Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống
chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên
các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng
lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và
nòng cốt.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị phối hợp
chặt chẽ thực hiện đồng bộ, thống nhất, hiệu quả công tác dân vận; thường

xuyên quán triệt và thực hiện phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", “nghe dân
nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; thường xuyên đi cơ sở.
Công tác dân vận là công việc của toàn Đảng, toàn bộ máy nhà nước, của
mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đó không phải là việc riêng của một tổ chức,
đoàn thể nào, mà là của cả hệ thống chính trị có sự phối hợp, đồng bộ dưới sự
lãnh đạo của Đảng.

20


Trong thực tế, quán triệt quan điểm này, cần tránh những khuynh hướng
lệch lạc như khoán trắng công tác dân vận cho các đoàn thể hoặc cho cán bộ
chuyên trách dân vận.
5- Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ". Các hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng,
thích hợp, hiệu quả
Để thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ" trong thời kỳ mới của đất nước cần nhận thức rõ nhân dân làm chủ là yếu
tố trung tâm của mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ". Bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân, và
vì nhân dân. Người dân thực hiện quyền làm chủ của mình không chỉ thông qua
bộ máy nhà nước, mà họ còn tự mình thực hiện quyền ấy.
Nguyên tắc ở đây là Nhà nước tồn tại để phục vụ nhân dân, chứ không
phải nhân dân tồn tại để phục vụ Nhà nước. Trong một xã hội dân chủ thì nhà
nước phải là người bảo vệ quyền công dân, quyền con người chứ không phải để
tước đoạt và ngăn cấm công dân thực hiện quyền dân chủ của mình. Do vậy, sự
lãnh đạo của Đảng; sự quản lý của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu dân chủ
của người dân, phục vụ lợi ích của nhân dân và là những đảm bảo quan trọng để
nhân dân thật sự là chủ và thật sự làm chủ.

"Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ"1. Các quan hệ giữa Đảng, nhân dân, Nhà nước cần
được phân biệt rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể thông qua
một hệ thống thể chế xác định. Vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, vai trò,
trách nhiệm quản lý của Nhà nước và địa vị làm chủ, hình thức, phương thức
làm chủ của nhân dân cần được thể chế hoá bằng một hệ thống các văn bản pháp
luật, các quy chế quan hệ cụ thể giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân.

11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà

Nội, 2016, tr 210-211.

21


Để bảo đảm được quyền làm chủ của người dân trong mối quan hệ với
Đảng và Nhà nước, trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số vấn đề
sau: Đổi mới công tác bầu cử; Thiết lập những giới hạn quyền lực của Nhà
nước trong Hiến pháp; Thiết kế một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngay
trong bộ máy nhà nước; Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của
người dân.
Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" không chỉ là
phương thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, mà cần phải trở thành phương châm
thực hành dân chủ ở mọi cấp. Để có thể trở thành phương châm dân chủ có tính
phổ quát ở tất cả các cấp, nhiều nghiên cứu về dân chủ đã đề xuất thay "dân
kiểm tra" bằng "dân giám sát" và bổ sung vào phương châm này nội dung: “dân
quyết định”, “dân được hưởng” để hoàn thiện thành phương châm phát huy
quyền làm chủ của người dân. Đó là: dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân làm,
dân giám sát và dân được hưởng.
Các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu

quả. Bởi vì, trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, Cơ cấu xã hội-giai cấp,
dân cư, ngành nghề,v,v đều có sự phát triển mới cùng với quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần dân cư, các các giai tầng xã hội trở nên đa dạng hơn. Do vậy,
đời sống tinh thần, tâm lý, nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân cũng hết
sức nhiều màu vẻ. Trong các tầng lớp nhân dân trình độ giác ngộ chính trị, văn
hóa, thu nhập và mức sống không đồng nhất mà phân hoá thành nhiều cấp độ
khác nhau. Do đó, các hình thức tổ chức, tập hợp các tầng lớp nhân dân đó cũng
phải khác nhau và ngày càng đa dạng, thích hợp với từng thành phần dân cư, các
giai tầng xã hội. Các tổ chức quần chúng nhân dân đó phát triển theo nguyên tắc
tự nguyện, tự quản và tự trang trải, tạo môi trường và điều kiện để nhân dân phát
huy sức lực, trí tuệ sáng tạo theo nguyện vọng trên cơ sở pháp luật.
IV. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA
ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Nội dung công tác dân vận hiện nay
22


a- Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân1
Đây là mục tiêu tổng hợp, là mục đích cao nhất của công tác dân vận
trong mọi thời kỳ. Nghị quyết 25, khóa XI, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng ta
tiếp tục xác lập một cách cụ thể mục tiêu này trong lĩnh vực công tác dân vận.
Thực ra để đạt được mục tiêu tổng hợp này, phải đồng thời thực hiện tất
cả các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh quốc
phòng, chứ chỉ riêng công tác dân vận thì cũng không đạt được.
Niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ XHCN cũng như sức
mạnh của khối đại đoàn lết dân tộc, sự gắn bó mật thiết của nhân dân với Đảng
phải được gây dựng, tạo lập bởi nhiều yếu tố. Trong giai đoạn hiện nay, lòng tin

của nhân dân phụ thuộc nhiều vào tính đúng đắn trong các quyết sách của Đảng
và Nhà nước, sự trong sạch, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng;
sự gương mẫu, liêm chính của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo của
Đảng và chính quyền các cấp; các vấn đề về dân sinh, dân trí, dân chủ được
quan tâm thực hiện, đem lại lợi ích thiết thực của nhân dân. Thực hiện những
yêu cầu nói trên chính là mục đích của công tác dân vận và trách nhiệm của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, Đoàn thể, của cán bộ Đảng viên để củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và tăng cường mối quan hệ gắn bó Đảng với nhân dân.
Một khi niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố, quan hệ gắn bó
Đảng Dân được tăng cường,thì việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước sẽ
được thực hiện tốt. Công tác dân vận sẽ thuận lợi và có hiệu quả như mong
muốn của Đảng.
b- Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân2.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, S.đ.d, tr 210.
22 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, S.đ.d, tr 210.

23


Đây là một trong những yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
về công tác dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu
quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố
cáo của công dân.
Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù
hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đồng thời, tăng cường

xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Các ấp ủy đảng phải tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trương 4,
khóa XII. Tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, quản lý
đảng viên thực hiện tốt nguyên tắc Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình. Sống và làm việc gương mẫu, có trách nhiệm với dân,
nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng noi theo. Nhân dân giảm sút niềm tin
đối với Đảng chủ yếu vì những đảng viên phẩm chất đạo đức kém, những tổ
chức cơ sở đảng không trong sạch vững mạnh, mất sức chiến đấu.
Phẩm chất, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề quyết định
ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động trực tiếp đến mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân. Các cấp ủy đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, để thiết thực đưa
nghị quyết vào cuộc sống Đặc biệt, phải có cơ chế kiểm soát quyền lực, lãnh đạo
các cơ quan nhà nước thực thi pháp luật nghiêm túc, có hiệu quả. tăng cường
giám sát những người có chức có quyền, nhất là người đứng đầu các ngành,các
cấp để ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh
mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, "lợi ích nhóm", vi phạm nguyên tắc Đảng. Kiên
quyết xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ suy thoái về tư trưởng chính trị, đạo
đức lối sống, biểu hiện "tự diễn biến". "tự chuyển hóa" nêu gương xấu trước
quần chúng.
24


c- Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân
dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác dân vận phải góp phần vào việc thực hiện đồng bộ các giải
pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5
năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế

gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức
cạnh tranh. Phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và
bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, công tác dân vận của Đảng cần bám sát diễn
biến tình hình, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động. Nhất là cần nắm bắt diễn biến tư tưởng của nhân dân và
đổi mới công tác dân vận. Tăng cường công tác dân vận của chính quyền, lực
lượng vũ trang, tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân, góp phần quan
trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát trong kế hoạch 5 năm do Đại hội
XII của Đảng đề ra. Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

25


×