Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Nghệ thuật sân khấu múa rối nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.03 KB, 24 trang )

NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU MÚA RỐI NƯỚC
***
Giảng viên: Hồ Thu Hà
***
Danh sách thành viên :
1.

Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Hồng Nhung
2.

Nguyễn Thị Vân Anh
3.

Tống Thị Huyền

4.

Nguyễn Thu Hiền

5.

Trần Minh Nguyệt

6.
7.

Giang Anh Minh
Vũ Thị Thu Huyền

8.
9.



Lang Thị Thư
Đặng Thị Thùy Linh

10.

Cao Thị Hoài Thu

11.

Nguyễn Thị Thủy

12.

Nguyễn Văn Hưng

13.

Lương Thái Bình

14.

Phạm Thùy Dung


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
ST
T

HỌ VÀ TÊN


CÔNG VIỆC

1

Nguyễn Thu Hiền

Lịch sử hình thành của
sân khấu múa rối nước

2

Tống Thị Huyền
Vũ Thị Thu Huyền

3

ĐÁNH
GIÁ
4/5*

GHI
CHÚ
Nộp
đúng hạn

Tìm hiểu về sân khấu và
buồng trò

T.Huyền:

4/5*
V.Huyền:
3/5*

Lê Văn Hưng

Tìm hiểu về quan niệm
về phường hội

Hưng:
4/5*

T.Huyền
nộp đúng
hạn
V.Huyền
nộp
muộn
Hưng
nộp đúng
hạn

4

Trần Minh Nguyệt

Tìm hiểu về âm nhạc.

5/5*


Nộp
đúng hạn

5

Phạm Thùy Dung
Cao Thị Hoài Thu

Tìm hiểu về hệ thống trò
và tích trò

Dung:3/5*
Thu: 3/5*

6

Nguyễn Thị Thủy

3/5*

7

Lang Thị Thư
Đặng Thị Thùy Linh

Tìm hiểu về quân rối và
máy điều khiển
Tìm hiểu về các phường
rối cổ truyền


Nộp
muộn,
thiếu ảnh
Nộp
muộn
Nộp
muộn

8

Nguyễn Thị Vân Anh

Làm powerpoint

9

Giang Anh Minh

Tìm hiểu phần mở rộng

10

Nguyễn Thị Hồng Nhung

Phân chia công việc,
tổng hợp tài liệu, chỉnh
sửa và hoàn thiện word,
thuyết trình, đánh giá.

Thư:3/5*

Linh:3/5*
V.Anh:5/5
*
3/5*
5/5*

Tích cực
Nộp
muộn
Nhóm
trưởng


CẤU TẠO BÀI
Phần 1: Giới thiệu.
Phần 2: Lịch sử hình thành sân khấu múa rối nước.
Phần 3: Các thành tố của sân khấu rối nước.
1. Sân khấu và buồng trò.
1.1.
Sân khấu.
1.2.
Buồng trò.
2. Quân rối và máy điều khiển.
2.1.
Quân rối.
2.2.
Máy điều khiển.
3. Hệ thống trò và tích trò.
4. Âm nhạc.
5. Phường hội và nghệ nhân.

5.1.
Phường hội
5.2.
Nghệ nhân

Phần 4: Các phường rối cổ truyền.
1.
2.
3.

Phường rối Nam Chấn
Phường rối Nguyễn
Phường rối Đào Thục

Phần 5: Thực trạng của múa rối nước.
Phần 6: Các giải pháp để gìn giữ và phát triển nghệ thuật múa rối nước.
***
NỘI DUNG CHÍNH
***
PHẦN 1: Giới thiệu
“Ôi bà con ơi... tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ...tôi là Tễu...” Câu bắt đầu,
thoạt nghe có vẻ như một câu chào của một diễn viên chèo, nhưng xét kĩ lại “ chú
Tễu” là một nhân vật đặc trưng chỉ xuất hiện trong nghệ thuật múa rối nước.


Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc ra đời từ nền văn hóa lúa nước. Từ một
nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã trở thành một nghệ thuật truyền
thống. Và cùng với tuồng, chèo, múa rối nước được coi là môn nghệ thuật có vị trí
cao trong nghệ thuật sân khấu dân tộc. Nói đến múa rối thì hầu như dân tộc nào
cũng có, nhưng múa rối nước thì đặc biệt chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Tinh hoa của

nghệ thuật múa rối nước ngày càng nhận được nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè
quốc tế, trở thành một sản phẩm nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.

PHẦN 2: Lịch sử hình thành sân khấu múa rối nước.
Hầu hết các nước trên thế giới đều có múa rối. Và ở Việt Nam, múa rối là một
trong những loại hình nghệ thuật truyền thống. Đến nay nghệ thuật múa rối Việt
Nam đã đạt đến trình độ nghệ thuật có giá trị cao về tinh thần, là một trong những
loại hình sân khấu giải trí hấp dẫn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân
Việt Nam. Đây là một trong những loại hình sân khấu tiêu biểu cho nền văn hóa
dân tộc Việt Nam – thể hiện trí tuệ và sự thông minh, sức sáng tạo của con người
Việt Nam. Trong xã hội hiện đại hôm nay, múa rối nước không còn quá xa lạ với
đại bộ phận người dân trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong
những nhân tố giúp múa rối nước định hình, khẳng định và phát triển để được xếp
hạng là một trong những loại hình nghệ thuật có giá trị cao, mang tính truyền thống
trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Việt Nam.
Nói đến sự ra đời của nghệ thuật múa rối nước, không thể nói chắc chắn nó xuất
hiện từ bao giờ, nhưng có nhiều ý kiến cho rằng rối nước xuất hiện từ rất lâu đời từ
thời cổ đại và gắn liền với nhà nước của các vua Hùng, trở thành một nghệ thuật
gắn liền với các tập tục, nghi lễ, hội hè Việt cổ cách đây hơn 2000 năm. Nhưng trên
thực tế cho thấy múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới 1000 năm, nó
phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XII), và hiện vẫn chưa có một
tư liệu nào chứng minh được nguồn gốc ra đời của nghệ thuật múa rối nước. Duy
nhất hiện còn lưu trên Bia “Sùng Thiện Diên linh tự tháp” có niên hiệu Thiên Phù
Duệ Vũ thứ 2 (1121) thời Lý Nhân Tông, có ghi trò múa rối nước biểu diễn mừng
thọ Nhà vua. Điều đó chứng tỏ rằng nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam đã được
hình thành từ bao đời nay, được lưu truyền tồn tại và ngày càng phát triển với
nhiều thể loại như: Rối tay, rối que, rối dây, rối nhà mồ,rối mặt nạ,rối diều sáo, rối
đồ chơi, rối sao, rối bóng,… đặc biệt là múa rối nước.



Như vậy có thể nói rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống của
dân tộc ra đời từ rất sớm.
Cùng với đó có ý kiến lại cho rằng rối nước là một loại hình nghệ thuật được tạo ra
bởi sự tìm tòi, sáng tạo và liên tưởng của cha ông ta trước cuộc sống bình dị gắn
liền với nghề nông nghiệp trồng lúa nước và sự du nhập mạnh mẽ của phật giáo
vào Việt Nam. Và từ thực tế cho thấy, do điều kiện tự nhiên và công việc của nhà
nông, có thể nói rằng: Múa rối nước được xây đắp hình thành từ tâm tư, tình cảm
của người dân lao động, nó tái hiện cuộc sống và ước vọng của thời đại.Trước kia
rối nước chỉ diễn ngoài trời, sân khấu gắn bó, hòa quyện với thiên nhiên, trong
không gian mênh mông, trời, đất và nước có cây xanh, mây, gió, lửa, có khói mờ
vương tỏa, ẩn hiện mái đình uốn cong và màu ngói đỏ, quả là một sự hòa quyện
độc đáo giữa thiên nhiên và con người. Ngày nay, múa rối nước Việt Nam, không
chỉ bảo tồn mà đã được khai thác sâu, rộng hơn.

Phần 3: Các thành tố của sân khấu múa rối nước
1. Sân khấu và buồng
1.1.
Sân khấu

trò.

Sân khấu múa rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò. Giống như tên gọi
của loại hình nghệ thuật này, sân khấu của múa rối nước đặc biệt chính là mặt nước
phía trước buồng trò tạo sân khấu biểu dễn múa rối nước y như ban thờ lớn ở Đình,
Chùa của người Việt, giống như là một đình làng thu nhỏ lại với những mái uốn
cong lung linh phản chiếu trên mặt nước.. Sân khấu được trang bị cờ, quạt, voi,
lọng, cổng hàng mã... Buổi diễn rất nhộn nhịp với lời ca, tiếng trống, mò, tù và,
chen tiếng pháo chuột, pháo thăng thiên, pháo mở cờ từ dưới nước lên, trong ánh
sáng lung linh và màn khói huyền ảo.
Sân khấu múa rối nước hường là ao, hồ của làng mạc thôn quê,khán đài là bãi cỏ

rộng xung quanh đấy rất thuận tiện cho dân chúng thưởng thức. Được gọi” là thủy
đình “ hay “nhà rối” gồm hai tầng , tầng trên được dùng để thờ tổ, tầng dưới được
dùng để làm hậu trường có màn che là nơi các nghệ nhân nghâm mình biểu diễn.
Về Cấu tạo của sân khấu múa rối nước.
Tổng thể sân khấu múa rối nước chủ yếu được dựng ngoài trời, gồm:


– Một: Buồng trò – dựng giữa ao, hồ, che kín, có mành treo cửa trước để che nghệ
nhân đứng sau điều khiển các quân rối.
– Hai: Sân khấu – khoảng mặt nước trước mành dài rộng 4m x 4m, hai bên có lan
can thấp kéo từ hai nhà nanh hai bên, nơi quân rối hoạt động.
– Ba: Nơi người xem – khoảng bờ, bãi, sân trước và hai bên sân khấu dưới bóng
cây trồng quanh ao, hồ…
1.2.

Buồng trò

Buồng trò múa rối là nhà rối hay thủy đình đây là nơi dấu mình của các nghệ nhân,
đồng thời đây cũng là nơi để con rối để sắp trò và để nhạc công biểu diễn. Buồng
trò được dựng giữa ao, hồ, che kín và có mành treo cửa trước để che nghệ nhân
đứng sau điều khiển .
Về cấu tạo, buồng trò được dựng với cấu trúc cân đối tượng trưng cho mái đình
của vùng nông thôn Việt Nam. Buồng trò được trang bị cờ, quạt, voi lọng, cổng
hàng mã… Trên thực tế nó có cấu trúc hình vuông , mái lợp được chia làm 2 lớp :
âm dương, bốn cột cái đỡ các mái trên. Mười hai cột con sắp thành hàng quanh bốn
bên đỡ mái dưới , cả hai mái đều được lợp bằng ngói mũi xếp chồng lên nhau theo
hình vẩy cá, nơi giáp góc các mái đều được làm thành những đầu dao uốn lượn
cong lên. Dù được xây bằng gạch hay dựng bằng gỗ thì thủy đình vẫn mở thông ra
bốn phương. Vì được xây dựng trên ao hồ lên khi dựng thủy đình thường rất là chi
tiết và cẩn thận, chọn lựa những vật liệu tốt để làm ,do đó mà thủy đình có thể

được sử dụng trong khoảng thời gian dài.
Tư duy của người Việt thường gắn giá trị thẩm mĩ với giá trị ích dụng, bởi vậy thủy
đình với cấu trúc như kia sẽ không có nhiều công năng sử dụng do đó mà số lượng
thủy đình ở các phường rối có ít đi . Tuy nhiên tính độc đáo của thủy đình rối nước
là ở chỗ nó thường tọa lạc ở giữa các ao làng, hồ trong một tổng thể không gian
kiến trúc của đình, đền, chùa , miếu... Chính vì thế nên hoạt động biểu diễn rối
nước cũng được lựa chọn vào những dịp lễ hội quan trọng.
Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối , họ thao tác
từng cây sào, thừng , vọt … hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài
hoặc dưới nước. Và chỉ xuất hiện trước mặt khán giả vài giây để chào cảm ơn sau
khi kết thúc tiết mục.


2. Quân rối và máy
2.1.
Quân rối

điều khiển

Quân rối là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để cấu thành nghệ thuật
sân khấu múa rối nước. Quân rối chính là những diễn viên chuyên nghiệp làm
duyên làm dáng trên mặt nước sân khấu, được các nghệ nhân chế tác và điều khiển
thổi hồn vào, khiến cho nó trở nên có linh tính, biết pha trò, chọc vui mọi người.
Từ những con rối riêng lẻ của một số các cá thể phát triển thành những phường rối
với nhiều những tích trò hay, lạ, đẹp mắt rồi được đem ra biểu diễn, thi tài phục vụ
nhân dân. Từ đây nghệ thuật Múa rối đã trở thành thú chơi tao nhã của nhân dân
đồng bằng sông Hồng và đến nay đã trở thành một loại hình nghệ thuật truyền
thống trong dân gian được gìn giữ, bảo tồn và phát huy.
Cấu tạo của quân rối
Chất liệu thông dụng để tạc con rối là gỗ sung nhẹ lại dai, dễ điều khiển dưới nước.

Tuỳ từng tính cách nhân vật, mỗi con rối được tạc với những đường nét cách điệu
riêng. Quân rối nước có hai phần: Phần thân nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật,
còn phần đế chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi, đồng thời là nơi lắp máy điều
khiển rối. Cuối cùng là gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn làm tôn
thêm đường nét, tính cách cho từng nhân vật. Hình thù của con rối thường tươi tắn,
ngộ nghĩnh, có tính hài và tính tượng trưng cao.
Quy trình làm quân rối
Con rối được các nghệ nhân làm bằng gỗ, thông thường gỗ tốt sẽ nặng và chìm,
nên gỗ sung là chất liệu thông dụng để tạo con rối, do loại gỗ này nhẹ, dai, lại rất
dễ điều khiển trong khi biểu diễn dưới nước. Sau khi chọn được gỗ chế tác, các
nghệ nhân thực hiện một loạt các thao tác mộc, biến những khúc gỗ vô tri thành
những quân rối với hình thù đặc trưng của từng nhân vật. Và sau đó quân rối được
sơn một lớp sơn không thấm nước. Để tạo ra một con rối hoàn chỉnh ,các nghệ
nhân phải trải qua nhiều giai đoạn tỉ mỉ ,từ đục cốt đến trang trí
Phường rối Yên ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây dùng gỗ cây yến
để làm quân rối .Con rối được sơn 4 hoặc 5 lần bằng một loại vecni truyền thống
có phủ lớp bạc, do vậy các con rối rất bền.
VD: Phường rối Ra ở huyện Thạch Thất,tỉnh Hà Tây sơn rối theo 3 bước:


Bước 1:Sơn hom
Người thợ thủ công sơn phủ con rối bằng một lớp sơn ta trộn đất sét, sau đó dùng
một viên đá cuội để đánh bóng rồi dùng đã màu cọ xát thân rối trong nước .
Bước 2:Sơn lót
Tiếp đó người thợ sơn con rối thêm vài lần nữa để lấp kín mọi vết nứt. Sau khi khô,
cứ mối lớp sơn lại được người thợ dùng một viên đá để đánh bóng.
Bước 3:Thếp bạc
Lần này trong lúc sơn còn chưa khô, người thợ dán lên các lá quỳ dày 3cm, rộng
4cm2 do làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội sản xuất. Người thợ có thể dán
thêm một lớp lá quỳ nữa trước khi sơn thêm khoảng hai đến ba lần nữa bằng sơn

trộn với nhựa cây mù.
Các thợ thủ công dùng sơn ta để sơn các màu cam thẫm, nâu đậm, da cam nhạt, đỏ
và đen, nhưng các màu xanh lá cây và đỏ son thì phải dùng sơn của Thái Lan hoặc
của Nhật Bản.
Hình tượng rối : người nông dân dình dị, chị phụ nữ, cô thiếu nữ….hoặc những
nhân vật lịch sử : Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi….nhiều nhân vạt gàn gũi với ruộng
đồng : đàn trâu, đàn vịt, đàn cá, con mèo, con chuột.
Những quân rối tiêu biểu:
Chú tễu: Trong múa rối nước nổi bật là hình ảnh chú tểu, chú tểu là nhân vật tiêu
biểu nhất đại diện cho khát vọng của người dân trong xóm làng Việt Nam và
trường tồn cùng rối nước .Mở màn chú tểu xuất hiện vui vẽ,nghịch nghợm làm
nhiệm vụ giáo đầu câu chuyện : Nói tới tểu thì ai cung biết. Khuôn mặt chữ điền,
mặt rộng tai to. Nhất là cái bụng phệ trời cho. Để chứa yêu thương đựng tình sâu
rộng. Tểu tôi luôn yêu đời yêu cuộc sống. Đó là công sinh thành nuôi dưỡng của
dân ta. Tôi lớn lên từ phường rối nước quê nhà. Việc giữ gìn và phát triển nền nghệ
thuât cổ truyền là rối nước. Tểu tôi là người đảm trách………… Và Tểu đã đảm
trách rất nhiều vai trò :giáo đầu, đẫn chương trình, giới thiệu về quê hương với
khán giả. Bên cạnh đó tểu củng là con rối người ( vua, thợ cày, thợ cấy….vv ) con
rối vật ( trâu, lừa, rắn ,cá ,vịt ….vv ).
Nghệ thuật tạo hình :


Khi tạo hình con rối phải chú trọng đến những con rối chính trong tích và trò diễn.
Cố gắng làm sao để trên bề mặt con rối có được những nét điển hình cần nhấn
mạnh. Có những vai diễn không phải chăm chút lắm về tạo hình bộ mặt nhưng phải
chú ý trang phuc và thứ họ mang theo để nói lên thân phận của nhân vật.
Ví dụ như trong trò diễn nông , công, thương hoặc trò ngư tiền: Các nhân vật dựa
trên các tích trong vớ tuồng, chèo thì ăn mặc giống như các diễn viên tuồng chèo.
Một điều dáng chú ý nữa là trong việc tạo hình các nhân vật, nghệ nhân phải có
đầu óc tưởng tượng, lãng mạng và luôn nghĩ đến cái lạ cái đẹp.


2.2.

Máy điều khiển

Máy có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây đều có nhiệm vụ
làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật.
Máy dây: gồm một dây cái hay dây nọc được mắc trên đầu một hệ thống cọc, có
tác dụng chủ yếu làm di chuyển ra vào một bàn máy lớn đóng bằng gỗ trên sắp đặt
nhiều quân rối. Thường máy dây để diễn các cho tập thể như: múa bát tiên, múa sư
tử, múa cá… hoặc các quân rối quá cỡ như chú Tễu, cô Tiên. Các quân rối trong
máy dây có những động tác uyển chuyển là nhờ vào sự kéo léo giật các dây mềm
nhỏ nối từ bàn máy lên các bộ phận cần thiết ở thân mình quân rối sao cho nó
mang hồn của nhân vật thể hiện. Trò máy dây không di chuyển linh hoạt như các
trò của máy sào, vì phải lệ thuộc vào hệ thống cọc nhất định, nhưng sức chuyển tải
lớn hơn nhiều và khả năng vượt xa khỏi khung sân khấu một cách thoải mái. Đã có
những quân rối mang trầu thuốc vào sát bờ mời khán giả hay có những đám rước
đi vòng quanh sân khấu… Tất cả đều nhờ vào hệ thống dây, máy và cọc đặt ngầm
ở dưới nước, chỉ có quân rối là nổi lên trên.
Máy sào: từng quân rối được gắn lên một cái sào dài để tạo sức cân, tác động vào
đế quân rối làm quân rối xoay chuyển được toàn thân. Với những tích trò ngắn và
ít nhân vật trên sân khấu. Thường là các trò mang tính giải trí, thi đấu…
Cách sử dụng máy điều khiển
Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ
xa, cống hiến cho người xem nhiều điều kỳ lạ, bất ngờ.


Buồng trò rối nước là nhà rối hay thủy đình thường được dựng lên giữa ao, hồ với
kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam.
Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ thao tác

từng cây sào, thừng, vọt... hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài
hoặc dưới nước Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động
của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó.
Kỹ thuật điều khiển
Kỹ thuật điều khiển trong múa rối nước rất được coi trọng, nó tạo nên hành động
của quân rối nước trên sân khấu, và đó chính là mấu chốt của nghệ thuật múa rối.
Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc. Nhưng sự thành công của quân
rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch
của nó.
Trò rối nước là trò khéo lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với
âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động
tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chủ đạo của trò rối nước,
nhạc rối nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng Bắc Bộ.
Múa rối nước đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của người dân
vùng đồng bằng Bắc Bộ và gắn bó với họ từ thế hệ này sang thế hệ khác.
3.

Hệ thống trò và tích trò

Trong kho tàng trò rối nước của Việt Nam, có 30 tiết mục cổ truyền và hàng trăm
tiết mục rối hiện đại kể về những sự tích dân gian và cuộc sống hàng ngày của
người dân Việt.
Xuất xứ của trò và tích trò
Phần lớn các trò và tích trò được dựng lên bởi nhân dân, là sản phẩm chung trong
quá trình lao động của người nông dân. Các trò và tích trò là biểu trưng của nền
văn minh lúa nước hàng nghìn năm nay của dân tộc gắn với cư dân vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
Người Pháp gọi môn nghệ thuật múa rối nước của ta với những con rối duyên dáng
là "linh hồn của đồng ruộng Việt Nam" và đánh giá rằng: "Với sự sáng tạo và khám



phá, rối nước đáng được xếp vào những hình thức quan trọng nhất của sân khấu
múa rối".
Các tiết mục múa rối nước truyền thống là các trò, hoạt cảnh và tích trò chỉ chiếm
1 phần nhỏ. Các tiết mục thường ngắn gọn, ít kịch tính. Trò rối nước thường miêu
tả những công việc lao động sản xuất hàng ngày của người làm ruộng, những nét
sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng nơi làng xóm, thể hiện lạc quan yêu đời trước vụ
mùa thắng lợi, lòng yêu nước, chí căm thù, ước mơ cuộc sống hạnh phúc… Người
xem có thể nhìn thấy ở đây những gì của mình, gần gũi thân thiết với mình. Sức
hấp dẫn mạnh nhất của múa rối nước là sự hấp ẫn của các trò, sự kỳ diệu của vật
chất sống dậy, sự ngộ nghĩnh ngây ngô nhưng tài tình độc đáo, sự hồn nhiên của
trò. Trò rối thường hướng vào những đề tài sau đây: Ca ngợi cái thú làm ruộng,
những hoạt động vui chơi giải trí, ca ngợi những tấm gương anh hùng dân tộc, các
trích đoạn sân khấu cổ truyền.
Các thành tố cấu tạo nên trò và tích trò
Kịch bản
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công cho các tích trò, đó là
kịch bản dàn dựng ở mỗi vở diễn. Nghệ thuật múa rối nước ra đờ bắt nguồn từ
những trò chơi dân gian, gắn với những người dân lao động. Do điều kiện tự nhiên
và công việc nhà nông, múa rối nước được xây đắp hình thành từ tâm tư tình cảm
của người dân lao động, nó tái hiện cuộc sống và ước vọng của thời đại, nội dung
ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, truyền thống tương thân tương ái, uống nước
nhớ nguồn mang đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc được thể hiện qua các tích như Chọi
trâu; Dệt vải trao con; Cáo bắt gà; Đánh cá; Câu ếch… Con rối là những vật vô tri
vô giác qua bàn tay khéo léo của con người tạo hóa đã làm cho con rối cử động vô
cùng linh hoạt như một con người. Lời loại trong rối nước truyền thống là các bài
văn vần, biền ngẫu, không theo mọt hình thức quy củ. Hình tượng nêu lên thường
mượn từ các điển tích sử sách cổ xưa.
Âm nhạc
Có thể nói, âm nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tư tình cảm của con

rối vô tri mà dẫu có lời thoại cũng không thể truyền tải hết. Âm nhạc gắn kết các
trò diễn với nhau, tạo cho người xem không có cảm giác bị đứt đoạn giữa các trò
diễn, truyền tải được hết nội dung tạo sự giao lưu giữa con rối và người xem. Nhạc


cụ chính được sử dụng là trống, não bạt, pháo (ngày xưa) cũng là một âm thanh hỗ
trợ đắc lực. Múa rối cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí
buổi biểu diễn trong không gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào náo nhiệt.
Cho đến ngày nay, đã có nhiều phường rối sử dụng băng đĩa nhưng như vậy đã làm
giảm đi sự hấp dẫn của nghệ thuật múa rối nước. Bởi tiết tấu của nhạc sống gây
hưng phấn đến người xem, nghệ nhân điều khiển con rối theo âm nhạc lúc thì nhẹ
nhàng, lúc thì sôi động, mãnh liệt. Nếu thiếu âm nhạc, không khí của cả chương
trình sẽ thiếu đi tính hấp dẫn. Âm nhạc đóng vai trò quan trọng, đứng thứ hai sau
kỹ thuật biểu diễn và làm nên giá trị của nghệ thuật dân gian độc đáo này. Ngôn
ngữ, cách thể hiện của sân khấu chèo được áp dụng triệt để vào nghệ thuật biểu
diễn múa rối nước. Cách độc thoại rối trên sân khấu không đơn thuần là những lời
thoại mà đã được thể hiện bằng cách nói có vần, có điệu của nghệ thuật sân khấu
chèo. Tiếng trống “sấm nở” của phường Nam Chấn xưa nay còn được nhiều người
truyền tụng. Với việc đưa âm nhạc, nghệ thuật sân khấu chèo, tuồng vào trong biểu
diễn đã tạo cho múa rối nước một diện mạo mới đáp ứng được nhu cầu thưởng
thức nghệ thuật biểu diễn dân gian của khán giả.
Một số trò và tích trò tiêu biểu
Năm 1992, Nhà hát múa rối Thăng Long tại Hà Nội phục hồi được 17 trò rối
nước làm sống dậy trò rối nước trên toàn quốc gồm 17 trò:
-

Chú Tễu
o Chú Tễu là nhân vật con rối tiêu biểu trong hình thức múa rối nước tại
Việt Nam. Thông thường Chú Tễu thường có kích thước lớn hơn các
con rối khác. Theo 1 nghiên cứu , chú Tễu là nhân vật xuất hiện nhiều

nhất vầ nổi tiếng nhất trong sân khấu kịch múa rối nước truyền thống
của Việt Nam.
o Nguồn gốc: Chú Tễu nghĩa là tiếng cười theo tiếng Nôm. Theo nhiều
nguồn, nghệ nhân Phan Văn Ngải là người làm ra chú Tễu. Nghệ nhân
Nguyễn Thế Nghị phường rối Đào Thục giải thích Tễu là hình ảnh đại
diện cho anh nông dân đồng bằng Bắc Bộ, còn anh Ba Khí ở phường
Đào Thục là đại diện cho cả 3 miền Bắc – Trung – Nam của Việt
Nam, anh Ba Khí đại diện cho khí phách của người Việt.
o Tạo hình nhân vật: Chú Tễu là nhân vật khoảng 7, 8 tuổi với thân hình
đầy đặn, da trắng hồng và luôn vui vẻ. Chú Tễu thường đóng khố, lộ


-

ngực và bụng phệ. Để gây cười khán giả, chú Tễu đưa tay vung vẩy và
quay đầu quy nghiêng ngửa.
o Vai trò trong diễn cảnh: Chú Tễu là một nhân vật táo bạo luôn chế
nhạo giễu cợt. Tễu là người ra mắt, người bình luận, người tự sự, và là
người trách móc quan lại tham nhũng trong nhiều vở diễn. Ở các
phường rối, Tễu là nhân vật phất cờ hay châm pháo. Một số người đề
cập Tễu là mõ làng chuyên giúp đỡ người già, có người nghĩ Tễu là
tên giết súc vật, người khác lại nói Tễu có cô vợ xinh đẹp.
Bật cờ
Múa Rồng
Em bé chăn trâu
Cày cấy
Cậu ếch
Bắt Vịt
Đánh Cá
Vinh quy bái tổ

Múa sư tử
Múa phượng
Lê Lợi trả gươm
Nhi đồng vui chơi
Đua thuyền
Múa lân
Múa tiên
Tứ linh

4.

Âm nhạc

Yếu tố âm nhạc giữ vai trò quan trọng, tạo nên sự hấp dẫn của loại hình
múa rối nước. Trước đây, khi giai điệu âm nhạc chưa xuất hiện, thì bộ gõ là những
nhạc cụ sơ khai của múa rối nước.
Múa rối nước cần âm thanh mạnh, để giữ tiết tấu và khuấy động không khí
buổi diễn trong không gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào, náo nhiệt. Tiếng
trống rộn ràng, cùng với mặt nước phản âm khiến âm thanh càng thêm vang xa,


náo động, tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút, tác động mạnh tới cả người diễn lẫn người
xem. Các nhạc cụ gõ sử dụng trong múa rối nước là: trống cái, trống con, trống
cơm, mõ, thanh la, não bạt. Khán giả đến với nghệ thuật rối nước không chỉ xem
những con rối ngộ nghĩnh, chuyển động tài tình trên mặt nước, mà còn được
thưởng thức không khí biểu diễn náo nhiệt, sôi động, phấn khởi từ âm nhạc của bộ
gõ.
Qua âm nhạc, người nghệ nhân mới có thể diễn tả được hết vẻ đẹp của con rối. Âm
nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tư, tình cảm của con rối vô tri mà
lời thoại không thể chuyển tải hết. Âm nhạc còn làm nhiệm vụ gắn kết các trò diễn

với nhau, giúp người xem không có cảm giác vụn vặt giữa các trò diễn, nội dung
truyền tải tốt hơn, tạo nên sự giao lưu, gần gũi giữa con rối và người xem. Chính
điều này làm cho khán giả thoải mái, thích thú theo dõi từ đầu đến cuối buổi diễn.
Khởi thủy là biểu diễn trên sân khấu ngoài trời giữa ao hồ, nên rối nước cần âm
thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn. Các phường hội
dân gian chuyên dùng bộ nhạc gõ dân tộc như trống cái, não bạt, mõ, pháo, tù và
ốc. Âm nhạc rối nước mang tính đại náo của hội hè, có tác dụng kích động mạnh
cả người diễn lẫn người xem. Vốn là một nghệ thuật lấy động tác làm ngôn ngữ
diễn đạt chính, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Các nghệ nhân
múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi
động, giúp gắn kết các tiết mục với nhau.
Các nhóm nhạc cụ :
-

Nhạc cụ thanh la.
Nhạc cụ não bạt.

Thời nay, các tiết mục múa rối ngày càng được đầu tư công phu hơn. Không đơn
thuần là màn biểu diễn thô sơ của những nghệ nhân múa rối cùng các con rối của
mình nữa, loại hình nghệ thuật này còn là sự kết hợp ăn ý của dàn nhạc chèo, hệ
thống ánh sáng, hiệu ứng khói, tia lửa… khiến màn biểu diễn rối nước trở nên vô
cùng sống động.


5.
a.

Phường hội và nghệ nhân
Phường hội


Phường hội rối nước là những tổ chức dân gian tự nguyện, xưa kia mỗi phường rối
có từ bảy mươi đến tám mươi người, tuy nhiên chỉ có khoảng hai mươi người là
thạo việc. Đứng đầu là một ông Trùm quán xuyến mọi hoạt động của phường.
Phường hội rối nước tuy là một tổ chức dân gian nhưng lại có những quy định luật
lệ chặt chẽ và mang tính chất bí truyền cao. Sinh hoạt của phường rối được thể
hiện trên nhiều mặt:thu nạp thành viên, thờ và tế tổ, truyền nghề và biểu diễn phục
vụ bà con. Mỗi phường rối đều có bí mật phường nghề.
Xưa kia các phường rối đều truyền nghề theo kiểu cha truyền con nối. Vào những
buổi nông nhàn, các nghệ nhân tổ chức các buổi hướng dẫn tạc quân rối, sử dụng
máy điều khiển,hướng dẫn biểu diễn. Nghệ nhân rối nước không được đào tạo theo
trường lớp, mà theo lối truyền nghề.
Các phường hội rối cổ truyền bắc bộ thường tổ chức múa rối nước vào ngày tế Tổ,
các dịp hội làng, hội vùng, hội của cả nước, vừa tưởng nhớ lại công lao của các vị
Tổ đã có công thành lập phường rối, các vị anh hùng của dân tộc, vừa là dịp giúp
bà con vui chơi giải trí sau những ngày đồng áng vất vả.
b.

Nghệ nhân

Không như các nghệ nhân của các loại hình nghệ thuật khác trực tiếp biểu diễn trên
sân khấu. Nghệ nhân của trò múa rối nước không xuất hiện trên sân khấu mà họ
đứng núp sau bức mành tre để điều khiển con rối bằng một hệ thống dây, sào,
thừng, vọt que phức tạp, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hoặc giật dây con rối bằng hệ
thống dây được bố trí sẵn. Mặc dù làm việc phía sau chiếc mành, xuất hiện trước
mặt khán giả vài giây để chào cảm ơn nhưng mỗi lần biểu diễn các nghệ sĩ múa rối
nước vẫn phải trang điểm đẹp. Đặc biệt khi biểu diễn họ phải ngâm nửa cơ thể
xuống dưới nước hàng giờ để biểu diễn và chỉ xuất hiện để cảm ơn sau khi buổi
trình diễn kết thúc nên các nghệ sĩ luôn mặc quần áo bảo hộ đeo gang tay cao su để
giữ nhiệt( trước đây khi chưa có những thiết bị như quần áo cao su, diễn viên
thường phải ngâm mình trực tiếp xuống dưới nước nên chuyện xảy ra như các

chứng viêm họng, cảm lạnh, đau nhức xương khớp thường xuyên, vì thế các nghệ


sĩ diễn rối xối nước gừng đã được giã nát trên thân thể mình và uống nước mắm để
giữ ấm khi họ phải đứng suốt trong làng nước lạnh ngang hông để điều khiển con
rối tại các cánh đồng lúa hay ở các ao, hồ.
Phần 4: Các phường rối cổ truyền

Ở Bắc Bộ có khoảng ba mươi phường rối cổ truyền, trong đó có một số phường rối
điển hình, tiêu biểu có thể kể ra những phường tiêu biểu sau đây:
1.

Phường rối nước Nam Chấn

Nam chấn được xem là một trong những phường rối nước lâu đời nhất vùng đồng
bằng bắc bộ, tương truyền có từ năm 1775. Phường rối Nam Chấn thuộc xã Hồng
Quang –Huyện Nam Trực-Tỉnh Nam Định. Tương truyền rối nước phường Nam
Chấn do một thợ chạm khởi nghiệp. Theo các bậc cao niên kể lại ngày xưa cụ Mai
Văn Kha làm nghề thợ chạm ở thôn Rạch đã tập hợp những quân rối như Tễu,
Tiên, Tứ Linh… diễn thử tại ao đình,ban đầu chỉ để phục vụ dân làng sau những
giờ đồng áng mệt nhọc. Sau ần rối nước Nam Chấn phát triển và lưu truyền đến
ngày nay.
Ở Nam Chấn hiện có 5 dòng họ vẫn giữ nghề rối nước, đó là các dòng họ Đặng,
Lê, Mai, Phương, Phan. Phường rối năm nào cũng biểu diễn vào ngày hội làng (16
tháng giêng), đặc biệt là hội Kỵ Mẫu (11 đến 13 tháng 3 âm lịch) phường đều biểu
diễn và dâng lễ cúng thần Ôi Lỗi, là vị tổ của nghề phường. Hiện nay ở làng vẫn
còn hai nghệ nhân cao tuổi là các cụ Phan Văn Niệm(77 tuổi) và cụ Phan Văn
Mao(74 tuổi). Nhà thủy đình của phường rối do các nghệ nhân tự thiết kế và xây
dựng theo kiến trúc đình làng được xây dựng vào năm 1991. Làng Nam Chấn xưa
có truyền thống làm sơn mài và chính nghề này đã ảnh hưởng rất nhiều đến cách

tạo hình con rối sau này. Quân rối ngày xưa của phường Nam Chấn nhỏ nhắn, xinh
xắn, dễ điều khiển. Bây giờ quân rối làm khá to, có quân rồi phải 2-3 người điều
khiển.Ông Đặng Văn Đoàn, trưởng phường rối là người giỏi về tạo hình con rối
bằng gỗ sung, là tác giả của nhiều con rối sống động, linh hoạt. Còn ông Phạm Văn
Phường phó thì giỏi về sơn thiệp, trang trí.
Các trò phần lớn được truyền lại từ những thế hệ trước, chủ yếu xoay quanh cuộc
sống của người nông dân như bắt cá, cày bừa, dệt vải, múa lân, múa sư tử …Tại
buổi biểu diễn ở bảo tàng dân tôc học, người Nam Chấn đem đến 13 trò rối cổ,


trong đó có một số trò khá lạ như Tiểu giáo đầu, Kéo ca dâng hoa, Câu ếch, Lân
tranh cầu. Đến nay, Nam Chấn đã có đoàn múa rối gồm người, trong đó có những
diễn viên rất trẻ mới 13 tuổi.Đoàn đã đi diễn ở nhiều nơi đặc biệt là những chuyến
“xuất ngoại” ở Nga, Đức và Italy…
2.

Phường rối Nguyễn

Phường rối Nguyễn là một phường rối cổ tryền ở Đông Hưng – Thái Bình. Nguyễn
là một làng lớn, đông dân, nằm ngay cạnh đường 10 và đường 39. Trò rối nước đây
còn gọi là trò ổi lỗi, tương truyền làng rối có từ nhà Lê. Qua bao thế hệ, các
phường rối Nguyên Xá đã nối tiếp nhau đem môn nghệ thuật cổ truyền này làm vui
cho bà con trong những ngày hội hè đình đám.
Các phường rối được tổ chức theo lối đóng tiền góp thóc, cha truyền con nối.
Phường chỉ kết nạp thành viên mới vào ngày tế tổ hàng năm. Cũng như các
phường khác, phường Nguyễn không có phụ nữ tham gia vì sợ đem “bí mật của
phường” về nhà chồng. Ngoài 15 vở truyền thống, các nghệ nhân Nguyên Xá hôm
nay đã có thêm nhiều vở như “Bình dân học vụ”, “Chiến thắng sông Lô”, khá
thành công là vở “Đường lên Tây Thiên”.
Rối nước Nguyễn đã đi diễn ở nhiều nơi trong tỉnh, ngoại tỉnh như: Hội diễn nghệ

thuật toàn miền Bắc năm 1958, Hội nghị học thuật múa rối nước Hà Nội
vàoT6/1970. Năm 1994, Phường rối nước Nguyên Xá đã đạt 4 huy chương vàng
cho các trò: “Sản xuất”, “Sư chạy đàn”, “Đánh đu”, “Cáo bắt vịt” và 2 huy chương
bạc cho vở “Thi hóa rồng”.Từ năm 2002 đến năm 2006, phường giành giải nhất
trong hai kỳ Festival Huế và Liên hoan rối nước tại Phú Thọ.
Hiện nay phường có 22 thành viên, gồm trưởng phường, diễn viên điều khiển quân
rối, nhạc công cùng các ca sĩ. Làng Nguyễn vẫn đang từng ngày bảo tồn, khôi
phục, kế thừa và phát triển nghệ thuật múa rối nước truyền thống của dân tộc, để
mãi xứng danh là một trong những cái nôi của nghệ thuật múa rối nước Việt Nam.
3.

Phường rối nước Đào Thục

Đào Thục là một làng nhỏ thuộc Đông Anh - Hà Nội. Tương truyền tổ nghề là
Nguyễn Đăng Vinh tự là Phúc Khiêm - người làng Đào Thục, một vị quan trong
triều đình nhà khi nhà Lê sụp đổ, ông về quê cùng vợ Thị Cảnh tu sửa lại đình
chùa, dạy dân làng nghệ thuật múa rối nước. Vì vậy hằng năm, dân làng làm lễ
cúng giỗ vào ngày 24/2.


Rối nước Đào Thục có 16 trò diễn phục vụ khán giả như “Cô Tấm đi hội”,” Người
đánh hổ”,”Đánh đu”…các nghệ nhân Đào Thục hôm nay đã sáng tác thêm các tiết
mục mới để ca ngợi quê hương, đất nước như “Rước ảnh Bác Hồ”, “Hà Nội 12
ngày đêm”. Nét khác biệt giữa phường rối Đào Thục với các phường rối khác là về
nghệ thuật điều khiển quân rối của mình. Cái tài của người nghệ nhân nơi đây làm
con rối đang tiến thẳng có thể quay hẳn lại để đi vào trong mà không phải lùi hay
đi chéo như các phường rối khác. Vào Ngày hội các văn hóa dân tộc năm 1989,
phường rối Đào Thục đã đoạt huy chương vàng cho toàn đoàn. Từ năm 2002,
phường rối nước chính thức mang tên Đoàn múa rối nước Đào Thục Hà Nội và đi
biểu diễn tại các nước : Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc… Hiện nay phường rối

nước Đào Thục có gần 20 người.
Phần 5: Thực trạng của nghệ thuật múa rối nước
Qua điều tra trên diện rộng ở các phường Múa rối nước dân gian, cũng như qua các
kỳ liên hoan Múa rối nước toàn quốc, cùng việc xem xét hoạt động biểu diễn Múa
rối nước của các đơn vị, cho ta thấy rõ phong trào biểu diễn Múa rối nước dân gian
và ảnh hưởng của nó đang được duy trì ở nhiều tỉnh thành trên miền Bắc. Những
địa phương vốn không có Múa rối nước như ở miền Trung và Nam Bộ thì giờ đây
cũng tổ chức biểu diễn Múa rối nước. Đó là một biểu hiện đáng mừng trong việc
phát huy vốn văn nghệ cổ truyền trong đông đảo người xem. Có điều cần cảnh báo
là mục đích của một số tổ chức Múa rối nước không hẳn để nối tiếp truyền thống,
bảo tồn vốn nghệ thuật truyền thống và phục vụ cho nhân dân, mà chủ yếu phục vụ
khách du lịch nước ngoài để thu lợi. Sử dụng nghệ thuật truyền thống vào quảng bá
du lịch là việc nên làm, song nếu đặt sai mục đích sẽ có tác dụng ngược. Du khách
cần biết cái tinh hoa, đặc điểm của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, chứ không phải
cấn đến những yếu tố vụ lợi.
Cũng vì mục đích thương mại đó mà vốn nghệ thuật dân gian tiềm ẩn trong nhân
dân ngày bị mai một, bị lãng quên, bị sử dụng sai mục đích dẫn đến tình trạng ngày
một nghèo đi. Điều này rất dễ thấy là gần như hầu hết các phường Múa rối nước
trên toàn miền Bắc đều diễn một chương trình gần giống nhau. Đó là 16 trò Múa
rối nước dân gian được rút ra từ phường Nguyên Xá ở Thái Bình và phường Nam
Chấn ở Nam Định từ cách đây gần 30 năm. Rất ít phường có những tiết mục mới
(do sưu tầm từ vốn cổ, chứ không phải mới sáng tác). Có nơi phục hồi được một số
trò nhưng diễn chưa điêu luyện, vì hầu hết là diễn viên trẻ mới đào tạo ngắn ngày


chưa vững tay nghề. Lại có nơi chạy theo đề tài thời sự, viết kịch bản mới, dàn
dựng mới nhưng không hấp dẫn vì chạy theo tích (chuyện) mà quên trò là yếu tố
quan trọng nhất của nghệ thuật sân khấu dân gian. Thực chất Múa rối nước dân
gian chỉ diễn trò là thuận hơn tích, bởi nó xuất xứ từ trò chơi dân gian hay nghi lễ.
Thực tế, Múa rối nước dân gian Việt Nam đang có xu hướng hiện đại hóa và đang

mờ dần bản sắc, vì nó bị tác động bởi cơ chế thị trường, đồng thời không được
quản lý có định hướng rõ ràng. Cũng cần nhận thức rằng, không có nghệ thuật
truyền thống nào không được cải tiến và nâng cao mà có tác động trong thời hiện
đại, nhưng mọi cải tiến và nâng cao phải đảm bảo đặc tính tinh hoa của nó trong
mối quan hệ với bản sắc dân tộc, theo định hướng văn hóa của ta.
Múa rối nước dân gian đang tồn tại và phát triển tự do và tùy tiện, mạnh ai nấy
làm, theo nhận thức riêng của mình, theo khả năng nhân lực và tài chính cho phép.
Theo các nghệ nhân Múa rối nước ở Thái Bình, Nam Định, Hà Tây, Hà Nội… đều
cho rằng, còn hàng trăm trò diễn cổ chưa được khai thác, chưa được phát huy.
Bên cạnh đó bộc lộ một mâu thuẫn giữa những người làm Múa rối nước hiện đại ở
Trung ương với những nghệ nhân ở làng quê, là có nên xây dựng những sân khấu
thủy đình hiện đại thay thế cái ao làng như nó vốn có ở nông thôn hay không? Có ý
kiến cho rằng, Múa rối nước ở nông thôn chỉ nên diễn ở ao làng như ngày xưa,
người diễn thì lội dưới nước, người xem thì ngồi trên bờ ao, như thế mới là dân
gian, là môi trường và không khí của Múa rối nước làng xã. Ngược lại cho rằng, đã
đến lúc người nông dân có quyền ngồi trên ghế gỗ hoặc trên bậc xi măng trước mặt
hồ rộng để xem Múa rối nước, vì khi cuộc sống đã thay đổi thì người dân không
thể ngồi trên bãi cỏ để xem nghệ thuật như ngày xưa nữa.
Từ nhận thức đó, ở Thái Bình đã xây một sân khấu thủy đình hiện đại vào bậc nhất
nước. Tuy vậy, một số phường Múa rối nước dân gian ở Thái Bình vẫn diễn theo
hình thức sân khấu Múa rối nước truyền thống, tức là diễn ở các ao làng, có nghĩa
là ở địa phương này đang tồn tại hai hình thức, hai sân khấu Múa rối nước dân gian
và hiện đại.
Thật ra vấn đề đáng quan tâm ở đây không phải là diễn ở sân khấu dân gian (ao
làng), hay sân khấu thủy đình hiện đại như ở Nhà hát Múa rối Trung ương hoặc ở
Thái Bình, mà quan trọng hơn hết là nội dung của tiết mục và hình thức biểu diễn
có còn là Múa rối nước dân gian truyền thống hay không. Cũng như các loại hình


sân khấu truyền thống (Tuồng, Chèo, Ca trù, quan họ), nghệ thuật Múa rối nước

dân gian hiện không được đông đảo công chúng Việt Nam mặn mà lắm do không
thay đổi trò diễn và không nâng cao mỹ thuật quân rối và nghệ thuật biểu diễn…
Một nguyên nhân khác là việc tuyên truyền, giáo dục thẩm mỹ dân tộc cho công
chúng về Múa rối nước cũng chưa được quan tâm đúng mức, chưa làm cho người
ta thấy hết cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của Múa rối nước dân gian.
Phần 6: Giải pháp phát triển nghệ thuật múa rối nước
Múa rối nước dân gian ở khu vực đồng bằng Bắc bộ đang tồn tại và phát triển
nhưng cũng gặp phải những điều bất cập. Trên thực tế vẫn tồn tại những phường
Rối tuy vẫn duy trì hoạt động, nhưng thực chất lại là dập khuôn. Gần như hầu hết
các phường Múa rối nước trên toàn miền Bắc đều diễn một chương trình gần giống
nhau, đó là 16 trò Múa rối nước dân gian được rút ra từ phường Nguyên Xá ở Thái
Bình và phường Nam Chấn ở Nam Định. Trong khi đó hàng trăm trò diễn độc đáo
do nghệ sĩ dân gian sáng tạo trong hàng trăm năm qua, vẫn còn nằm im trong ký ức
của những người có nghề ở nông thôn, bởi những nghệ sĩ cao niên không thể diễn
được nữa, việc tạo hình con rối hiện nay cũng không nhất quán về phong cách. Sự
tản mạn, manh mún của phong trào Múa rối nước dân gian là nguyên nhân chính
của sự mai một và mất bản sắc dân gian trong môn nghệ thuật đặc sắc này.
-Do vậy, giải pháp đầu tiên đặt ra để bảo tồn và phát triển Múa rối nước dân gian
là phải tiến hành việc sưu tầm sân khấu Múa rối nước.
Những năm gần đây, công tác sưu tầm sân khấu Múa rối nước đã được quan tâm
hơn, nhưng thực chất vẫn chưa đáp ứng được tầm quan trọng của nó. Sưu tầm còn
mang tính tự phát của một số cá nhân hay của một vài cơ quan chức năng mang
tính hình thức chủ nghĩa. Có một nghịch lý: Chúng ta bỏ không biết bao nhiêu
công sức, của cải, thời gian khai quật, tìm tòi những di vật cổ trong lòng đất, trong
đáy đại dương nhưng lại bỏ quên những di tích, những cổ vật quý hiếm nằm rải rác
ngay xung quanh chúng ta, trong đó có múa rối nước.
Rất nhiều con rối cổ bị đem bán ra nước ngoài, một số còn lại, có những con rối
mang tuổi vài trăm năm, vẫn còn nằm im trong các làng quê, trong các góc đình
làng ẩm thấp. Những con rối ở nhà mồ Tây Nguyên, ở bản làng Đăklăk, ở Cao
Bằng, ở Hà Tây cũng đang cần đến những người sưu tầm. Nếu kéo dài tình trạng

này, việc phát huy Múa rối nước sẽ gặp nhiều khó khăn ngay từ khâu sưu tầm.


-Giải pháp thứ hai: Đẩy mạnh công tác đào tạo.
Từ trước tới nay, việc đào tạo trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Múa rối nói
chung tồn tại hai hình thức.
Đào tạo theo lối truyền nghề, đó là cách đào tạo truyền thống. Tất cả các phường
Rối cạn cũng như Rối nước tồn tại như một hình thức văn nghệ dân gian. Nó có
nhiều ưu điểm là người học nghề có khả năng bắt chước nhanh, thuần thục những
gì được học, nhưng khả năng tư duy, sáng tạo độc lập lại hạn chế, bởi chỉ được
truyền những kinh nghiệm và thủ thuật diễn một cách máy móc và dập khuôn.
Hình thức đào tạo theo trường lớp, học theo khung chương trình, có giáo án, giáo
trình, ngoài môn chuyên ngành còn phải học nhiều môn kiến thức cơ bản và liên
ngành khác. Vì vậy, học viên khi tốt nghiệp có khả năng tư duy và sáng tạo độc lập
theo ý đồ của đạo diễn cũng như của tập thể. Hình thức theo kiểu trường lớp này có
tính khoa học nhưng thực chất không có hiệu quả bằng lối đào tạo truyền nghề như
ở mô hình đào tạo truyền thống ở một số địa phương; cũng như Tuồng, Chèo
phương pháp đào tạo tại chỗ, cha truyền con nối là có hiệu quả hơn. Múa rối nước
là loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, từ xưa tới nay vẫn là truyền nghề là
chính, vì thế mà vai trò của nghệ nhân rất quan trọng: Nghệ nhân tạo hình con rối,
làm máy móc điều khiển con rối và biểu diễn.Vì thế phải quan tâm nhiều hơn nữa
trong việc sử dụng nghệ nhân, trong việc đào tạo lực lượng diễn viên Múa rối nước
trẻ. Đào tạo phải gắn với thực hành, nghĩa là phải tổ chức hoạt động biểu diễn
thường xuyên để diễn viên trẻ được thực hành, được nâng cao kỹ năng, được tiếp
cận thường xuyên với công chúng. Thực tế có một số phường Múa rối nước đào
tạo xong một lớp diễn viên rồi chỉ cho biểu diễn mấy buổi báo cáo rồi nghỉ kéo dài
vì không tổ chức biểu diễn được, trong khi sân khấu Múa rối nước phải thường
xuyên đến với quần chúng, vì đối tượng mà nó phục vụ cũng là nguồn động viên
cho nghệ thuật phát triển.
-Giải pháp thứ ba: Tăng cường đầu tư quan tâm của chính quyền địa phương và

nhà nước.
Để nghệ thuật Múa rối nước dân gian có thể tồn tại và phát triển theo định hướng
mà Nghị quyết 05 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, Nhà nước cần quan tâm và đầu tư thêm tài chính để nghệ thuật
Múa rối nước có sức tồn tại tự thân ngay ở trong làng, xã. Cuộc sống của những


người hoạt động Múa rối nước dân gian ở tình trạng bấp bênh thì họ không thể yên
tâm ngồi cạnh những cái ao làng lạnh lẽo với những con rối vô hồn mà họ phải
bươn chải, phải tự vận động theo cơ chế thị trường để tồn tại. Bên cạnh sự quan
tâm, tài trợ của Nhà nước, chúng ta phải thực hiện chính sách xã hội hóa đối với
Múa rối nước, để phục hồi những trò diễn cổ - vốn quý do nhiều thế hệ nghệ nhân
tài hoa sáng tạo ra và tiếp tục cho xây thêm một số Thủy đình biểu diễn Rối nước ở
địa phương.
-Giải pháp thứ tư: Thành lập tổ chức Hội chuyên ngành Múa rối nước
Lâu nay, ta chỉ mới có Hội sân khấu - Hội nghề nghiệp chung của nhiều bộ môn
sân khấu kết hợp lại. Chính vì thế, việc thành lập một Hội chuyên nghành múa rối
nước có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là một Hội chuyên ngành - Hội nghề nghiệp
những người hoạt động Múa rối nước, là chỗ dựa tinh thần để họ hành nghề trong
sự thống nhất và có điều kiện phát triển khả năng và truyền dạy kinh nghiệm cho
thế hệ sau.
Thành lập Hội Múa rối nước là một giải pháp tích cực đối với quá trình phục hồi
và phát triển Múa rối nước dân gian hiện nay. Khi đã có Hội, riêng hoạt động của
Múa rối nước dân gian sẽ không bị phân tán, không rơi vào tình trạng cha chung
không ai khóc, không bị cô lập, mà ngược lại mọi việc được tập trung hơn, đời
sống của nghệ nhân càng được đảm bảo. Đời sống nghệ nhân được ổn định thì
nghệ thuật nhất định sẽ được nâng cao. Dĩ nhiên, để được công nhận là nghệ nhân
đòi hỏi phải có năng khiếu, tài năng và sự lao động bền bỉ để nuôi dưỡng tay nghề
và không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật.
-Giải pháp thứ năm: Đẩy mạnh xây dựng sáng tạo ra các tiết mục múa rối mới.

Cùng với việc khai thác, phục hồi và biểu diễn những tích trò cổ, ngành Múa rối
nước cũng cần đẩy mạnh quá trình xây dựng những tiết mục biểu diễn hoàn toàn
mới. Hai quá trình này nên tiến hành song song, đồng thời. Kinh nghiệm rút ra từ
lịch sử nghệ thuật trong nước cũng như trên thế giới đã cho thấy rằng, sức sống của
một bộ môn nghệ thuật không chỉ thu lại ở phương diện bảo tồn và tiếp thu tinh
hoa của quá khứ mà còn thể hiện ở phương diện phát huy và phát triển loại hình
nghệ thuật đó trong thời đại mới. Nếu chỉ khoanh việc biểu diễn Múa rối nước
trong 16 trò quen thuộc thì đến một lúc nào đó sẽ trở nên nhàm chán cho người
xem và cả cho người tổ chức. Và như thế, vô tình trong ta làm xơ cứng, nghèo nàn


một di sản nghệ thuật truyền thống đặc sắc. Làm mới nghệ thuật Múa rối nước đòi
hỏi một tinh thần sáng tạo nghiêm túc và kiên trì. Mới nhưng vẫn mang đặc trưng
nghệ thuật Múa rối nước và phong cách dân gian truyền thống. Công việc này
trước tiên đặt lên vai các đoàn nghệ thuật múa rối chuyên nghiệp như là bước đột
phá mở đường để các phường rối dân gian học tập.
Múa rối nước không những là một bộ môn nghệ thuật mang tính tập thể cao, mà
còn thể hiện cái độc đáo trong cái độc đáo của bản sắc dân tộc. Nó là sản phẩm của
văn hóa nước vùng châu thổ Bắc Bộ, không thể lẫn vào đâu được. Nó đã trải qua
các khâu tìm tòi, cải tiến và điều chỉnh để nâng cao và đạt tới hiệu quả thẩm mỹ
cao nhất. Đến lượt hậu sinh tiếp nhận các di sản ấy, chúng ta lại vẫn tìm tòi, cải
tiến, điều chỉnh và nâng cao, để nghệ thuật thích nghi với thời đại, với định hướng
văn hóa của đất nước. Nguyên tắc đó đã trở thành nguyên lý xây dựng và phát triển
bộ môn nghệ thuật mà ta đang toàn tâm toàn ý trong việc bảo tồn và phát huy. Với
tinh thần đó, GS Vũ Khiêu trong công trình luận bàn về nghệ thuật (Anh hùng và
nghệ sĩ) đã có cái nhìn thấu đáo về biện chứng lịch sử của các sân khấu nghệ thuật
truyền thống; “không phải một cá nhân lỗi lạc nào đó đã bỗng nhiên tạo nên một
chiếc đàn bầu, một cây sáo trúc, một cái phách tre. Cũng không phải một ngày nào
đó bỗng xuất hiện những điệu trống quân, cò lả, quan họ, những giọng ca Huế, cải
lương, Bài chòi, những lời thơ lục bát du dương, những màu sắc đậm đà và giản dị

của tranh Tết…Tất cả những phương tiện đó là do tập thể của dân tộc ta sáng tạo,
được hoàn thiện không ngừng từ đời này qua đời khác”. Vì thế việc bảo tồn và phát
triển Múa rối nước dân gian đòi hỏi sự chung tay góp sức của toàn xã hội. Có như
vậy Múa rối nước mới thực sự xứng đáng là một loại hình nghệ thuật đặc sắc có
tuổi đời hàng ngàn năm, hội nhập và hòa vào sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong
giai đoạn hiện nay.
Phần mở rộng trả lời cho câu hỏi: “Tại sao rối nước trở thành đặc sản và chỉ
quanh quẩn ở ta thôi ?”.
Tại Ấn Độ và các nước Đông Nam Á, chỉ có rối tay, rối que và rối dây. Còn múa
rối nước thì chỉ gặp ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo giáo sư J. Pim-pa-ne-au,
múa rối nước đã biến mất ở Trung Quốc và ngày nay “chỉ còn tồn tại ở Việt Nam”.
Múa rối nước là loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa lúa nước. Do tính đặc
sắc, nên từ nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã nhanh chóng trở


thành nghệ thuật truyền thống, có thể sánh ngang với tuồng, chèo là những bộ môn
nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc.
Múa rối có ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng múa rối nước thì chỉ duy nhất có
ở Việt Nam.
Múa rối nước là một sáng tạo độc đáo của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, được
manh nha từ công cuộc chế ngự, cải tạo nước. Rối nước thường được diễn vào
những ngày nông nhàn, ngày xuân, trong các lễ hội. Thông qua các câu chuyện
được nghệ sỹ rối nước thể hiện, người xem sẽ cảm nhận được sắc thái của hội làng,
gửi gắm vào đó những mơ ước bình dị cho cuộc sống.
Văn hoá Việt Nam mang cội nguồn và bản sắc của một nền sản xuất nông nghiệp,
chủ yếu là lúa nước. Tác dụng tổng hòa của người – trời – đất đã tạo nên nền nông
nghiệp với những cộng đồng định cư thành làng xã từ hàng nghìn năm trước. Cư
dân này đã từ trồng lúa nước, tạo nên nền văn minh trồng lúa nước: nền văn minh
sông Hồng; nền văn minh Việt Nam cổ xưa này đã tạo nên thế quân bình bền vững
của nền văn hoá xóm làng, giữa con người với tự nhiên. Kỹ thuật sử dụng trong

nghề trồng lúa nước và các ngành nghề phụ quanh nó, một phần văn hoá nối liền
con người với tự nhiên đã góp phần chủ yếu vào sự hình thành nghệ thuật rối
nước.Dùng nước làm sâu khấu cho quân rối hoạt động là đặc điểm độc đáo của
nghệ thuật rối nước. Nước không chỉ là nơi quân rối làm trò đóng kịch mà còn là
yếu tốc cộng minh, cộng sinh, cộng hưởng. Nước vừa cản trở vừa hỗ trợ, phối với
với quân rối. Nước không chỉ là môi trường, là khung cảnh mà còn như “thầy phù
thuỷ” có nhiều phép thần thông biến hoá đối với nghệ thuật biểu diễn rối.



×