CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
- Nguyễn Tuân A. KHÁI QUÁT
1. Tác giả
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những đóng góp
xuất sắc trong cả 2 giai đoạn trước và sau năm 1945. Nguyễn Tuân có phong cách
nghệ thuật độc đáo, trong đó nổi bật nét tài hoa uyên bác, ông chủ yếu khám phá
và miêu tả con người ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
2. Tác phẩm
2.1. Xuất xứ
- “Chữ người tử tù” là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập “Vang bóng một
thời” (1940), trong đó gồm truyện ngắn viết về những thú vui tao nhã, những vẻ
đẹp xa xưa nay chỉ còn vang bóng, những giá trị văn hố cổ truyền nay đã lạc long,
lẻ loi.
- Tập truyện ngắn ra đời trong thời kỳ thực dân nửa phong kiến những chế
độ phong kiến suy tàn, Hán học suy vị, những Nho sĩ cuối mùa đã trở thành lạc
lõng đành bất lực buông xuôi và bất mãn sâu sắc với trật tự xã hội đương thời. Là
những con người tài hoa bất đắc chí, họ cố giữ cái tơi tài hoa, ngơng ngạo cùng
thiên lương trong sạch, cao khiết của mình để đối lập với cái thế giới phàm tục
xung quanh. Ca ngợi tiếc nuối những vẻ đẹp trong quá khứ cũng là cách bày tỏ thái
độ bất hoà sâu sắc với chế độ XH đương thời, và do đó cũng là sự thể hiện kín đáo
lịng u nước của nhà văn. Tập truyện ngắn là kết tinh tâm huyết của Nguyễn
Tuân thời kỳ trước 1945.
2.2. Nhân vật chính và nguyên mẫu
Nhân vật chính của truyện ngắn là Huấn Cao, có ngun mẫu là Cao Bá
Quát, người đã từng giữ chức Huấn đạo trong triều đình phong kiến nhà Nguyễn.
1
Cao Bá Quát là người văn hay, chữ tốt nổi tiếng; cũng là con người ngang tàng
nghĩa khí với quan niệm: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Với nguyên mẫu xuất
sắc ấy, Huấn Cao vừa có nét chung với thế giới nhân vật tài hoa, tài tử trong “Vang
bóng một thời”, vừa có nét riêng độc đáo, đó là kiểu nhân vật nổi loạn chống lại
trật tự XH phong kiến với khí phách hiên ngang, với ý chí kiên cường, bất khuất.
Huấn Cao là nhân vật thể hiện rõ nét nhất PCNT của Nguyễn Tuân trước Cách
mạng tháng 8/1945.
2.3. Tình huống truyện
Trong truyện ngắn CNTT, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành cơng một tình
huống truyện độc đáo. Đó là tình huống được tạo lập bởi cuộc kì ngộ giữa Huấn
Cao và quản ngục. Về bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối nghịch: Huấn Cao bị coi
là kẻ “đại nghịch”, cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, đã bị bắt giam,
đang chờ ngày ra pháp trường chịu án tử hình; quản ngục lại là người cai tù, đại
diện cho bộ máy cai trị tàn bạo, hà khắc của triều đình, đang trực tiếp coi giữ kẻ tử
tù là Huấn Cao. Nhưng khi hiện trong ngòi bút của Nguyễn Tuân, cả 2 con người
đối địch ấy lại được khám phá, miêu tả ở cùng một bình diện, đó là vẻ đẹp của
những con người có tâm hồn nghệ sĩ. Huấn Cao là người có vẻ đẹp tài hoa, khí
phách và thiên lương cao q, cịn quản ngục lại là người biết yêu cái đẹp, biết
trọng người tài. Trên bình diện nghệ thuật, họ thực sự là những người tri âm – tri
kỷ. Nguyễn Tuân đã đặt họ vào chốn tù ngục tối tăm, dơ dáy, tạo nên cuộc gặp gỡ
thật kỳ lạ để qua tâm tư, thái độ và cách ứng xử mà làm nổi bật vẻ đẹp trong tâm
hồn, tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm và quan điểm thẩm
mỹ của nhà văn.
B. TÌM HIỂU TÁC PHẨM
2
ĐỀ 1: Phân tích hình ảnh nhân vật quản ngục trong truyện ngắn CNTT của
Nguyễn Tuân để làm rõ một trong những đặc điểm PCNT của nhà văn thường
khám phá con người ở phương diện tài hoa – nghệ sĩ.
MB
- Tác giả (A.1)
- CNTT là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập “Vang bóng một thời” (1940).
Bên cạnh Huấn Cao là nhân vật chính được nhà văn tập trung miêu tả vẻ đẹp
tài hoa, khí phách và thiên lương cao quý, quản ngục chỉ là một người coi tù,
nhưng khi hiện lên trong ngòi bút của Nguyễn Tuân, quản ngục lại được
khám phá, miêu tả trong vẻ đẹp của con người có tâm hồn nghệ sĩ, là người
biết yêu cái đẹp, biết trọng người tài. Nhân vật quản ngục đã góp phần thể
hiện sâu sắc tư tưởng chủ đề của tác phẩm, PCNT cũng như quan niệm thẩm
mỹ của nhà văn.
TB
Trong truyện ngắn CNTT, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành cơng một tình huống
truyện độc đáo, đó là cuộc kì ngộ giữa quản ngục và Huấn Cao trong nhà giam tỉnh
Sơn Đông. Vẻ đẹp của nhân vật quản ngục đã được khắc hoạ sinh động qua diễn
biến tâm tư cũng như cách ứng xử của ơng trước cảnh kì ngộ với Huấn Cao.
1.
- Khi nghe tin Huấn Cao sắp đến trong đồn tử tù, quản ngục đã thăm dị
quan thơ lại một cách thận trọng và kín đáo nhưng vẫn khơng giấu nổi thái độ kính
nể và sự ngưỡng mộ với cái “tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của một kẻ phản
nghịch chống lại triều đình “có tiếng là nguy hiểm”. Có thể nhận thấy điều đầu tiên
trong ấn tượng của quản ngục chính là “tài chữ”. Con người quản ngục đã phần
nào được hé mở khi ông ta quan tâm đến Huấn Cao không phải về quan điểm
chính trị hay sự nguy hiểm mà trước hết là ở phương diện tài hoa – đây cũng là sự
thể hiện nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn luôn khám phá
con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
3
- Sự ngưỡng mộ nể trọng của quản ngục với Huấn Cao còn được bộc lộ qua
ý định biệt đãi một con người tài hoa, vĩ đại khi quản ngục nhắc thơ lại cho ngục
tốt quét dọn lại cái buồng trong cùng, dù là ý định đó đã được ngục quan khoả lấp
bằng sự thanh minh vụng về.
2. Đêm đợi tù
Con người quản ngục đã thể hiện rõ nét hơn trong dáng vẻ, tâm tư của ông trong
đêm đợi tù
- Trong bóng đêm thăm thẳm quạnh quẽ của phịng giam, quản ngục “băn
khoăn ngồi bóp thái dương nghĩ ngợi và trăn trở”. Trong cái nhìn tư lự của
quản ngục, hình ảnh “ngơi sao chính vị nhấp nháy trên bầu trời” ít nhiều có
mối quan hệ với tâm trạng thao thức, chờ đợi của ơng ta đêm nay. Có lẽ vì sự
ngưỡng mộ trọng nể của quản ngục với Huấn Cao đã nhập hình ảnh người tử
tù vĩ đại sắp vĩnh biệt cuộc đời với ngôi sao hôm “sắp từ biệt vũ trụ”.
- Hình ảnh “chiếc án thư sơn son thiếp vàng” nay “vàng đã nhạt, son đã mờ”,
“đĩa dầu ở trên cây đèn nến” vơi dần mực được nhắc lại đến 2 lần cùng chi tiết
miêu tả quản ngục “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu” gợi cảm giác xót
xa: quản ngục đã trải qua gần hết cuộc đời ở nơi ngự trị của cái xấu, cái ác,
công việc xấu xa độc ác đã giam cầm chính cuộc đời lương thiện của ông.
Trong chốn tối tăm dơ dáy ấy, quản ngục ln thấy mình cơ độc, chia sẻ
những tâm tư cùng ông đêm nay chỉ là những đồ vật cũ kĩ, tàn tạ cùng ngọn
đèn leo lét.
- Hình ảnh những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự bây giờ đã biến mất hẳn
càng cho thấy quản ngục phải sống 2 vai trong 2 cuộc đời. Ban ngày là quản
ngục mẫn cán với những công việc độc ác, xấu xa, ban đêm lại trở về với
những cõi riêng của những suy nghĩ, trăn trở. Những hình ảnh so sánh về
gương mặt như “mặt nước ao xuân bằng lặng, kín đáo, êm nhẹ”, “về những
cái thuần khiết giữa một đống cặn bã” đã cho thấy đồng thời cả vẻ đẹp thanh
4
sạch và bi kịch bất hạnh của một kẻ chọn nhầm nghề. Sự kiện Huấn Cao sắp
tới sẽ là dịp để quản ngục nhìn lại rõ lịng mình cùng tình cảnh đáng buồn của
cuộc đời mình.
- Những xét đốn của quản ngục về tính cách thơ lại cho thấy sự sâu sắc, từng
trải của ông. Quản ngục đã đánh giá nhân cách con người qua tính cách của
họ, lấy tiêu chí “biết kính mến khí phách…biết tiếc, biết trọng người có tài để
phân định tốt xấu, vơ tình hay hữu tình…”. Từ tiêu chí nhìn người mà thấy
được chính xác người quản ngục, một thanh âm trong trẻo thuần khiết giữa
một chốn xô bồ, cặn bã. Và thực ra, đây cũng chính là tiêu chí nhìn người của
Nguyễn Tn - một nhà văn luôn quan sát, khám phá, miêu tả con người ở
phương diện tài hoa, nghệ sĩ, ở lòng kính mến, trân trọng với cái đẹp, người
tài.
3. Nhân cách của quản ngục mỗi lúc một hiện rõ trong cảnh đón Huấn Cao sáng
hơm sau. Ngay khi nhận tù nhân quản ngục đã thể hiện lịng kính nể tuy cố giữ kín
đáo mà cũng đã rõ quá. Trong ánh mắt hiền lành, trong sự “biệt nhỡn” với riêng
Huấn Cao – thái độ khiến cho “bọn lính lấy làm lạ” cịn tử tù thì ngạc nhiên. Con
người thực trong quản ngục đã vơ tình bộc lộ bởi sự kính trọng khơng thể che giấu
với Huấn Cao, nhờ đó người đọc nhận ra rằng tất cả những dặn dò sự vụ, những đe
nẹt, thậm chí cả những “mánh khoé hành hạ như thường lệ” với tù nhân có lẽ chỉ là
tấm bình phong để quản ngục giữ mình cho an tồn, n ổn trong hoàn cảnh đề ra,
nơi con người sống với nhau bằng những “tàn nhẫn, lừa lọc”.
4. Cách biệt đãi Huấn Cao
Suốt nửa tháng trời Huấn Cao ở nhà lao quản ngục chân thành, cung kính, biệt đãi
Huấn Cao
- Nguyên nhân sự biệt đãi ấy xuất phát từ sự kính trọng và yêu mến sâu sắc của
quản ngục với tài văn và khí phách của Huấn Cao, muốn giúp cho Huấn Cao
đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại. Việc làm này có thể coi là một
5
hành động dũng cảm của một viên tiểu lại giữ tù dám bất chấp luật pháp, đảo
lộn trật tự hà khắc của nhà tù, biến kẻ tử tù – tội phạm chống lại triều đình
thành thần tượng để cung phụng, tơn kính.
- Mặc dù Huấn Cao tỏ thái độ cao ngạo, khinh bỉ, hằng ngày quản ngục vẫn sai
người đem đến rượu và thức nhắm, dáng vẻ khép nép; trước thái độ khinh bạc
đến điều của ông Huấn Cao, quản ngục khơng những khơng ốn thù mà cịn
nhẫn nhục vâng lời, không bao giờ dám xuất hiện trước mặt ông Huấn. Có thể
thấy, quản ngục q hiểu khí phách của con người trọc trời khuấy nước, càng
hiểu rằng trong con mắt của Huấn Cao, ông ta chỉ là một gã tiểu lại coi tù
“hèn mọn”. Quản ngục đã xếp thứ hạng người trong XH khơng phải bằng
những tiêu chí thơng thường của đẳng cấp hay cảnh ngộ mà bằng tài hoa, khí
phách của họ; và với tiêu chí ấy quản ngục nhận thức sâu sắc sự hèn kém của
mình khi đứng trước Huấn Cao “một người cách xa y nhiều quá”. Nhưng thái
độ khép nép nhẫn nhục lại không hề hạ thấp con người quản ngục mà chỉ càng
khiến người đọc hiểu thêm vẻ đẹp trong nhân phẩm của ông theo đúng cách
ơng nhìn nhận thơ lại “một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết
trọng người tài hẳn khơng phải là kẻ xấu hay vơ tình”; thậm chí sự khép nép
nhẫn nhịn của quản ngục cịn có thể coi là tư thế “Đê thủ bái mai hoa”, tư thế
đáng kính trọng của những con người biết cúi đầu trước sự cao khiết của hoa
mai, trước cái Đẹp.
- Càng hiểu tầm vóc và khí phách con người Huấn Cao cũng như thân phận hèn
mọn của mình, quản ngục càng khổ tâm vì một nỗi niềm riêng chưa thể bày
tỏ. Từ lâu, sở nguyện của quản ngục là được treo ở nhà riêng mình một đơi
câu đối do tay ông Huấn viết. một gã tiểu lại giữ tù mà khao khát, mong mỏi
được sở hữu, chiêm ngưỡng chữ ông Huấn, lại coi đó là “một báu vật trên
đời” – sở thích và quan niệm ấy đã tách quản ngục ra khỏi môi trường sống
tầm thường chốn đề lao dơ dáy, lọc lừa, thể hiện nhân cách thanh sạch, cao
6
q của ơng. Nỗi mong mỏi có được chữ ơng Huấn, “sự khổ tâm” khi có
Huấn Cao ở trong tay mà lại không đủ “can đảm” đáp lại mặt một người cách
xa nhiều quá. Cảm giác bồn chồn sợ hãi khi mai mốt ơng Huấn bị hành hình
mà khơng kịp xin được mấy chữ thì “ân hận suốt đời mất”; tất cả những nỗi
niềm day dứt khổ sở ấy đã thể hiện sự trân trọng, kính mến vơ cùng với cái
đẹp và người Tài.
5. Khi nghe tin ngày mai ông Huấn Cao vào kinh lĩnh án “viên quản ngục tái nhợt
người”. Đó là nét mặt của một người sợ hãi và xúc động đến cực điểm, trước hết
đó là sự thương tiếc Huấn Cao, sau là nỗi tiếc hận đau đớn khi ám tử hình sẽ mang
cả Huấn Cao và những báu vật mà quản ngục khao khát cả cuộc đời vào cõi hư vơ.
Tình huống khắc nghiệt ấy đã đẩy quản ngục vào chỗ phải bỏ qua cả sự kín đáo và
thận trọng vốn có để bộc lộ nỗi lòng, cũng là sở nguyện “lớn lao cao quý của thơ
lại, để rồi qua thơ lại, tấm lòng của quản ngục đã may mắn khiến Huấn Cao cảm
động và đồng ý cho chữ”. Với thái độ biệt nhỡn liên tài, quản ngục đã được Huấn
Cao xếp vào hàng những người tri âm tri kỷ, được Huấn Cao coi đó là “một tấm
lòng trong thiên hạ”.
6. Trong đêm xin chữ
Trong đêm cuối cùng khi Huấn Cao đồng ý cho chữ, quản ngục đã được miêu tả
trong tư thế khúm núm và sau đó, khi nghe lời dạy cuối cùng của Huấn Cao, quản
ngục “cảm động vái người tử tù một vái, chắp tay nói một câu mà dịng nước mắt rỉ
vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Trước hết đây
là tư thế, dáng vẻ của một con người yêu mến cái đẹp, sẵn sàng liều lĩnh để được
một lần chiêm ngưỡng và sở hữu cái đẹp. Nhưng qua vẻ xúc động mãnh liệt của
quản ngục, người đọc cịn có thể nhận ra sự cao q đáng trân trọng trong tâm hồn
ơng. Có được chữ của ơng Huấn cũng là có được báu vật quản ngục khao khát suốt
cuộc đời, vậy mà người ta không thấy sự mãn nguyện vui sướng, chỉ thấy nỗi đau
xót tiếc thương cho một nhân cách vĩ đại sắp vĩnh biệt cuộc đời. Hoá ra cái mà
7
quản ngục tôn thờ, ngưỡng mộ không chỉ là cái đẹp của nghệ thuật mà hơn hết là
cái đẹp của tài năng, nhân cách và thiên lương, những vẻ đẹp tập trung trong hình
ảnh Huấn Cao – người tử tù vĩ đại. Người đọc đã nhận ra ở quản ngục một nhân
cách đáng kính trọng khi biết yêu quý, ngưỡng mộ người tài và cái đẹp, lại càng
trân trọng quản ngục hơn khi chứng kiến sự đau xót, tiếc nuối của ông trong đêm
cuối cùng tiễn biệt Huấn Cao.
KL
Thông qua những nét miêu tả về ngoại hình, dáng vẻ đầy ấn tượng, qua
những dòng độc thoại nội tâm chân thực, qua việc khắc hoạ nhân vật trong một
tình huống độc đáo… nhân vật quản ngục đã được thể hiện với sở thích cao q và
thanh khiết, với lịng u mến cái đẹp và kính trọng người tài. Như vậy, tuy khơng
phải là nhân vật chính, với vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ, quản ngục vẫn là nhân vật được
Nguyễn Tuân khám phá trong phương diện tài hoa nghệ sĩ bởi tấm lòng “biệt nhỡn
liên tài”, là nhân vật thể hiện những quan điểm nghệ thuật độc đáo, tích cực của
nhà văn về con người và nghệ thuật.
ĐỀ 2: Phân tích hình ảnh nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử
tù” để làm rõ nét một trong những đặc điểm phong cách nghệ thuật của một
nhà văn thường khám phá con người trên phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
MB:
- Tác giả
- Tác phẩm “Chữ người tử tù” là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập “Vang
bóng một thời” (1943). Huấn Cao là nhân vật chính của truyện ngắn, là nhân
vật lí tưởng theo quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân khi trong Huấn
Cao hội tụ tất cả những vẻ đẹp tài hoa, khí phách và thiên lương.
TB:
8
1. Huấn Cao xuất hiện trong tác phẩm trước hết là một con người tài hoa và
trong “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân phác họa vẻ đẹp tài hoa của nhân vật
này chủ yếu trong nghệ thuật thư pháp.
a) Nghệ thuật thư pháp
Tính chất tượng hình và những tầng ý nghĩa sâu xa, hàm súc đã khiến người xưa
đưa việc viết chữ nho lên thành một môn nghệ thuật, một thú chơi tao nhã, đó là
nghệ thuật thư pháp. Vẻ đẹp của thư pháp thốt ra từ hình thức, đường nét cho tới
nội dung, ý nghĩa của chữ. Người viết chữ không chỉ thể hiện tài hoa trong những
nét chữ “phượng múa rồng bay” (Vũ Đình Liên) mà chủ yếu nhằm gửi gắm, bộc lộ
những hoài bão, tâm niệm, những khát vọng, ý chí, những cách sống, cách nghĩ
của mình qua ý nghĩa của chữ. Do vậy, chiêm ngưỡng chữ là chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của cả tài hoa, tâm hồn và khí phách.
b) Tài viết chữ
- Tài năng trong nghệ thuật thư pháp của Huấn Cao được Nguyễn Tuân thể
hiện bằng nhiều cách. Đầu tiên là gián tiếp qua những lời đồn đại. Huấn Cao chưa
đến mà tên tuổi và danh tiếng của ông đã đến trước trong sự ngỡ ngàng của quản
ngục: Bình sinh ơng mới chỉ viết 2 bộ tứ bình và một bức trung đường cho 3 người
bạn thân, vậy mà cả vùng Tĩnh Sơn đã biết về cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp
của ông. Chữ của Huấn Cao còn được miêu tả trong lời ca ngợi và niềm mong mỏi,
khát khao của quản ngục: “Chữ ơng Huấn Cao đẹp lắm, vng lắm… Có được chữ
ơng Huấn mà treo là có được một báu vật trên đời”. Vẻ đẹp trong đường nét và ý
nghĩa của chữ cịn được chính Huấn Cao khẳng định. Đó là “những nét chữ vng
tươi tắn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
- Và cũng chính tài năng phi thường, xuất chúng của Huấn Cao đã lí giải
được vì sao quản ngục lại kính trọng ơng đến thế, thậm chí dám bất chấp nguy
hiểm để biệt đãi, để thổ lộ nỗi lòng. Và cuối cùng, vứt bỏ cả sự thận trọng vốn có
để vào phòng giam xin chữ tử tù, mong được lưu giữ báu vật trên đời. Tài hoa của
9
Huấn Cao đã khiến cho chữ của ơng thậm chí cịn q giá hơn cả mạng sống của
con người.
2. Khơng chỉ tài hoa, ơng cịn có cả khí phách ngang tàng.
Theo nhan đề truyện ngắn, Huấn Cao là một tử tù, theo công văn nhận tù, Huấn
Cao là “người đứng đầu bọn phản nghịch chống lại triều đình”. Nhìn ở góc độ của
nhân dân, Huấn Cao là đấng trượng phu “trọc trời khuấy nước”, “là con người
dũng cảm, ngang tàng, dám đứng lên chiến đấu chống lại cả một thể chế xã hội tàn
bạo, bất công”.
- Ngay khi vừa xuất hiện, Huấn Cao đã gây một ấn tượng mạnh cho người
đọc trong chi tiết ông dỗ gông trước cửa nhà lao: “Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi
gơng nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh
thuỳnh một cái”. Nét mặt lạnh lùng, cử chỉ dứt khoát, mạnh mẽ, âm thanh của đầu
chiếc thang gông đập xuống thềm đá và hình ảnh trận mưa rệp trên nền đá xanh…
Đó là những chi tiết đầy ấn tượng của một vị thủ xướng ngạo ngược, ngang tàng.
Thái độ ngạo nghễ ấy cho thấy Huấn Cao có thể làm bất kỳ điều gì ơng muốn, ở
bất cứ đâu, trong bất cứ lúc nào mà hồn tồn khơng hề đếm xỉa đến phản ứng của
ngục quan hay bọn lính.
- Suốt nửa tháng ở nhà lao mới, trước cách cư xử kì lạ của quản ngục, dù có
ngạc nhiên, Huấn Cao vẫn “thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm
trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Tuy nhiên, nhận biệt đãi mà vẫn
“khinh bạc đến điều”. Huấn Cao không quan tâm đến bất kỳ ẩn ý nào có thể giấu
bên trong cách cư xử của quản ngục, cũng khơng quan tâm đến bất kì sự trả thù
nào sau khi sỉ nhục y. Với Huấn Cao, dù là dụ dỗ, mua chuộc hay trả thù cũng chỉ
là vơ nghĩa.
- Bản lĩnh và khí phách của Huấn Cao đã thể hiện rõ nét trong cảnh cho chữ
cuối cùng. Khơng chỉ tư thế đĩnh đạc, đường hồng, chỉ riêng việc Huấn Cao dành
đêm sống cuối cùng của mình bình thản viết chữ, cho chữ và khuyên bảo quản
10
ngục, cứu vớt một con người đã cho thấy ông đứng trên mọi sự sống chết ở đời. Và
đó là một trong những biểu hiện rõ nhất của khí phách.
3. Tài hoa và khí phách khiến Huấn Cao được người đời kính trọng, nhưng có
lẽ ơng sẽ khơng thể được yêu quý, ngưỡng mộ và nể trọng đến thế nếu khơng
có một tấm lịng nhân hậu, khơng biết trân trọng nhân cách, nghĩa tình.
- Huấn Cao có tài viết chữ nhưng ơng đã khẳng định: “Ta nhất sinh khơng
vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Với ông Huấn, mỗi
bức tranh chữ là một tác phẩm nghệ thuật quý giá, và nghệ thuật chân chính bao
giờ cũng là một thế giới thanh sạch, cao khiết, khơng có chỗ cho danh lợi, càng
khơng chấp nhận sự hèn đớn, đây cũng là quan điểm của chính Nguyễn Tuân, ông
luôn đối lập nghệ thuật với vụ lợi. Lời khẳng định của Huấn Cao cho thấy tiết tháo
trong sạch, kiên cường của một nhà nho tài hoa, tài tử, coi thường cả những cám
dỗ vật chất lẫn sức mạnh của cường quyền.
- Quản ngục chỉ là viên tiểu lại giữ tù mà Huấn Cao từng “khinh bạc đến
điều”, là kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội xấu xa, tàn ác mà Huấn Cao chiến đấu
chống lại, nhưng quản ngục cũng là người khao khát có được “báu vật trên đời” là
“chữ ông Huấn”. Huấn Cao đã ngạc nhiên và bận tâm về sự biệt đãi của quản ngục,
tới khi biết được tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và sở thích cao q của quản ngục
thì Huấn Cao thực sự xúc động. Con người đứng trên mọi sự sống chết ở đời, con
người coi thường cả “vàng ngọc và quyền thế”, con người luôn cao ngạo và ngang
tàng ấy đã phải thốt lên trong tiếng than ân hận: “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy với Huấn Cao, điều quan trọng nhất trong cuộc
đời chính là tấm lịng, và người biết trân trọng tấm lịng chắc chắn cũng phải có
một tấm lòng. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được nâng lên rất nhiều khi ơng
khơng chỉ có tài hoa khí phách mà cịn có lịng u cái thiện, biết trân trọng thiên
lương của con người.
11
- Từ vị trí là kẻ thù, Huấn Cao đã coi quản ngục là người tri kỷ, đã nhập
quản ngục vào hàng những người bạn thân của mình khi đồng ý cho chữ. Có thể
thấy Huấn Cao khơng chỉ q trọng cái đẹp, ơng cịn q trọng những con người
biết u, biết trân trọng cái đẹp. Chính tấm lịng của Huấn Cao đã đem đến cho ông
một vẻ đẹp trọn vẹn, hoàn mỹ, vẻ đẹp của thiên lương cao quý. Vốn là nhà văn
mang đậm thiên lương duy mỹ trong nghệ thuật nhưng trong truyện ngắn “Chữ
người tử tù”, Nguyễn Tuân đã đem đến một quan niệm thẩm mỹ tích cực, tiến bộ,
gửi gắm qua nhân vật Huấn Cao. Cái tài phải gắn liền với cái tâm, cái đẹp phải gắn
liền với cái thiện.
4. Tất cả những vẻ đẹp tài hoa, khí phách và thiên lương của nhân vật Huấn
Cao được miêu tả tập trung rõ nét nhất trong cảnh cho chữ cuối cùng (xem đề
3).
KL:
1. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” với nhân vật Huấn Cao đã thể hiện đậm nét
phong cách nghệ thuật của tác giả “Vang bóng một thời”. Từ việc xây dựng hình
tượng nhân vật tài hoa, nghệ sĩ đến việc phát huy cao nhất bút pháp tương phản
trong miêu tả, từ nghệ thuật xây dựng tình huống đến cách tạo ra khơng khí cổ xưa
cho tác phẩm, từ việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, có nhịp điệu đến việc tơ
đậm những tính cách phi thường, xuất chúng, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
2. Ca ngợi vẻ đẹp của Huấn Cao, con người hội tụ đồng thời cả hoa, khí phách và
thiên lương, truyện ngắn vừa thể hiện quan niệm thẩm mỹ tiến bộ của Nguyễn
Tuân vừa lên án một xã hội tàn bạo, phi nhân tính, khơng dung nạp cái đẹp, không
chấp nhận người tài. Đây cũng là cách để nhà văn kín đáo bày tỏ sự bất bình với
trật tự xã hội đương thời.
ĐỀ 3: Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” để làm rõ
phong cách nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Tuân.
12
MB:
- Tác giả
- Tác phẩm: “Chữ người tử tù” là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập “Vang
bóng một thời”. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ đã khắc họa sâu đậm hình
tượng nhân vật Huấn Cao với những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách, thiên
lương. Đây cũng là đoạn văn thể hiện đậm nét phong cách nghệ thuật đặc
sắc của Nguyễn Tuân thời kỳ sáng tác trước 1945.
TB:
Cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân khẳng định là: “cảnh tượng xưa nay chưa từng
có”. Cảnh tượng phi thường ấy đã được miêu tả bằng bút pháp tương phản và cảm
hứng lãng mạn nhằm tôn vinh cái đẹp, cái thiện trong khơng khí trang trọng, cổ
kính của cảnh cho chữ. Vẻ đẹp tài hoa, khí phách và thiên lương của Huấn Cao đã
được tập trung miêu tả sinh động, gợi cảm và tỏa sáng rực rỡ. Quả thật, đây là một
“cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự xuất hiện những yếu tố tương phản đầy
ấn tượng.
1. Bao trùm trong cảnh cho chữ là sự tương phản của tình huống sáng tạo
nghệ thuật.
Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo tự do, nay người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô
từng nét chữ lại là một tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”. Nghệ thuật giúp
cho cái đẹp bất tử nhưng người sáng tạo nghệ thuật lại đang ở điểm cuối cùng của
cuộc đời, chỉ sớm mai, người phải vào kinh lĩnh án tử hình! Nghịch lý xót xa ấy
khiến cái đẹp càng trang trọng, thiêng liêng. Đó cũng là nguyên nhân tạo ra tâm thế
kỳ lạ của các nhân vật. Hoàn thành việc cho chữ và xin chữ mà người cho không
sung sướng, người xin khơng mãn nguyện, cả hai phía đều ngậm ngùi, buồn bã.
Hình ảnh “lửa” rụi xuống nền đất ẩm phịng giam, tàn lửa tắt nghe “xèo xèo” sau
khi Huấn Cao hoàn thành việc viết chữ đã gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về
sự lụi tắt, không chỉ của lửa đóm mà cịn của một sinh mệnh vĩ đại.
13
2. Sự tương phản cịn xuất hiện trong hồn cảnh viết chữ của Huấn Cao.
Người nghệ sĩ thư pháp thường viết chữ ở những thi phòng thanh sạch, cao khiết
với bạch hạc, hương trầm,… nay Huấn Cao cho chữ quản ngục trong “một buồng
tối chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” và
chính trong sự tương phản này ại hàm chứa những tương phản khác mang ý nghĩa
sâu sắc. “Khói tỏa như đám cháy nhà” xua đi xú uế, ánh đuốc đỏ rực xua đi tối
tăm, sự thanh khiết cao quý tỏa ra từ “tấm lụa trắng tinh”, từ mùi thơm của chậu
mực xua đi tất cả những tầm thường, dơ dáy chốn ngục tù.
3. Sự tương phản trong vị thế của Huấn Cao với quản ngục
- Trong đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân nhiều lần dùng hai
chữ “người tử tù” để gọi Huấn Cao. Có lẽ đây cũng là dụng ý khắc họa đậm nét sự
tương phản. Người tử tù cổ đeo gơng, chân vướng xiềng thì uy nghi, đường hoàng,
hiên ngang, đĩnh đạc viết chữ, dạy bảo và khuyên nhủ ; những người có nhiệm vụ
giữ tù như thơ lại thì run run bưng chậu mực cịn quản ngục thì „khúm núm cất
những đồng tiền kẽm đóng dấu ơ chữ đặt trên phía lụa óng”, thậm chí người tù sau
khi viết xong còn “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy” và ngục quan sau khi
nhận được chữ và những lời khuyên bảo thì “cảm động vái người tử tù một vái”.
- Trước cái đẹp, cái thiện, mọi trật tự thông thường của nhà tù đã bị đảo lộn:
khơng cịn người tù và kẻ coi tù, chỉ có Huấn Cao – người cho chữ, người sáng tạo,
ban phát cái đẹp và quản ngục, thơ lại – người xin chữ, người chiêm ngưỡng va
may mắn được tiếp nhận cái đẹp – trật tự giữa họ được thiết lập hoàn tồn theo tiêu
chí của cái đẹp, cái thiện.
- Cái đẹp, cái thiện, cái cao cả đã chiến thắng và tỏa sáng. Bóng tối dơ dáy
của ngục tù đã phải nhường chỗ cho ánh sáng của cái đẹp cao khiết, của thiên
lương trong sáng. Chi tiết Huấn Cao “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”
mang một ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: Huấn Cao đã không chỉ sáng tạo, ban phát cái đẹp
mà thơng qua sức mạnh kì diệu của cái đẹp, Huấn Cao còn cứu cả một con người.
14
Hình ảnh: “ngục quan cảm động vái người tử tù một vái, chắp tay nói một câu mà
dịng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái
lĩnh.” là sự minh chứng rõ nét nhất cho sức mạnh cảm hóa của cái đẹp, cũng như
sự khẳng định của một nhà văn nước ngoài: “Cái đẹp sẽ cứu thế giới”.
- Hình ảnh một bó đuốc được tẩm dầu rọi lên ba cái đầu của người đang
“chăm chú trên một tấm lụa bạch” cho thấy lòng yêu quý và trân trọng cái đẹp đã
xóa đi mọi khoảng cách giữa những con người vốn là đối địch. Họ đã cùng nhau
hình thành một thế giới thanh sạch cao cả, thế giới của cái đẹp, cái thiện, quay lưng
lại thế giới của cái xấu, các ác. Chi tiết “ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn
nhau” cnàg cho thấy họ đã thực sự trở thành những người tri âm bởi tình u với
cái đẹp, bởi lịng hướng thiện.
4. Sự tương phản còn xuất hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn
Tuân
- Trước 1945, Nguyễn Tuân được coi là nhà văn có tư tưởng “duy mĩ” và
quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhưng trong truyện ngắn: “Chữ người tử
tù”, Nguyễn Tuân lại thể hiện quan niệm thẩm mỹ rất tiến bộ. Là nhà văn tài hoa,
cả đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tn ln có sở trường và hứng thú đặc biệt khi
miêu tả những vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Nhưng trong cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân lại
không hề miêu tả cụ thể đường nét của chữ, thậm chí cũng khơng nhắc đến nội
dung của bức châm.
- Các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng không bình luận về những dịng chữ
đẹp đẽ trên tấm lụa bạch như cách thưởng thức một bức tranh chữ hay một tác
phẩm nghệ thuật tài hoa. Căn cứ vào tâm thế xúc động kính cẩn của thơ lại, căn cứ
vào chính những lời khuyên bảo của Huấn Cao với họ, người đọc vẫn có thể nhận
ra nội dung bao trùm trong bức châm, có lẽ khơng tách rời hai chữ “thiên lương” –
bức châm đã được chiêm ngưỡng như một biểu tượng của cái đẹp, cái thiện, của lẽ
sống làm người.
15
- Cảnh cho chữ, xin chữ đã trở thành nơi hội tụ của tài hoa, của nhân tâm
cùng sự tri âm, tri kỷ trong hoàn cảnh ngục tù. Quản ngục vốn chỉ có khát vọng xin
chữ, vậy mà ơng ta đã được nhiều hơn cả sự mong đợi, Huấn Cao khơng chỉ cho
chữ mà cịn cho bài học làm người quý giá: Trước khi đến với cái đẹp của nghệ
thuật, phải giữ trọn cái đẹp của thiên lương. Việc Huấn Cao cảm tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của quản ngục mà cho chữ là biểu hiện của sự gắn kết giữa tài và tâm,
còn là lời khuyên của Huấn Cao với quản ngục cho thấy quan điểm nghệ thuật về
sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện – không thể chiêm ngưỡng cái đẹp ở nơi
ngự trị của cái ác, không thể hướng tới cái đẹp cao cả ở chốn mà thiên lương khó
giữ cho lành vững.
KL:
- Cũng như cả truyện ngắn “Chữ người tử tù”, đoạn văn miêu tả cảnh cho
chữ đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của tác giả “Vang bóng một thời”. Từ
việc xây dựng hình tượng nhân vật tài hoa, nghệ sĩ đến việc phát huy cao độ bút
pháp tương phản trong miêu tả, từ nghệ thuật xây dựng tình huống với rất nhiều
yếu tố nghịch lí đến tạo khơng khí trang trọng, thiêng liêng, xúc động cho cảnh sắc,
từ việc sử dụng ngơn ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm đến việc tơ đậm những
tính cách phi thường, những sự kiện hi hữu tạo ấn tượng mạnh cho người đọc.
- Phần 2. KL đề 2
16