Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Lý thuyết xã hội học: Tư tưởng của Heghen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.33 KB, 16 trang )

I.

Tư tưởng của Hêghen

1. Vài nét về Hêghen.

Tượng bán thân của triết gia Hêghen tại sân đại học Jena/Đức
Georg Wilhelm Friedrich Hêgen (1770 - 1831), nhà triết học duy tâm
khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên
phép biện chứng duy tâm. Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là phép
biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen
vẫn là "người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình
thái vận động chung của phép biện chứng" (Mac). Hêghen có những đóng
góp to lớn trong địa hạt lí luận về nhận thức, trong cuộc đấu tranh chống
"thuyết không thể biết" (bất khả tri luận). Hêghen còn đưa ra các quan điểm
về ý niệm tuyệt đối; về sự phát triển; về nhà nước, con người, xã hội dân sự;
thẩm mỹ...
Các tác phẩm chủ yếu: "Hiện tượng học tinh thần" (1807), "Khoa học
lôgic" (1812 - 1816), "Bách khoa thư về khoa học triết học" (1817, 1830),


"Những nguyên lí triết học của pháp luật" (1821), những bài giảng về triết
học lịch sử, về mĩ học, về triết học tôn giáo, về lịch sử triết học được xuất
bản sau khi Hêghen mất.1
2. Hệ tư tưởng của Hêghen.
2.1.Hệ thống khái niệm của Hêghen
Trong tư tưởng triết học của mình Hêghen không chỉ trình bày các
phạm trù như lượng, chất, phủ định , mâu thuẫn…. mà ông còn nói đến các
quy luật như “ lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ
định” và quy luật mâu thuẫn. Tất cả những cái đó chính là quy luật vận động
và phát triển của ý niệm tuyệt đối.


- Khái niệm chất: là phạm trù triết học dung để chỉ tính khách quan
vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự
vật là nó chứ không phải là cái khác.
- Khái niệm lượng: là phạm trù triết học dung để chỉ tính quy định vốn
có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ nhịp điệu của sự vận động
và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật
- Khái niệm mâu thuẫn: đó là sự tồn tại của các mặt đối lập nằm trong
một sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
- Quy luật phủ định của phủ định.
- Quy luật lượng biến đổi dẫn đến chất biến đổi và ngược lại: quy luật
này phát biểu rằng khi có một một sự thay đổi về lượng vượt qua một
ngưỡng nhất định nào đó của sự vật thì sẽ kéo theo sự thay đổi tất yếu về
chất của sự vật đó và ngược lại.

1




2.2 Quan điểm của Hêghen về phép biện chứng
Tư tưởng biện chứng đã hình thành ngay từ khi triết học ra đời. Trong
quá trình phát triển, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản là phép biện
chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
2.2.1. Phép biện chứng chất phác
Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa
phát triển, nên các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang
tính trực quan, cảm tính để khái quát bức tranh chung của thế giới. Phép biện
chứng chất phác thể hiện rõ rệt trong “thuyết Âm - Dương”, “thuyết Ngũ hành” của triết học Trung hoa cổ đại, trong các hệ thống triết học của các
nhà triết học Hy lạp cổ đại và triết học Ấn độ cổ đại. Giá trị của phép biện
chứng chất phác thể hiện ở ý nghĩa vô thần, chống lại những quan điểm tôn

giáo. Song phép biện chứng này thiếu những căn cứ khoa học nên đã bị phép
siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế.
2.2.2. Phép biện chứng duy tâm khách quan
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức cuối thế
kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Thời kì này, khoa học đã đạt được những
thành tựu xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Những thành tựu khoa học
đó là cơ sở để đi tới những khái quát mới về nội dung phép biện chứng.
Đại diện tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm là Hêghen. Ông là
người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm với một hệ
thống khái niệm, phạm trù và quy luật cơ bản. Tính chất duy tâm trong phép
biện chứng của Hêghen thể hiện ở chỗ : Ông coi “ý niệm tuyệt đối” là cái có
trước, và trong quá trình vận động phát triển, “ý niệm tuyệt đối” tha hóa
thành giới tự nhiên và xã hội; cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh
thần tuyệt đối. Sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan của
Hêghen là ở chỗ ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng


của sự vật. Đó là phép biện chứng duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu
khoa học.
Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là phép biện chứng. Ở
Hêghen, phép biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen vẫn là "người
đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động
chung của phép biện chứng" (Mac).
2.3.Quan điểm của Heghen về ý niệm tuyệt đối.
Hêghen là một trong những người có vai trò quan trọng bậc nhất trong
nền triết học Đức thế kỷ 18-19. Hêghen đưa vào triết học khái niệm “ Ý
niệm tuyệt đối”. Với tư cách là một khái niệm bao quát miêu tả bản chất của
nền tảng thế giới. “Ý niệm tuyệt đối” như là bản thể luận của hoạt động. Tuy
nhiên bản thân sự hoạt động của ý niệm tuyệt đối chỉ được thể hiện trong tư
duy nhận thức của con người. Quá trình nhận thức được chia thành ba giai

đoạn:
Giai đoạn 1: giai đoạn lôgic. Trong giai đoạn này ý niệm tuyệt đối vận
hành dưới dạng tư duy thuần khiết thông qua hệ thống khái niệm, phạm trù
lôgic. Trong giai đoạn này, tư duy mang tính độc lập tương đối vì nó mới ở
dạng nguyên thủy chưa bị pha tạp.
Giai đoạn 2: là giai đoạn ý niệm tuyệt đối chuyển hóa thành tự nhiên.
Hêghen coi tự nhiên là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Giới tự nhiên có sau
giai đoạn tư duy loogic, tự nhiên chỉ phát triển theo chiều không gian chứ
không phát triển theo chiều hướng thời gian. Vì thời gian trong ý niệm tuyệt
đối là vĩnh hằng tuyệt đối.
Giai đoạn 3: tinh thần tuyệt đối: là giai đoạn mà ý niệm tuyệt đối phủ
định giai đoạn 2 là phủ định cái tự nhiên để trở về với chính nó. Do đó tư
duy được lặp lại ở chu kỳ tiếp theo. Nhưng từ chu kỳ tiếp theo, ý niệm tuyệt


đối được thể hiện trong tư duy của con người ở dạng cao hơn chu kỳ đầu,
trong đó nó đã bao gồm: tư duy ý thức cá nhân luận xã hội và nó sẽ phát
triển tạo thành giai đoạn tột đỉnh là các khái niêm, quan niệm về tôn giáo,
nghệ thuật hay triết học.
2.4. Quan điểm của Hêghen về sự phát triển.
Quan điểm tư tưởng của Hêghen về sự phát triển “ Vòng xoáy trôn
ốc”
Nếu như Senlinh khẳng định cái tuyệt đối là sự đồng nhất hoàn toàn tinh
thần và vật chất nhưng hiểu sự đồng nhất trên một cách xơ cứng thì Hêghen
lại hiểu sự đồng nhất trên là sự phát triển của một tinh thần tuyệt đối Hêghen
coi sự phát triển không chỉ đơn thuần là sự tăng giảm về lượng hay sự dịch
chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. Theo ông, sự phát triển là một
quá trình phủ định biện chứng trong đó liên tiếp diễn ra cái mới thay thế cái
cũ. Nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố cái cũ mà vẫn có khả năng thúc
đẩy phát triển.

Xuất phát từ quan niệm coi sự phát triển như là sự vận động liên tục.
Theo quy luật phủ định của phủ định. Hêghen coi một trong những nguyên
tắc để xây dựng hệ thống triết học của mình nhằm thể hiện quá trình phát
triển của tinh thần tuyệt đối đó là tam đoạn thức: Chính đề- phản đề- hợp đề.
Trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ hữu cơ, chuyển hóa lẫn nhau.
Hiện tượng học tinh thần thể hiện khái quát lịch sử nhân loại mà Hêghen coi
là hiện thân của tinh thần tuyệt đối. Tinh thần tuyệt đối theo đùng nghĩa với
tư cách là sự thống nhất của cả tinh thần chủ quan và tinh thần khách quan.
Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần tuyệt đối.


Khoa học logic là một bộ phận quan trọng nhất của Hêghen vì nó
nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất nhưng là điểm xuất
phát và nền tảng của toàn bộ
hệ thống, vì “ Vận động lên phía trước là sự quay trở về nền tảng về điểm
đầu và chân lý”2.
Trong triết học pháp quyền và triết học lịch sử Hêghen thể hiện
những quan niệm của mình về các vấn đề phát triển Hêghen còn cho rằng,
khi các dạng tồn tại được “tinh thần tuyệt đối” tạo ra thì không ngừng biến
đổi theo các nguyên lý:
- Một là: mỗi dạng tồn tại không những khác nhau mà còn làm “trung
giới cho nhau” tức có liên hệ với nhau
.- Hai là: mỗi dạng tồn tại đều trải qua quá trình vận động, phát triển;
quá trình đó được thực hiện trên cơ sở của ba nguyên tắc:
Nguyên tắc thứ nhất: chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển
hóa về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và người lại.
Nguyên tắc thứ hai: sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển tạo ra sự chuyển hóa
giữa nội dung với hình thức, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết
quả, khả năng và hình thức, v.v.

Nguyên tắc thứ ba: phủ định của phủ định với tính cách là sự phát
triển diễn theo hình thức xoáy ốc.
Những nguyên lý và nguyên tắc trên là nội dung chủ yếu của phép biện
chứng mà Hêghen xây dựng. Phép biện chứng này tuy có hạn chế ở chỗ
trình bày trên cơ sở của quan điểm duy tâm nhưng nó đã phản ánh đầy đủ
2

Trang 443. Lịch sử triết học, GS-PTS Nguyễn Hữu Vui chủ biên, NXB Chính trị quốc gia


quá trình vận động và phát triển chúng; trong nó đã chứa đựng hạt nhân hợp
lý: không có cái gì nhất thành bất biến, mọi cái luôn biến đổi. Đây là một giá
trị lý luận chủ yếu của triết học Hêghen.
2.4. Quan điểm của Hêghen về nhà nước, con người xã hội công dân.
Nhà nước là thể chế tổng hợp. Trong nhà nước, sự thống nhất giữa nội
dung pháp luật và niềm tin đạo đức đạt tới hình thức cao nhất. Nhà nước là
hiện thực của tư tưởng đạo lý: “Sự tồn tại của Nhà nước là cuộc du ngoạn
của Chúa trong xã hội loài người”. Nhà nước có giá trị tuyệt đối tự thân mà
không cần sự khẳng định có tính thực dụng nào cả. Nhà nước không phụ
thuộc vào xã hội công dân. Ngược lại xã hội cần tiền đề là sự tồn tại của nhà
nước. Sự tồn tại của Nhà nước đi trước sự phát triển của xã hội. Sự phân biệt
rõ ràng giữa xã hội và Nhà nước như vậy của Hêghen trong lịch sử tư tưởng
chính trị đã đảo ngược mối quan hệ hiện thực của chúng từ chân lên đầu3.
Quan điểm về con người và chính trị xã hội được Hêghen trình bày
trong tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”. Khi bàn
đến vấn đề con người, ông không giống như các nhà triết học Anh và Pháp
thế kỷ XVI - XVIII chia tách con người thành hai phần mà ông quan niệm
con người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả
của quá trình hoạt động của chính mình, chính qua quá trình hoạt động mà ý
thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do của con người mới phát

triển. Do đó, con người mới hoàn thiện. Như vậy, ở đây Hêghen không bàn
đến con người cụ thể mà bàn đến con người trìu tượng, lý tính phi lịch sử.
Quan niệm con người trong triết học Hêghen thường gắn với quan điểm về
nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng định mọi người về bản
3

Tạp chí khoa học pháp lí số/2001


tính vốn bình đẳng là không đúng ..., cần phải nói ngược lại rằng con người
về bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây dẫn tới quan điểm: mọi sự bất công
trong xã hội là hiện tượng tất yếu xuất phát từ bản tính con người. Vì thế
trong xã hội thường xuyên xảy ra những mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng
lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau. Chính từ đó nhà nước xuất hiện. Theo
Hêghen, nhà nước ra đời nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp
nhằm định hướng sự phát triển của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan
hành pháp mà là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực
đạo đức, pháp quyền, văn hóa. Vì thế nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn
nào của lịch sử. Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong
đời sống xã hội nó có quá trình phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự
phát triển đó, vì nó là đại biểu cho công lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn tại
mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp lý, thì sẽ hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”; ở
đây, Hêghen đã lập luận để bảo vệ sự tồn tại của nhà nước phong kiến Phổ.
Khi bàn đến chiến tranh, Hêghen cho rằng, chiến tranh là một hiện tượng
vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể trạng đạo đức
của dân tộc được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối
nát. Hêghen cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính
chủ quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn ra theo ý
muốn chủ quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất yếu trải qua
các thời đại. Sự phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của

thời đại này so với thời đại khác.
2.5. Quan điểm của Hêghen về thẩm mỹ
Theo ông nghệ thuật là một trong những phương thức “Tự sản xuất”
của con người trong thế giới hiện thực. Đây cũng là một cách thức để con
người tiêu khiển thời gian nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh thần của


mình. Nó có nhiệm vụ khám phá ra chân lý dưới dạng hình thức cảm tính.
Đề cập tới cái đẹp chủ yếu dưới góc độ tinh thần, ông khẳng định lý tưởng là
sự thống nhất giữa tính tương đối và tuyệt đối, giữa cái hữu hạn- hiện thực
và cái vô hạn- khái niệm. Chuẩn mực của lý tưởng chính là chân lý của nó.
Cái đẹp là bản thân chân lý nhưng dưới góc độ nghệ thuật. Heghen khẳng
định sự sáng tạo nghệ thuật vừa mang tính chủ quan của con người vừa
mang một nội dung khách quan nhất định. Con người nhưu một chủ thể sáng
tạo nghệ thuật. Toàn bộ nghệ thuật phải hướng tới con người theo nguyên tắc
của chủ nghĩa nhân đạo. “Cái nhân loại là điểm trung tâm và nội dung của
cái đẹp chân chính và nghệ thuật”
Tóm lại, dưới hình thức duy tâm coi nghệ thuật là hình thức thể hiện
tinh thần tuyệt đối thông qua các hình tượng nghệ thuật, thẩm mỹ học
Heghen đóng vai trò to lớn trong sự phát triển tư tưởng thẩm mĩ thế giới. Nó
khẳng định nghệ thuật như một phương thức nhận thức những lợi ích sâu xa
của con người, đồng thời đem lại một cách nhìn biện chứng về tiến trình
phát triển của nghệ thuật thế giới.
Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học Macxit.
Theo nhận xét của Ph. Ăngghen, ông “không những chỉ là một thiên tài sáng
tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu
của ông tạo thành thời đại”4. Tư tưởng của Heghen có ảnh hưởng to lớn tới
tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và là nền tảng của những lý
thuyết xã hội học nói riêng.
II.


Ảnh hưởng của hệ tư tưởng Hêghen tới các lý thuyết xã hội học

1. Thuyết cấu trúc - chức năng
4

Nguyễn Hữu Vui, lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia 1998, trang 422


Thuyết cấu trúc - chức năng nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các
bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất
định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu
trúc tương đối ổn định, bền vững. Lý thuyết chức năng cho rằng các hiện
tượng xẫ hội tồn tại vì chúng có một chức năng tích cực nào đấy để thực
hiện trong xã hội và một xã hội muốn tồn tại thì phải thực hiện một số điều
kiện cơ bản. Luận điểm này ảnh hưởng từ quan điểm về chính trị học được
Hêghen trình bày trong tác phẩm “Triết học về pháp quyền”. Theo Hêghen,
nhà nước ra đời nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp nhằm định
hướng sự phát triển của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp
mà là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức,
pháp quyền, văn hóa. Vì thế nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử. Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống
xã hội nó có quá trình phát triển.
Lý thuyết cấu trúc - chức năng coi sự bất bình đẳng và phân tầng xã
hội là hiển nhiên và cần phải có để duy trì một xã hội. Do đó, mỗi xã hội dù
đơn giản hay phức tạp cũng bắt buộc phải làm cho con người khác biệt nhau
về mặt uy tín, và do đó tất sẽ có một số bất bình đẳng được thiết chế hoá. Xã
hội với tư cách là một cơ chế vận động phải làm thế nào đó để phân phối các
thành viên của mình vào các địa vị xã hội và khiến họ thực hiện những bổn
phận ở các địa vị đó. Lý thuyết chức năng giải thích sự bất bỉnh đẳng và

phân tầng xã hội là thuộc tính vốn có của xã hội và có ý nghĩa tích cực đối
với xã hội. Luận điểm này chịu ảnh hưởng từ quan điểm của Hêghen về con
người. Ông không chia tách con người thành hai phần mà quan niệm con
người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của
quá trình hoạt động của chính mình, chính qua quá trình hoạt động mà ý
thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do của con người mới phát


triển. Quan niệm con người trong triết học Hêghen thường gắn với quan
điểm về nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng định mọi
người về bản tính vốn bình đẳng là không đúng ..., cần phải nói ngược lại
rằng con người về bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây dẫn tới quan điểm:
mọi sự bất công trong xã hội là hiện tượng tất yếu xuất phát từ bản tính con
người. Vì thế trong xã hội thường xuyên xảy ra những mẫu thuẫn, xung đột
giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau.
2. Thuyết xung đột
Heghen là người phản ánh một cách rất độc đáo tính chất mâu thuẫn
của sự phát triển của nước Đức ngay trước khi có cuộc Cách mạng Tư sản.
Chính vì vậy mà triết học Heghen mang tính 2 mặt: Một mặt thể hiện sự tiến
bộ và Cách mạng. Mặt khác lại chứa đựng những tư tưởng bảo thủ, phản
động và có phần mang tính không triệt để.
Heghen cho rằng con người về bản tính vốn bất bình đẳng, vì thế
trong xã hội thường xuyên xảy ra những mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng
lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau.
2.1.Sự đa dạng của các nhóm giai cấp
Luận điểm gốc của thuyết xung đột cho rằng, do có sự khan hiếm các
nguồn lực và do sự phân công lao động và bất bình đẳng trong phân bổ
nguồn lực, quyền lực nên quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội luôn
nằm trong tình trạng mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau vì lợi ích 5.
Có thể thấy những nhóm giai cấp khác nhau luôn xuất hiện những

xung đột. “Giai cấp” theo Lênin là những tập đoàn to lớn gồm những người
khác nhau về địa vị trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
5

Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, (NXB Khoa học xã hội, 2008), 266


sử. Họ có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ của tập đoàn có
địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định 6.
Quan hệ giai cấp không phải được tạo ra một cách tự phát và trực tiếp
bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật mà
diễn ra trên bình diện quan hệ sản xuất giữa người với người trong quá trình
sản xuất đó. Một bên là những người có trong tay tư liệu sản xuất, có vốn,
họ nắm việc tổ chức sản xuất và phân phối sản xuất. Một bên là những người
không có tư liệu sản xuất, họ bán sức lao động để kiếm sống. Thông qua đó,
quan hệ bóc lột chính là căn nguyên của mọi bất bình đẳng.
2.2. Hệ tư tưởng của Heghen góp phần quan trọng trong việc lưu truyền
ý thức và góp phần củng cố sự bất bình đẳng xã hội
Từ xưa tới nay, sự phát triển của xã hội luôn diễn ra trong mâu thuẫn
thường xuyên giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột. Và đấu tranh giai
cấp luôn là nguồn gốc, động lực biến đổi, phát triển lịch sử xã hội loài
người. Đây là đặc điểm của xã hội tư bản, không phải tất cả các chế độ xã
hội đều có sự bất bình đẳng dai dẳng. Mối quan hệ lệ thuộc và thống trị giữa
các giai cấp trong xã hội tư bản như là một cái vốn có, tất yếu sẽ diễn ra.
Theo quan điểm của Heghen thì mọi sự bất công trong xã hội là hiện
tượng tất yếu xuất phát từ bản tính con người. Trong khi xã hội tồn tại những
mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội thì cần phải có một
đơn vị chức trách đứng ra nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp
nhằm định hướng sự phát triển của xã hội. Lúc đó, nhà nước đã xuất hiện.
Để xã hội phát triển thì cần phải xóa bỏ bất bình đẳng đồng nghĩa với việc

xoá bỏ phân chia giai cấp. Chính vì vậy thực hiện đấu tranh giai cấp là cần
thiết bởi đấu tranh giai cấp chính là “động lực của phát triển xã hội”.
6

Nguyễn Duy Hới, Giáo trình nhập môn xã hội học, (NXB Giáo dục, 2006), 117


3. Thuyết tương tác biểu trưng
Trong cuốn Hiện tượng học tinh thần, tác phẩm triết học lớn của
Hêghen, là tác phẩm khẳng định sự chín muồi trong thế giới quan triết học
của ông, ông đã đưa ra một số nguyên lý cơ bản nhằm bước đầu xây dựng
một hệ thống triết học độc lập của mình, mà trước tiên phải kể tới đó là quan
điểm tinh thần tuyệt đối và nguyên lý về sự phát triển.
Tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về
hiện thực. Trong triết học của Hêghen, tinh thần tuyệt đối được hiểu như
đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Hoạt động nhận thức và
cải tạo thế giới của con người chính là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận
thức chính bản thân mình.7 Tinh thần tuyệt đối được Hêghen lý giải như sự
hợp nhất giữa thực thể tự nhiên và cái “tôi tuyệt đối”, nó là sự thống nhất
giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và vật chất, chủ thể và khách thể.
Nguyên lý khẳng định tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền
tảng của hiện thực gắn liền với Nguyên lý phát triển. Như đã phân tích ở
trên, Hêghen hiểu sự phát triển là một quá trình phủ định biện chứng trong
đó liên tiếp diễn ra cái mới thay thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những
yếu tố của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy phát triển. Xuất phát từ quan
niệm sự phát triển, ông khẳng định quá trình phát triển của tinh thần tuyệt
đối là tam đoạn thức. Theo đó, quá trình phát triển của tinh thần tuyệt đối
đồng thời cũng là quá trình nảy sinh mâu thuẫn giữa các mặt đối lập. Mâu
thuẫn đó biểu hiện cụ thể ở mâu thuẫn cơ bản con người – tự nhiên, sau này
tiếp tục được Mác và các nhà khoa học tiếp tục phát triển và là cơ sở lý luận.

Tư tưởng của Hêghen về con người là chủ thể, đồng thời là kết quả
của quá trình hoạt động của mình. Tư duy và trí tuệ của con người hình
7

GS, TS Nguyễn Hữu Vui, “Lịch sử triết học”,NXB. Chính trị Quốc gia, 2004, tr.424


thành và phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới,
biến cái tự nhiên từ cái đối lập với mình thành cái của mình bằng cách làm
chủ tự nhiên.8
Những tư tưởng của Hêghen về tinh thần tuyệt đối mà cụ thể là vai trò
chủ thể của con người trong quá trình hoạt động là cơ sở lý luận tiền đề cho
những lý thuyết về hành động xã hội của các nhà xã hội học, trong đó có
thuyết tương tác biểu trưng. Theo Herbert Blummer, một trong những nhà xã
hội học đưa ra những lý luận về thuyết tương tác biểu trưng có vai trò chủ
chốt trong hệ thống lý thuyết xã hội học, đã hệ thống há ba luận điểm gốc
của thuyết tương tác biểu trưng mà Mead đã từng nêu ra.
Khi nêu ra quan điểm về vai trò tiên quyết của việc giải nghĩa hay
nắm bắt ý nghĩa của sự vật đối với hành động của con người, Blummer cho
rằng việc giải nghĩa sự vật ở đây thực chất là việc tách sự vật đó ra khỏi môi
trường của nó, làm nổi bật sự vật đó lên, là gắn cho nó một ý nghĩa nhất
định, là phán xét sự cần thiết hay thích hợp của nó đối với chủ thể và dựa
vào sự giải nghĩa đó là chủ thể ra quyết định hành động. 9 Theo đó, quá trình
lý giải ý nghĩa có vai trò hết sức quan trọng đối với hành động của con
người. Lấy luận điểm của Hêghen làm cơ sở có thể thấy thực chất của sự lý
giải hành vi trong quá trình tương tác biểu trưng của con người là quá trình
tư duy và trí tuệ của con người phát triển, quá trình con người thực hiện vai
trò chủ thể của mình. Ở đây, con người thực hiện giải nghĩa ý nghĩa của sự
vật, hay hành vi của người khác cũng chính là việc biến cái đối lập với mình
thành cái của mình bằng cách làm chủ nó. Con người chỉ có thể làm chủ khi

đã hiểu ý nghĩa của sự vật và ý nghĩa đó chính là một sản phẩm xã hội, sản
phẩm của hành động và tương tác của các cá nhân.
8
9

GS, TS Nguyễn Hữu Vui, “Lịch sử triết học”,NXB. Chính trị Quốc gia, 2004, tr.426
Lê Ngọc Hùng (biên dịch), “Lịch sử và lý thuyết xã hội học”, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 290-291


Quan điểm về xã hội và hành động xã hội, Blummer cho rằng cần xã
hội loài người được cấu thành từ những con người có bản ngã, có “cái tôi”
hay thế giới riêng bên trong của họ. Quan điểm này có thể được luận giải từ
góc độ của quan điểm về tinh thần tuyệt đối của Hêghen với việc đề cao sự
hợp nhất giữa thực thể tự nhiên và cái tôi tuyệt đối. Thuyết tương tác biểu
trưng nhấn mạnh hành động xã hội của các cá nhân được các cá nhân kiến
tạo, thông qua quá trình giải nghĩa hành động của người khác và lý giải tình
huống của họ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình thực hiện hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới của con người, mà theo Hêghen đó là công cụ
để tinh thần tuyệt đối nhận thức bản thân mình.
Xuất phát từ quan điểm của Hêghen khi coi con người là một chỉnh
thể thống nhất và và chính qua quá trình hoạt động mà con người hình thành
ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do, Blummer khi đưa ra
những luận điểm khoa học về cấu trúc xã hội vi mô và cấu trúc xã hội vĩ mô
cũng khẳng định cấu trúc của “cái tôi” ở cấp độ vi mô – cá nhân là cấu trúc
xã hôi, theo như quan điểm của Mead, đồng thời nhấn mạnh cần phải nghiên
cứu những cấu trúc xã hội rất quan trọng với tư cách là phức thể các vị thế
xã hội, vai trò xã hội, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội và các mối quan hệ
giữa chúng. Như vậy, theo Blummer khi nghiên cứu mỗi cá nhân – con
người với tư cách là một cấu trúc xã hội vi mô thì phải nghiên cứu như một
chỉnh thể thống nhất của các vị thế, vai trò, và đặc biệt là các mối tương tác

xã hội và các điều kiện diễn ra các mối tương tác đó như các yếu tố của hệ
thống xã hội, cấu trúc xã hội, tổ chức xã hội, văn hóa, vị thế, vai trò xã hội,
truyền thống, giá trị, chuẩn mực xã hội. Trong toàn bộ những nhân tố đó,
hành động xã hội của cá nhân chỉ là một bộ phận cấu thành của hành động
cùng nhau.


Trong hệ thống lý luận của mình về thuyết tương tác biểu trưng,
Blummer nhấn mạnh tầm quan trong của yếu tố lý giải của cá nhân trong
quá trình tương tác với người khác. Trong đó, chính sự nỗ lực của cá nhân
đóng vai trò quyết định việc khởi xướng, thực hiện, điều chỉnh, biến đổi
hành động trên cơ sở những gì mà cá nhân đó quan sát lý giải biểu tượng
hành vi, hoạt động của nhau. 10 Quan điểm này của Blummer cũng đồng thời
khẳng định vai trò chủ thể của cá nhân trong hành động xã hội, và cá nhân
cũng là kết quả của chính quá trình hành động của mình, dựa trên cơ sở quan
điểm về tinh thần tuyệt đối của Hêghen.

10

Lê Ngọc Hùng (biên dịch), “Lịch sử và lý thuyết xã hội học”, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 295



×