Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tiểu luận Tâm lý học đại cương: Phân tâm học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.36 KB, 6 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

MÔ HÌNH PHÂN TÂM
HỌC
Sigmund Freud
NHÓM 6 – TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG
[Pick the date]


Tâm lí của con người là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong
đầu óc của con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động của con người, ví
dụ: sợ hãi, vui mừng, buồn chán…
Có nhiều quan điểm khác nhau trong tâm lí học hiện đại như: Tâm lí học
hành vi, tâm lí học cấu trúc, tâm lí học phân tâm, tâm lí học nhân văn, tâm lí
học nhận thức, tâm lí học hoạt động. Trong đó, học thuyết phân tâm do
Sigmund Freud (1859 – 1939) bác sĩ người Áo xây dựng nên, bằng các quan sát
tìm tòi nghiên cứu trong điều trị các bệnh nhân bị tâm thần. Học thuyết Phân
tâm học được xây dựng trên khái niệm vô thức.

1. NỘI DUNG HỌC THUYẾT PHÂN TÂM
Freud quan niệm: “Tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản
chất là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lí
của con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tuỳ
theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra
theo những qui luật khác hẳn với ý thức”.
Theo Freud tâm lí con người được cấu tạo bởi ba khối: Vô thức, tiềm ý
thức, ý thức. Tương ứng với ba khối này, Freud đã đưa ra ba thành phần cấu trúc
nhân cách: cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi gọi là bộ máy tâm thần.


Khối vô thức là khối bản năng, trong đó bản năng tình dục giữ vị trí trung


tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lí và hành vi của con người. Khối
bản năng có một số tính chất sau:
− Đặc điểm chung của bản năng là bị kim nén, nó là nguồn động lực,


sức mạnh cho hoạt động.
Mục đích của bản năng là hướng tới sự thoả mãn bằng cách trực
tiếp hay gián tiếp.

2




Bản năng hướng tới khách thể, thế giới bên ngoài là đối tượng để
thoả mãn. Bản năng đòi hỏi khách thể phải thoả mãn ngay lập tức




và trực tiếp.
Nó chi phối toàn bộ đời sống hoạt động tâm thần của con người.
Tương ứng với cái vô thức là cái ấy, cái ấy là nguồn gốc nguyên
thuỷ của các ham muốn sinh vật, là thùng chứa năng lượng tinh
thần, là cái chảo sùng sục những khát vọng, bản năng. Cái ấy hoạt
động theo nguyên tắc khoái cảm, nghĩa là thoả mãn ngay tức khắc



những khát vọng bản năng.

Khối ý thức tương ứng với cái tôi, nó xuất hiện sau cái ấy. Cái tôi được
hình thành do áp lực thực tại bên ngoài đến toàn bộ khối bản năng. Nó
đảm bảo cho các chức năng tâm lí như chú ý, trí nhớ… Hoạt động của cái
tôi theo nguyên tắc thực tại. Con người phải dùng một năng lượng đáng
kể để kiềm chế và kiểm soát những bản năng phi lý của cái ấy. Nhiệm vụ
của cái tôi là làm cho cái ấy thoả mãn mà không làm tổn hại đến cơ thể,
làm giảm sự căng thẳng một cách tốt nhất. Cái tôi có tính chất tự chủ, nó
tự chủ về nguồn năng lượng từ trong cấu trúc riêng của nó hoặc trong
thùng năng lượng của bản năng tình dục được trung hoà. Nó còn tự chủ
với môi trường chọn ra những kích thích của môi trường. Cái tôi và cái ấy
tồn tại không tách rời, cái tôi tìm kiếm nguốn sức mạnh trong cái ấy. Nó
hướng vào việc tạo thuận lợi cho việc thực hiện cái ấy. Cái ấy phải được
điều chỉnh , kiểm soát nếu không cái tôi lý tính sẽ bị vứt bỏ và dẫm nát.



Phrot nhấn mạnh rằng cái tôi vừa là đầy tớ vừa là chủ nhân của cái ấy.
Cái siêu tôi là nhân tố đạo đức trong nhân cách bao gồm mọi khái niệm
xã hội về cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu. Nó được hình thành từ cái tôi,
nó là hiện thân của những lý tưởng, và cố gắng đạt tới sự hoàn thiện thay
vì sự thoả mãn hay thực tại. Cái siêu tôi là các chuẩn mực bên ngoài được
phóng chiếu vào bên trong do kết quả nhập tâm của những lời dạy bảo
của gia đình, của nền giáo dục, nền văn hoá. Nó hoạt động theo nguyên
tắc kiểm duyệt, nó là một cỗ máy ngăn chặn không cho con người bộc lộ
3


những bản năng tính dục và hiếu chiến theo cách có thể gây ra ảnh hưởng
xấu đến xã hội và trật tự xã hội. Chức năng chủ yếu của cái siêu tôi là
giám sát cái tôi, đảm bảo cái tôi không vi phạm quy tắc đạo đức. Cái siêu

tôi luôn có ý đồ áp chế hoàn toàn những dục vọng của cái ấy.
Nói về vai trò của vô thức và ý thức, Freud đã nhiều lần mượn hình ảnh
tảng băng trôi trên biển để nói về vai trò của hai yếu tố này. Phần nhỏ bé nổi
trên mặt nước được ví là tầng ý thức, phần giáp gianh là tiền thức, còn toàn bộ
khối băng chìm trong lòng biển là vô thức. Phần nằm dưới nước lớn hơn nhiều
lần phần nổi, quy định trọng tâm, phương hướng vận động và số phận của cả
tảng băng ấy. Điều này chứng tỏ Phrot rất đề cao vai trò của khối vô thức, phần
tảng băng chìm chiếm tới 80% diện tích ấy.
Ví dụ về đặc điểm của các khối ý thức theo quan điểm của Freud:


Khối vô thức – bản năng: Khi đứng trước sự tấn công bất ngờ con
người thường có tính bản năng tự vệ, trước hết biểu hiện ở khả



năng đáp trả đối tượng tấn công.
Khối tiềm thức: Ví dụ hiện tượng giấc mơ được Freud xem như
một minh chứng của tiềm thức, ông đã mở đường cho một bộ môn



nghiên cứu về lý giải những bí ẩn về giấc mơ.
Khối ý thức: Cung cách ứng xử của con người với môi trường
xung quanh có được là do quá trình học hỏi và đúc rút dần.

Những nghiên cứu của Phrot vẫn còn có giá trị ứng dụng phổ biến cho
đến ngày nay, không chỉ đối với những nhà khoa học của sinh học đời sống, mà
còn có một tầm sâu ý nghĩa đối với việc giải phẫu tâm lí người. Tuy nhiên bên
cạnh đó để đánh giá học thuyết phân tâm học của Freud dưới góc dộ tâm lí học

thì có tồn tại những ưu điểm và nhược điểm như sau:

4


2. ƯU ĐIỂM
Freud đã đưa ra một lí thuyết trọn vẹn về nhân cách, nó đầy đủ và cho
phép giải quyết nhiều vấn đề tâm lí có ứng dụng thực tế mà đến nay vẫn còn
được ứng dụng.
Đối với sinh học ông có công lao trong việc tìm ra đồng thời lý giải
những hiện tượng tâm lí cảm xúc con người do dồn nén tâm lí ức chế mà thành.
Tạo tiền cho việc điều trị các căn bệnh tâm thần phân liệt.
Ông còn được đánh giá cao khi là người đã khám phá ra một lĩnh vực
nghiên cứu mới của tâm lí học: vô thức. Có công lớn trong việc nghiên cứu
động lực hành vi vủa con người là động cơ vô thức.
Đưa ra những khái niệm: Sự dồn nén, cơ chế tự vệ, sự đồng nhất hoá,
xung đột, sự xã hội hoá…Vấn đề các động cơ bị che giấu của bệnh nhân trong
lâm sàng và ý nghĩa của nhân tố này đối với các nhà lâm sàng.
Tóm lại học thuyết của Freud là cơ sở ban đầu của chủ nghĩ hiện sinh, thể
hiện sinh vật hóa ý thức con người. Phrot đã cố gắng đưa tâm lí học theo xu
hướng khách quan. Ông có một công lao không hề nhỏ góp phần vào việc giải
thích giấc mơ của con người − bộ phận tiềm thức tồn tại khá bí ẩn và có phần
nào liên quan tới đời sống sinh hoạt trực tiếp của con người.

3. NHƯỢC ĐIỂM
Phân tâm học đã đối lập hoàn toàn với các nguyên tắc cơ bản của tâm lí
học duy vật biện chứng. Nó tách biệt hoàn toàn nhân cách với những điều kiện
xã hội của sự hình thành nhân cách, đề cao cái vô thức, cái sinh vật lên hàng
đầu. Cái vô thức được Freud đặt cao tuyệt đối, coi nó là nguồn gốc quyết định
mọi hoạt động của con ngươì. Cùng với đó ông cũng phủ định hoàn toàn bản

chất xã hội lịch sử của tâm lí người, khi trên thực tế vai trò của những tác động
do bối cảnh lịch sử tới tâm lí con người là không nhỏ.
5


Freud đã trộn lẫn lao động với bản tính tự nhiên của con người, con người
vốn sinh ra đã không thích lao động, nhưng vì lợi ích của cộng đồng của văn
hóa buộc con người phải lao động. Cùng với đó học thuyết của ông còn đồng
nhất tâm lí người với tâm lí con vật, đây là một sự nhận thức chưa đầy đủ và
thiếu tính chính xác.
Trong thời gian khá dài có đến gần nửa thế kỷ những hội Phân tâm học
hoạt động như những giáo phái, khai trừ những hội viên bị kết án là sai lệch và
ngược lại bị một số người xem là tà đạo. Học thuyết Freud quá nhấn mạnh tới
tính dục làm không ít đối tượng phản đối, trong đó có cả học trò của ông. Điển
hình là trường hợp của Vilhem Reich vào những năm 30, một hội viên hội Phân
tâm học Đức đồng thời là Đảng viên đảng cộng sản Đức. Ông Reich đề xuất ý
kiến là có thể kết hợp hai học thuyết của Marx và Freud để lý giải các vấn đề xã
hội và con người. Kết quả Reich bị cả hai bên khai trừ.
HẾT

6



×