Kinh tế học hành vi
Mục lục
1
Kinh tế học hành vi
1.1
Các vấn đề trong kinh tế hành vi
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
1
1.1.1
Tài chính hành vi
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
1
1.1.2
Các mô hình tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2
1.1.3
Lý thuyết trò chơi hành vi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2
1.1.4
Lý luận kinh tế ở động vật không phải con người . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2
1.1.5
Tâm lý học tiến hóa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
4
Lịch sử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
4
1.2.1
Lý thuyết triển vọng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
4
1.2.2
Lựa chọn liên thời gian
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
5
1.2.3
Các khu vực nghiên cứu khác . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
5
1.3
Những lời chỉ trích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
6
1.4
Các nhà lý thuyết kinh tế học hành vi đáng chú ý . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
6
1.4.1
Kinh tế học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
6
1.4.2
Tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
6
1.5
Xem thêm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
7
1.6
Chú thích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
7
1.7
am khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
8
1.8
Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
9
1.2
2
1
Kinh tế học quốc tế
10
2.1
Đối tượng nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
10
2.2
Phương pháp nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
10
2.3
Các học thuyết thương mại quốc tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11
2.4
Học thuyết kinh tế trọng thương . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11
2.5
Học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11
2.5.1
Lợi thế tuyệt đối . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11
2.5.2
Minh họa về Lợi thế tuyệt đối . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
12
Học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
12
2.6.1
y luật về lợi thế so sánh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
12
2.6.2
ặng dư từ thương mại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
13
2.6.3
Trường hợp ngoại lệ của quy luật lợi thế so sánh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
13
2.6.4
Lợi thế so sánh với sự tham gia của tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
13
2.6
i
ii
MỤC LỤC
2.7
Phân biệt kinh tế học quốc tế với quan hệ kinh tế quốc tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
14
2.8
Phân biệt tài chính quốc tế với kinh tế học vĩ mô quốc tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
14
2.9
am khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
14
2.10 Chú dẫn nguồn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
14
2.11 Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
15
2.11.1 Văn bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
15
2.11.2 Hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
15
2.11.3 Giấy phép nội dung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
15
Chương 1
Kinh tế học hành vi
Kinh tế học hành vi và lĩnh vực liên quan, tài ính
hành vi, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận
thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
tế của các cá nhân và các tổ chức và hậu quả đối với
giá thị trường, hoàn vốn và các phân bổ nguồn lực. Các
lĩnh vực chủ yếu liên quan đến các giới hạn của tính
hợp lý của các tác nhân kinh tế. Các mô hình hành vi
thường tích hợp những hiểu biết từ tâm lý học với lý
thuyết kinh tế tân cổ điển; trong khi làm như vậy, các
mô hình hành vi này bao gồm một loạt các khái niệm,
phương pháp, và lĩnh vực.[1]
như nguyên nhân của các xu hướng thị trường (và cực
đoan trong trường hợp của các bong bóng và các vụ
sụp đổ). Các phản ứng này đã được quy cho sự chú ý
của nhà đầu tư bị hạn chế, quá tự tin, quá lạc quan, bắt
chước (bản năng bầy đàn) và trao đổi nhiễu loạn. Các
nhà phân tích kỹ thuật coi tài chính hành vi, anh em
họ của kinh tế học hành vi, là cơ sở lý luận cho phân
tích kỹ thuật.[3]
Các quan sát quan trọng khác bao gồm sự bất đối xứng
giữa các quyết định để có được hoặc giữ tài nguyên,
được gọi là nghịch lý “chim trong bụi cây”, và ác cảm
Nghiên cứu về kinh tế học hành vi bao gồm cách thức tổn thất, sự miễn cưỡng để cho đi của một vật sở hữu
các quyết định thị trường được thực hiện và các cơ có giá trị. Ác cảm mất mát xuất hiện để biểu lộ chính
chế dẫn dắt lựa chọn công cộng, chẳng hạn như những nó trong hành vi nhà đầu tư như một sự miễn cưỡng
để bán cổ phần hoặc vốn cổ phần khác, nếu việc làm
thành kiến đối với việc thúc đẩy tư lợi.
như vậy sẽ dẫn đến một sự mất mát đáng kể.[4] Nó cũng
[2]
Có ba chủ đề phổ biến trong tài chính hành vi:
có thể giúp giải thích tại sao giá nhà đất giảm ít/từ từ
xuống mức thanh toán bù trừ thị trường trong những
• Các khám phá: Mọi người thường đưa ra quyết thời kỳ nhu cầu thấp.
định dựa trên khoảng quy tắc ngón cái và logic
Benartzi và aler (1995), áp dụng một phiên bản của
không nghiêm ngặt.
lý thuyết triển vọng, tuyên bố đã giải quyết được nan
• Định khuôn khổ: Tập hợp của các giai thoại và các giải bù đắp vốn cổ phần, một cái gì đó mà các mô
khuôn mẫu tạo nên bộ lọc cảm xúc tinh thần các hình tài chính thông thường đã không thể làm cho đến
cá nhân dựa vào để hiểu và đáp ứng các sự kiện. nay.[5] Tài chính thực nghiệm áp dụng phương pháp
thực nghiệm, ví dụ, tạo ra một thị trường nhân tạo bởi
• Các không hiệu quả thị trường: bao gồm các đánh một số phần mềm mô phỏng để nghiên cứu quá trình
giá sai và ra quyết định không hợp lý.
ra quyết định và hành vi trong các thị trường tài chính
của người dân.
1.1 Các vấn đề trong kinh tế hành
vi
Tài chính hành vi định lượng
1.1.1
Tài chính hành vi
Tài chính hành vi định lượng sử dụng phương pháp
luận toán học và thống kê để hiểu những thành kiến
hành vi. Trong nghiên cứu thị trường, một nghiên cứu
cho thấy rất ít bằng chứng cho thấy các thành kiến
leo thang tác động quyết định tiếp thị.[6] Các người
đóng góp hàng đầu bao gồm Gunduz Caginalp (Biên
tập viên của Tạp chí Tài chính hành vi 2001-2004) và
các cộng tác viên bao gồm người đoạt giải Nô-ben
Tài chính hành vi làm nổi bật các không hiệu quả như 2002 Vernon Smith, David Porter, Don Balenovich,[7]
kém phản ứng hoặc quá phản ứng đối với thông tin Vladimira Ilieva và Ahmet Duran,[8] và Ray Sturm.[9]
Vấn đề trọng tâm trong tài chính hành vi là giải thích
lý do tại sao các bên tham gia thị trường gây các lỗi hệ
thống. Các lỗi như vậy ảnh hưởng đến giá cả và hoàn
vốn, tạo ra sự thiếu hiệu quả của thị trường. Nó cũng
điều tra cách các bên tham gia khác tận dụng lợi thế
(hưởng chênh lệch) của các không hiệu quả thị trường
như vậy.
1
2
1.1.2
CHƯƠNG 1. KINH TẾ HỌC HÀNH VI
Các mô hình tài chính
1.1.3 Lý thuyết trò chơi hành vi
Một số mô hình tài chính được sử dụng trong quản lý Lý thuyết trò chơi hành vi là một chủ đề mà phân
tiền bạc và định giá tài sản kết hợp các thông số tài tích các quyết định và hành vi chiến lược tương tác
bằng cách sử dụng các phương pháp của lý thuyết trò
chính hành vi, ví dụ:
chơi,[13] kinh tế học thực nghiệm và tâm lý học thực
nghiệm. Các thí nghiệm bao gồm thử nghiệm độ lệch
• Mô hình aler của các phản ứng giá đối với thông từ các đơn giản hóa điển hình của lý thuyết kinh tế như
[14]
[15]
tin, với ba giai đoạn, chậm phản ứng-điều chỉnh- tiên đề độc lập và sự bế tắc của chủ nghĩa vị tha,
[16]
[17]
tính công bằng,
và các hiệu ứng khuôn khổ.
Về
phản ứng mạnh, tạo ra một xu hướng giá
mặt tích cực, phương pháp này đã được áp dụng cho
đào tạo tương tác[18] và các ưu tiên xã hội.[19][20] Như
một chương trình nghiên cứu, đề tài này là một sự phát
Một đặc trưng của phản ứng thái quá là hoàn
triển trong ba thập kỷ qua.[21]
vốn trung bình theo sau các thông báo tin tốt
là thấp hơn sau tin xấu. Nói cách khác, phản
ứng thái quá xảy ra nếu thị trường phản ứng
1.1.4 Lý luận kinh tế ở động vật không
quá mạnh hoặc quá lâu đối với tin tức, do đó
phải con người
cần điều chỉnh theo hướng ngược lại. Kết quả
là, các tài sản hoạt động tốt hơn trong một
Một số ít các nhà tâm lý học so sánh đã cố gắng để
giai đoạn có thể sẽ kém hiệu quả trong giai
chứng minh lý do kinh tế ở các động vật không phải con
đoạn sau. Điều này cũng áp dụng cho thói
người. Các nỗ lực ban đầu theo hướng này tập trung
quen mua sắm hợp lý của khách hàng.[10]
vào hành vi của chuột và chim bồ câu. Những nghiên
cứu này rút ra trên các nguyên lý của tâm lý học hành
vi, trong đó mục tiêu chính là để khám phá các tương
• Hệ số hình ảnh cổ phiếu
tự với hành vi con người trong các động vật không
phải con người có thể theo dõi bằng thí nghiệm. Chúng
cũng có tương tự về phương pháp luận như công trình
của Ferster và Skinner.[22] Bên cạnh các tương đồng về
Những lời chỉ trích
phương pháp luận, các nhà nghiên cứu đầu tiên về kinh
Những nhà phê bình như Eugene Fama thường hỗ trợ tế học không phải con người đi chệch khỏi chủ nghĩa
giả thuyết thị trường hiệu quả. Họ cho rằng tài chính hành vi trong thuật ngữ học của họ. Mặc dù các nghiên
hành vi là nhiều tập hợp các bất thường hơn một nhánh cứu như vậy được xác lập chủ yếu trong một buồng
thực sự của tài chính và rằng những bất thường này điều cụ, việc sử dụng phần thưởng thức ăn cho hành
hoặc làm mất giá nhanh chóng thị trường hoặc được vi mổ/nhấn thanh, các nhà nghiên cứu mô tả việc mổ
giải thích bằng cách kêu gọi các đối số vi cơ cấu thị và nhấn thanh không phải trong các thuật ngữ củng cố
trường. Tuy nhiên, các thiên vị nhận thức cá nhân được và các mối quan hệ kích thích-phản ứng, mà thay vào
phân biệt với những thành kiến xã hội; những người đó trong các thuật ngữ công việc, nhu cầu, ngân sách
cũ có thể được trung bình giá bởi thị trường, trong khi và lao động. Các nghiên cứu gần đây đã thông qua một
người khác có thể tạo ra các vòng phản hồi tích cực mà cách tiếp cận hơi khác, bằng cách lấy một quan điểm
dẫn dắt thị trường đi xa hơn và xa hơn nữa khỏi một có tính chất tiến hóa hơn, với việc so sánh hành vi kinh
trạng thái cân bằng "giá công bằng". Tương tự như vậy, tế của con người với một loài linh trưởng không phải
[23]
đối với một sự bất thường vi phạm hiệu quả thị trường, con người, các con khỉ mũ.
nhà đầu tư phải có khả năng trao đổi chống lại nó và
kiếm được lợi nhuận bất thường; điều này không phải
Các động vật như một tương tự con người
là trường hợp cho một số dị thường.[11]
Một ví dụ cụ thể của sự chỉ trích này xuất hiện trong
một số giải thích của câu đố bù đắp vốn cổ phần. Nó
cho rằng nguyên nhân là các rào cản gia nhập (cả thực
tế và tâm lý) và rằng hoàn vốn giữa cổ phiếu và trái
phiếu nên cân bằng do tài nguyên điện tử mở thị trường
chứng khoán cho nhiều thương nhân hơn.[12] Đáp lại,
những người khác cho rằng hầu hết các quỹ đầu tư tư
nhân được quản lý thông qua các quỹ hưu bổng, bằng
cách giảm thiểu tác động của các rào cản gia nhập giả
định này. Ngoài ra, các nhà đầu tư chuyên nghiệp và
nhà quản lý quỹ dường như nắm giữ trái phiếu nhiều
hơn một mong chờ sự khác biệt hoàn vốn đã định.
Nhiều nghiên cứu trước đây của lý luận kinh tế không
phải con người đã được thực hiện trên chuột và chim
bồ câu trong một buồng điều cụ. Những nghiên cứu
này đã xem xét những thứ như tỷ lệ cú mổ (trong
trường hợp của chim bồ câu) và tỷ lệ nhấn thanh (trong
trường hợp của chuột) tạo điều kiện nhất định cho khen
thưởng. Các nhà nghiên cứu đầu tiên khẳng định, ví
dụ, rằng hình mẫu đáp ứng (tỷ lệ cú mổ/nhấn thanh)
là một tương tự thích hợp đối với cung ứng lao động
con người.[24] Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này
ủng hộ cho sự phù hợp của việc sử dụng hành vi kinh
tế động vật để hiểu các thành phần cơ bản của hành
1.1. CÁC VẤN ĐỀ TRONG KINH TẾ HÀNH VI
vi kinh tế của con người.[25] Trong một báo cáo của
Baalio, Green, và Kagel (1981, p 621),[24] họ viết:
3
hóa là tương tự đối với việc thay đổi giá của một món
hàng hóa trong kinh tế học con người.[26]
Trong thực tế, các kết quả của các nghiên cứu nhu cầu
ở động vật không phải con người là, do yêu cầu nhấn
Cung ứng lao động
thanh (chi phí) tăng lên, động vật nhấn thanh theo số
Môi trường phòng thí nghiệm điển hình để nghiên cứu lần được yêu cầu ít thường xuyên hơn (thanh toán).
cung cấp lao động ở chim bồ câu được thiết lập như sau.
Chim bồ câu đầu tiên bị bỏ đói. Bởi vì động vật đang
đói, thức ăn trở nên rất mong muốn. Chim bồ câu được Hành vi trao đổi của khỉ
đặt trong một buồng điều cụ và thông qua định hướng
và khám phá môi trường của buồng chúng phát hiện Công trình gần đây về hành vi kinh tế ở động vật không
ra rằng bằng cách mổ một đĩa nhỏ nằm ở một bên của phải con người đã tập trung trên những con khỉ mũ. Ở
căn phòng, thức ăn được giao cho chúng. Trong thực đây các nhà nghiên cứu có vẻ ít nghiêng về phía truyền
tế, hành vi mổ trở thành được củng cố, vì nó có liên thống hành vi chủ nghĩa của phòng thí nghiệm tương
quan đến thức ăn. Không lâu sau, chim bồ câu mổ vào tự hành vi người và động vật. ay vào đó, họ cố gắng
đĩa (hoặc kích thích) một cách thường xuyên.
để áp dụng một quan điểm có tính tiến hóa hơn, bằng
Trong trường hợp này, chim bồ câu được cho là “làm cách định vị rằng lý do kinh tế có thể là chức năng cơ
việc” để có thức ăn bằng cách mổ. ức ăn, do đó, được bản, không được đào tạo, và phục vụ một số thích nghi.
coi là tiền tệ. Giá trị của tiền tệ có thể được điều chỉnh Một nghiên cứu gần đây [23] liên quan đến sự giới thiệu
theo nhiều cách, bao gồm cả lượng thức ăn cung cấp, tỷ của một hệ thống tiền tệ trở thành một thuộc địa của
lệ giao thức ăn và các loại thức ăn được cung cấp (một những con khỉ mũ nuôi nhốt. Tiền tệ là trong dạng các
số thức ăn có thể được mong muốn nhiều hơn các thức đồng xu và được quy đổi thành thực phẩm và các mặt
ăn khác).
hàng có thể mua được khác khi được trao đổi với một
Hành vi kinh tế tương tự như điều được quan sát thấy nhà nghiên cứu. Dưới các điều kiện này, các nhà nghiên
trong con người được phát hiện khi những con chim cứu đã nghiên cứu ba tính năng của hoạt động trao đổi
bồ câu đói ngừng làm việc/làm việc ít hơn khi phần của khỉ: cầu, sợ tổn thất và sợ rủi ro. Trong nghiên cứu
thưởng bị giảm. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là này, những con khỉ được trình bày với một số tiền và
tương tự như hành vi cung ứng lao động ở con người. được trình bày một số lượng nhất định của thực phẩm
Đó là giống như con người (người mà, thậm chí đang hoặc hàng hóa khác. Những con khỉ phải nhận tiền và
cần, vẫn sẽ chỉ làm việc nhiều cho một mức lương nhất giao cho người làm thí nghiệm để đổi lấy hàng hóa.
định) chim bồ câu thể hiện giảm trong mổ (làm việc) Trong một điều kiện của thí nghiệm, sau khi con khỉ
đã thanh toán cho hàng hóa, nó có tùy chọn để có một
khi tưởng thưởng (giá trị) bị giảm.[24]
số lượng thực phẩm chắc chắn ngay bây giờ, hoặc đợi
đến khi người làm thí nghiệm làm thay đổi lượng thức
Cầu
ăn được trình bày.
Trong kinh tế học con người, một đường cầu điển hình
là tỉ lệ nghịch. Điều này có nghĩa là giá của một hàng
hóa tăng thì số lượng mà người tiêu dùng có thể mua
giảm. Các nhà nghiên cứu nghiên cứu đường cầu ở
động vật không phải con người như chuột thấy rằng
đường cầu có độ dốc âm, phù hợp với độ dốc của đường
cầu của con người.
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu nhu cầu ở những
con chuột một cách riêng biệt khỏi việc nghiên cứu
cung ứng lao động ở chim bồ câu. Cụ thể, giả sử chúng
ta có các đối tượng thí nghiệm, các con chuột, trong một
căn phòng operant và chúng ta đòi hỏi chúng phải bấm
vào một chốt để nhận được một phần thưởng. Phần
thưởng có thể là thức ăn (viên thức ăn khen thưởng),
nước, hoặc một đồ uống hàng hóa như cola anh đào.
Không giống như các nghiên cứu chim bồ câu trước
đây, khi tương tự công việc là cú mổ và tương tự tiền
tệ là phần thưởng, trong các nghiên cứu về nhu cầu ở
chuột, tương tự tiền tệ là việc nhấn thanh. Trong hoàn
cảnh này, các nhà nghiên cứu cho rằng việc thay đổi số
lượng nhấn thanh cần thiết để có được một món hàng
Trong trường hợp này, người làm thí nghiệm có thể
tăng hoặc giảm lượng thức ăn đã cho. Vì vậy, thiết lập
thí nghiệm này cho phép các nhà nghiên cứu xem xét
hành vi đánh bạc của động vật. Các thí nghiệm do đó
có thể đặt ra những câu hỏi sau đây: con khỉ sẽ lấy
số lượng thực phẩm chắc chắn? Con khỉ sẽ "đánh bạc”
bằng cách chờ đợi cho đến khi người thử nghiệm thay
đổi số lượng thực phẩm hiện nay? yết định của động
vật phụ thuộc vào các hoàn cảnh nào? Kết quả cho thấy
những con khỉ là sợ rủi ro: chúng thích để có số lượng
ban đầu của thực phẩm hơn là chờ đợi người làm thí
nghiệm thay đổi số lượng được trình bày.
Các nhà thực nghiệm giới thiệu một số thao tác khác,
bao gồm cả việc thay đổi ngân sách được phân bổ, thay
đổi chi phí của một số món hàng, thay đổi bản thân các
mục. Cụ thể, các nhà nghiên cứu tìm thấy một sự gia
tăng trong mua hàng và tiêu thụ khi mặt hàng đó giảm
giá trị, một kết quả phù hợp với những điều được tìm
thấy trong kinh tế học con người.[23]
Tóm lại, các kết quả của nghiên cứu này cho thấy các
con khỉ mũ không chỉ sợ rủi ro, mà cũng rất nhạy cảm
4
CHƯƠNG 1. KINH TẾ HỌC HÀNH VI
với các cấu trúc như giá cả, ngân sách, và kỳ vọng chi Allais, ví dụ như trong việc thiết lập ra nghịch lý Allais,
trả. eo các nhà nghiên cứu, các loài động vật không một vấn đề quyết định ông lần đầu tiên giới thiệu vào
được đào tạo để hành xử theo cách này; những hành năm 1953 mà mâu thuẫn với giả thuyết tiện ích dự kiến.
vi này xuất hiện tự nhiên trong môi trường hoạt động
trao đổi. Kết quả là, các nhà nghiên cứu này cho rằng
hành vi và lý luận kinh tế cơ bản có thể không được
đào tạo, bẩm sinh, và tùy thuộc vào chọn lọc tự nhiên.
1.1.5
Tâm lý học tiến hóa
an điểm của tâm lý học tiến hóa là nhiều hạn chế
trong lựa chọn hợp lý dường như có thể được giải thích
như là hợp lý trong bối cảnh tối đa hóa fitness sinh học
trong môi trường của tổ tiên chứ không nhất thiết phải
trong môi trường hiện tại. Vì vậy, khi sống ở mức sinh
hoạt nơi mà một sút giảm tài nguyên có thể có nghĩa là
cái chết nó có thể là hợp lý để đặt một giá trị lớn hơn
lên các thiệt hại hơn lên các thu được. Nó cũng có thể
giải thích các khác biệt giữa các nhóm như nam giới
là ít sợ rủi ro hơn so với nữ giới vì nam giới có nhiều
thành công sinh sản biến đổi hơn so với nữ giới. Trong
khi việc cố gắng rủi ro không thành công có thể hạn
chế thành công sinh sản cho cả hai giới, nam giới có
khả năng có thể gia tăng sinh sản thành công của họ Daniel Kahneman
hơn nhiều so với nữ giới từ việc cố gắng rủi ro thành
Trong những năm 1960 tâm lý học nhận thức bắt đầu
công.[27]
sáng tỏ hơn về não như một thiết bị xử lý thông tin
(trái ngược với mô hình hành vi chủ nghĩa). Các nhà
tâm lý học trong lĩnh vực này, chẳng hạn như Ward
1.2 Lịch sử
Edwards,[32] Amos Tversky và Daniel Kahneman bắt
đầu so sánh các mô hình nhận thức của họ về việc
Trong giai đoạn cổ điển, kinh tế học vi mô có liên quan ra quyết định theo rủi ro và sự không chắc chắn với
chặt chẽ với tâm lý học. Ví dụ: Adam Smith đã viết Lý các mô hình kinh tế của hành vi hợp lý. Trong tâm lý
thuyết về các tình cảm đạo đức, trong đó đề xuất các giải học toán học, có sự quan tâm lâu dài trong transitivity
thích tâm lý của hành vi cá nhân, bao gồm các mối quan của ưu tiên và loại tiện ích quy mô đo lường cấu thành
tâm về sự công bằng và công lý,[28] và Jeremy Bentham (Luce, 2000).[33]
viết rất nhiều về các nền tảng tâm lý của tiện ích. Tuy
nhiên, trong sự phát triển của kinh tế học tân cổ điển
các nhà kinh tế đã tìm cách định hình lại môn học như 1.2.1 Lý thuyết triển vọng
một khoa học tự nhiên, bằng cách suy luận hành vi kinh
tế từ các giả định về bản chất của các tác nhân kinh tế. Trong năm 1979, Kahneman và Tversky đã viết Lý
Họ đã phát triển khái niệm về homo economicus, có thuyết triển vọng: Một phân tích của yết định theo rủi
tâm lý là cơ bản hợp lý. Điều này dẫn đến các sai sót ro, một báo cáo quan trọng sử dụng tâm lý học nhận
ngoài ý muốn và không lường trước được.
thức để giải thích các khác biệt về quyết định kinh tế
[34]
Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế học tân cổ điển quan so với lý thuyết tân cổ điển. Lý thuyết triển vọng có
trọng đã sử dụng các giải thích tâm lý phức tạp hơn, hai giai đoạn, một giai đoạn chỉnh sửa và một giai đoạn
bao gồm Francis Edgeworth, Vilfredo Pareto và Irving đánh giá.
Fisher. Tâm lý học kinh tế nổi lên trong thế kỷ 20 trong
các tác phẩm của Gabriel Tarde,[29] George Katona[30]
and Laszlo Garai.[31] Các mô hình tiện ích dự kiến và
tiện ích giảm giá bắt đầu được chấp nhận, bằng cách tạo
ra giả thuyết có thể kiểm chứng về việc ra quyết định
không chắc chắn đã cho và tiêu thụ liên thời gian tương
ứng. Các bất thường có thể lặp lại và được quan sát cuối
cùng đã thách thức những giả thuyết, và các bước tiếp
theo được thực hiện bởi người đoạt giải Nobel Maurice
Trong giai đoạn chỉnh sửa, những tình huống nguy
hiểm được đơn giản hóa bằng cách sử dụng các chẩn
đoán lựa chọn khác nhau. Trong giai đoạn đánh giá,
các lựa chọn thay thế rủi ro được đánh giá bằng cách sử
dụng các nguyên tắc tâm lý khác nhau bao gồm những
điều sau đây:
1. phụ thuộc tham chiếu: Khi đánh giá kết quả, người
ra quyết định có trong tâm trí một “mức tham
1.2. LỊCH SỬ
5
chiếu”. Kết quả sau đó được so với điểm tham
chiếu và phân loại là “thu được” nếu lớn hơn so
với điểm tham chiếu và “thiệt hại” nếu ít hơn so
với điểm tham chiếu.
Kinh tế học hành vi cũng được áp dụng cho lựa chọn
liên thời gian. Hành vi lựa chọn liên thời gian phần
lớn là không phù hợp, minh chứng bằng chiết khấu
hyperbol của George Ainslie (1975) là một trong những
quan sát nghiên cứu nổi bật, được tiếp tục phát triển bởi
2. lo ngại mất mát: iệt hại tác động nhiều hơn David Laibson, Ted O 'Donoghue, và Mahew Rabin.
so với thu được tương đương. Năm 1979, trong Chiết khấu hyperbolic mô tả xu hướng kết quả giảm
bài báo của họ trên Econometrica, Kahneman và giá trong tương lai gần hơn cho các kết quả trong tương
Tversky tìm thấy hệ số trung bình của sự ác cảm lai xa. Hình mẫu giảm giá này là không phù hợp năng
mất mát vào khoảng 2,25, tức là, thiệt hại gây tác động (hoặc không phù hợp thời gian), và do đó không
động khoảng 2.25 lần nhiều hơn so với thu được phù hợp với các mô hình cơ bản của lựa chọn hợp lý,
tương đương.
vì tỷ lệ chiết khấu giữa thời gian t và t+1 sẽ thấp vào
thời điểm t-1, khi t là tương lai gần, nhưng cao vào thời
3. gia quyền xác suất phi tuyến: Bằng chứng cho
điểm t khi t là hiện tại và thời gian t+1 tương lai gần.
thấy người ra quyết định xem trọng quá mức các
khả năng nhỏ và coi nhẹ các khả năng lớn, điều Hình mẫu thực sự có thể được giải thích thông qua các
này làm nảy sinh nghịch đảo hình S “hàm gia mô hình chiết khấu phụ thêm mà phân biệt sự chậm trễ
và khoảng thời gian chiết khấu: mọi người ít phát ốm
quyền xác suất”.
(mỗi đơn vị thời gian) qua các khoảng thời gian ngắn
4. giảm bớt sự nhạy cảm đối với được và mất: Khi hơn bất kể khi nào chúng xảy ra. Nhiều công trình gần
quy mô của những được và mất giảm tương đối so đây về sự lựa chọn liên thời gian chỉ ra rằng chiết khấu
với điểm tham chiếu tăng trong giá trị tuyệt đối, là một ưu tiên. Chiết khấu bị ảnh hưởng rất nhiều bởi
hiệu ứng biên trên tiện ích của người ra quyết định những kỳ vọng, khung, tập trung, liệt kê suy nghĩ, tâm
hoặc sự hài lòng giảm đi.
trạng, dấu hiệu, lượng glucose, và quy mô được sử dụng
để mô tả những gì được giảm. Một số nhà nghiên cứu
Lý thuyết triển vọng có thể giải thích tất cả mọi thứ mà nổi bật câu hỏi liệu chiết khấu, thông số chủ yếu của
hai lý thuyết quyết định chính hiện có - lý thuyết tiện lựa chọn liên thời gian, có thực sự mô tả những gì mọi
ích dự kiến và tiện ích phụ thuộc vào xếp hạng - có thể người làm khi họ có những lựa chọn với những hậu quả
giải thích. Tuy nhiên, ngược lại là sai. Lý thuyết triển trong tương lai. Liên quan sự thay đổi của tỉ lệ chiết
vọng đã được sử dụng để giải thích một loạt các hiện khấu, đây có thể là vấn đề.
tượng mà lý thuyết quyết định hiện tại có rất nhiều khó
khăn trong việc giải thích. Chúng bao gồm các đường
cong cung ứng lao động uốn ngược, các co giãn giá bất
đối xứng, trốn thuế, đồng chuyển động của giá cổ phiếu 1.2.3 Các khu vực nghiên cứu khác
và tiêu dùng, vv
Trong năm 1992, trên Journal of Risk and Uncertainty,
Kahneman và Tversky đã sửa đổi tài khoản của họ về lý
thuyết triển vọng mà họ gọi là lý thuyết triển vọng tích
lũy. Lý thuyết mới loại bỏ giai đoạn chỉnh sửa trong lý
thuyết triển vọng và chỉ tập trung vào giai đoạn đánh
giá. Đó là tính năng chính là nó cho phép gia quyền xác
suất phi tuyến một cách tích lũy, mà ban đầu được đề
nghị trong lý thuyết tiện ích phụ thuộc cấp bậc của
John iggin. Các đặc điểm tâm lý như quá tự tin,
thiên vị dự phóng, và những ảnh hưởng của sự chú ý bị
hạn chế hiện nay là một phần của lý thuyết. Các phát
triển khác bao gồm một cuộc hội nghị tại Viện Đại học
Chicago,[35] một kinh tế học hành vi phiên bản đặc biệt
của arterly Journal of Economics ('Tưởng nhớ Amos
Tversky') và giải Nobel năm 2002 của Kahneman cho
việc có “những hiểu biết tích hợp từ nghiên cứu tâm
lý vào khoa học kinh tế, đặc biệt là liên quan đến sự
phán xét con người và ra quyết định theo sự không
chắc chắn”.[36]
1.2.2
Lựa chọn liên thời gian
Các nhánh khác của kinh tế học hành vi làm phong phú
thêm mô hình của chức năng tiện ích mà không ám
chỉ sự không thống nhất trong các ưu tiên. Ernst Fehr,
Armin Falk, và Mahew Rabin nghiên cứu "tính công
bằng", "ác cảm bất bình đẳng" và "chủ nghĩa vị tha đối
ứng", bằng cách làm suy yếu các giả định tân cổ điển về
"tính ích kỷ hoàn hảo.” Công trình này đặc biệt áp dụng
đối với việc thiết lập tiền công. Công trình trên "động
lực nội tại” của Gneezy và Rustichini và trên “bản sắc”
của Akerlof và Kranton giả định các tác nhân lấy được
tiện ích từ việc áp dụng các tiêu chuẩn cá nhân và xã
hội bổ sung vào thuyết vị lợi kỳ vọng có điều kiện.
“uyết vị lợi kỳ vọng có điều kiện” là một hình thức
lý luận khi cá nhân có một ảo giác về kiểm soát, và tính
toán xác suất của các sự kiện bên ngoài và do đó tiện
ích như một hàm của hành động của chúng, ngay cả
khi chúng không có khả năng có tính nguyên nhân để
ảnh hưởng đến những sự kiện bên ngoài này.[37][38]
Kinh tế học hành vi được công chúng đón nhận, với sự
thành công của các cuốn sách như Predictably Irrational
của Dan Ariely. Các người thực hành của môn học đã
nghiên cứu các chủ đề chính sách bán công như lập bản
đồ băng thông rộng.[39][40]
6
CHƯƠNG 1. KINH TẾ HỌC HÀNH VI
1.3 Những lời chỉ trích
Các nhà phê bình của kinh tế học hành vi thường nhấn
mạnh tính hợp lý của các tác nhân kinh tế.[41] Họ cho
rằng hành vi được quan sát bằng thực nghiệm đã hạn
chế áp dụng cho các tình thế thị trường, như các cơ hội
học tập và cạnh tranh đảm bảo ít nhất một ước lượng
gần xấp xỉ hành vi hợp lý.
Những người khác lưu ý rằng các lý thuyết nhận thức,
chẳng hạn như lý thuyết triển vọng, là các mô hình của
ra quyết định, không tổng quát hóa hành vi kinh tế, và
chỉ có thể áp dụng cho các loại vấn đề ra quyết định một
lần được trình bày cho đối tượng tham gia thí nghiệm
hoặc khảo sát.
Các nhà kinh tế truyền thống cũng hoài nghi về các
kỹ thuật thực nghiệm và dựa trên khảo sát mà kinh tế
học hành vi sử dụng rộng rãi. Các nhà kinh tế thường
nhấn mạnh các ưu tiên tiết lộ trên các ưu tiên tuyên bố
(từ các cuộc điều tra) trong việc xác định giá trị kinh
tế. Các thí nghiệm và các cuộc điều tra có nguy cơ của
các thiên vị hệ thống, hành vi chiến lược và thiếu tính
tương thích khuyến khích.
• Ernst Fehr
• Daniel Kahneman
• Laszlo Garai
• David Laibson
• George Loewenstein
• Sendhil Mullainathan[44]
• Drazen Prelec
• Mahew Rabin
• Herbert A. Simon
• Paul Slovic
• Vernon L. Smith
• Larry Summers[45]
• Richard aler
Rabin (1998)[42] bác bỏ những lời chỉ trích này, cho rằng
• Amos Tversky
các kết quả phù hợp thường thu được trong nhiều tình
• Peter Wakker
huống và khu vực địa lý và có thể tạo ra cái nhìn sâu
sắc lý thuyết tốt. Các nhà kinh tế học hành vi cũng đã
• Sanjit Dhami
phản ứng với những lời chỉ trích bằng cách tập trung
vào nghiên cứu lĩnh vực chứ không phải là phòng thí
• John iggin
nghiệm. Một số nhà kinh tế nhìn thấy một ly giáo cơ
bản giữa kinh tế học thực nghiệm và kinh tế học hành
vi, nhưng các nhà kinh tế hành vi và thực nghiệm nổi 1.4.2 Tài chính
tiếng có xu hướng chia sẻ các kỹ thuật và phương pháp
tiếp cận trong việc trả lời các câu hỏi chung. Ví dụ, các
• Malcolm Baker
nhà kinh tế hành vi đang tích cực điều tra kinh tế học
thần kinh, đó là hoàn toàn thực nghiệm và chưa được
• Nicholas Barberis
xác nhận trong lĩnh vực này
• Gunduz Caginalp
Những người ủng hộ khác của kinh tế học hành vi lưu
ý rằng các mô hình tân cổ điển thường không dự đoán
• David Hirshleifer
kết quả trong bối cảnh thế giới thực. Hiểu biết sâu sắc
về hành vi có thể ảnh hưởng đến các mô hình tân cổ
• Andrew Lo
điển. Các nhà kinh tế hành vi lưu ý rằng các mô hình
sửa đổi này không chỉ đạt được những dự báo chính xác
• Michael Mauboussin
giống như các mô hình truyền thống, mà còn dự đoán
• Terrance Odean
chính xác một số kết quả mà các mô hình truyền thống
thất bại.
• Richard L. Peterson
1.4 Các nhà lý thuyết kinh tế học
hành vi đáng chú ý
• Charles Plo
• Hersh Shefrin
• Robert Shiller
1.4.1
Kinh tế học
• Andrei Shleifer
• Dan Ariely[43]
• Richard aler
• Colin Camerer
• Robert Vishny
1.6. CHÚ THÍCH
1.5 Xem thêm
7
1.6 Chú thích
• Giả thuyết thị trường thích ứng
[1] Search of behavioural economics at (2008-) e New
Palgrave Dictionary of Economics Online.
• Chủ nghĩa hành vi
[2] Shefrin 2002
• Tài chính hành vi
[3] Kirkpatrick 2007, tr. 49
• Nghiên cứu hoạt động hành vi
[4] Genesove & Mayer, 2001
• iên vị nhận thức
• Tâm lý học nhận thức
• iên vị chứng nhận
• Kinh tế học văn hóa
• ay đổi văn hóa
• Xã hội học kinh tế
• iên vị cảm xúc
• Kinh tế học thực nghiệm
• Tài chính thực nghiệm
[5] Benartzi 1995
[6] J. Sco Armstrong, Nicole Coviello and Barbara
Safranek (1993). “Escalation Bias: Does It Extend to
Marketing?” (PDF). Journal of the Academy of Marketing
Science, 21 (3): 247–352. doi:10.1177/0092070393213008.
[7] “Dr. Donald A. Balenovich”. Indiana University of
Pennsylvania, Mathematics Department.
[8] “Ahmet Duran”. Department of
University of Michigan-Ann Arbor.
Mathematics,
[9] “Dr Ray R. Sturm, CPA”. College of Business
Administration.
[10] Tang, David (ngày 6 tháng 5 năm 2013). “Why People
Won’t Buy Your Product Even ough It’s Awesome”.
Flevy. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2013.
[11] Fama on Market Efficiency in a Volatile Market
• Lý thuyết dấu vết mờ
[12] See Freeman, 2004 for a review
• ói quen
[13] R. J. Aumann (2008). “game theory,” e New Palgrave
Dictionary of Economics, 2nd Edition. Abstract.
• iên vị nhận thức muộn
• Các ấn phẩm quan trọng trong tài chính (kinh tế
học) hành vi
• Tạp chí Tài chính hành vi
• Danh sách những thành kiến nhận thức
• Chủ nghĩa cá nhân phương pháp luận
• Kinh tế học thần kinh
• Kỹ thuật quan sát
• Hành vi học
• Tính hợp lý
• Chi phí ác cảm
• Kinh tế học xã hội
• Dư luận xã hội học
[14] Colin F. Camerer and Teck-Hua Ho (1994). “Violations
of the Betweenness Axiom and Nonlinearity in
Probability,” Journal of Risk and Uncertainty, 8(2), pp.
167–196.
[15] James Andreoni et al. (2008). “altruism in experiments,”
e New Palgrave Dictionary of Economics, 2nd Edition.
Abstract.
[16] H. Peyton Young (2008). “social norms,” e New
Palgrave Dictionary of Economics, 2nd Edition. Abstract.
[17] Colin F. Camerer (1997). “Progress in Behavioral Game
eory,” Journal of Economic Perspectives, 11(4), p. 172
[pp. 167–188.
[18]
• William H. Sandholm (2008). “learning and
evolution in games: an overview,” e New
Palgrave Dictionary of Economics, 2nd Edition.
Abstract.
* Teck H. Ho (2008). “Individual learning
in games,” e New Palgrave Dictionary of
Economics, 2nd Edition. Abstract.
[19] Martin Dufwenberg and Georg Kirchsteiger (2004). “A
eory of Sequential reciprocity,” Games and Economic
Behavior, 47(2), pp. 268–298. Abstract.
8
[20]
CHƯƠNG 1. KINH TẾ HỌC HÀNH VI
• Faruk Gul (2008). “behavioural economics and
game theory,” e New Palgrave Dictionary of
Economics, 2nd Edition. Abstract.
* Colin F. Camerer (2008). “behavioral game
theory,” e New Palgrave Dictionary of
Economics, 2nd Edition. Abstract.
[32] “Ward Edward Papers”. Archival Collections. Bản gốc
lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25
tháng 4 năm 2008.
[33] Luce 2000
[34] Kahneman 2003
[21] • Colin F. Camerer (2003). Behavioral Game eory,
Princeton. Description, preview ([ctrl]+), and ch. 1 link.
* _____, George Loewenstein, and Mahew Rabin, ed.
(2003). Advances in Behavioral Economics, Princeton.
1986–2003 papers. Description, contents, and preview.
* Drew Fudenberg (2006). “Advancing Beyond
Advances in Behavioral Economics,” Journal of Economic
Literature, 44(3), pp. 694–711.
* Vincent P. Crawford (1997). “eory and Experiment
in the Analysis of Strategic Interaction,” in Advances in
Economics and Econometrics: eory and Applications,
pp. 206–242. Cambridge. Reprinted in Camerer et al.
(2003), Advances in Behavioral Economics, Princeton,
ch. 12.
* Martin Shubik (2002). “Game eory and
Experimental Gaming,” in R. Aumann and S. Hart, ed.,
Handbook of Game eory with Economic Applications,
Elsevier, v. 3, pp. 2327–2351. Abstract.
• Charles R. Plo và Vernon L. Smith, ed. (2008).
Handbook of Experimental Economics Results, v. 1,
Elsevier, Part 4, Games preview and ch. 45–66 preview
links.
* Games and Economic Behavior, Elsevier. Aims and
scope and, article-preview links by year and issue.
[35] Hogarth 1987
[22] Ferster, C.B. et al. (1957). Schedules of Reinforcement.
New York: Appleton-Century-Cros.
[41] see Myagkov and Plo (1997) amongst others
[23] Chen, M.K. et al. (2006). How basic are behavioral
biases? Evidence from capuchin monkey trading
behavior. J. Political Economy, 114 (3) 517–537.
[36] “Nobel Laureates 2002”. Nobelprize.org. Bản gốc lưu trữ
ngày 10 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 4
năm 2008.
[37] Grafstein R (1995). “Rationality as Conditional Expected
Utility Maximization”. Political Psychology 16 (1): 63–80.
JSTOR 3791450. doi:10.2307/3791450.
[38] Shafir E, Tversky A (1992). “inking through
uncertainty: nonconsequential reasoning and choice”.
Cognitive Psychology 24 (4): 449–474. PMID 1473331.
doi:10.1016/0010-0285(92)90015-T.
[39] “US National Broadband Plan: good in theory”. Telco 2.0.
Ngày 17 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 9
năm 2010. … Sara Wedeman’s awful experience with
this is instructive….
[40] Gordon Cook, Sara Wedeman (ngày 1 tháng 7
năm 2009). “Connectivity, the Five Freedoms, and
Prosperity”. Community Broadband Networks. Truy cập
ngày 23 tháng 9 năm 2010. In this report, Gordon Cook
interviews Sara Wedeman, a mapping expert who also
works in behavioral economics
[42] Rabin & 1998 11–46
[43] “Predictably Irrational”. Dan Ariely. Bản gốc lưu trữ
ngày 13 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 4
năm 2008.
[24] Baalio, R.C. et al. (1981). Income–leisure tradeoffs of
animal workers. Am. Economic Review, 71 (4) 621–632.
[44] Sendhil Mullainathan: Solving social problems with a
nudge
[25] Kagel, J H. et al. (1995). Economic Choice eory: An
Experimental Analysis of Animal Behavior. New York:
Cambridge University Press Syndicate.
[45] How Obama Is Using the Science of Change. Michael
Grunwald, TIME, ngày 2 tháng 4 năm 2009.
[26] Kagel, J.H. et al. (1981). Demand curves for animal
consumers. arterly Journal of Economics, 96 (1), 1–16.
1.7 Tham khảo
[27] Paul H. Rubin and C. Monica Capra. e evolutionary
psychology of economics. In
Hoàn thành chú thích này
[28] Nava Ashraf, Colin F. Camerer, and George
Loewenstein (2005). “Adam Smith, Behavioral
Economist,” Journal of Economic Perspectives, 19(3), p.
142. [pp. 131-145.
[29] Tarde, G. Psychologie économique (1902),
[30] e Powerful Consumer: Psychological Studies of the
American Economy. 1960.
[31] Garai,L. Identity Economics – An Alternative Economic
Psychology. 1990–2006.
• Ainslie, G. (1975). “Specious Reward: A Behavioral
/eory of Impulsiveness and Impulse Control”.
Psychological Bulletin 82 (4): 463–496. PMID
1099599. doi:10.1037/h0076860.
• Barberis, N.; Shleifer, A.; Vishny, R. (1998). “A
Model of Investor Sentiment”. Journal of Financial
Economics 49 (3): 307–343. doi:10.1016/S0304405X(98)00027-0. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng
4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.
• Becker, Gary S., Gary S. (1968). “Crime and
Punishment: An Economic Approach”. e
Journal of Political Economy 76 (2): 169–217.
doi:10.1086/259394.
1.8. LIÊN KẾT NGOÀI
9
• Benartzi, Shlomo; aler, Richard H. (1995).
“Myopic Loss Aversion and the Equity Premium
Puzzle”. e arterly Journal of Economics (e
MIT Press) 110 (1): 73–92. JSTOR 2118511.
doi:10.2307/2118511.
Bernheim, B. Douglas; Rangel, Antonio. |tựa
đề= trống hay bị thiếu (trợ giúp) “Behavioral
public economics.”
• Cunningham, Lawrence A. (2002). “Behavioral
Finance and Investor Governance”. Washington
& Lee Law Review 59: 767. ISSN 1942-6658.
doi:10.2139/ssrn.255778.
Simon, Herbert A. |tựa đề= trống hay bị thiếu
(trợ giúp) “Rationality, bounded.”
• Diamond, Peter A., and Hannu Vartiainen, ed.
(2007). Behavioral Economics and its Applications.
Description and preview.
• Daniel, K.; Hirshleifer, D.; Subrahmanyam, A.
(1998). “Investor Psychology and Security Market
Under- and Overreactions”. Journal of Finance 53
(6): 1839–1885. doi:10.1111/0022-1082.00077.
• Garai Laszlo. Identity Economics – An Alternative
Economic Psychology. 1990–2006.
• Hens, orsten; Bachmann, Kremena (2008).
Behavioural Finance for Private Banking. Wiley
Finance Series. ISBN 0-470-77999-3.
• Hogarth, R. M.; Reder, M. W. (1987). Rational
Choice: e Contrast between Economics and
Psychology. Chicago: University of Chicago Press.
ISBN 0-226-34857-1.
• Kahneman, Daniel; Tversky, Amos (1979).
“Prospect eory: An Analysis of Decision under
Risk”. Econometrica (e Econometric Society) 47
(2): 263–291. JSTOR 1914185. doi:10.2307/1914185.
• Kahneman, Daniel; Ed Diener (2003). Well-being:
the foundations of hedonic psychology. Russell Sage
Foundation. Đã định rõ hơn một tham số trong
|authorlink1= và |authorlink= (trợ giúp)
Bloomfield, Robert. |tựa đề= trống hay bị
thiếu (trợ giúp) “Behavioral finance.”
• Mullainathan, S.; aler, R. H. (2001). “Behavioral
Economics”. International Encyclopedia of the
Social & Behavioral Sciences. tr. 1094–1100.
Abstract.
• Plo, Charles R., and Vernon L. Smith, ed. (2008).
Handbook of Experimental Economics Results, v. 1,
Elsevier. Chapter-preview links.
• Rabin, Mahew (1998). “Psychology and
Economics”. Journal of Economic Literature
36 (1): 11–46. Press +.
• Schelling, omas C. (2006 [1978]). Micromotives
and Macrobehavior, Norton. Description, preview.
• Shleifer, Andrei (1999). Inefficient Markets: An
Introduction to Behavioral Finance. New York:
Oxford University Press. ISBN 0-19-829228-7.
• Simon, Herbert A. (1987). “Behavioral
Economics”. e New Palgrave: A Dictionary
of Economics 1. tr. 221–24.
• aler, Richard H., and Sendhil Mullainathan
(2008). “Behavioral Economics,” e Concise
Encyclopedia of Economics, 2nd Edition. Liberty
Fund.
1.8 Liên kết ngoài
• Kirkpatrick, Charles D.; Dahlquist, Julie R. (2007).
Technical Analysis: e Complete Resource for
Financial Market Technicians. Upper Saddle River,
NJ: Financial Times Press. ISBN 0-13-153113-1.
• Overview of Behavioral Finance
• Kuran, Timur (1995). Private Truths, Public Lies:
e Social Consequences of Preference Falsification,
Harvard University Press. Description and
chapter-preview links.
• Society for the Advancement of Behavioural
Economics
• Luce, R Duncan (2000). Utility of Gains and
Losses: Measurement-theoretical and Experimental
Approaches. Mahwah, New Jersey: Lawrence
Erlbaum Publishers. ISBN 0-8058-3460-5.
• A History of Behavioural Finance / Economics in
Published Research: 1944–1988
• e New Palgrave Dictionary of Economics (2008),
2nd Edition. Abstract links:
Augier, Mie. |tựa đề= trống hay bị thiếu (trợ
giúp) “Simon, Herbert A. (1916–2001).”
• Geary Behavioural Economics Blog, of the Geary
Institute at University College Dublin
• Behavioral Economics: Past, Present, Future –
Colin F. Camerer and George Loewenstein
Chương 2
Kinh tế học quốc tế
Kinh tế học quốc tế là một bộ môn khoa học, một
chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc
lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học quốc
tế được phát triển suốt từ thế kỷ XVIII và đã quy tụ được
nhiều học giả kinh tế học nổi tiếng như Adam Smith,
David Ricardo, John Stuart Mill, Alfred Marshall, John
Maynard Keynes, và Paul A. Samuelson. Tuy nhiên, chỉ
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với việc ứng dụng
các công cụ kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô,
kinh tế học quốc tế mới trở nên phát triển sâu và rộng.
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Kinh tế học quốc tế nghiên cứu sự phụ thuộc kinh tế
giữa các quốc gia, phân tích dòng chảy hàng hóa, dịch
vụ và thanh toán giữa một quốc gia với phần còn lại
của thế giới, chính sách định hướng cho các dòng chảy
này ảnh hưởng của chúng đối với phúc lợi của quốc gia.
Sự phụ thuộc kinh tế của các quốc gia này ảnh hưởng
và bị ảnh hưởng bởi các quan hệ chính trị kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh giữa các quốc gia.
Kinh tế học quốc tế nghiên cứu học thuyết thương
mại quốc tế, chính sách thương mại quốc tế, thị trường
ngoại hối và cán cân thanh toán, kinh tế vĩ mô trong
nền kinh tế mở. Học thuyết thương mại quốc tế phân
tích cơ sở và những thu nhập từ thương mại quốc tế.
Chính sách thương mại quốc tế phân tích nguyên nhân
ảnh hưởng của các trở ngại thương mại và chủ nghĩa
bảo hộ mới. Nghiên cứu thị trường ngoại hối trên khía
cạnh là hệ thống cho sự trao đổi đồng tiền một quốc
gia này cho một quốc gia khác. Trong khi đó, cán cân
thanh toán đo lường phần nhận được và chi trả của một
quốc gia với phần còn lại của thế giới. Cuối cùng, kinh
tế vĩ mô trong kinh tế mở phân tích cơ chế điều chỉnh
cán cân thanh toán trong sự tác động sự phụ thuộc kinh
tế giữa các quốc gia với sự khác nhau của các hệ thống
tiền tệ và ảnh hưởng của chúng lên phúc lợi của quốc
gia.
phần nhận được và chi trả trong khi các chính sách điều
chỉnh ảnh hưởng mức thu nhập và chỉ số giá chung,
chúng mô tả các khía cạnh kinh tế vĩ mô của Kinh tế
học quốc tế, đó là nói kinh tế vĩ mô trong kinh tế mở
hay tài chính quốc tế.
Kinh tế học quốc tế lại chia thành hai mảng lớn là
thương mại quốc tế và tài chính quốc tế.
ương mại quốc tế nghiên cứu các lý luận về thương
mại quốc tế, chính sách thương mại quốc tế. Các lý
luận thương mại quốc tế quan trọng là thuyết về lợi
thế so sánh, mô hình Heckscher-Ohlin (cùng với định
lý Stolper-Samuelson), v.v…
Còn tài chính quốc tế nghiên cứu về thị trường ngoại
hối và cán cân thanh toán. Các lý luận chính trong
mảng tài chính quốc tế bao gồm từ thuyết sức mua
tương đương của kinh tế học cổ điển đến thuyết lựa
chọn động cơ tài sản của kinh tế học Keynes, rồi
các định lý Balassa-Sammuelson. Dựa trên các thuyết
này, tài chính quốc tế còn nghiên cứu về chính sách
tài chính quốc tế thông qua các mô hình MundellFlemming và mô hình AA-DD. Tài chính quốc tế còn
nghiên cứu cả nguyên nhân của khủng hoảng cán cân
thanh toán và đề xuất các chính sách phòng ngừa.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Các quan hệ kinh tế quốc tế khác nhau và các quan hệ
kinh tế trong khu vực, đòi hỏi các công cụ khác nhau
phân tích và điều chỉnh kinh tế quốc tế như một nhánh
của kinh tế học.
Việc nghiên cứu Kinh tế học quốc tế theo các nguyên
tắc và học thuyết nhằm tăng hiểu biết về thương mại
quốc tế. Những mô tả được thể hiện qua nhiều trực giác,
đồng thời trên cơ sở kế thừa kiến thức về kinh tế học
vĩ mô và kinh tế học vi mô.
Học thuyết và các chính sách thương mại quốc tế là
khía cạnh kinh tế vi mô của Kinh tế học quốc tế, vì
chúng phân tích với các quốc gia cụ thể, được xem xét
như một đơn vị riêng và với giá cả của hàng hoá cụ thể.
Trên phương diện khác, cán cân thanh toán nghiên cứu
10
• ương mại quốc tế áp dụng các phương pháp và
công cụ nghiên cứu của kinh tế học vi mô.
• Tài chính quốc tế áp dụng các phương pháp và
công cụ nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô.hii
2.5. HỌC THUYẾT LỢI THẾ TUYỆT ĐỐI CỦA ADAM SMITH
11
2.3 Các học thuyết thương mại
quốc tế
tài nguyên có thể cung cấp cho sản xuất và dịch vụ.
Nguồn lực này càng phong phú, sử dụng càng có hiệu
quả thì dòng chảy hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn con
người càng dồi dào, tiêu chuẩn sống của quốc gia càng
Mục đích của các học thuyết kinh tế nói chung là dự cao.
báo và giải thích. Học thuyết kinh tế được trừu tượng
Có nhiều lý do về sự mơ ước của các nhà trọng thương
hóa từ các chi tiết của môi trường. Vì vậy cần phân tích
trong việc tích lũy vàng bạc, điều này có thể hiểu được
sự kiện kinh tế nhằm mục đích tập trung một số biến
vì các nhà trọng thương viết theo nhà cầm quyền và để
số và các mối quan hệ mô tả những điểm quan trọng
tăng khả năng của quốc gia. Có nhiều vàng bạc sẽ có
nhất trong dự báo và giải thích sự kiện.
quyền lực và quân đội mạnh củng cố khả năng của họ;
Sự phát triển của các học thuyết thương mại từ thế kỷ tăng cường quân đội và hải quân cũng tạo điều kiện cho
17 tới đầu thế kỷ 20. Sự tiếp cận lịch sử này hữu ích họ có được nhiều thuộc địa. Đồng thời, có nhiều tiền
không chỉ vì các quốc gia quan tâm tới lịch sử về các vàng cũng có nghĩa là khả năng buôn bán cao hơn, bằng
học thuyết thương mại quốc tế, mà còn mở rộng cách khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu Chính phủ
tiếp cận kế thừa các khái niệm và học thuyết về thương có thể khuyến khích sản lượng quốc dân và công ăn
mại quốc tế từ cổ điển đến hiện đại, từ lý luận đến thực việc làm.
tiễn. Có hai vấn đề đặt ra và là cơ sở cho việc nghiên
Học thuyết kinh tế trọng thương ủng hộ sự kiểm soát
cứu kinh tế học quốc tế là:[1]
chặt chẽ của Chính phủ về các hoạt động kinh tế và
tăng cường chủ nghĩa dân tộc về kinh tế bởi vì họ tin
1. Điều gì là cơ sở cho thương mại? ặng dư thu được tưởng rằng một quốc gia có thể thu được thặng dư từ
từ thương mại như thế nào? Một quốc gia tham gia thương mại chỉ khi chiếm đoạt được của nước khác (vì
vào thương mại quốc tế chỉ khi quốc gia đó thu được thương mại là một cuộc chơi có tổng lợi ích không đổi).
lợi ích từ thương mại, lợi ích thu được từ thương an điểm này quan trọng vì hai lý do:
mại đã được hình thành ra như thế nào? Lợi ích đó
lớn đến mức nào và chúng được phân bổ giữa các
1. ứ nhất, ý tưởng của Adam Smith, David Ricardo
nước có tham gia thương mại như thế nào?
và các nhà kinh tế học cổ điển khác có thể hiểu một
2. Dòng hàng hóa xuất nhập khẩu theo hướng nào?
Những hàng hóa nào được trao đổi, những hàng
hóa nào được xuất khẩu, được nhập khẩu của một
quốc gia?
2.4 Học thuyết kinh tế trọng
thương
Học thuyết kinh tế của trường phái trọng thương đã
chiếm được sự ưu thế trong thế kỷ 17 và 18.
Nội dung của học thuyết này là một quốc gia để trở nên
giàu có phải xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. ặng dư
xuất khẩu được thu hồi trở lại bằng tiền tệ thực là vàng
bạc. Một quốc gia càng nhiều vàng bạc thì càng là quốc
gia giàu có. Vì vậy, Chính phủ phải làm tất cả trong khả
năng có được để khuyến khích xuất khẩu đồng thời hạn
chế nhập khẩu (đặc biệt là nhập khẩu những hàng hóa
xa xỉ). Mặc dù vậy, các quốc gia không thể cải thiện
được thặng dư thương mại của họ, và tổng số vàng bạc
vẫn cố định. Một quốc gia có thể thu được thặng dư từ
sự chi trả của các quốc gia khác, các nhà trọng thương
đã thuyết giáo chủ nghĩa dân tộc về kinh tế, tin tưởng
như họ đã lý luận, các lợi ích quốc gia bị xung đột lẫn
nhau.
Học thuyết kinh tế trọng thương đo lường sự giàu có
của một quốc gia bởi số lượng vàng mà quốc gia đó có.
Ngược lại, ngày nay sự giàu có của một quốc gia được
đo lường bởi khả năng của họ về nguồn lực con người,
cách tốt nhất nếu họ trong vị trí phản bác lại quan
điểm trường phái trọng thương về thương mại và
về vai trò của Chính phủ;
2. ứ hai, hiện nay dường như có sự phục hồi của
trường phái trọng thương mới, khi các quốc gia vấp
phải nạn thất nghiệp cao có khuynh hướng hạn chế
nhập khẩu để thúc đẩy sản xuất trong nước và công
ăn việc làm.
2.5 Học thuyết lợi thế tuyệt đối của
Adam Smith
Học thuyết này bắt đầu với sự thật giản đơn, hai quốc
gia trao đổi thương mại trên cơ sở tình nguyện thì cả
hai quốc gia đều thu được từ thặng dư. Nếu một quốc
gia không thu được gì, hoặc bị lỗ, họ sẽ từ chối thương
mại. ặng dư qua lại từ thương mại đã được phát sinh
và chuyển dịch như thế nào?
2.5.1 Lợi thế tuyệt đối
• ương mại giữa hai quốc gia được dựa trên cơ sở
lợi thế tuyệt đối. Khi một quốc gia sản xuất một
hàng hóa có hiệu quả hơn so với quốc gia khác
nhưng kém hiệu quả hơn trong sản xuất hàng hóa
thứ hai, hai quốc gia có thể thu được lợi ích bằng
cách mỗi quốc gia chuyên môn hóa sản xuất và
xuất khẩu hàng hóa có lợi thế tuyệt đối, nhập khẩu
12
CHƯƠNG 2. KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ
hàng hóa không có lợi thế. ông qua quá trình
này, các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu
quả nhất và sản lượng của cả hai hàng hóa đều
tăng. Sự tăng lên về sản lượng của hai hàng hóa
này do lượng thặng dư từ chuyên môn hóa trong
sản xuất được phân bố lại giữa hai quốc gia thông
qua thương mại.
• eo khía cạnh này, một quốc gia cũng tương tự
như một cá nhân, không nên cố gắng sản xuất tất
cả hàng hóa cho mình, mà nên tập trung sản xuất
hàng hóa mình có sở trường nhất, đem trao đổi
một phần sản phẩm đó lấy sản phẩm khác cần
dùng, theo cách này tổng sản lượng của các cá
nhân cộng lại sẽ tăng, phúc lợi của mỗi các nhân
cũng tăng.
• Như vậy, trong khi học thuyết kinh tế trọng
thương tin tưởng một quốc gia chỉ có thể thu được
thặng dư từ thương mại bằng cách tước đoạt của
nước khác và ủng hộ sự quản lý chặt chẽ của
Chính phủ về hoạt động kinh tế và thương mại,
thì Học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
tin tưởng rằng một quốc gia có thể thu được thặng
dư từ thương mại và ủng hộ mạnh mẽ cho chính
sách tự do kinh doanh. ương mại tự do có thể
làm cho nguồn lực của thế giới được sử dụng một
cách hữu hiệu nhất và có thể tối đa hóa phúc lợi
toàn thế giới. Có thể có một vài trường hợp ngoại
lệ bằng cách tự do kinh doanh, một trong số này là
sự bảo hộ các ngành công nghiệp quan trọng của
quốc gia. Dường như có nghịch lý là ngày nay hầu
hết các quốc gia sử dụng nhiều biện pháp hạn chế
thương mại tự do. Các biện pháp hạn chế thương
mại được tỷ lệ hóa theo phúc lợi của quốc gia. Trên
thực tế, các biện pháp hạn chế thương mại được
một số ngành công nghiệp và những công nhân
của ngành đó những người bị tổn thất vì hàng
nhập khẩu ủng hộ. Như vậy, các biện pháp hạn
chế thương mại tạo ra lợi ích cho thiểu số nhưng
làm tổn thất tới đa số (những người phải trả giá
cao hơn để cạnh tranh với hàng hoá trong nước).
2.5.2
Minh họa về Lợi thế tuyệt đối
• Bảng số liệu bên cho thấy một giờ lao động sản
xuất được 6 dạ lúa mì tại Hoa Kỳ, nhưng chỉ được
một dạ tại Anh. Ngược lại, một giờ lao động sản
xuất được 5 thước vải tại Anh nhưng chỉ được 4
thước vải tại Hoa Kỳ. Như vậy Hoa Kỳ có hiệu quả
hơn hay nói cách khác, có lợi thế hơn so với Anh
trong sản xuất lúa mì, đồng thời kém lợi thế trong
sản xuất vải; trong khi đó, Anh có hiệu quả hơn
trong sản xuất vải nhưng kém hiệu quả hơn trong
sản xuất lúa mỳ so với Hoa Kỳ. Khi đó, thương mại
Hoa Kỳ sẽ chuyên môn hóa trong sản xuất lúa mỳ,
đem một phần lúa mì trao đổi với Anh để lấy vải;
còn ở Anh thì ngược lại.
• Với tương quan trao đổi giữa Hoa Kỳ và Anh, là
một dạ lúa mỳ đổi được một thước vải, nếu Mỹ trao
đổi 6 dạ lúa mỳ lấy 6 thước vải, họ sẽ thu thêm
được 2 thước vải hoặc tiết kiệm được 1/2 giờ lao
động (vì tại Hoa Kỳ nếu đổi 6 dạ lúa mì chỉ được 4
thước vải sản xuất trong nước). Tương tự như vậy,
tại Anh, 6 dạ lúa mỳ nhận được của Mỹ tương ứng
6 giờ lao động của Anh, 6 giờ lao động này có thể
sản xuất ra được 30 thước vải (vì tại Anh mỗi giờ
lao động sản xuất được 5 thước vải). Sau khi sử
dụng 6 thước vải trao đổi với Mỹ, họ còn thu được
24 thước vải, hoặc tiết kiệm được 5 giờ lao động.
• Điều quan trọng ở đây không phải là Anh thu được
nhiều thặng dư hơn Hoa Kỳ, mà điều quan trọng là
cả Hoa Kỳ và Anh có thể đều thu được từ chuyên
môn hóa trong sản xuất và thương mại.
Lợi thế tuyệt đối, tuy vậy, chỉ giải thích được một phần
nhỏ thương mại hiện tại như thương mại giữa các nước
phát triển và các nước đang phát triển. Hầu hết thương
mại thế giới, đặc biệt thương mại giữa các nước phát
triển với nhau, không thể giải thích được bằng học
thuyết về lợi thế tuyệt đối.
2.6 Học thuyết lợi thế so sánh của
David Ricardo
Học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo dựa vào
y luật về lợi thế so sánh. Đây là một trong những
quy luật kinh tế quan trọng nhất được ứng dụng rộng
rãi, chưa có sự thay đổi. Học thuyết nghiên cứu khái
niệm về lợi thế so sánh, đưa ra lợi thế so sánh về số,
phần phân tích cho thấy cả hai quốc gia đều có thể thu
được thặng dư nếu mỗi quốc gia chuyên môn hóa trong
sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có lợi thế so sánh.
2.6.1 Quy luật về lợi thế so sánh
• Một quốc gia sản xuất cả hai hàng hóa đều kém
hiệu quả hơn quốc gia kia vẫn có thể thu được lợi
ích thương mại. ốc gia đó sẽ tập trung sản xuất
và xuất khẩu hàng hóa kém lợi thế ít hơn, và nhập
khẩu hàng hóa kém lợi thế nhiều hơn. Chi tiết về
quy luật này có thể phân tích qua số liệu ở bảng
bên.
• Bảng số liệu này trình bày, Anh hiện nay chỉ sản
xuất được 2 thước vải trong một giờ lao động.
Nước Anh không có lợi thế tuyệt đối trong sản
xuất cả hai hàng hóa khi so sánh với Hoa Kỳ vì
hao phí lao động trong sản xuất cả hai hàng hóa
đều cao hơn Hoa kỳ. Tuy vậy, tại Anh hao phí lao
động trong sản xuất vải chỉ lớn gấp hai lần, trong
khi hao phí lao động trong sản xuất lúa mỳ lớn
gấp sáu lần so với Hoa Kỳ, nước Anh có lợi thế so
2.6. HỌC THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH CỦA DAVID RICARDO
sánh trong sản xuất vải. Hoa Kỳ có lợi thế tuyệt
đối trong cả hai loại hàng hóa so với Anh, nhưng
lợi thế tuyệt đối lớn hơn trong sản xuất lúa mỳ
(6/1) so với sản xuất vải (4/2), Hoa Kỳ có lợi thế so
sánh trong sản xuất lúa mỳ. Tóm lại, lợi thế tuyệt
đối của Hoa Kỳ lớn hơn trong lúa mỳ, vì vậy Hoa
Kỳ có lợi thế so sánh trong sản xuất lúa mỳ. Bất lợi
thế tuyệt đối của Anh nhỏ hơn trong sản xuất vải,
Anh có lợi thế so sánh trong sản xuất vải. eo
quy luật về lợi thế so sánh, cả hai quốc gia có thể
thu được thặng dư nếu Hoa Kỳ chuyên môn hóa
trong sản xuất lúa mỳ và xuất khẩu một phần lúa
mỳ để nhập khẩu vải của Anh, còn Anh chuyên
môn hoá trong sản xuất và xuất khẩu vải.
• Trong mô hình chỉ có hai quốc gia, hai hàng hóa,
nếu một quốc gia có lợi thế so sánh trong hàng
hóa này thì quốc gia kia sẽ có lợi thế so sánh trong
hàng hóa thứ hai.
2.6.2
Thặng dư từ thương mại
• Hoa Kỳ sẽ không cải thiện được mức sống nếu
họ đổi 6 dạ lúa mỳ lấy 4 thước vải tại Anh, vì
tương quan trao đổi này đúng bằng tương quan
trong quốc gia Hoa Kỳ. Tất nhiên Hoa Kỳ cũng sẽ
không trao đổi với Anh nếu chấp nhận được ít hơn
4 thước vải.
• Tương tự như vậy, Anh sẽ không cải thiện được
mức sống nếu trao đổi 2 thước vải để lấy 1 dạ lúa
mỳ của Hoa Kỳ, tất nhiên càng không trao đổi với
Hoa Kỳ nếu phải trả nhiều hơn 2 thước vải để lấy
1 dạ lúa mỳ của Hoa Kỳ.
• Để thấy được cả hai quốc gia đều thu được lợi ích
từ thường mại; giả thiết Hoa Kỳ có thể trao đổi 6
dạ lúa mỳ để nhận được 6 thước vải của Anh, Hoa
Kỳ sẽ thu thêm được 2 thước vải (hoặc tiết kiệm
được 1/2 giờ lao động vì một giờ lao động tại Hoa
Kỳ chỉ sản xuất được 4 thước vải). Anh cũng thu
được lợi ích, 6 dạ lúa mỳ Anh nhận được từ Hoa Kỳ
có thể đòi hỏi tương đương 6 giờ lao động tại Anh
nếu sản xuất tại Anh. Anh có thể sử dụng 6 giờ lao
động này sản xuất được 12 thước vải (vì mỗi giờ
lao động sản xuất được 2 thước vải) mang trao đổi
với Hoa Kỳ 6 thước vải còn thu thêm được 6 thước
vải, Anh thu được nhiều hơn Hoa Kỳ không phải
là điều quan trọng, điều quan trọng là cả hai quốc
gia có thể thu được thặng dư từ thương mại, thậm
chí một trong số họ kém hiệu quả hơn trong sản
xuất cả hai loại hàng hóa so với quốc gia kia.
• Hai quốc gia có thể thu được lợi ích thông qua trao
đổi 6 dạ lúa mỳ lấy 6 thước vải. Đây không phải là
tỷ lệ duy nhất có thặng dư từ thương mại. Hoa Kỳ
có thể chấp nhận trao đổi 6 dạ lúa mỳ lấy số lượng
nào đó miễn là nhiều hơn 4 thước vải (vì trao đổi
trong nước chỉ được 4 thước vải). Còn Anh có thể
13
trao đổi một lượng vải miễn là ít hơn 12 thước để
lấy 6 dạ lúa mỳ (vì trao đổi trong nước phải mất 12
thước vải). Vì vậy, tỷ lệ trao đổi thương mại giữa
hai nước là có thể nằm trong khoảng: 4 thước vải
< 6 dạ lúa < 12 thước vải. Chênh lệch giữa 12 và 4
thước vải là tổng thặng dư của hai nước thu được
từ thương mại khi trao đổi 6 dạ lúa mỳ. Ví dụ, khi
6 thước vải trao đổi được 6 dạ lúa mỳ, Hoa Kỳ thu
thêm được 2 thước vải còn Anh thu thêm được 6
thước vải, tổng cộng là 8 thước vải. Càng gần tỷ lệ
4 thước vải bằng 6 dạ lúa mỳ, Anh càng thu được
thặng dư lớn từ thương mại, Hoa Kỳ thu được ít.
Ngược lại, càng gần tỷ lệ 12 thước vải bằng 6 dạ lúa
mỳ, Hoa Kỳ càng thu được thặng dư lớn từ thương
mại, Anh càng thu được ít.
• Ví dụ, nếu Hoa Kỳ trao đổi 6 dạ lúa mỳ lấy 8 thước
vải của Anh, mỗi quốc gia có thể thu thêm được
cùng 4 thước vải, tổng số vẫn bằng 8 thước vải.
Nếu Hoa Kỳ trao đổi 6 dạ lúa mỳ lấy 10 thước vải,
Hoa Kỳ sẽ thu thêm được 6 thước vải, Anh thu
thêm được 2 thước vải.
• Rõ ràng, ta thấy rằng thặng dư từ thương mại được
hình thành thậm chí trong trường hợp một quốc gia
kém hiệu quả hơn trong sản xuất cả hai hàng hóa
so với quốc gia kia.
2.6.3 Trường hợp ngoại lệ của quy luật lợi
thế so sánh
• Có một trường hợp ngoại lệ (không phổ biến) đối
với quy luật về lợi thế so sánh xảy ra khi bất lợi thế
tuyệt đối của một quốc gia như nhau trong cả hai
hàng hóa; Ví dụ, nếu một giờ lao động sản xuất
được 3 dạ lúa mỳ tại Anh, hao phí lao động tại
Anh gấp đôi trong cả hai hàng hóa so với Hoa Kỳ.
Khi đó, cả Hoa Kỳ và Anh đều không có lợi thế so
sánh, do vậy không có thặng dư từ thương mại. Lý
do là Hoa Kỳ chỉ trao đổi khi có thể bỏ ra 6 dạ lúa
mỳ để lấy hơn 4 thước vải. Nhưng Anh chỉ trao
đổi khi có thể bỏ ra ít hơn 4 thước vải để lấy 6 dạ
lúa mỳ, vì tại Anh giờ đây hai giờ lao động có thể
sản xuất được 6 dạ lúa mỳ.
• Vì vậy, trong trường hợp này, quy luật về lợi thế so
sánh, được phát biểu như sau: ậm chí một quốc
gia không có lợi thế tuyệt đối so sánh với quốc gia
kia trong sản xuất cả hai hàng hóa, vẫn có thể thu
được thặng dư từ thương mại trừ khi bất lợi tuyệt
đối cùng một tỷ lệ trong sản xuất cả hai hàng hóa.
2.6.4 Lợi thế so sánh với sự tham gia của
tiền tệ
• eo quy luật về lợi thế so sánh, thậm chí một quốc
gia (Anh trong trường hợp này) có bất lợi tuyệt
đối trong sản xuất cả hai hàng hóa khi so sánh
14
CHƯƠNG 2. KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ
với quốc gia kia (Hoa Kỳ) vẫn thu được lợi ích từ
thương mại. Nhưng có thể có câu hỏi, liệu Anh có
xuất khẩu sang Hoa Kỳ khi mà Anh đều kém hiệu
quả hơn Hoa Kỳ trong sản xuất hai loại hàng hóa?
Câu trả lời là tiền công tại Anh sẽ thấp hơn tiền
công tại Hoa Kỳ làm cho giá vải thấp hơn tại Anh
còn giá lúa mỳ thấp hơn tại Hoa Kỳ tính theo tiền
tệ của mỗi nước.
• Giả sử tiền công tại Hoa Kỳ là 6$/giờ lao động, một
giờ lao động sản xuất được 6 dạ lúa mỳ nên giá lúa
mỳ tại Hoa Kỳ là 1 giạ = 1$, một giờ lao động sản
xuất được 4 thước vải nên giá vải tại Hoa Kỳ là 1
thước = 1.5$. Giả sử đồng thời tiền công tại Anh
là 1£ (1£ là ký hiệu đồng bảng Anh). Một giờ lao
động sản xuất được 1 giạ lúa mỳ nên giá múa mỳ
tại Anh là 1 giạ = 1£. Một giờ lao động sản xuất
được 2 thước vải nên giá của vải là 1 thước = 0.5£.
Nếu tỷ lệ trao đổi giữa đồng bảng và đồng dollar là
1£= 2$, khi đó 1 giạ lúa mỳ =1£ =2$ và 1 thước vải
= 0,5£ =1$. Bảng bên cho biết giá cả của lúa mỳ và
vải tại hai quốc gia được biểu thị bằng đồng dollar
theo tỷ lệ trao đổi 1£=2$.
không xuất khẩu vải. ương mại mất cân bằng,
thặng dư cho Hoa Kỳ làm cho tỷ giá hối đoái giảm,
tỷ giá hối đoái giữa hai quốc gia sẽ được điều chỉnh
ở mức cân bằng thương mại của hai quốc gia.
• Như vậy, lập luận này cho thấy rằng, Hoa Kỳ cần
bảo hộ tiền công và tiêu chuẩn sống cao của công
nhân của họ chống lại tiền công thấp tại Anh là
không đúng. Tương tự như vậy, sẽ sai lầm nếu cho
rằng lao động của Anh cần được bảo hộ chống lại
lao động hiệu suất cao tại Hoa Kỳ.
2.7 Phân biệt kinh tế học quốc tế
với quan hệ kinh tế quốc tế
uật ngữ “kinh tế học quốc tế" được sử dụng để nói về
môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ, các nhân tố
ảnh hưởng tới mối quan hệ kinh tế quốc tế của các chủ
thể. Còn “quan hệ kinh tế quốc tế" được sử dụng để chỉ
mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia
• Trong bảng bên có thể thấy giá cả lúa mỳ (hàng 2.8 Phân biệt tài chính quốc tế với
hóa mà Hoa Kỳ có lợi thế so sánh) tính theo đồng
kinh tế học vĩ mô quốc tế
dollar tại Hoa Kỳ thấp hơn so với Anh, giá cả vải
(hàng hoá mà Anh có lợi thế so sánh) tính theo
đồng dollar tại Anh thấp hơn so với Hoa Kỳ. Tình Hai môn này gần như trùng lặp nhau vì có đối tượng
huống sẽ tương tự nếu giá cả được tính theo đồng và phương pháp nghiên cứu chung. Vì thế, tại các khoa
kinh tế, giảng viên dạy môn này cũng có thể đồng thời
bảng Anh.
dạy môn kia. Tuy nhiên, nếu phân biệt nghiêm ngặt, tài
• Nếu giá cả lúa mỳ tính theo đồng dollar thấp hơn chính quốc tế quan tâm hơn tới các hiện tượng ngắn
tại Hoa Kỳ, các thương gia sẽ mua lúa mỳ tại Hoa hạn, còn kinh tế học vĩ mô quốc tế quan tâm hơn tới
Kỳ đưa sang bán tại Anh, nơi họ có thể mua vải các hiện tượng dài hạn.
với giá thấp đưa sang bán tại Hoa Kỳ. ậm chí
năng suất lao động tại Anh chỉ bằng một nửa so
với Hoa Kỳ trong sản xuất vải, lao động Anh chỉ 2.9 Tham khảo
nhận được bằng một phần ba so với tiền công tại
Hoa Kỳ (1£=2$ so sánh với 6$ tại Hoa Kỳ), vì thế
• Krugman, Paul R. và Maurice Obstfeld (2005),
giá vải thấp hơn tại Anh. Vì giá vải thấp hơn, Anh
International Economics: Policy and eory,
có thể xuất khẩu vải sang Hoa Kỳ. Trường hợp này
Seventh Edition, Addison Wesley.
luôn đúng khi tỷ lệ tiền công tại Anh giữa 1/6 và
1/2 so với tỷ lệ tiền công tại Hoa Kỳ.
• Nếu tỷ giá hối đoái giữa đồng bảng và đồng dollar
là 1£=1$ (khi đó tỷ lệ tiền công của Anh so với
Hoa Kỳ đúng bằng 1/6), giá cả của lúa mỳ tính
theo đồng dollar tại Anh là 1 giạ = 1£ = 1$, bằng
giá lúa mỳ tại Hoa Kỳ, Hoa Kỳ sẽ không xuất khẩu
lúa mỳ sang Anh tại tỷ giá này. Đồng thời giá vải
là 1 thước= 0.5£= 0.5$ tại Anh, Anh sẽ xuất khẩu
nhiều vải hơn trước đó sang Hoa Kỳ. ương mại
mất cân bằng và tỷ giá hối đoái giữa đồng bảng và
đồng dollar sẽ tăng.
• Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái là 1£= 3$ (khi đó
tỷ lệ tiền công tại Anh đúng bằng 1/2 so với Hoa
Kỳ) giá cả vải theo đồng dollar tại Anh là 1 thước
vải = 0.5£= 1.5$. (bằng giá vải tại Hoa Kỳ). Anh sẽ
2.10 Chú dẫn nguồn
[1] ÐỀ CƯƠNG MÔN HỌC LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT
KINH TẾ - Trang Website Trường Đại Học Cần ơ.
2.11. NGUỒN, NGƯỜI ĐÓNG GÓP, VÀ GIẤY PHÉP CHO VĂN BẢN VÀ HÌNH ẢNH
15
2.11 Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh
2.11.1
Văn bản
• Kinh tế học hành vi Nguồn: />Người đóng góp: NamHyHoangPhong, TuHan-Bot, Cheers!-bot, AlphamaBot, Phamnhatkhanh, Minhnhh, itxongkhoiAWB,
AlphamaBot4 và TuanminhBot
• Kinh tế học quốc tế Nguồn: />oldid=23993691 Người đóng góp: Robbot, DHN-bot, Trungda, ijs!bot, Bình Giang, Qbot, Luckas-bot, Ptbotgourou, Rubinbot,
Xqbot, KamikazeBot, Dinhtuydzao, MastiBot, TuHan-Bot, EmausBot, WikitanvirBot, Cheers!-bot, Makecat-bot, AlphamaBot,
Phamnhatkhanh, Minhnhh, Earthshaker, Addbot, Gaconnhanhnhen, TuanminhBot, Én bạc AWB và 6 người vô danh
2.11.2
Hình ảnh
• Tập_tin:Daniel_KAHNEMAN.jpg Nguồn: Giấy
phép: Public domain Người đóng góp: Nghệ sĩ đầu tiên: ?
• Tập_tin:Office-book.svg Nguồn: Giấy phép: Public domain
Người đóng góp: is and myself. Nghệ sĩ đầu tiên: Chris Down/Tango project
• Tập_tin:Portal-puzzle.svg Nguồn: Giấy phép: Public domain
Người đóng góp: User:Eubulides. Created with Inkscape 0.47pre4 r22446 (Oct 14 2009). is image was created from scratch and is not
a derivative of any other work in the copyright sense, as it shares only nonprotectible ideas with other works. Its idea came from
File:Portal icon.svg by User:Michiel1972, which in turn was inspired by File:Portal.svg by User:Pepetps and User:Ed g2s, which in turn
was inspired by File:Portal.gif by User:Ausir, User:Kyle the hacker and User:HereToHelp, which was reportedly from he:File:Portal.gif
(since superseded or replaced?) by User:Naama m. It is not known where User:Naama m. got the idea from. Nghệ sĩ đầu tiên: User:
Eubulides
• Tập_tin:Question_book-new.svg Nguồn: Giấy phép:
CC-BY-SA-3.0 Người đóng góp: Chuyển từ en.wikipedia sang Commons. Created from scratch in Adobe Illustrator. Based on Image:
Question book.png created by User:Equazcion Nghệ sĩ đầu tiên: Tkgd2007
• Tập_tin:Society.svg Nguồn: Giấy phép: CC-BY-SA-3.0 Người đóng
góp: own work based on Image:Society.png by MisterMa originally from English Wikipedia (en:Image:Society.png) Nghệ sĩ đầu tiên:
MesserWoland
2.11.3
Giấy phép nội dung
• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0