Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Bức trang thiên nhiên trong sông đông êm đềm của MA sholokhov

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.71 KB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LÙ THỊ DUYÊN

BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM CỦA M.A. SHOLOKHOV

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LÙ THỊ DUYÊN

BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM CỦA M.A. SHOLOKHOV

Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Lan Phƣơng

SƠN LA, NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN


Em xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Thị Lan Phương - người đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn
học nước ngoài, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, Trung tâm Thư viện,
trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học
tập nghiên cứu, hoàn thành đề tài.

Sơn La, ngày 12 tháng 05 năm 2017
Sinh viên

Lù Thị Duyên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 4
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 6
4.1. Mục đích ..................................................................................................... 6
4.2. Nhiệm vụ ..................................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 6
6. Cấu trúc khóa luận.......................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ HÌNH TƢỢNG THIÊN NHIÊN TIÊU BIỂU ......... 8
1.1. Vai trò của thiên nhiên trong tác phẩm văn học ........................................... 8
1.1.1. Thiên nhiên - nguồn cảm hứng bất tận của văn học .................................. 8
1.1.2. Thiên nhiên trong tiểu thuyết Sông Đông êm đềm .................................. 10
1.2. Một số hình tượng thiên nhiên tiêu biểu trong Sông Đông êm đềm ........... 11
1.2.1. Hình tượng “dòng sông” ........................................................................ 11
1.2. Hình tượng “đồng cỏ”............................................................................... 17

1.2.3. Hình tượng “vầng trăng” ....................................................................... 21
1.2.4. Hình tượng “mặt trời” ........................................................................... 23
1.2.5. Hình tượng “đất” ................................................................................... 25
1.2.6. Hình tượng “tuyết” ................................................................................ 30
Tiểu kết:……………………………………………………………….………..33
CHƢƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN
TIÊU BIỂU ..................................................................................................... 34
2.1. Một số biện pháp nghệ thuật ...................................................................... 34
2.1.1. Thủ pháp nhân hóa ................................................................................. 34
2.1.2. Thủ pháp ẩn dụ ....................................................................................... 38
2.1.3. Thủ pháp so sánh .................................................................................... 42
2.2. Chi tiết nghệ thuật ..................................................................................... 44


2.2.1. Thiên nhiên hiện lên qua bút pháp hội họa.............................................. 44
2.2.2. Bức tranh thiên nhiên sống động được thể hiện qua chi tiết miêu tả âm
thanh, hương vị ................................................................................................ 47
Tiểu kết: ........................................................................................................... 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................. 53


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nước Nga từ lâu đã được coi là một tiêu điểm văn hóa lớn của thế giới.
Dấu ấn văn hóa là cái còn mãi với thời gian, mặc dù những hình thể vật chất có
thể đã bị phá hủy, tiêu tan. Nền văn hóa, văn học của nước Nga - Xô Viết đã góp
phần to lớn cho kho tàng tinh thần của loài người thế kỷ XX. Văn học Nga thế kỉ
XX khá đa dạng và phát triển rực rỡ. Chủ nghĩa hiện thực của văn học Nga phát
triển lên đến đỉnh cao từ cuối thế kỉ XIX nay tiếp tục phát huy sức mạnh của

mình. Sau năm 1917, Lênin khẳng định giai cấp vô sản phải có một nền văn học
riêng của mình nhằm phục vụ cho nhân dân. Đến năm 1934, họ đã tổ chức đại
hội Nhà văn Liên Xô lần thứ nhất. Người nắm giữ trọng trách ở đây là M. Gorki.
Nếu như M. Gorki là người đầu tiên khai sinh ra nền văn học Xô viết thì M.
Sholokhov là người góp phần đưa văn học Xô viết đến với những đỉnh cao chói
lọi. Suốt thời gian qua, ông là nhà văn nổi tiếng, có nhiều độc giả nhất của thế kỉ
XX. “Sáng tác của ông đã trở thành di sản tinh thần quý giá của nhân dân Xô
Viết và toàn nhân loại” (Nguyễn Hải Hà). Là một người yêu thích văn học Nga
đặc biệt là văn học Nga Xô Viết tôi rất muốn tìm hiểu về những thành tựu văn
học rực rỡ này.
1.2. Mikhain Alechxandrovich Sholokhov (1905 - 1984) là cây bút tiểu
thuyết và truyện ngắn xuất sắc trong văn học Nga thế kỉ XX. Với khả năng kết
hợp tính bi kịch với tính sử thi, ông có những đóng góp lớn lao đối với văn học
Nga và thế giới. Với đề tài chiến tranh và đề tài hợp tác hóa nông nghiệp, từ
những năm 1960, Sholokhov đã không còn xa lạ với bạn đọc Việt Nam. Tác
phẩm của ông hầu hết đã được dịch ra tiếng Việt và có ảnh hưởng lớn đến sáng
tác của nhiều nhà văn Việt Nam như: Bùi Hiển, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc…
Suốt hơn 60 năm lao động nghệ thuật không mệt mỏi, ông để lại một khối
lượng sáng tác đồ sộ và lớn lao ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác
phẩm của M.A. Sholokhov là những bức tranh hoành tráng của thế kỉ trong đó
sự thật khắc nghiệt được in dấu và hằn lên một cách táo bạo và cay đắng. Các
1


tác phẩm Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Số phận một con người, Họ chiến
đấu vì tổ quốc… đã trở thành tài sản văn hóa chung của nhân loại, đã thuộc về
nền văn học của toàn thế giới (Vinli Brêđen). Khi viết về ảnh hưởng của
M.A.Sholokhov đối với thế giới nhà văn Xô Viết I.U. Bonđarep đã viết: “Tên
tuổi này dường như đã tách rời khỏi một con người và giờ đây thuộc về nền

nghệ thuật Xô Viết đồng thời thuộc về toàn bộ nền văn hóa thế giới”.
1.3. Trong toàn bộ các sáng tác của M.A. Sholokhov, Sông Đông êm đềm
được coi là tác phẩm xuất sắc nhất. Bộ tiểu thuyết này giống như bộ sử thi của
thời đại, là niềm tự hào của nhân dân Nga. Sông Đông êm đềm đạt giải Nôbel văn
học năm 1965 đã khẳng định tài năng kiệt xuất của Sholokhov, trở thành tài sản
tinh thần vô cùng quý giá của nhân dân Xô Viết và nhân loại. Sông Đông êm đềm
được dư luận thế giới đánh giá là “kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa”, là “thiên sử thi nhân dân mãnh liệt”, và là “kiệt tác văn học của thế giới”.
Các tác phẩm của M.A. Sholokhov tập trung mô tả thời đại vĩ đại nhất
trong lịch sử loài người ở những khúc ngoặt quan trọng trong đó con người phải
tự lựa chọn số phận cho chính bản thân mình. Nếu như Đất vỡ hoang mô tả cuộc
chiến thầm lặng, ác liệt của kẻ thù giấu mặt, quá trình trăn trở dứt bỏ đầu óc tư
hữu để xây dựng nông trang, Họ chiến đấu vì tổ quốc tôi rèn bản lĩnh cho người
lính, Số phận con người viết về số phận con người trong và sau chiến tranh với
bao nỗi khổ bất hạnh thì Sông Đông êm đềm là tác phẩm vĩ đại quan trọng nhất
của M.A. Solokhov viết về thời kì nội chiến khi mà cuộc đấu tranh giữa cái mới
với cái cũ đang diễn biến quyết liệt nhất. Những mảnh đời, số phận con người
trong chiến tranh gắn với vận mệnh lịch sử của dân tộc, tính tất yếu của lịch sử
và khả năng lựa chọn của con người. Tác phẩm Sông Đông êm đềm ngay từ
quyển một được đăng trên tạp chí, nhà văn Xeraphimovich đã khẳng định: “Cái
tài năng lớn lao ấy đã làm cho M. Sholokhov vụt cái bay lên đến trời, khiến cho
mọi người phải trông thấy”. Và chính ông đã không hết lời ca ngợi: “Con đại
bàng non mỏ vàng bất chợt vẫy lên đôi cánh mênh mông”.
Sáng tác của M.A. Solokhov đặt ra được vấn đề hết sức lớn lao và mới mẻ
cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Với quan điểm tôn trọng sự thật, nói
2


thẳng sự thật “Dù sự thật cay đắng đến đâu chăng nữa” M.A. Solokhov đã tái
hiện một cách chân thực bức tranh đời sống phong phú của nhân dân Xô Viết

nói chung và của nhân dân vùng Sông Đông nói riêng. Đó là những cảnh đời
sinh hoạt, thái độ tư tưởng cũng như cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và nội
chiến trong nước. Với tài năng nghệ thuật bậc thầy trong việc thể hiện và khám
phá tài tình những bí ẩn nội tâm của con người, qua những cuộc tự đấu tranh
những mâu thuẫn giằng xé trong hành động để lựa chọn con đường chân lí cuộc
đời, chân lí thời đại của nhân vật M.A. Solokhov đã sáng tạo nên những hình
tượng nghệ thuật điển hình. Từ thế giới đến đối tượng miêu tả cũng như ngôn
ngữ lời văn và những vấn đề tác giả đặt ra trong tác phẩm tất cả đều mang tầm
vóc sử thi to lớn và đầy giá trị.
Trong Sông Đông êm đềm, thiên nhiên chiếm một dung lượng lớn và có
vai trò vô cùng quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Thiên nhiên không chỉ là môi
trường sống mà còn là chiều dài lịch sử, chiều sâu tâm lý và bản sắc văn hóa độc
đáo của nhân dân Cozak. Thiên nhiên góp phần vào hình thành tư duy, tính cách
con người trong tác phẩm cũng như con người Nga. Đặc trưng thiên nhiên Nga
khắc nghiệt, với mùa đông giá lạnh và mùa hè thiêu đốt, với mùa thu tuyệt vọng
và mùa xuân bão táp khủng khiếp. Thiên nhiên khiến con người phải do dự, vì
vậy mà tính cách Nga rất mâu thuẫn vừa khao khát tự do vừa thuần phục kiểu nô
lệ, vừa tín ngưỡng vừa vô thần.
Qua những kết quả khảo sát ban đầu, chúng tôi nhận thấy thiên nhiên là
một yếu tố quan trọng cấu thành nên tác phẩm, góp phần bộc lộ quan điểm tư
tưởng của nhà văn. Việc miêu tả thiên nhiên thành công cũng góp phần lớn vào
thành công chung của tác phẩm. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu
sâu về vấn đề này, còn nhiều khoảng trống cần lấp đầy. Vì vậy chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bức tranh thiên nhiên trong Sông Đông êm đềm
của M.A. Sholokhov” không chỉ xuất phát từ sự yêu thích cá nhân mà còn có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Về góc độ lý luận, qua việc nghiên cứu các biện pháp nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên trong Sông Đông êm đềm có thể làm sáng rõ hơn về nghệ thuật miêu
3



tả trong tác phẩm tự sự. Từ đó có được cái nhìn đối chiếu, so sánh với các tác
giả, tác phẩm khác trong việc sử dụng thiên nhiên.
Về góc độ thực tiễn, kết quả nghiên cứu mà đề tài có được sẽ góp phần
giúp người đọc hiểu thêm về tác phẩm, cũng như cung cấp tư liệu phục vụ học
tập và nghiên cứu tiểu thuyết Sông Đông êm đềm nói chung và các sáng tác của
M.A. Sholokhov trong hệ thống nhà trường Việt Nam nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Khi nghiên cứu vấn đề, chúng tôi không bắt đầu từ “mảnh đất trống” mà đã
kế thừa, chọn lọc và bổ sung để đề tài đầy đủ hơn, do sức lôi cuốn và những tác
động của M. A. Sholokhov có ảnh hưởng mạnh mẽ trên lộ trình văn học thế giới
cũng như nghệ thuật sân khấu điện ảnh. Nghiên cứu về M. A. Sholokhov và tác
phẩm Sông Đông êm đềm chưa nhiều qua những tài liệu bằng tiếng Việt, chúng
tôi điểm qua các công trình nghiên cứu sau đây:
2.1. Cuốn Văn học Xô Viết, tập 2 - NXB Giáo dục Hà Nội, 1998. Hai tác
giả Nguyễn Hải Hà và Đỗ Xuân Hà đã có những nghiên cứu về cả nội dung và
nghệ thuật một các tổng quát nhất. Về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, các tác giả
đã đánh giá khái quát như sau: “Phong cảnh trong Sông Đông êm đềm có nhiều
chức năng nghệ thuật. Ngoài việc thể hiện tâm lý nhân vật, phong cảnh ở đây
còn thể hiện cái nhìn của tác giả và tạo ra không khí sinh động trung thực cho
tác phẩm. Ở bất kỳ chỗ nào phong cảnh cũng trung thực và nên thơ. Nét riêng
của nghệ thuật tả phong cảnh bao giờ cũng đầy âm thanh và hương vị, những
cảnh gợi nhớ quê hương”.
2.2. Tác giả Huy Liên trong bài: Tìm hiểu một vài đặc điểm về thi pháp
trong bộ tiểu thuyết Sông Đông êm đềm (Tạp chí văn học số 4.1984) tác giả đã
chỉ ra và phân tích về hình tượng thiên nhiên như một phương tiện nghệ thuật
độc đáo: “…phong cảnh thiên nhiên có vai trò quan trọng về mặt chức năng
trong tiểu thuyết Sông Đông êm đềm. Phong cảnh góp phần khơi sâu thêm tâm
trạng nhân vật, khơi sâu thêm tư tưởng chủ đề, sự thể hiện đánh giá của tác giả
đối với nhân vật và biến cố”.


4


2.3 Trong giáo trình Lịch sử văn học Nga của nhóm tác giả Đỗ Hồng
Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Trường
Lịch, Huy Liên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, đưa ra nhận xét: “Những bức
tranh thiên nhiên đóng một vai trò rất lớn trong thế giới nghệ thuật của tiểu
thuyết và thể hiện được biệt tài của M. Sholokhov” [113, 3].
2.4. Giáo trình Văn học Nga do nhóm tác giả Nguyễn Hải Hà, Hà Thị Hoà,
Đỗ Hải Phong biên soạn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2002 đã bình luận cụ
thể hơn về tính chất của bức tranh thiên nhiên trong tác phẩm của
M.A.Shokokhov: “Ở bất cứ chỗ nào, phong cảnh của M. Sholokhov cũng chân
thực và nên thơ. Nét riêng của nghệ thuật tả phong cảnh của Sholokhov là ở chỗ
các phong cảnh đó bao giờ cũng đầy âm thanh và hương vị, những cái gợi nhớ
da diết tới quê hương” [178-179, 12].
2.5. Luận văn Thạc sĩ “Nghệ thuật thể hiện tâm lý nhân vật trong tác phẩm
Sông Đông êm đềm của M. Sholokhov” do Phan Thị Mai Hương thực hiện cũng
đã sơ lược về sự đóng góp của thiên nhiên trong việc miêu tả tâm lý nhân vật:
“Thiên nhiên là nền tảng, là cơ sở, là đối tượng giao tiếp mà nhà văn hướng tới
để bộ lộ tâm lý, thể hiện tình cảm trong tác phẩm”.
2.6. Chuyên luận Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết “Sông Đông êm
đềm” của tác giả Nguyễn Thị Vượng, Nxb Giáo dục là công trình nghiên cứu
chuyên sâu đầy đủ và toàn diện đầu tiên về phương diện hình thức của tác phẩm.
Tuy tập trung khai thác góc độ nhân vật nhưng tác giả của công trình đã đặt nó
trong nhiều tương quan soi chiếu, trong đó có hình tượng thiên nhiên. Tác giả
viết: “Thiên nhiên miêu tả vừa thể hiện được không khí thực của tác phẩm, vừa
thể hiện được thái độ quan điểm của tác giả về nhân vật, về sự kiện, biến cố. Đó
là một thiên nhiên được thể hiện theo nguyên tắc tả thực. Một chức năng rất
quan trọng của thiên nhiên luôn được nhà văn sử dụng là thể hiện thế giới nội

tâm nhân vật” [78, 5]. Qua đó nhận ra được sự mới mẻ của việc sử dụng thiên
nhiên trong tiểu thuyết của M.Sholokhov so với các nhà văn khác.
Điểm qua một số công trình đã nghiên cứu về thiên nhiên trong tác phẩm
Sông Đông êm đềm của Sholokhov chúng tôi nhận thấy phần lớn các công trình
5


tập trung khai thác các giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm. Có một số
công trình có đề cập đến vấn đề thiên nhiên nhưng còn khá sơ lược và chưa đi
sâu vào nghiên cứu các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng để làm nổi
bật bức tranh thiên nhiên đó. Như vậy, sử dụng các biện pháp nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên trong Sông Đông êm đềm vẫn là một đề tài mới mẻ, còn nhiều
khoảng trống cần được lấp đầy. Với mong muốn có cái nhìn sâu hơn, toàn diện
hơn chúng tôi lựa chọn đề tài: “Bức tranh thiên nhiên trong tiểu thuyết Sông
Đông êm đềm của M.A Sholokhov”.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Bộ tiểu thuyết Sông Đông êm đềm được ví như một Chiến tranh và hòa
bình thứ hai có dung lượng vô cùng lớn với hai nghìn sáu trăm trang sách và hơn
bảy trăm nhân vật (theo thống kê trong cuốn Những kiệt tác của nhân loại).
Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp chúng tôi không thể khảo sát tất cả
các phương diện mà chỉ đi vào nghiên cứu nghệ thuật miêu tả thiên nhiên qua
khảo sát các hình tượng thiên nhiên tiêu biểu.
3.2 Đối tượng nghiên cứu: Bức tranh thiên nhiên trong Sông Đông êm đềm
của M.A. Sholokhov.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định những mục đích cần đạt được:
trước hết tìm hiểu, khảo sát và chỉ ra cách thức xây dựng và vai trò của các hình
tượng thiên nhiên từ đó đưa ra một số kết luận các biện pháp nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên tiêu biểu.

4.2. Nhiệm vụ
Khảo sát, thống kê rút ra đặc điểm của một số hình tượng thiên nhiên tiêu
biểu trong tác phẩm.
Phân tích một số biện pháp nghệ thuật tiêu biểu được dùng khắc họa hình
tượng thiên nhiên.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

6


Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ, để đạt được kết quả xác thực nhất,
chúng tôi sử dụng phối hợp một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp khảo sát thống kê và phân tích: Chúng tôi sử dụng phương
pháp này trong việc khảo sát, thống kê các đoạn văn miêu tả thiên nhiên trong
Sông Đông êm đềm và phân tích các đoạn tả đó.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Phương pháp này giúp chúng tôi phân
loại vấn đề nghiên cứu một cách thuận lợi, chủ yếu chúng tôi áp dụng trong
phần nghiên cứu lịch sử vấn đề của đề tài.
Phương pháp đối chiếu so sánh theo đặc trưng thể loại: Phương pháp này
được sử dụng để đối chiếu so sánh dẫn chứng trong tác phẩm với các tác phẩm
khác nhằm làm nổi bật các hình tượng thiên nhiên và những biện pháp nghệ
thuật tác giả đã sử dụng khi miêu tả thiên nhiên.
Phương pháp tổng hợp: Đây là phương pháp chính chúng tôi sử dụng khi
đánh giá hoặc khái quát lại các nội dung nghiên cứu ở các chương của khóa
luận.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia làm hai chương:
Chương I: Một số hình tượng thiên nhiên tiêu biểu trong Sông Đông êm
đềm
Chương II: Các biện pháp nghệ thuật miêu tả các hình tượng thiên nhiên

tiêu biểu

7


CHƢƠNG 1: MỘT SỐ HÌNH TƢỢNG THIÊN NHIÊN TIÊU BIỂU
1.1. Vai trò của thiên nhiên trong tác phẩm văn học
1.1.1. Thiên nhiên - nguồn cảm hứng bất tận của văn học
Từ xa xưa, thiên nhiên đã có vị trí vô cùng quan trọng trong tâm thức của
con người. Trong văn học, thiên nhiên không chỉ là những cảnh sắc đẹp đẽ xuất
hiện trong tác phẩm mà thiên nhiên còn giúp truyền tải cảm xúc và biểu hiện
những điều sâu kín trong tâm hồn của con người. Thiên nhiên là người bạn tri
âm tri kỉ giúp con người chia sẻ niềm vui, giúp con người vơi bớt những nỗi
muộn phiền, hệ lụy trước những rối ren. Văn học hiện nay sau một thời gian
không chú ý khai thác thiên nhiên nay đã quay trở lại với những vấn đề mang
tính thời sự, bảo vệ sinh thái, cân bằng môi trường thiên nhiên hướng tới cuộc
sống hạnh phúc và yên ổn.
Tình yêu của con người dành cho thiên nhiên rất sâu nặng. Trong khắp các
trang viết, không chỉ thấy vẻ đẹp của cảnh vật mà còn thấy một tấm lòng tha
thiết với cảnh vật. Đó là tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên vô tận, với vẻ đẹp
tráng mĩ, hùng vĩ của núi cao vực sâu, cũng có thể là vẻ giản dị, gần gũi của
nhành hoa, ngọn cỏ, con cò, con ếch, con dế... Tâm hồn con người dễ đồng cảm
với cảnh vật. Mạnh Hạo Nhiên khi nghe thấy tiếng gió mưa ngoài cửa mà xót xa
cho thân phận mỏng manh của mỗi cánh hoa, lo lắng xem hoa rụng nhiều hay ít:
“Dạ lai phong vũ thanh
Hoa lạc tri đa thiểu”
(Xuân hiểu)
Lí Bạch cũng xem thiên nhiên như là người tri kỉ :
“Cử bôi yêu minh nguyệt
Đối ảnh thành tam nhân”

(Nguyệt hạ độc chước kỳ 1)
Nguyễn Trãi coi thiên nhiên như một gia đình thương mến:
“Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn
Ấp ủ cùng ta làm cái con”
(Ngôn chí 20)
8


Mỗi tâm hồn Đông phương đều nâng niu vẻ đẹp giao hòa giản dị của thiên
nhiên bình dị:
“Một cành bìm bìm hoa tía
Quấn quanh cây cầu
Ta sang hàng xóm xin nước thôi!”
(Chiyo)
Và đều xúc động trước những sự việc rất tầm thường của vạn vật:
“Lá chuối xanh trôi
Một con ếch nhỏ
Run run đang ngồi”
(Kikaku)
Niềm ưu ái với thiên nhiên có lẽ chưa bao giờ ngừng trong văn chương từ
cổ xưa đến hiện tại, nó vẫn âm ỉ chảy trong một dòng mạch thông suốt. Bằng
chứng là qua các tác giả đạt giải Nobel như Kawabata hay Mạc Ngôn, ta thấy
một tâm thế phương Đông rất nặng “thiên nhiên cũng có sinh mệnh riêng của
nó” [15, 4], người đọc vẫn thấy những cánh đồng trù mật, những rặng núi mù
xa, những vườn anh đào, những dòng sông thao thiết chảy qua những trang văn.
Thiên nhiên không chỉ quan trọng trong văn học phương Đông mà còn
chiếm vị trí quan trọng với văn học phương Tây. Cùng viết về thiên nhiên,
người phương Đông xem thiên nhiên như là một sinh mệnh độc lập: “cỏ cây
quanh mình và cả bò dê nữa đều có thể trò chuyện với con người, chúng chẳng
những có sinh mệnh, mà còn có cả tình cảm nữa” [5, 4], trong khi đó dù ca ngợi

tự nhiên, cảm hứng chủ đạo của người phương Tây là xem thiên nhiên là nền
cảnh để làm nổi bật con người. Bởi thế, khi A. Daudet mô tả bầu trời sao tuyệt
đẹp là ông muốn làm nổi bật hình ảnh con người: tất cả những vì sao lung linh
trên trời kia là nền cảnh cho vẻ đẹp của con người trên đồng cỏ và trong tâm hồn
cậu bé chăn cừu, không có vì sao nào đẹp bằng vì sao kiều diễm, sáng trong
đang thiếp ngủ trên vai của cậu, A. Daudet đã phải thốt lên: “tôi tưởng đâu một
trong những ngôi sao kia, ngôi sao thanh tú nhất, ngời sáng nhất lạc mất đường
đi đã đậu xuống vai tôi mà thiêm thiếp giấc nồng” [254,1].
9


1.1.2. Thiên nhiên trong tiểu thuyết Sông Đông êm đềm
Vùng đất Sông Đông gai góc nhưng cũng đầy thơ mộng đã sản sinh ra thiên
tài nghệ thuật Sholokhov. Ông quan niệm con người phải luôn gắn bó giao hòa
với thiên nhiên, con người đẹp khi lao động và hòa mình vào thiên nhiên con
người đánh thức được những bản năng của chính mình. Với Sholokhov thiên
nhiên như người bạn tri âm tri kỉ của con người, đó là vẻ đẹp vĩ đại, chân thực,
bất diệt. Thiên nhiên có linh hồn, có sinh khí, biết sẻ chia và đồng cảm. Bầu trời
là nơi hướng tới, mặt đất là nơi trở về, những cơn gió bầu bạn khám phá, đồng
cỏ là không gian sống thường nhật, những dòng sông là sự lưu chuyển chảy trôi
của đời người, gột rửa và xoa dịu những nỗi đau, tội lỗi của con người trong
biển đời nắng gió, bão giông.
Thiên nhiên là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên tác phẩm
nghệ thuật. Trong Sông Đông êm đềm, thiên nhiên đóng một vai trò rất lớn với
toàn bộ tác phẩm. Bức tranh thiên nhiên góp phần làm nổi bật nhiều vấn đề
trong tác phẩm. Ngoài việc thể hiện tâm lý nhân vật, phong cảnh ở đây còn thể
hiện cái nhìn của tác giả và tạo ra không khí sinh động trung thực cho tác phẩm.
Ở bất kỳ chỗ nào phong cảnh cũng trung thực và nên thơ.
Thiên nhiên trong Sông Đông êm đềm không những kiến tạo không gian
tâm lí, không gian sinh hoạt của người dân Cozak mà còn tham gia vào tổ chức

không gian lịch sử gắn liền với cuộc nội chiến. Đây là không gian rộng lớn
mang tính chất bao quát toàn cảnh. Đó là không gian của con đường chiến tranh,
con đường cách mạng, là không gian rừng núi được phản ánh sâu sắc qua các
hình ảnh thiên nhiên. Bị chiến tranh tàn phá, đất trời cũng như ảm đạm, sầu
thảm tang tóc. Các hình ảnh thiên nhiên đã góp phần đắc lực trong việc xây
dựng không gian lịch sử thể hiện sự phi nghĩa của cuộc chiến tranh nội chiến.
Quá trình vận động nội tâm trước những tác động của hoàn cảnh, những
mâu thuẫn, những bi kịch trong cuộc đời Grigori được biểu hiện rất rõ thông qua
các hình ảnh thiên nhiên. Cùng với đó thiên nhiên còn hỗ trợ đắc lực thể hiện bi
kịch và những mâu thuẫn của hầu hết các nhân vật khác của tác phẩm. Thiên
nhiên cũng được Sholokhov sử dụng như là khung nền để tôn vinh vẻ đẹp ngoại
10


hình của những nhân vật chính, đồng thời thiên nhiên cũng là sự hòa hợp và giải
tỏa mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Nói cách khác, thiên nhiên còn mang tính tâm
lý. Dùng thiên nhiên như một phương tiện để khám phá và thể hiện thế giới tâm
hồn nhân vật là một trong những sáng tạo và thành công nổi bật trong nghệ thuật
khắc họa nội tâm nhân vật của M.Sholokhov.
Như vậy, ta thấy các hình ảnh thiên nhiên tham gia xây dựng nên không
gian nghệ thuật, trở thành phương tiện để khám phá và thể hiện thế giới tâm lý
nhân vật, góp phần quan trọng vào giá trị biểu đạt mà tác phẩm muốn thể hiện.
Cách xây dựng này thể hiện được bản lĩnh và tài năng của thiên tài M.
Sholokhov.
1. 2. Một số hình tƣợng thiên nhiên tiêu biểu trong Sông Đông êm đềm
Trong Sông Đông êm đềm, M. A. Solokhov làm nổi bật lên bức tranh thiên
nhiên sinh động, khỏe khoắn, phong phú, một thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt.
Thế giới thiên nhiên linh hoạt và sinh động với rất nhiều hình tượng thiên nhiên
được tái hiện theo nguyên tắc tả thực góp phần làm nổi bật vẻ đẹp đặc trưng của
vùng thảo nguyên sông Đông vừa thể hiện được quan điểm của tác giả trong

Sông Đông êm đềm. Đó là dòng sông, đồng cỏ, cỏ cây, hoa lá, chim muông,
vầng trăng, vầng mặt trời, là mây là gió… tất cả đều mang đậm chất sông Đông.
1.2.1. Hình tượng “dòng sông”
Trong văn học Việt Nam và thế giới, hình tượng “dòng sông” đã nhiều lần
xuất hiện và là đề tài bất tận của thi ca nghệ thuật. Cùng với các hình tượng
đồng cỏ, mặt đất, mặt trời... hình tượng “dòng sông” là hình tượng đặc trưng,
xuyên suốt chủ đề tác phẩm Sông Đông êm đềm. Tên con sông Đông được dùng
đặt tên cho tác phẩm và là hình tượng xuyên suốt trong tác phẩm. Hình tượng
dòng sông Đông còn có mặt trong hầu hết các bài ca cổ của người Cozak. Sông
Đông êm đềm được bắt đầu bằng lời một bài ca cổ về cùng đất sông Đông và
mang đậm tinh thần của những người Cozak. Đó là lời ca về dòng sông “ngầu
đục” day dứt muốn được trở về với dòng chảy “êm đềm”:
“Hỡi sông Đông êm đềm cha thân yêu của chúng ta, cha hỡi!
Hỡi sông Đông êm đềm vì đâu? Vì đâu sóng người ngầu đục? [8, 14]
11


Cũng có khi là:
“Ôi dòng sông Đông êm đềm ta chảy sao khỏi đục.
Từ dưới đáy ta, đáy sông êm đềm chảy ra những dòng nước giá.
Trong lòng ta, lòng sông êm đềm quẫy ngầu cá trắng
Sông Đông êm đềm trào dâng vì nước mắt người mẹ người cha”. [8, 14]
Hay:
“Mảnh đất thân thương, mảnh đất vinh quang của chúng ta không dùng
cày khai vỡ.
Mảnh đất thân thương của chúng ta đã có vó ngựa cày
Mảnh đất thân thương, mảnh đất vinh quang của chúng ta đã gieo những
cái đầu Cozak.
Điểm trang sông Đông êm đềm chúng ta có những nàng con gái trẻ măng.
Hoa nở trên sông Đông êm đềm, cha của chúng bầy trẻ thơ côi cút,

Sông Đông êm đềm đầy nước mắt người mẹ người cha…” [8, 14]
Sông Đông êm đềm được lấy ý tưởng từ một con sông thực - sông Đông.
Sông Đông (tiếng Nga: Река Дон) là một con sông chính thuộc phần châu
Âu của Nga. Nó bắt đầu từ khu vực gần Tula, đông nam Moskva, và có dòng
chảy kéo dài khoảng 1.950 km tới biển Azov. Thượng nguồn trước đây là hồ
chứa nước Shatskoe ở phía bắc thành phố Novomoskovsk tỉnh Tula, nhưng sau
này bị ngăn lại bởi có một tuyến đường sắt đi qua đây. Đầu nguồn hiện nay nằm
trong một công viên cách đó 2, 3 km về phía đông (suối Urvanka); cửa sông
là vịnh Taganrog của biển Azov. Một phần của con sông này đã trải qua các trận
chiến trong chiến dịch Uranus, một trong những mốc quyết định của Thế chiến
thứ hai.
Sông Đông đã từng là tuyến thương mại chính từ thời đó. Dòng sông Đông
chảy qua nhiều vùng đất nước Nga, tồn tại với tư cách chứng nhân lịch sử, là
quê hương thân thương của nhiều con người Nga. Sông Đông có lúc giận dữ bão
giông, lúc đau đớn rên siết nhưng cũng vô vàn hiền hòa êm đềm. Sông Đông gắn
với tuổi thơ, với cuộc sống và tâm hồn tác giả. Sholokhov từng tâm sự rằng:
“Tôi chôn rau cắt rốn ở sông Đông, ở đó tôi đã lớn lên, đã học tập, đã được bồi
12


dưỡng thành con người và thành nhà văn… là người yêu Tổ quốc vĩ đại và hùng
mạnh, tôi tự hào mà nói rằng tôi cũng là người con trung thành cuả miền đất
sông Đông ruột thịt của mình” [206, 12]. Đây cũng là lí do giải thích vì sao hình
tượng dòng sông được ông sử dụng nhiều và xuyên suốt từ đầu tới cuối tác
phẩm. Xa sông Đông ông khó viết hơn, cố gắng mấy đi nữa tâm trí ông vẫn
quay trở về với sông Đông. Sholokhov chỉ có thể viết về những gì mình biết rõ,
về những người Cozak thân thuộc, về những làng thôn rải rác ven con sông thời
thơ ấu, dòng sông nuôi ông khôn lớn và tiếp sức cho thiên tài Sholokhov. Ông
gắn bó, gọi nó là “người cha” và viết về nó như viết về cuộc sống không chỉ của
riêng ông mà của cả dân tộc và nhân loại.

Hình tượng “dòng sông” được xây dựng một cách đặc biệt. Sông Đông như
một người bạn, sống cùng, chứng kiến sẻ chia những khoảnh khắc, những cảm
xúc buồn vui trong cuộc sống của những con người Cozak trong từng thời kì
lịch sử đồng thời là chứng nhân lịch sử cùng trải qua những ngày tháng yên
bình, những năm tháng mưa bom bão đạn để rồi hiền hòa chảy mãi với thời
gian.
Không phải ngẫu nhiên mà Sholokhov đặt tên cho bộ tiểu thuyết của mình
là Sông Đông êm đềm. Không có con sông nào mà chỉ mãi dịu êm, sông Đông
có những khi sục sôi giông bão nhưng với những con người Cozak, với chính
Sholokhov - luôn coi sông Đông là quê hương thì trong thâm tâm quê hương ấy
luôn đem lại cảm giác thanh thản bình yên nhất, trở thành điểm tựa vững chắc
mỗi lúc sóng gió luôn muốn hướng về. Dòng sông Đông với đặc tính “êm đềm”
không chỉ là định danh định tính mà còn là một hình ảnh ẩn dụ về cuộc sống:
“Cuộc sống tràn ra ngoài dòng chảy của nó, phân thành muôn ngàn nhánh nhỏ
khó mà đoán trước được diễn biến tinh quái của nó sẽ hướng theo nhánh nào. Ở
chỗ hôm nay dòng đời cạn đi như con sông ở khúc nông cạn đến trông thấy cả
những vật lắng trầm bẩn thỉu, tởm lợm của nó, thì ngày mai nước sẽ chảy mênh
mông tràn trề…” [324, 14]. Tương lai là điều khó đoán trước, tựa như sự phân
nhánh của dòng sông tràn ra ngoài dòng chảy của nó nhưng niềm tin vào tương
lai tươi sáng là bất diệt.
13


Sông Đông êm đềm được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông và kết thúc
cũng bằng hình ảnh dòng sông. Sông Đông là chứng nhân tồn tại vĩnh hằng cùng
thời gian, cùng vui cùng buồn với những mất mát đau thương, sinh li tử biệt,
thức tỉnh con người trước những lầm lạc. Trong Sông Đông êm đềm mỗi nhân
vật cho dù là nhân vật chính hay nhân vật phụ đều có một dòng sông. Dòng sông
Đông êm đềm chảy qua cuộc đời Grigori là sự tẩy rửa tội lỗi tha thứ cho sự lầm
đường lạc lối của anh, Grigori không chỉ thấy vẻ “êm đềm” của dòng sông mà

còn được cho thấy bộ mặt “râu ria xồm xoàm nom rất đáng sợ” [794,15]; chảy
qua quãng Natalia là sự giải thoát khỏi đau khổ “Sông Đông cuốn ra biển Azov
những gông cùm băng giá của nó” [192,14], với Acxinhia là sự phục sinh tình
yêu…
Mối tình lãng mạn và “ngỗ ngược” của Grigori và Acxinhia bắt đầu từ bến
sông Đông, khi tiễn những tráng binh Cozak ra mặt trận. Cũng trên bến sông ấy
nàng được gặp lại Grigori sau bao nhiêu tháng năm xa cách. Grigori đã nói với
nàng những lời yêu thương nồng nàn, tha thiết - và cái cây tình yêu của họ lại nở
hoa, những đóa hoa vàng óng, nhìn thẳng vào mặt trời. Dòng sông Đông dữ dội
và êm đềm ấy đã khởi sinh, đã phục sinh cho tình yêu mãnh liệt, sâu nặng của
hai nhân vật chính. Mối tình ấy phải trải qua bao biến cố dữ dội; nhiều lúc hơi
thiên về những dục vọng, bản năng… chính sông Đông đã góp thêm chất thi vị
và làm trong sáng hơn cuộc tình của họ: “Sóng nước đập vào khoảng vách đứng
liếm mãi không chán những tảng đá xanh biếc. Những làn sóng bạc đầu dồn lại
với nhau nom như đàn cừu ở chỗ ven rừng bị nước lên to tràn vào. Gió phả tới
một lớp bụi nước li ti, kèm theo một mùi nhạt thếch bốc lên từ dòng nước hùng
vĩ của sông Đông đang cuồn cuộn tuôn về vùng hạ du” [282, 15]. Đoạn văn biểu
hiện chính xác nhịp đập trái tim và những cảm xúc cuộn trào trong trái tim hai
con người gặp lại sau những năm tháng xa cách.
Khi chia tay Grigori, đau khổ, cùng đường Acxinhia tìm ra bến sông Đông
để hóa giải nỗi buồn. Acxinhia cầu mong ước của con sông Mẹ sẽ xoa dịu nỗi
đau tương tư mà tình yêu với Grigori gây ra trong trái tim nàng. Acxinhia không
mấy tin tưởng vào bùa phép của mẹ Drotdikha nhưng ít nhất khi cúi xuống uống
14


ngụm nước sông Đông Acxinhia vững tâm hơn để đương đầu với sự thật phũ
phàng. Dòng sông Đông đã tiếp thêm cho nàng sức mạnh để tranh đấu đến cùng
cho tình yêu.
Trong Sông Đông êm đềm tất cả các nhân vật, kể cả nhân vật phụ đều gắn

liền với dòng sông Đông êm đềm. Tiêu biểu như Daria, người đàn bà tính cách
lẳng lơ và được ví như một cành liễu: “óng ả, mềm mại mà tay ai cũng với tới
được”. Với lối sống thiên về bản năng, cứ ngỡ bản tính đó không thay đổi được
nhưng đến phút cuối cuộc đời mình khi đứng giữa sự sống và cái chết, nhìn thấy
dòng sông Đông yêu dấu Daria bỗng chợt thức tỉnh: “Tôi đã sống cả một cuộc
đời như đui như mù, nhưng trong khi từ trên thị trấn về, vừa đi dọc theo sông
Đông vừa nghĩ rằng không bao lâu nữa mình sẽ phải chia tay với tất cả những
thứ này, lúc ấy tôi đã nghĩ rằng mình như được mở mắt ra! Tôi nhìn lên mặt
sông Đông, thấy trên đó đầy những vệt sóng lăn tăn, nắng chiếu vào nom cứ
như bạc ấy lóng lánh chói cả mắt. Tôi đưa mắt ra chung quanh nhìn thấy, lạy
Chúa tôi, sao mà đẹp thế! Thế mà trước kia tôi chẳng nhận thấy gì cả…” [480,
15]. Daria đã sống một cuộc sống như đui như mù chẳng để ý đến thế giới xung
quanh, đến khi biết sẽ phải xa rời nó mới chợt ngỡ ngàng nhận ra thế giới ấy vô
cùng đẹp đẽ. Tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc, Daria đã phải trả giá đắt. Dòng sông
Mẹ bao dung đã thu nhận đứa con tội lỗi và gội rửa những nhơ nhuốc về thể xác
và linh hồn Daria.
Ngoài tư cách là một chứng nhân, sông Đông đồng thời cũng là một sinh
thể biết cảm nhận, đồng cảm sẻ chia với những khổ đau mất mát bất hạnh của
đời người. Hai lần Acxinhia và Grigori gặp nhau trên bến Sông Đông, đã “đối
thoại” bằng sự im lặng là hai lần trong nội tâm của họ chồng chất nhiều mâu
thuẫn, nhiều cảm xúc nhất. Có thể nói đây là hai đoạn thoại đặc biệt trong tác
phẩm và có tính chất tương ứng kì lạ. Lần thứ nhất, sau những đêm bị chồng
hành hạ, cả thể xác và tâm hồn quằn quại trong đau đớn, hờn giận, nhớ thương,
Acxinhia gặp Grigori trên bến sông quen thuộc. Một nỗi cay đắng trớ trêu không
sao diễn tả được trong tâm hồn cả hai người. Họ không tìm được lời nào để nói
với nhau, ngôn ngữ đã bất lực: “Chàng rung rung lông mày, mỉm một nụ cười đờ
15


đẫn. Acxinhia vẫn đi, mắt nhìn qua đầu Grigori ra sông Đông xanh biếc đang

thở hổn hển dưới những làn sóng” [70, 14]. Lần thứ hai, cũng trên bến sông ấy
sau bao nhiêu năm xa cách vời vợi, bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, cả hai đã
già dặn, từng trải hơn, có cả những lãng quên, lầm lỡ… nhưng tình yêu vẫn là
ngọn lửa nồng nàn, bỏng cháy trong hai trái tim. Một lần nữa Sholokhov lại
dùng đối thoại vô ngôn để diễn tả những xúc động vô bờ trong nội tâm hai nhân
vật chính: “Grigori chuyển tầm mắt từ khuôn mặt Acxinhia ra sông Đông. Với
những thân cây trắng nhợt, đám tiêu huyền bị ngâm nước lắc lư những cái cành
trơ trụi” [282, 15]. Không có một lời nào trao đổi giữa họ nhưng chính sự im
lặng lại truyền tải được mãnh liệt nhất tiếng lòng dào dạt yêu thương và nghẹn
ngào xúc động trong tâm hồn họ ở khoảnh khắc ấy. Ánh mắt Acxinhia hướng ra
Sông Đông như tìm sự đồng cảm, tiếng dòng sông thở than cũng giống như
tiếng lòng khắc khoải của nàng - tiếng lòng vừa mang hi vọng vừa âm thầm
tuyệt vọng trong mối tình say đắm với Grigori. Còn ánh mắt Grigori tìm đến
dòng sông như cầu cứu sự hòa giải. Họ không nói với nhau một lời nào, nhưng
trong giây phút ấy hai tâm hồn hoàn toàn thấu hiểu và hòa hợp với nhau.
Đến những trang cuối của cuộc đời, Acxinhia trở nên sâu lắng, đa sầu đa
cảm hơn bao giờ hết: “Sông Đông đã chảy bao nhiêu nước…”, bao nhiêu sóng
to gió lớn đã xô qua trên đầu nàng nhưng có một điều là tình yêu sôi nổi, cháy
bỏng với Grigori vẫn nguyên vẹn như những ngày đầu tiên. Khi vắng chàng mặt
đất ngừng hát ca, mặt trời ngừng chiếu sáng, cuộc sống buồn tẻ nhưng khi có
Grigori tất cả lại hồi sinh và sống mãnh liệt trong tâm hồn người đàn bà suốt đời
yêu, suốt đời cuộn trào như Sông Đông ngày giông bão ấy.
Dòng sông Đông dữ dội nhưng cũng rất dịu dàng tạo nguồn cảm hứng bất
tận cho những trang văn của thiên tài Sholokhov. Dòng sông tiêu biểu cho
những tính cách của con người vùng đất mà ông gắn bó. Dòng sông bao dung
đầy yêu thương sẻ chia, trở thành nơi trút bỏ mọi hận thù, gột rửa những phiền
muộn của Grigori. Một buổi sáng mùa xuân, trên lớp băng thủng lỗ chỗ, Grigori
ném hết súng đạn xuống dòng sông: “…Grigori ném xuống nước cây súng
trường, khẩu Nagan, sau đó chàng dốc hết những viên đạn xuống và chùi tay rất
16



cẩn thận vào vạt áo capote” [794, 15]. Sholokhov để cho nhân vật của mình lấy
dòng sông làm điểm tựa, lấy sức sống vĩnh hằng của con sông làm hồi sinh khát
vọng sống và tình yêu với cuộc đời của con người - Grigori.
Hình tượng dòng sông Đông từng xuất hiện trong nhiều sáng tác của
Sholokhov, vẫn là con sông ấy với linh hồn của nó nhưng ở từng thời điểm và
từng tác phẩm, con sông lại thể hiện một cái nhìn chủ quan với những nét rất
riêng. Có thể kể đến Những truyện ngắn sông Đông, được viết khi ngòi bút
Solokhov vẫn còn non trẻ, dòng sông Đông mang vẻ non nớt chưa trọn vẹn.
Dòng sông Đông của Những truyện ngắn sông Đông đục ngầu máu người,
chứng kiến toàn bộ những bi kịch éo le của những người con sông Đông, phần
nào khẳng định khuynh hướng nói toàn bộ sự thật đau lòng về thực tại của dòng
sông Đông ngầu đục trong Nội chiến. Trong số 20 truyện ngắn sông Đông, hầu
hết là những tình huống éo le “… có tới 10 nhân vật bị giết bởi những người
cùng làng, 4 nhân vật bị giết bởi những người ruột thịt, 5 nhân vật bị tra tấn
thảm khốc” [214, 12].
Cùng với thời gian, dòng sông Đông trong những trang viết của Sholokhov
cũng dần thay đổi. Trong Sông Đông êm đềm con sông như có linh hồn, sức
sống mới. Không chỉ ghi dấu đời sống con người sông Đông trong thời kì nội
chiến đầy biến động và phức tạp, đầy mất mát và hi sinh mà còn thể hiện tình
yêu thương vô bờ bến của Sholokhov với quê hương.
1.2. Hình tƣợng “đồng cỏ”
Đồng cỏ là hình ảnh xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn học Nga.
Truyện Thảo nguyên (1888) của văn hào A.Sekhop là một điển hình tiêu biểu,
truyện kể về một thằng bé lên chín tuổi, đi theo một đoàn xe ngựa chở lông cừu,
từ một thị trấn nhỏ lên tỉnh học trường trung học. Con đường ra tỉnh xuyên qua
một thảo nguyên rộng lớn, nhưng cằn cỗi thiếu sức sống: “Nhưng chỉ một lát sau
sương mai đã bốc hơi hết, không khí ngưng đọng lại, và cánh thảo nguyên bị
mắc lừa lại trở lại với cái vẻ chán chường của tháng Bảy. Cỏ rũ xuống, sự sống

lại lịm đi. Những dãy đồi rám nắng, gần thì màu hung pha lẫn màu xanh, xa thì
màu tím, với những sắc độ điềm đạm như bóng tối, dải đồng bằng mờ dần ở
17


phía xa, và bầu trời úp lên trên cánh thảo nguyên không có rừng và núi cao
trông sâu thẳm và trong suốt đến phát sợ lên: tất cả đều có vẻ vô cùng vô tận và
lặng điếng đi nhớ nhung” [1, 21]. Hình ảnh thảo nguyên cằn cỗi, chán chường
chính là hình ảnh của một nước Nga lạc hậu, cũ kỹ, buồn tẻ và ngột ngạt không
sao chịu đựng nổi. Cuộc sống ấy rồi sẽ ra sao? Đó chính là câu hỏi băn khoăn,
day dứt đặt ra cuối câu chuyện không chỉ cho cậu bé mà còn cho cả nước Nga
lúc bấy giờ. Hay trong Tôtem sói (Khương Nhung) đồng cỏ cũng rất được coi
trọng: “cỏ và thảo nguyên là sinh mạng lớn, tất cả những thứ khác là sinh mạng
nhỏ: sinh mạng nhỏ sống nhờ sinh mạng lớn” [482, 18]. Như vậy, ta thấy đồng
cỏ không chỉ là một phần không thể thiếu của bức tranh thiên nhiên nhưng mỗi
tác giả lại có một cách lí giải, khai thác ở các góc độ khác nhau.
Đồng cỏ trong Sông Đông êm đềm là một trong những hình ảnh thiên nhiên
được M. Sholokhov sử dụng trở đi trở lại trong tác phẩm để nhằm làm nổi bật
đặc thù thiên nhiên vùng sông Đông. Đồng cỏ xuất hiện nhiều trong tác phẩm
với các trạng thái khác biệt từ khi sinh sôi, nảy nở đến khi chết đi. Có khi là
đồng cỏ đẹp đẽ, có lúc là đồng cỏ héo úa và có khi là đồng cỏ cháy rụi. Nhưng
nổi bật nhất vẫn là sự bao la rộng lớn, khoáng đạt của đồng cỏ. Đó là một không
gian với vô vàn các loại hoa cỏ, chim muông, là một thảo nguyên bạt ngàn nắng
gió. Đọc những đoạn văn miêu tả đồng cỏ người đọc như thấy được một bức
tranh sinh động đầy sức sống. Không chỉ trong Sông Đông êm đềm, hình ảnh
đồng cỏ đã trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của M. Sholokhov trước đó. Trong
lời giới thiệu tập Thảo nguyên thiên thanh, Serafimovich từng viết: “Những
truyện ngắn của Solokhov như bông hoa trên thảo nguyên bừng dậy với màu sắc
sống động. Ta cảm nhận thấy những gì được kể hiện ra trước mắt dung dị sáng
sủa. Ngôn ngữ hình tượng, thứ ngôn ngữ rực rỡ sắc màu mà những người Cozak

thường sử dụng. Và cô đọng, cái cô đọng tràn ngập sức sống, căng thẳng và
thật như cuộc đời… khả năng kiềm chế ở những thời điểm căng thẳng nhất… tri
thức rộng lớn về những gì mình kể. Cặp mắt tinh tế, bao quát. Khả năng chọn
lựa từ nhiều thời điểm khác nhau một thời điểm điển hình nhất” [212, 12].

18


Cùng với hình tượng dòng sông, đồng cỏ vừa là cái nôi nuôi dưỡng, vừa là
môi trường sinh sống của nhân vật. Đồng cỏ gắn với tuổi thơ, với kí ức, với hiện
tại, với cuộc sống lao động và tương lai của những người con sông Đông. Họ
được sinh ra, lớn lên, sống và chết đi cũng chính trên đồng cỏ. Đồng cỏ nuôi
dưỡng, đem lại nguồn sống trù phú, nguồn thức ăn cho gia súc. Người Cozak coi
công việc “cắt cỏ” cũng quan trọng tựa như công việc đồng áng gieo trồng hàng
ngày. Hình ảnh đồng cỏ rộng lớn theo thời gian tuần hoàn sinh sôi nảy nở rồi lại
lụi tàn, lặp đi lặp lại tựa như cuộc đời người dân Cozak với biết bao biến cố
thăng trầm trong dòng chảy sinh mệnh.
Bằng tài năng và một trái tim tinh tế Sholokhov rất khéo léo sử dụng bút
pháp tả thực miêu tả hình ảnh đồng cỏ gắn với những tâm trạng, cảm xúc của
những người con Cozak. Trong Sông Đông êm đềm đi liền với hạnh phúc của
các nhân vật là những “đồng cỏ xanh rờn”, “đồng cỏ tràn ngập màu xanh ướt
át”, “đồng cỏ nở hoa”. Bức tranh thảo nguyên bao la, bát ngát với đầy đủ các
loại hoa sinh sôi với sức sống thanh xuân mãnh liệt: “Đồng cỏ bắt đầu nở hoa
(…) Cỏ rậm xanh thẫm từ ngọn tới gốc. Đầu những lá cỏ sáng loáng dưới ánh
nắng như rỉ đồng. Cỏ vũ mâu chưa già mọc lờm xờm lẫn những đám thường
xuân loăn xoăn. Cỏ nga quan khao khát vươn lên những bông nặng hạt đón ánh
nắng mặt trời. Chỗ chỗ lại có những khoảng mã tiền lùn choằn choằn bạc đầu
bạ đâu mọc đấy, nhưng rễ bám rất chắc. Năm thì mười hoạ mới thấy mọc xen
những nhánh thử vĩ rồi vũ mâu lại lan tràn như nước vỗ bờ, bên trong có lẫn đủ
mọi thứ hoa: yến mạch dai, hoàng sơn giới, đại tái, trần cát, giống cỏ thô bạo

thích sống cô độc, mọc ở đâu là chen lấn các thứ cỏ khác” [29, 15]. Sholokhov
phải có một vốn tri thức phong phú, trái tim đa cảm và sự quan sát vô cùng tinh
tế mới có thể miêu tả một cách chân thực nhưng cũng đầy sống động đến vậy
bức tranh đồng cỏ. Ông không chỉ gọi được tên chúng mà còn nắm được đặc
điểm cùng tính chất của tất cả các loài cỏ cây. Có thể nói chính điều này làm nên
sự đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng thiên nhiên vào Sông Đông êm đềm của M.
A. Sholokhov.

19


Trong Sông Đông êm đềm Sholokhov miêu tả các thứ cỏ vô vàn phong phú
đầy hương sắc cũng như sức sống bất diệt của cỏ như là một ẩn dụ về khát khao
sống, khát khao được lao động của người Cozak. Ở Grigori luôn thường trực nỗi
nhớ quê hương tha thiết cùng với nỗi khát khao hoà bình, mong muốn được lao
động trên những “đồng cỏ bát ngát”, còn “không khí trầm mặc hùng vĩ đang ngự
trị trên đồng cỏ” luôn thôi thúc Grigori trở về với quê hương. Hỗ trợ cho tính chất
này là bức tranh thiên nhiên trù phú và đầy sức quyến rũ của đồng cỏ: “Đồng cỏ
oi ả tràn ngập nắng vàng, lúa mì đã chín già mà chưa gặt rào rạt gợn sóng, hơi
bốc lên như bụi vàng (…). Bầu trời vàng vàng xanh xanh như bị hun bỏng. Sau
cánh đồng lúa mì là những đám cỏ linh lăng nở hoa vàng nghệ” [231, 14].
Khi nỗi buồn chán chiến tranh tràn ngập trong lòng mọi người thì gắn với
nó là đồng cỏ “bị phủ kín bởi màn đêm dày đặc”, hoặc là “chết lặng như ma”.
Đặc biệt là hình ảnh “đồng cỏ bị lửa đốt trụi (…) đất bị cháy đen thui không còn
sức sống” được lặp lại trong tác phẩm tạo nên sự ám ảnh trong lòng người đọc.
Hình ảnh đồng cỏ bị đốt cháy đen là một ẩn dụ được sử dụng như là một sự lên
án, tố cáo tính chất phi nghĩa của cuộc đấu tranh đã hủy diệt sự sống của thiên
nhiên cũng như con người. Tuy vậy vượt lên sự chết chóc, mọi sự huỷ diệt đau
thương, đồng cỏ vẫn âm thầm bền bỉ với sức sống bất diệt. Phải chăng mạch
nguồn sống ấy chính là bản tính vốn có của người Cozak - một dân tộc luôn

phấn đấu vươn lên để khẳng định mình.
Đồng cỏ rộng mênh mông được hoà quyện với các yếu tố thiên nhiên khác
như hoa lá, chim muông đã khẳng định thêm sự gắn bó, sống chết với đất đai
của con người sông Đông. Grigori - một người con sông Đông, yêu thiên nhiên,
yêu đồng cỏ như lòng yêu cuộc sống trong con người chàng. Môi trường hoạt
động của Grigori không phải ở nơi đâu xa lạ mà chính là đồng cỏ. Khi những
khoảnh khắc bình yên đến với Grigori, đồng cỏ hiện ra lúc thì bát ngát, lúc thì
“tràn trề ánh nắng’’, “nồng nặc hơi xuân”, sự sống của thiên nhiên toát ra cái
“mùi rất thanh tú của ngày xuân’’ [373, 15]. Đến với đồng cỏ Grigori như căng
tràn tình yêu cuộc sống, chàng cảm nhận thiên nhiên và sống với đồng cỏ bằng
chính tâm hồn: “Có một sức sống hừng hực, mãnh liệt tràn trề, dồn dập như
20


×