Lời giới thiệu
Nền văn hóa truyền thống của người Việt vô cùng phong phú và đa dạng.
Mỗi nét sinh hoạt từ ứng xử, ăn uống, vui chơi giải trí đến xây dựng nhà ở, đền đài,
thành quách... đều mang đậm sắc thái riêng của mỗi tộc người trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.
Văn hóa người Việt có rất nhiều loại hình, trong đó lễ hội là loại hình tiêu
biểu nhất. Thực tế cho thấy, lễ hội có sức quy tụ cộng đồng với quy mô không giới
hạn: từ một làng, một xã, cho đến một quốc gia. Để giúp bạn đọc hiểu sâu sắc hơn
về lễ hội và các trò chơi diễn ra trong lễ hội, nhóm sưu tầm giới thiệu cuốn "Văn hóa
dân gian người Việt" qua hai phần:
Phần thứ nhất: Một số hội làng tiêu biểu. Phần này giới thiệu và diễn giải một
số hoạt động diễn ra trong các hội làng mang đậm sắc thái riêng của từng vùng, miền.
Phần thứ hai: Một số trò chơi dân gian. ở phần này tập trung giới thiệu và
mô tả những trò chơi thường thấy trong các hội làng, ngày tết, giờ giải lao, tan ca...
Những trò chơi dân gian ấy không chỉ xuất hiện từ rất lâu mà còn được phát triển
cho đến ngày nay.
Phần thứ nhất
MỘT SỐ HỘI LÀNG TIÊU BIỂU
Hội đình làng An Hải (Đà nẵng)
Làng An Hải ngày trước thuộc xã An Phúc, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng
Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng). Mảnh đất
phía đông sông Hàn này đã một thời được các vua nhà Nguyễn cho xây dựng thành trì
- gọi là thành An Hải, cùng với thành Điện Hải ở phía tây giữ nhiệm vụ bảo vệ cảng
biển Đà Nẵng. Sau đợt tấn công của liên quân Pháp - Tây Ban Nha (ngày 1-9-1858)
vào Đà Nẵng, thành An Hải và thành Điện Hải đã bị hư hại nặng. Đến nay, mặc dù
dấu vết thành An Hải hầu như không còn nữa, nhưng dấu ấn của cuộc kháng chiến hào
hùng ngày xưa vẫn còn lưu giữ trong lòng người dân bao thế hệ qua câu chuyện truyền
khẩu.
Năm 2000, lễ hội đình làng An Hải được khôi phục, nhắc nhở mọi người
quay về một thời hào hùng ấy. Lễ hội đình làng An Hải được tổ chức vào ngày thu tế
hàng năm (10-8 âm lịch). Sau lễ thỉnh văn khai mạc lễ hội tại đình, mọi người đổ xô ra
bờ sông để xem thi lắc thúng - một môn thể thao mang đậm sắc thái sinh hoạt vùng
biển.
Trong sân đình, các kỳ thủ cân nhắc lợi hại từng nước đi để tranh nhau
chiếm giải môn cờ tướng. Các đội tham gia thi kéo co cũng chuẩn bị tinh thần sẵn
sàng nhập cuộc. Bên cạnh các trò chơi dân gian truyền thống ấy còn có các môn
hiện đại như cầu lông, điền kinh... Xế chiều diễn ra hội thi múa lân. Khi đêm xuống,
sau buổi xây chầu hát lễ diễn ra đầy sắc màu dân tộc, mọi người lại tề tựu về sân
khấu trước đình xem hát tuồng. Sáng hôm sau, trong phần lễ chính thức, đại biểu
các tộc họ cùng nhau ôn lại truyền thống tốt đẹp của làng trước khi bước vào dâng
lễ tế theo nghi thức cổ truyền dân tộc.
Lễ hội đình làng An Hải nhắc nhở mọi người luôn tự hào về một quá khứ
hiển linh, dù trải qua bao năm tháng, tên đất - tên làng vẫn còn vang vọng những
hào quang oanh liệt không chỉ của một thành phố mà còn của cả một dân tộc.
hội làng an lễ
(Thái Bình)
Xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (đất xưa thuộc thôn Đào
Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng) hàng năm mở hội làng 6 ngày, từ ngày 20
đến ngày 26 tháng 8 âm lịch. Điều đáng quan tâm nhất trong ngày hội này là tục đua
thuyền, bơi trải.
Tục đua thuyền đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ, gắn với việc quần tụ cư dân ở
vùng này. Những truyền thuyết dân gian và một phần quần thể di tích lịch sử phần
nào hé mở cho ta thấy tính chất cổ xưa của tục này.
Dân làng Đào Động thường truyền ngôn rằng: Vào thời Trần, có hai người
trong đội quân đánh giặc ở vùng biển rất tri kỷ với nhau, khi giặc tan, họ chia tay
nhau. Một người ở lại Phủ Nội (Thanh Miện, Hải Dương) chiêu dân, lập ấp. Một
người trở về Đào Động, lập nên tám trang Đào Động. Sau này hai làng kết nghĩa
giao chạ với nhau và hàng năm tổ chức đua thuyền vui chạ. Tục lệ ấy được nối tiếp
cho đến những năm 40 của thế kỷ này. Sông Đồng Bằng và sông Nuồi trở thành
đường đua truyền thống của hai làng. Mỗi lần tổ chức đua, dân Đào Động rước thần
được thờ ở đền Đồng Bằng ra đình bơi (nay là khu chợ Đồng Bằng).
Các cụ đều cho rằng chính hai người bạn trong đội quân nhà Trần là ông tổ
của tục lệ này và quả quyết rằng, khi chia tay, hai người có lời nguyền khắc vào tấm
bia đồng ở ngã ba Rách; đáng tiếc là đình làng Nuồi bị phá từ lâu, sắc phong, thần
tích, bia ký không còn nữa.
Lại thêm cách đây khoảng 450 năm (vào cuối thế kỷ XVI) một họ lớn của
Đào Động là họ Đinh đã lưu tán sang làng Nuồi và bây giờ những người cùng dòng
họ ấy vẫn có mối quan hệ chặt chẽ. Như vậy tục đua thuyền giữa hai làng còn là hệ
quả của mối quan hệ cư dân có truyền thống lâu đời.
Theo tài liệu kiểm kê di tích của bảo tàng Thái Bình, địa bàn Đào Động có
liên quan đến ba lần chống quân Nguyên của nhà Trần. Theo các nhà nghiên cứu,
vùng bắc Quỳnh Côi, Phụ Dực là vùng hiểm yếu, là căn cứ của quân đội nhà Trần.
Khu vực bắc Thái Bình, nam Hải Phòng là khu căn cứ được hình thành sau khi nhà
Trần rút khỏi Long Hưng, Thiên Trường và tồn tại tới khi tổ chức chiến dịch Bạch
Đằng. Từ đây ngày 10 tháng 2 năm 1288, thuỷ quân nhà Trần tiến lên tiêu diệt địch ở
vùng cửa biển Đại Bàng (nam Đồ Sơn) và hai tháng sau Trần Hưng Đạo dẫn quân
vượt sông Hóa tiến lên chuẩn bị chiến dịch Bạch Đằng Giang lịch sử. Là vị trí chiến
lược vừa có thế thủ vừa có thể tiến công cơ động theo đường thủy, vùng bắc Quỳnh
Côi, Phụ Dực trở thành địa bàn quan trọng trong cuộc kháng chiến thứ ba - chiến dịch
"đại thủy chiến" - mà rất có thể Đào Động là trung tâm vì ở đây có đầm rộng lớn, kín
đáo, sông sâu thuận tiện cho việc luyện quân và tập dượt thủy chiến. Vì vậy, đua
thuyền ở Đào Động thành một hoạt động thường xuyên, một hình thức rèn luyện thể
lực, kỹ thuật cho quân sĩ đời Trần, đồng thời là một hình thức sinh hoạt văn hóa được
nuôi dưỡng và phát triển trên cơ sở lịch sử đã nêu. Khi việc đua thuyền trở thành hội
thì nó mang đặc trưng của lễ hội truyền thống văn hóa - lịch sử, một hình thức sinh
hoạt văn hóa của một dân tộc giỏi thủy chiến trong các cuộc chống ngoại xâm.
Bơi trải được tiến hành vào ngày 22, 23, 24 tháng 8 âm lịch.
Trải được đóng bằng gỗ giổi, một loại gỗ dẻo, thớ mịn, ít nứt, có thể lưu
giữ qua nhiều năm. Trải được ghép mộng, chốt vít và ém sơn chặt chẽ. Ván trải để
mộc, không sơn, không trang trí vẽ hoặc khắc. Thông thường trải dài từ khoảng 20 25 thước ta (khoảng 8 - 10m).
Làng Đào Động có ba trải, mỗi trải gọi là một "tích" do người "cai mạn"
đứng đầu. "Cai mạn" là người có uy tín, có kỹ thuật bơi cao nhất và tinh thông luật
lệ. Trải không cùng một kích cỡ, cụ thể như sau:
- Trải Trung Toán (tích Trung) dài 20 thước.
- Trải Đông Đào (tích Đông) dài 25 thước.
- Trải Thượng Thắng (tích Thượng) dài 22 thước.
Tuy vậy, chúng lại hoàn toàn giống nhau về cấu tạo và cách bố trí, trang bị.
Khúc giữa trải phình ra, đầu và đuôi thót lại. Mũi trải cao 2m so với mặt nước,
không vót nhọn mà ngang bằng, được đai một vòng kim loại bảo vệ chắc chắn,
tránh bị vỡ khi húc vào bờ hoặc chướng ngại vật. Đầu mũi trải có gắn một đầu rồng
tượng trưng bằng gỗ gọi là "ống réo". Lòng trải rộng vừa phải, đáy hơn 1 thước
(0,5m), phần tiếp nước không phẳng mà như một cung tròn hình bán nguyệt khiến
trải lướt nhanh dễ dàng. Đuôi trải cao hơn so với mặt nước chừng 2 thước rưỡi
(1m), vát tạo thành một góc 40 độ sau đó xòe hình "đuôi tôm" song song với đáy
khiến toàn bộ hình dáng chiếc trải là "đầu rồng đuôi tôm". Chính giữa lòng trải có
một đường "ruột rồng" rộng gần 1 thước (30 - 40cm) chia trải thành hai phần dọc
cao bằng nhau, cao ngang bề mặt hai mạn trải và phía sát đáy có đục các lỗ thông
nước. Hai bên ruột rồng có chỗ cho hai người làm nhiệm vụ tát nước.
Dầm bơi nếu cùng loại gỗ thì tốt nhất nhưng cũng có thể làm bằng các loại gỗ
khác như xoan, bạch đàn. Dầm bơi có hình lưỡi mai dài 3 thước (1,2m) trong đó phần
cán dài 2 thước (0,7m), phần mái dầm hơn 1 thước. Dầm của "tích" nào mang màu sắc
riêng của "tích" ấy. Ví dụ: dầm bơi của trải Trung Toán có màu trắng và khắc chữ
"Toán", dầm bơi của trải Đông Đào màu đỏ có khắc chữ "Đông" và dầm Thượng Thắng
màu xanh khắc chữ "Thượng".
Bánh lái có dáng gần như bánh lái các thuyền hiện nay, phần cán tròn sơn
màu đỏ và phần ngập trong nước dẹt sơn màu trắng.
Trên mỗi trải có 30 người sức khỏe tốt. Trong đó, một người có nhiệm vụ
chấp hiệu (đánh mõ), hai người lái, một người phất cờ, hai người tát nước và hai mươi
tư trải bơi.
Để vào đua, người ta phải tập luyện trước cho các đội về động tác, hiệu
lệnh vị trí, nội quy thật thuần thục. Do hàng năm có thay đổi nhân sự nên việc tập
luyện càng cần thiết.
Trải được cất giữ, trông nom trong nhà, nơi mà người ta gọi là "xiềng trải"
hay "quán trải".
Đứng đầu các trải là "cai mạn". "Cai mạn" phải trông nom, coi sóc tài sản
của "tích" mình. Mỗi "tích" được làng Đào Động cấp cho một mẫu ruộng công để
canh tác. Hoa lợi, sản phẩm thu hoạch sẽ dành để giải quyết các khâu từ tu sửa
thuyền quán, may sắm cờ quạt, vật phẩm tế lễ thần thánh.
Tất cả chuẩn bị xong, ngày 22 tháng 8 là ngày hạ trải, tiến hành cuộc đua
đầu tiên. Cả ba trải Thượng Thắng, Đông Đào và Trung Toán lần lượt được đưa ra
và xếp hàng ngay trước điểm xuất phát. Vào cuối giờ Ngọ, sau ba tiếng cồng nổi
lên, các "tích" tập trung, kiểm tra lần cuối số người, trang bị và bắt đầu xuống trải
của "tích" mình. Người chấp lệnh xuống trước, tiếp đó là người phất cờ, rồi tới hai
người cầm lái và hai người tát nước. Chấp lệnh, phất cờ, cầm lái đều mặc áo chẽn,
loe phần dưới, đầu thắt khăn đỏ hoặc vàng có bỏ mối. Cuối cùng là 24 trải bơi, họ
phải vào đúng vị trí một cách trật tự, không nhầm lẫn, hay lộn xộn. Trang phục của
các "tích" cũng phải có màu sắc riêng để phân biệt.
Trên đầu các trải bày tượng "ông Mó" (tượng con phượng hoàng bằng gỗ sơn
son thếp vàng rực rỡ) cùng mâm cơm cúng gọn nhẹ là trầu rượu. Tới 13 giờ rưỡi, trên
bờ có cuộc tế Nhị vị do hội đồng kỳ mục gồm các vị bô lão và những chức sắc trong
làng có uy tín (mười người cả thảy) tiến hành. Một tràng pháo nổ báo hiệu cuộc thi bắt
đầu. Các trải đồng loạt hất ông Mó cùng đồ tế xuống sông và xuất phát. Xuất phát từ
đình bơi (nay là chợ Đồng Bằng) các trải sẽ thực hiện một vòng tới thẻ Thượng (Đồng
Đống), rồi tới thẻ Hạ và quay về đình bơi. Cuộc thi diễn ra căng thẳng và hết sức sôi
nổi. Sau ba giờ thì cuộc thi kết thúc. Trải nào về nhất, không phạm luật thì giật giải.
Lễ trao giải diễn ra trước đình bơi. Giải thưởng gồm một bánh pháo dài 1,2m, một
mâm xôi và một thủ lợn do hội đồng kỳ mục trao.
Trong hai ngày 23 và 24 tháng 8 là ngày giải "thăm thẻ", chỉ do ba trải của
Đào Động đua với nhau.
Ngày 24 tháng 8 là ngày chính tịch (hóa thần) cuộc đua, ngoài ba trải của
Đào Động còn có thêm ba trải của làng Nuồi là "tích" Tây Đô, "tích" Thủy Mã,
"tích" Đông Thắng tham gia. Trước tiên, ba trải của Đào Động cùng thi bơi lên Nuồi
trước, mang tính chất mời chạ và chịu sự giám sát của làng Nuồi. Sau đó trải làng
Nuồi bơi xuống Đào Động dự đua. Vẫn đường đua hôm trước nhưng lần này cả sáu
trải dàn hàng ngang xuất phát. Trải nào thắng cuộc trong lần này được thưởng từ 20
đến 30 vuông lụa điều, một bánh pháo, mười quan tiền xanh (sau này những năm 30
- 40 của thế kỷ XX được thay bằng 5 - 10 đồng Đông Dương).
Dưới sông thì không khí đua tranh, song trên bờ lại bao trùm một không
khí chan hòa, thân ái, cùng chia sẻ niềm vui với nhau… Tất cả cùng thể hiện một
truyền thống đẹp đẽ của đồng bào làng Đào Động.
Cuộc đua kéo dài đến hết ngày 24 tháng 8 thì kết thúc trong niềm hân hoan
sảng khoái và lành mạnh của người xem và những lời chúc mừng, hứa hẹn về cuộc
đua trong lễ hội năm sau. Chiều 25, trải bơi lại tập trung làm lễ cắt trải, đưa ba trải
vào quán trải cất giữ.
Có thể nói tục đua thuyền ở Đào Động là một sinh hoạt văn hóa dân gian
chứa đựng nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp: giá trị thể thao, văn hóa, truyền thống
thượng võ và tinh thần cố kết cộng đồng.
Hội làng pháo bình đà
(hà tây)
Làng Bình Đà xưa có tên là làng Bùi. Qua các thời kỳ tên làng có nhiều
thay đổi. Vào đời Tiền Lê làng có tên là Từ Bảo Cựu. Năm 1820 (đời Nguyễn) làng
mới được gọi là Bình Đà. Trước đây, làng ở giữa cánh đồng Mả Bùi. Sau đó, do
vùng đất này lụt lội luôn, Bình Đà mới chuyển vào khu làng hiện nay.
Bình Đà là một thôn lớn của xã Bình Minh. Bình Minh là một xã lớn thuộc
huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Làng Bình Đà cách Thủ đô Hà Nội 24km về phía tây
nam, Bình Minh vẫn được gọi là vành đai phía tây bảo vệ kinh thành xưa. ở đây, giao
thông thủy, bộ đều thuận lợi. Bình Đà là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đẹp trong đó có
hội làng.
Hội làng pháo Bình Đà được mở để tưởng niệm đức Tổ người Việt - Lạc
Long Quân, đồng thời cũng là người anh hùng chinh phục thiên nhiên, diệt Ngư
Tinh, chém Hồ Tinh chín đuôi, thắng Mộc Tinh, có công trong việc khai sáng đất
nước.
Hội làng còn là dịp để tưởng niệm Lí Lang Công - Thành Hoàng của làng.
Hội Bình Đà còn là ngày hội làng nghề. Trong dịp vào đám, dân làng muốn
biểu dương nghề làm pháo cổ truyền của mình. Với hai bàn tay vàng và trí thông
minh, người Bình Đà đã sáng tạo hàng chục loại pháo. Từ pháo tép, pháo ném, pháo
chuột, pháo vịt, pháo cây, pháo bông… đã làm khách thập phương tới dự hội phải
ngạc nhiên thán phục.
Cũng như nhiều hội làng khác, hội Bình Đà còn hàm nghĩa cầu mong cho
nhân khang vật thịnh, nghề trồng lúa cũng như nghề làm pháo ngày một thịnh đạt phát
triển.
Hàng năm, làng Bình Đà chính thức mở hội vào ngày mùng 6 tháng 3 âm
lịch. Nhưng ngay từ tháng Chạp năm trước, các cụ trong hội đồng cử ra cụ Từ mới coi
sóc việc thờ cúng của làng. Theo lệ làng, mỗi cụ Từ được đèn nhang hương khói một
năm, lĩnh một mẫu hai sào ruộng làng để lấy hoa lợi chi phí trong việc thờ tự. Đến
ngày 15 tháng 2, các cụ bàn việc mở hội. Thành phần tham dự là tất cả lão ông đại
diện cho bốn xóm, 27 giáp. Nội dung họp bàn là bầu chủ tế, ban tế, cử thôn đăng cai,
ứng biện cỗ bàn và chia người chia việc tổ chức hội. Mỗi giáp góp một cây pháo và
chuẩn bị lợn cúng Thiên Quan. Thời gian diễn ra lễ hội từ 24 tháng 2 đến mồng 6
tháng 3. Cụ thể:
Ngày 24 tháng 2 là lễ Sám Quán, trình báo thần linh và lau chùi đồ thờ.
Trong ngày này, bốn xóm cử người ra dọn dẹp ao sen trước đình Nội để chuẩn bị
chỗ đốt pháo chầm, pháo bèo. Các chủ tế và quan viên hành lễ ở hai đình. Ban giám
khảo (là thôn đăng cai hội) chấm thi xôi, chè của các xóm dâng cúng.
Ngày 25 tháng 2, thôn đăng cai cử 12 ông trùm và 12 giai quán ra trông
nom hai đình (các ông trùm phải ở độ tuổi từ 45 đến 50, thuộc gia đình vẹn toàn và
sạch bụi). Các ông phải túc trực ở đình từ ngày 25 tháng 2 đến ngày mùng 7 tháng
3. Đây cũng là ngày làm lễ trình bò sống. Trước đó, thôn đăng cai phải mua một con
bò đực béo, lông vàng, không đốm. Ngay từ sáng sớm, bò được tắm sạch sẽ. Nhà
ông trùm nuôi bò phải sửa một lễ ra đình Nội (gồm 10 phẩm oản, nải chuối, cơi
trầu, be rượu) và một lễ gia đình Ngoại gồm một con gà luộc. Tắm cho bò xong, hai
ông trùm làm tổng cờ và một giai quán dắt bò về trước cửa đền để tế trình Thánh.
Sau khi tế xong, người ta ấn nắm hương vào mũi bò và đổ một chén rượu tế vào
mõm bò hàm ý rằng Thánh đã ưng thuận. Kể từ lúc này, bò phải nhịn ăn, uống.
Ngày 26 tháng 2 là lễ khao quân ở đình Ngoài. Lễ vật được làm là lễ mặn. Cỗ
chay gồm oản, hương, hoa, trầu, rượu được cúng ở đình Trong vì đức Lạc Long Quân
được quan niệm là trường sinh bất diệt, ăn uống thanh đạm. Tế ở mỗi đình ba tuần
rượu, mỗi giáp mổ một lợn, đồ một mâm xôi (nhiều bằng trọng lượng thịt lợn). Cúng
xong, thịt lợn và xôi được chia đều cho các gia đình trong giáp.
Từ tinh mơ, người ta mổ bò, lấy lông, gan, khâu bụng lại đem thui… Bò
thui để cả con đặt trên mâm xà, đầu quay về hương án, bốn chân choãi ra bốn phía.
Tế xong, thịt bò chia cho các thôn đăng cai và các vị chức sắc, khoa bảng, hội nghỉ
ba ngày.
Ngày 30 tháng 2 là ngày lau chùi đồ bà lắp kiệu. Mỗi đình ba kiệu. Kiệu
đặt ở cửa đình. Trong đình hương nến cháy suốt ngày. Đêm có người gác kiệu, trông
đình.
Ngày mồng 1 tháng 3 là ngày mở hội cầu phúc. Nghi thức bắt đầu bằng lễ
rước mã thờ. Sáu kiệu đi rước mã (bộ trang phục của đức Lạc Long Quân và Linh
Lang Đại vương) cử hành từ đình Trong tới nhà làm mã. Nhận xong hai bộ mã, đám
rước chia làm hai, một về đình Trong, một về đình Ngoài. Đám rước gồm cờ, quạt,
trống, chiêng, phèng la, các biển Hồi Ty, Tích Túc… Ba cỗ kiệu gồm kiệu bát cống
(đặt bài vị, bát hương, sắc phong) kiệu long đình, kiệu giá cỗ (để đồ mã) đều được
chia hai lọng. Tiếp đó là các đồ lỗ bộ, bát bửu sơn son, thếp vàng. Phường bát âm
nối theo, hòa tấu suốt dọc đường. Rồi đến các vị bô lão, chức dịch. Cuối đám rước
là các đội múa rồng, múa lân rộn ràng uốn lượn theo nhịp trống và trong tiếng hò
reo của dân chúng.
Ngày mồng 2 tháng 3 lễ tế được tiến hành bình thường.
Ngày mồng 3 tháng 3 lễ tế bắt đầu từ buổi sáng. Vào khoảng 1 giờ chiều,
bắt đầu thử pháo. Mỗi xóm mang các loại pháo ra đặt. Pháo nổ giòn, đều là được.
Đây là pháo đặt cho các gia đình có người giỏi nghề, vợ chồng hòa thuận được mọi
người yêu quý.
Ngày mồng 5 tháng 3 là ngày giáp hội. Từ sáng cửa đình đã rộng mở, đèn
nến sáng trưng, hương bay nghi ngút trên các án thờ để cử hành lễ mộc dục Thánh vị.
Điển khoa viên (người đọc phép lệ văn bản trong lễ hội) cùng chủ tế lấy khăn mới che
miệng, lấy vải điều khô lau Thánh vị, rồi dùng nước ngũ hương lau tiếp. Trống nổi ba
hồi chín tiếng báo cuộc thi xôi chè làm lễ vật dâng Thánh. Các giáp mang xôi khuôn,
chè kho ra dự thi. Cỗ nhất làm lễ phẩm đình Trong, cỗ nhì làm lễ phẩm đình Ngoài.
Các suất không được giải đem chia đều cho hai đình.
Tiếp theo là hóa mã và đại lễ.
Điển khoa viên đọc mật khẩu mở đồ "mã trầu" kiểm lại, rồi rước mã ra sân
đình làm lễ đốt mã. Ông cầm đuốc đốt. Một người đợi lửa tàn, nhặt một nhúm tro thả
vào bát nước trong đặt lên hương án. Cuộc đại lễ bắt đầu. Sang giờ Mùi (13 - 15 giờ),
trống chiêng lại âm vang. Ba kiệu sẽ rước sắc từ đình Trong ra đình Ngoài rồi trở về.
Đây là sắc chỉ của bố (Lạc Long Quân) là biểu tượng của thế hệ nối tiếp, dòng dõi
Quốc Tổ (sắc đề 4 chữ "Phụng thiên chỉ mệnh" nghĩa là tuân theo mệnh trời).
Đám rước mở đầu bằng hai hàng cờ diễu hành chậm rãi, trang nghiêm. Tiếp
theo là trống khẩu dẫn đầu từng kiệu. Kiệu long đình đốt hương nến, có hai lọng hộ
giá, có hai quạt. Kiệu giá cỗ có một lọng đi theo kiệu với danh nghĩa phụng đình
Thánh giá.
Lá cờ đại lộng lẫy trên ngọn cây gạo đầu đình. Cờ ngũ hành cắm la liệt từ
sân tới cửa và trên suốt hai bên đường dẫn tới đình Ngoài. Múa rồng, múa lân rộn
ràng lượn lên lượn xuống quanh đám rước.
Từ đình Ngoài, lễ an vị được cử hành ngay, để rồi sau đó, tất cả đều náo nức
sửa soạn rước về đình Trong. Cuộc rước giao hoàn bắt đầu vào hoàng hôn. Đám rước
gồm cả số kiệu của hai đình, nghĩa là 6 kiệu, là đám rước lớn nhất hội. Các nhà hai
bên đường đã kê bàn thờ ra cổng lễ vọng.
Đầu tiên là cờ ngũ hành, cờ tứ linh, quạt và lá cờ của 27 giáp đi liền nhau,
27 thanh la hòa tấu náo động. Tiếp đến là điệu múa sinh tiền nhộn nhịp cùng tiếng
trống cơm bập bùng đều đều làm nền. Tiếp đến là giá trống, giá chiêng sơn son thếp
vàng, mỗi giá có hai người khiêng và một ông hiệu gõ. Chiếc lọng rực rỡ tua đỏ, tua
vàng đi theo hộ giá, rồi đến bát bửu, sau mới đến kiệu. Ba kiệu đình Trong đi trước,
ba kiệu đình Ngoài theo sau. Các binh gia mặc đồng phục, tay cầm đao, kiếm,
thước. Người vác cờ mặc quần chùng, áo nái, thắt lưng nhiễu điều, giày vải, chân
quấn xà cạp. Người vác tàn lọng, cờ quạt, biển, đèn, mặc áo the, quần trắng, khăn
chụp, giày vải, thắt lưng xanh. Ông Tổng cờ mặc áo the, quần trắng, thắt đai chéo
ngực, thắt lưng lục đỏ, cầm tù và, đi đi lại lại dẹp đường cho đám rước. Chủ tế mặc
quần nhiễu, ngoài áo thụng lam, trong áo gấm hoa, đầu đội mũ văn, chân đi hia, có
lọng che.
Giờ Tuất (1 giờ), đám rước lớn tới cổng đình Trong. Đột nhiên, tiếng pháo
tràng, pháo hoa cà, hoa cải cùng pháo thăng thiên thi nhau nổ vang vun vút bay lên,
tỏa sáng từng mảng trời đêm, gây không khí tưng bừng của ngày hội chiến thắng.
Đám rước lớn tạm dừng, chào đón đám rước của các chùa vừa tới. Đám rước của
các chùa không ồn ào mà đầy vẻ tôn kính, nghiêm nghị với những lá phướn dài - cờ
nhà Phật - cùng đoàn sư sãi trầm lặng, khiêm nhường, vừa đi vừa lần tràng hạt trong
đồng phục nâu sồng đồng nội thân quen. Vật phẩm nhà chùa đều là những cỗ chay
xếp ngăn nắp trên những mâm đồng do các sãi đội: 100 quả chuối, 100 miếng cau
đậu, 100 ghế chéo. Đại lượng như nhau giữa các vật phẩm mang tính biểu tượng gợi
nhớ tới vị Quốc Tổ của nòi giống Lạc Hồng. ấy là hình ảnh 100 quả trứng, 100 con
trai như cái vốn ban đầu của dân số tộc người.
Các đám rước vào tới sân đình Nội thì hạ kiệu. Vật phẩm được dâng cúng
bày lên bệ thờ, hương án. Chủ tế nhận, trịnh trọng đưa vào hậu cung, dành cho nghi
lễ ngày mai, chính hội ngày mồng 6.
Ngày mồng 6: chính hội.
Mặc dù đêm mồng 5 lễ thỉnh bách thần trong đình và đốt cây bông ngoài sân rất
muộn (thường khoảng giờ Sửu - 2 giờ sáng), tinh mơ mồng 6, khi cửa đình mở, đèn
nến sáng trưng, khói hương nghi ngút tỏa bay. Các chủ tế và các trùm cai hội đang
kính cẩn bày biện, xem xét lễ vật cho đám rước vía, gồm 1 bát nước trong, 1 tráp trầu
cau, 12 phẩm oản lớn, 100 tiền mã.
Tiếp theo phải làm đúng thủ tục ghi trong ngọc phả: "Khi đó, cửa đình
đóng lại, Tế chủ đứng bên trong, Điển khoa viên đến, đứng bên ngoài cửa đình. Lễ
mở cửa đình chuẩn bị được tiến hành.
Điển khoa viên gõ cửa gọi:
- Khai môn!
Tế chủ đáp:
- Bế môn!
Điển khoa viên hỏi:
- Quan viên có của gì chuộc lấy vía cho làng nước
đây chăng?
Tế chủ đáp:
- Có một tráp trầu!
Hỏi:
- Có gì nữa chăng?
Đáp:
- Có một trăm quan tiền!"
Cửa mở, Điển khoa viên vào làm lễ. Sáng rõ mặt người, trống chiêng gọi
hội ba hồi chín tiếng dõng dạc vang lên, lan rộng, nhắc nhở, giục giã dân làng. Đại
biểu các giáp rước cỗ tới. Chủ tế cùng các trùm cai xem xét từng mâm cỗ và đặt lên
bàn thờ.
Dâng lễ vật xong, cửa đình lại đóng lại. Pháp sư đọc văn cúng và xin âm
dương như trong đêm mồng 5.
Sau đó, cửa đình lại mở. Chiêng, trống, đàn nhị nổi lên báo hiệu nghi lễ
mới, lễ múa bông, múa cờ, khấn mời đức Quốc Tổ về dự hội. Một người ra hát bài
giáo cờ. Người hát đi vào thì tiên chỉ (hoặc chánh hội) ra múa cờ. Người múa mặc
áo đỏ, thắt lưng xanh, mặc quần áo lụa vàng, đội mũ cầm thiên đỏ, hai tay cầm hai
lá cờ đuôi nheo nhỏ phất theo nhịp trống khẩu trước bàn thờ Thánh vị, chân bước
lên lùi xuống, không quay lưng vào bàn thờ. Tiếp theo là hát giáo bông, cũng giáo
cờ, khi người hát giáo bông đi vào thì xã trưởng ra múa bông.
Múa cờ, múa bông xong, lễ tế được tổ chức trong đình Nội và ngoài cầu
Thiên quan. Các giáp mang lễ lợn (lợn cả con, sạch lông, sạch lòng) bày la liệt
quanh đài. Bốn cây pháo bèo (của bốn thôn) đã sẵn sàng ở ao sen. Khi bắt đầu lễ thì
đốt từng cây pháo, vì lệ làng là "pháo cứ nổ, văn cứ nguyện". Pháo có bốn tầng. Cái
thú của thưởng thức pháo bèo là vừa được nghe pháo bèo nổ giòn tan, lại được xem
thăng thiên bay vọt lên không trung. Còn khi lửa bén vào pháo bèo, pháo liền rũ
xuống nước và cứ sục sục trong nước, khi nhô lên như con vịt bơi có người đuổi,
hoặc như cái bèo lúc gặp mưa gió, nước xô chìm nổi dập dềnh.
Chủ tế thiên quan đọc văn, lời thiết tha, giọng trầm bổng xúc động lòng
người, cảm hóa trời đất.
Nghi thức đặc sắc nhất của hội sắp bắt đầu: lễ rước Bánh vía. Sau một hồi
trống chiêng vang dài, kiệu Bánh vía được rước ra cầu Thiên Quan. Bánh ba cái, chỉ
được biết như vậy, không ai trông thấy bao giờ, để trong đài đậy kín. Kiệu có lọng,
tàn, quạt hai bên. Đám rước đi theo nhịp trống khẩu. Sau kiệu là hai chủ tế cùng
Tiên chỉ, hai ông Từ, hai ông trùm cai thôn, Điển khoa viên và gia đình làm Bánh
vía. Bà con chen chúc nhau quanh giếng chùa Cả chờ đợi. Nhạc trống chiêng "tùng
dinh" đĩnh đạc hòa cùng nhạc bát âm vang reo vui đưa đám rước tới bên giếng. Điển
khoa viên cầm đuốc dẫn đường (mặc dầu lúc này vào giờ Ngọ - 12 giờ trưa) cùng
chủ tế (đình Nội) và Tiên chỉ rước bánh xuống giếng. Tán, cờ, quạt, vải phủ kín đài
bánh. Ba người yên lặng lần từng bậc thang thành kính bước xuống sát mép nước. ở
đây đã quây sẵn khung cót trơn. Đọc mật khẩu xong, chủ tế mở đài lấy từng chiếc
bánh bóp nát thả xuống nước. Bột bánh chìm hết mới tốt và người hành lễ mới tròn
hết trách nhiệm. Sau đó đám rước về đình Nội làm lễ…
Quá Ngọ sang Mùi (13 - 15 giờ) là hội thi pháo. Cùng lúc, cuộc rước "hoàn
cung" bắt đầu. Sáu kiệu rước từ đình Trong ra đình Ngoài. Lễ cáo trình Thánh xong,
để lại ba kiệu, còn ba kiệu trước trả đình Trong (hoàn cung). Đêm nay có đốt pháo
cây, còn gọi là pháo thờ. Cuộc vui sôi nổi không kém đêm trước. Pháo thờ do các
giáp làm. Còn các loại pháo tép, pháo đùng, pháo chầm, pháo vịt… đốt chơi đều do
dân tự ý cung tiến, đốt mừng Thánh vui hội. Pháo cây là hệ thống pháo nhiều tầng
buộc vào cây tre dài khoảng 12m, chia làm hai bộ phận, hệ thống truyền lửa ở phía
dưới và ở phía trên ngòi. Đầu tiên lửa châm ngòi pháo chuột một. Chuột một chạy
trên dây xoẹt lửa vào tán thuốc, tán thuốc truyền sang ống bắn, ống bắn tụt "đạn"
lên tầng pháo. Cả tầng nổ giòn nghe rất vui. Cứ thế pháo truyền từ tầng nọ sang tầng
kia, cho tới tầng cuối cùng là nổ 16 quả.
Ngày mồng 7 tháng 3 là lễ hạ khóa (kỳ phước lễ hoàn). Từ sáng sớm, chiêng
trống nổi lên ở hai đầu đình. Chủ tế trông nom việc Thánh. Cỗ chay của bốn thôn
bưng ra theo đúng lệ. Lễ xong thì phá cỗ chay. Các vật phẩm được chia cho quan viên,
chức sắc, lý dịch của bốn thôn.
Hết hội, người dân Bình Đà đều tin đức Thánh Quốc Tổ Lạc Long Quân và
đức Thành Hoàng Lí Lang Công sẽ âm phù cho làng như lời ngọc phả: "Cầu cho con
người bình yên, mạnh khỏe, lúa tốt, của nhiều, muôn đời sung sướng".
Lễ hội Rước nước ở làng Bồng Thượng
(Thanh Hóa)
Bồng Thượng là một làng cổ của xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hóa. Trải qua bao niên đại, đến nay Bồng Thượng đã là một làng lớn có dân số trên
5.000 người. Dân cư được bố trí ở theo 7 ngõ (ngày nay gọi là thôn): năm ngõ nội đê,
hai ngõ ngoại đê ở thế bốn góc chữ điền hướng ra dòng sông Mã. Sau làng là đồng, có
núi Hùng Lĩnh, núi Báo làm thế tựa vững chắc.
Giai thoại truyền rằng, xưa kia, một thầy địa lý Trung Quốc đến vùng đất
này đã nói: "Vạn thủy thiên sơn giai triều phục" và tiên tri vùng đất này sẽ phát tích
sinh vương hầu khanh tướng. Không biết từ bao giờ làng Bồng Thượng đã có câu:
"Mạch tòng Hùng Lĩnh trung linh khí. Thế xuất công hầu tráng đế hương".
Núi Báo làng Bồng Thượng còn nổi tiếng với loại dược liệu quý hiếm, đó là
"sâm Báo". Ngày xưa, các vua chúa phong kiến đã đặt cho sâm Báo làng Bồng
Thượng cái danh "Đại Việt đệ nhất danh sâm". Nghiên cứu sự hình thành làng Bồng
Thượng có ba tên gọi khác nhau: làng Biện Thượng xuất hiện năm 886, làng Báo xuất
hiện đầu thế kỷ thứ X gắn với tên gọi chùa Báo Ân và làng Bồng Thượng xuất hiện
thời vua Minh Mạng (1820 -1841).
Là một làng cổ nên Bồng Thượng từng lưu giữ những truyền thống văn hóa
khá nổi tiếng. Nhiều danh nhân qua các thời đại của xã Vĩnh Hùng đều tập trung ở
làng này. Chẳng hạn như Thái Vương Trịnh Kiểm và 11 chúa Trịnh nối nhau điều
hành đất nước 243 năm (1545-1788), Trạng nguyên Trịnh Tuệ thời vua Lê Hiển Tông
1736, Quốc công Hoàng Đình ái thời Lê Trung Hưng, Đường công Lê Quang Lộc thời
vua Lê Tương Dực (1509-1516), Quận công Hoàng Đình Phùng thời Lê Trung Hưng,
tiến sĩ Trịnh Khắc Tụy thời vua Lê Thánh Tông, tiến sĩ Lê Đăng Phụ thời vua Lê Huy
Thông, nữ học giả Trịnh Thị Ngọc Trúc Chính cung Hoàng hậu của vua Lê Thần Tông
(1619-1643), và Đề Giới là phó tướng cho Tống Duy Tân trong phong trào Cần
Vương.
Không chỉ nổi tiếng vì có nhiều danh nhân, Bồng Thượng còn là vùng đất
có nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng: 3 di tích được Nhà nước xếp hạng quốc
gia (Phủ Trịnh, Nghè Vẹt, đền thờ Quốc công Hoàng Đình ái) và 3 di tích cấp tỉnh (đền
thờ Quận công Hoàng Đình Phùng, đền thờ Đường công Lê Quang Lộc và chùa Báo
Ân) đều nằm trong đất làng.
Hàng năm, làng Bồng Thượng có nhiều lễ hội lớn in đậm truyền thống văn
hóa còn lưu giữ đến ngày nay: lễ hội Ky Thần ngày 14 tháng 11 (âm lịch) tại Nghè
Vẹt, lễ hội đánh chuột (hiện không còn - khu lễ hội đã bị phá thời bao cấp và có quốc
lộ
217
chạy
qua).
Ngoài
ra,
gần
đây
còn
có lễ hội "giỗ Thái Vương Trịnh Kiểm" vào ngày 17, 18 tháng 2 âm lịch.
Đặc biệt lễ hội "Rước nước" ở chùa Báo Ân với nhiều nghi lễ, với những
chiếc thuyền rồng trên sông, với những giọng hát, điệu múa chèo thuyền giữa dòng
sông Mã trong xanh đang được các nhà nghiên cứu văn hóa hết sức quan tâm. Chính
dự án "khôi phục tiếng hát chèo thuyền trên sông" trong lễ hội đã được quỹ Ford tài
trợ 75 triệu đồng năm 2005 để khôi phục lại.
Nói về nguồn gốc lễ hội này, một nhà thơ đã viết:
Hơn năm rồi em có biết không
Lễ "Rước nước" bắt nguồn từ lửa...
Chùa Báo Ân được xây dựng ở chân núi Báo, nhìn ra sông Mã. Lễ hội diễn
ra trên phạm vi rộng: ven bờ sông Mã, trên dòng sông Mã và khu vực chùa Báo.
Thời gian lễ hội kéo dài trong 3 ngày, từ ngày 27 đến hết ngày 30 tháng 2 âm lịch
hàng năm. Tối 27 tháng 2 âm lịch, khi làng xóm đã lên đèn, tại chùa Báo Ân và bến
sông Mã (bến đò Hoành) mọi người thi nhau đốt đèn nến sáng trưng cả một vùng
sông nước. Rất nhiều thuyền (bè) được tập kết trên sông. Sau lời tuyên bố của già
làng, mọi người kéo lên thuyền, bè lướt trên mặt sông đến giữa dòng nước biếc (gọi
là vụng Quần Tiên). Thuyền hạ cây nêu giữa dòng sông gió lộng, đèn nến lung linh.
Giữa vùng, cạnh cây nêu đặt một cây đèn to hắt sáng lên sông. Đoàn người vừa
chèo thuyền quanh cây nêu vừa hát. Giữa đêm xuân tháng hai, gió mát nhẹ đưa lên
từng gương mặt mỗi con người, những giọng hát văn, trống quân, hát đối đáp ngân
lên vang vọng làm náo nhiệt cả một khúc sông. Chưa hết, những chiếc đèn hoa sen
được thả bạt ngàn trên sông (đoạn sông thả đèn trong vụng Quần Tiên có nhiều đá
ngầm nên nước ở đây xoáy nhẹ) khiến cho đèn cứ nối nhau chạy quanh rồi mới theo
dòng xuôi về biển. Đứng trên dòng sông nhìn những đèn hoa sen hàng hàng lung
linh sáng lập lờ trên sông nước về xuôi thật là đẹp - một cái đẹp thanh cao tao nhã
và thơ mộng. Đó là hội "Hoa đăng" trong lễ hội. Sau hội "Hoa đăng", từ 22 giờ đến 24
giờ đêm còn có lễ "Mục Dục" tại chùa.
Sáng ngày 28 tháng 2 là lễ chính ở chùa Báo Ân (còn gọi là lễ hội "Rước
nước"). Đoàn người được phân công chuẩn bị, ăn mặc chỉnh tề. Lễ hội rước "kiệu
Mẫu" qua ngõ Vạn, lên ngõ Chùa, qua Nghè Vẹt lên chân núi Báo, qua nền "Trời
đất", sang khe Mang Cá đến nền "Rước bóng" về chùa.
Đoàn người rước kiệu Mẫu xong là đến phần "Rước nước". Lúc này, trên
bến Báo Ân đã tập kết sẵn 5 chiếc thuyền. Thuyền đi đầu là thuyền Rồng lớn gọi là
thuyền Phật lấy nước. Thuyền thứ hai là thuyền Mẫu cũng rất lớn. Thuyền Rồng thứ
ba là thuyền các cô, các cậu. Thuyền thứ tư nhỏ hơn là thuyền chỉ huy. Thuyền thứ
năm là thuyền giám sát việc lấy nước. Trên ba thuyền rộng lớn mỗi thuyền có từ 8 đến
10 thủy thủ chèo thuyền. Chiếc được phân công đi đầu chở lọng vàng, cờ quạt, 12
thiếu nữ mặc áo tứ thân, đi hài trắng, trâm cài đầu và đội các mâm hoa quả, bình sứ
hình quả bầu dục để đựng nước. Thuyền thứ hai gọi là thuyền cô "ba Thoải" chở các
thiếu nữ mặc lễ hội hát múa. Trên thuyền có phường bát âm đánh nhạc làm nền cho
giọng hát, điệu múa. Số người có trên 5 chiếc thuyền khoảng từ 90 đến 100 người.
Hai bên bờ sông Mã, người đứng tham quan lễ hội rất đông. Đoàn thuyền
chèo ra giữa sông Mã, qua hòn đá Bàn, vượt hòn đá Ngốc, rẽ lái sang ngang. Sau ba
vòng lượn, đến hòn đá ở giữa dòng sông thì cắm nêu dừng thuyền. Trong các ngày
diễn ra lễ hội, tại khuôn viên chùa cũng tổ chức nhiều trò chơi dân gian truyền
thống như: so đẩy gậy, kéo co, cờ người, tổ tôm, bài đếm...
Ngoài lễ Hoa đăng, Rước nước tối 29 tháng 2, bước sang mồng 1 tháng 3 âm
lịch
còn
có
lễ
tế
tạ
(ngày
hóa
của Mẫu).
Lễ hội "Rước nước" ở chùa Báo Ân, xã Vĩnh Hùng là lễ hội mang đậm
truyền thống văn hóa hàng ngàn năm, thu hút khách thập phương đến dự lễ hội rất
đông.
Hiện nay, nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, lễ hội
"Rước nước" ở chùa Báo Ân đang được chính quyền địa phương chỉ đạo, khôi phục;
được các ngành chức năng quan tâm để lễ hội trở về nguồn gốc giá trị của nó. Trong
sự phát triển kinh tế du lịch huyện Vĩnh Lộc, lễ hội "Rước nước" ở chùa Báo Ân, xã
Vĩnh Hùng có ý nghĩa tác dụng tích cực không những đối với địa phương mà còn
trong phạm vi toàn tỉnh Thanh Hóa.
Lễ hội đình Châm Khê
(Bắc Ninh)
Thôn Châm Khê (xưa kia có tên chữ Bùi Xá, tên nôm làng Bùi) vốn là một
làng Việt cổ nằm bên bờ nam sông Ngũ Huyện Khê (nay thuộc xã Phong Khê,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), từng nổi tiếng với ngôi đình cổ kính hàng trăm
năm tuổi và lễ hội "tắm phỗng".
Đình Châm Khê tọa trên một khu đất cao, rộng, ngay cạnh và hướng mặt ra
sông Ngũ Huyện Khê. Đình được khởi dựng từ lâu đời, đến thời Lê Trung Hưng được
tu dựng với quy mô lớn, sang thời Nguyễn (năm Tự Đức thứ 5 - 1852) lại được trùng
tu. Dấu ấn trên kiến trúc từ đó đến nay hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Đó là tòa Đại
đình hình chữ đinh gồm: 5 gian Tiền tế, 3 gian Hậu cung, bộ khung gỗ lim to khỏe,
vững chắc; tòa Tiền tế bốn mái to rộng, các góc đao cong vút tạo vẻ uyển chuyển,
duyên dáng. Cũng tại tòa Tiền tế còn tập trung các mảng chạm khắc hoa lá cách điệu
trên cống, con rường, bẩy... cầu kỳ và khá công phu.
Cùng với giá trị kiến trúc điêu khắc, đình Châm Khê còn nổi tiếng với lễ
hội truyền thống vào mồng 4 tháng 8 (âm lịch) hàng năm với nhiều tục trò, đặc biệt
là tục "tắm phỗng" và hát quan họ. Đến nay, vẫn còn lưu truyền câu ca:
"... Mồng Một tắm phỗng
Mồng Hai phỗng khô
Mồng Ba phong cờ
Mồng Bốn nhập tịch...".
Theo tục lệ, vào những ngày đình đám thì ngay từ mồng Một, làng Châm
Khê đã tổ chức "rước nước" để thờ và "tắm phỗng". Theo thần phả, sắc phong đình
Châm Khê thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) là những danh tướng
của Triệu Quang Phục có công đánh giặc Lương vào thế kỷ thứ VI. Nhưng khác với
nhiều làng khác thờ Thánh Tam Giang, ở Châm Khê có tới hai ngôi nghè được dựng
ở trên bãi Soi (dân làng còn gọi là bãi Sấm) giữa dòng sông để thờ và mỗi khi đình
đám hội hè sẽ rước về hội sở tại đình làng để tế lễ và mở hội. Để rước nước và tắm
phỗng, làng cử ra đội rước gồm: một ông Bồi trưởng và bốn thanh niên trai tráng
khỏe mạnh, chưa vợ, thuộc những gia đình có nề nếp, gia phong. Ông Bồi trưởng
mặc quần áo đỏ, tay cầm trống khẩu điều khiển đám rước. Còn bốn thanh niên rước
kiệu cũng mặc quần áo, thắt lưng, khăn chít đầu màu đỏ. Buổi sáng mồng Một, đám
rước nước lấy nước từ giếng cổ trước cửa nghè trên bãi Sấm mang vào đình để thờ
Thành Hoàng. Tiếp đó rước phỗng từ trong đình ra bãi Sấm để tắm phỗng, sau lại
rước vào đình để thờ. Hai tượng phỗng có dáng "phỗng Chàm" cao khoảng 0,70m,
mặt gồ ghề, cởi trần đóng khố, hai tay giơ ngang ngực, đầu có hai búi tóc xoắn ốc
hai bên, luôn được thờ trên hương án ngoài Tiền tế. Việc thờ phụng phỗng Chàm có
tại một số di tích ở Bắc Ninh như đình Diềm, đình Hồi Quan, đền Đô...; song, việc
rước và tắm phỗng thì hẳn chỉ có ở đình Châm Khê. ẩn sâu của tín ngưỡng này là
"thờ Nước" của cư dân Việt cổ làm nông nghiệp, mà làng Châm Khê là một điển
hình.
Sáng ngày mồng 4 là chính hội, dân làng tổ chức rước sắc phong của Thánh
từ hai nghè trong và ngoài về đình để tế lễ và mở hội. Sau khi sắc phong được rước
vào đình, quan đám và các giáp lần lượt vào lễ.
Sau phần lễ là phần hội. Nội dung chủ yếu của phần này là thi hát quan họ
bằng thuyền trên sông. Tham gia vào hát quan họ, không những có các "bọn" quan
họ nam và nữ của làng Châm Khê và các làng chạ, mà còn rất nhiều làng quan họ
khác trong vùng. Các thuyền quan họ nam và nữ từng cặp một, bơi quanh bãi Soi để
hát đối đáp giao duyên. Những liền anh, liền chị bồng bềnh trên những chiếc thuyền
rồng, hát nhiều làn điệu và lời ca ngọt ngào, tha thiết. Cứ thế cho đến khi chiều tà
trăng lên mới thôi. Hai bên bờ sông, dân làng và khách thập phương xem đông
nghịt.
Mặc dù mỗi năm lễ hội chỉ diễn ra có một ngày, nhưng những người con
của làng Châm Khê nói riêng, du khách say mê thưởng thức lễ hội truyền thống và
những làn điệu quan họ nói chung vẫn không giấu nổi cảm xúc náo nức mỗi năm
được trở về đây một lần. Phải chăng, các tục cổ như tắm phỗng, phong cờ, rước
nước, hát quan họ… và đặc biệt là tấm lòng hiếu khách của những người dân làng
Châm Khê chính là "cánh cửa" rộng mở khiến cho ai đi xa thì nhớ, đã về một lần thì
ấn tượng mãi không thôi.
Lễ hội Dinh Bà làng Chiêm Sơn
(Quảng Nam)
Hàng năm, vào ngày 12 tháng 4 âm lịch, làng Chiêm Sơn (xã Duy Trinh,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) lại tưng bừng tổ chức lễ hội Dinh Bà với các
nghi lễ truyền thống như: rước kiệu Bà, lễ tế mục đồng và các trò chơi dân gian.
Theo sử sách kể lại, Chiêm Sơn là một trong những làng xã được hình
thành từ rất sớm (khoảng thế kỷ XV) ở Quảng Nam. Thời gian đắp đổi, mỗi ngày
làng lại một thêm trù phú, nổi tiếng về nông nghiệp, ươm tơ dệt lụa. Đến nay dân
gian vẫn còn lưu giữ câu ca:
"Chiêm Sơn làng lụa mỹ miều
Mai vang tiếng cửi, chiều chiều tơ giăng".
Với tâm thức của cư dân nông nghiệp, người dân lưu xứ khi đến khai phá
vùng đất này đã gửi gắm niềm tin vào tín ngưỡng dân gian, mong được mùa, ấm no,
hạnh phúc. Vì vậy, ngay từ buổi đầu lập làng, người dân dựng dinh thờ vị nữ thần ở
Chiêm Sơn, tổng Mậu Hòa với nhiều huyền thoại còn ẩn chứa về một tảng đá hình
tượng giống như người đàn bà, dân trong vùng gọi là Bà Đá. Một đêm trăng sáng, tám
người chăn trâu từ làng Chiêm Sơn có ý định thử mang Bà Đá về làng mình. Họ đã
chuyển Bà Đá về làng để thờ trong ngôi chùa sau các vị phật, nhưng vừa đi qua ngọn
đồi Chiêm Sơn bỗng nhiên sợi dây thừng khiêng bị đứt. Bà Đá rơi xuống bám chặt
vào đất không thể nâng lên được nữa. Người dân cho rằng Bà đã quyết định chọn vị trí
này. Để thỏa nguyện thiên ý, tám người chăn trâu liền xây dựng một ngôi miếu nhỏ
lợp
tranh
tre để thờ, hướng ngôi miếu nhìn ra nơi mà họ tìm thấy tảng đá.
Trong quan niệm của người dân làng Chiêm Sơn, Bà Đá là một vị phúc thần
luôn luôn phù trợ và tạo phúc cho dân làng. Từ xưa đến nay, nhiều lần làng Chiêm
Sơn bị hạn hán nặng nề, côn trùng phá hoại mùa màng, người dân đến cầu khấn tại
Dinh Bà thì lạ thay tai qua nạn khỏi. Có lần cả tỉnh bị hạn hán khủng khiếp, dân làng
Chiêm Sơn đến khẩn cầu Bà Đá thì tức khắc mưa đã rơi xuống ngay giữa buổi đang
làm lễ tế cúng và hương đèn còn đang cháy. Sự linh nghiệm của Dinh Bà Chiêm Sơn
còn được lưu truyền nhiều huyền tích dân gian khác.
Hiện nay, Dinh Bà có một pho tượng cao khoảng 1m, tư thế ngồi tự nhiên
làm bằng đá sa thạch, tai dài, đầu đội mũ, chân xếp bằng, mặc áo choàng vai, chung
quanh vương miện có 7 đầu rắn thần. Tượng được tạc vào khoảng thế kỷ XVIII.
Năm thứ 5 niên hiệu Duy Tân, Bà được sắc phong là Thái Dương phu nhân, đến
năm Khải Định thứ 9, một lần nữa Bà được tôn vinh với danh hiệu Trung Đẳng
Thần (hai sắc phong này đang lưu trữ tại Viện Khoa học xã hội). Năm 1937, Hội
Folklore Đông Dương cũng rất quan tâm nghiên cứu Dinh Bà. Họ đã gửi công văn
cho Đốc học Quảng Nam tại Hội An đề nghị các giáo sư trung học Mỹ Xuyên Đông,
Thanh Châu, phủ Duy Xuyên báo cáo về lịch sử, văn hóa lễ hội ở Dinh Bà Thanh
Chiêm (các báo cáo bằng tiếng Pháp hiện vẫn được lưu trữ tại Viện Khoa học xã
hội).
Với những tài liệu hiện nay, có thể khẳng định rằng Dinh Bà Chiêm Sơn là
một trong những tín ngưỡng dân gian phổ biến trong nhân dân về thờ Mẫu - Mẹ, xứ
sở mà người địa phương thường gọi chung là Bà như các vùng khác trong tỉnh
Quảng Nam: Bà Thu Bồn (Duy Xuyên), Bà Chợ Được (Thăng Bình), thất vị nữ thần
ở
Điện
Bàn... Tín ngưỡng dân gian này đã từng song hành theo bước chân cư dân Việt ở
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ rồi vào phương Nam, để rồi vừa tích hợp đa nguồn vừa tiếp
thu tín ngưỡng thờ nữ thần của người bản địa, đặc biệt là văn hóa Chăm Pa cổ để
biến thể trở thành tín ngưỡng của làng xã Việt mà Dinh Bà Chiêm Sơn là một minh
chứng.
Hằng năm dân làng Chiêm Sơn và các vùng lân cận đều náo nức chờ đón
hội lễ Bà. Lễ vật cúng tế thường là do dân làng sắm sửa. Ngoài các lễ vật truyền
thống như cơm, thịt heo và trái cây… còn bắt buộc phải có thêm một con cua, một
nhánh tỏi, một cây cải và một con chồn. Khách thập phương hoặc các gia đình có
lòng thành thì dâng cúng một đĩa xôi và một con gà luộc, sau lễ tế toàn bộ các lễ vật
được cúng tế đều trả lại cho dân trong làng và bắt buộc phải dùng hết trong ngày.
Những người dâng lễ hầu hết là các bô lão trong làng Chiêm Sơn, số lượng ban tế lễ
từ 20 đến 30 người, được chọn từ các vị cao niên và có uy tín trong làng.
Chiêm Sơn - mảnh đất "địa linh" đã đi vào lịch sử dân tộc, hiện nay còn
dấu tích lăng mộ Hiếu Chiêu Hoàng hậu Đoàn Quý Phi - nhân dân tôn vinh là Bà
chúa tàm tang, Hiếu Văn Hoàng hậu Mạc Thị Giai, chùa Vua (hay còn gọi là chùa
Ngự) - nơi các vua nhà Nguyễn ở khi đến viếng lăng mộ tổ tiên, Bến Giá - bến
thuyền vua neo đậu... và không xa là di chỉ khảo cổ học Mậu Hòa, Lăng Bà Thu
Bồn, khu đền tháp Mỹ Sơn. Trong tương lai, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên sẽ
hình thành liên kết tuyến tham quan văn hóa lịch sử để du khách đến thăm các di
tích. Trong đó di tích Dinh Bà - Chiêm Sơn gắn với lễ hội xuống đồng, lễ tế mục
đồng… chắc chắn sẽ là tâm điểm bởi rất ít nơi ở Quảng Nam còn giữ được. Và đó
cũng là một nét son đáng tự hào về truyền thống văn hóa làng xã của người dân
Quảng Nam.
Hội làng chử xá
(Hà nội)
Làng Chử Xá (hay Chử Gia) còn có tên nôm là làng Sứa, một ngôi làng cổ
ngoại thành Hà Nội. Theo các nhà nghiên cứu, các làng có tên "Xá" đứng sau một từ
khác chỉ tên một dòng họ (như Chử Xá, Đỗ Xá, Lê Xá, Trần Xá...) thường là do
dòng họ đó khai lập đầu tiên, về sau mới có các dòng họ khác đến làm ăn, sinh
sống.
Chử Xá nằm ven sông Hồng, giữa vùng đất bãi rộng, màu mỡ, bằng phẳng,
sông nước hữu tình, gọi là bãi Tự Nhiên. Làng có bến đò Chử Xá (hay Chử Gia) một bến quan trọng trên tuyến đường thủy từ phía đông lên Kinh đô Thăng Long
xưa kia. Phải chăng điều này đã khiến cho làng trở thành điểm tuần thú, du ngoạn
của các vị vua, các hoàng tử, công chúa từ xưa?
Làng Chử Xá gắn liền với truyền thuyết Chử Đồng Tử - chàng trai làng Sứa
giàu lòng hiếu thuận. Nhà nghèo, hai cha con chỉ có mỗi một chiếc khố. Khi cha
mất, không đành lòng để cha phải táng trần, Chử Đồng Tử nhường khố cho cha.
Một hôm, đang đi mò cua bắt cá ở bãi Tự Nhiên, gặp kiệu của công chúa Tiên Dung
- con gái Vua Hùng thứ 18, chàng xấu hổ, phải vùi mình trong cát. Tiên Dung quây
màn tắm, đúng chỗ chàng Chử ẩn mình. Nước trôi làm lộ chàng Chử thân mình trần
trụi. Tiên Dung mến cảm, đã vượt qua những ngăn cách, rào cản lớn về "đẳng cấp"
xã hội để lấy Chử Đồng Tử. Hai người sống hạnh phúc bên nhau trọn đời. Ông bà
cũng được coi là tổ của nghề buôn bán đường dài ở Việt Nam, dùng tiền bạc thu
được để cứu giúp dân nghèo. Chử Đồng Tử về sau được coi là một trong "tứ bất tử"
(bốn vị thánh bất tử là Thánh Gióng, Tản Viên Sơn, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh)
trong tâm thức của người Việt, âm phù cho dân cho nước vạn sự tốt lành.
Đầu thế kỷ XIX, Chử Xá có tên là Chử Xá Châu, là một xã thuộc tổng Đại
Quan, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm 1831 trở đi là tỉnh
Bắc Ninh). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, làng nhập với các làng Sơn Hô, Trung
Quan thành xã Văn Đức, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Tháng 5 năm 1961, xã
Văn Đức được chuyển về huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chử Xá có cụm di tích gắn với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Trước hết là ngôi đền - vốn là ngôi nhà nơi ông sinh ra và lớn lên, được dân làng
làm đền thờ ông sau khi ông mất. Đền có kết cấu chữ "Tam" (ba dãy nhà song song,
mỗi dãy 5 gian) gắn với hậu cung, nhìn ra bãi Tự Nhiên. Cách đền khoảng 800 mét
là lăng mộ thân phụ và thân mẫu Chử Đồng Tử.
Hàng năm, hội làng diễn ra trong 3 ngày, từ 17 đến 19 tháng Giêng, trong
đó chính hội là ngày 18, có lễ rước nước từ giữa sông Hồng về làm lễ mộc dục và
lấy nước cúng tế quanh năm; có lễ rước kiệu Chử Đồng Tử từ đền về lăng để tế lễ.
Đặc biệt, có tục thi bánh giầy giữa 7 giáp trong làng (mỗi giáp một mâm cỗ, mỗi mâm
22 bánh), có thi đánh gậy, xếp chữ. Hội Chử Đồng Tử làng Chử Xá ngày 18 tháng
Giêng từ lâu đã in sâu trong tâm thức của dân làng:
Dù ai ở đâu đi đâu,
Tháng Giêng, mười tám bảo nhau mà về,
Dù ai lâu đã xa quê,
Nhớ lấy mà về, mười tám tháng Giêng.
Hội làng cổ châu
(Hà Nội)
Làng Cổ Châu tên nôm là làng Dâu, tên gốc là trại Tế áng. Đầu thế kỷ XIX là
một thôn của xã Thiết úng, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh
Bắc (từ năm 1831 trở đi đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Khoảng đời Duy Tân (1907-1916),
dù là một làng rất nhỏ (năm 1938 chỉ có 155 nhân khẩu) nhưng vẫn được nâng lên thành xã
độc lập.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Cổ Châu nhập với các làng: Vân Điềm,
Thiết úng, Thiết Bình, Hà Khê thành xã Vân Hà thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh. Từ đầu tháng 6 năm 1961, xã Vân Hà được chuyển về huyện Đông Anh thuộc
thành phố Hà Nội.
Cổ Châu là một làng cổ. Tương truyền, vào đầu Công nguyên, nơi đây là
trại Tế áng thuộc trang Thiết Bình, dân cư đông đúc, nhưng sống nghèo khó. Bấy
giờ có bà Vĩnh Huy người họ Tống ở vùng núi Yên Tử (nay thuộc huyện Đông
Triều, Quảng Ninh) lên đây sinh sống, truyền bảo cho dân trại Tế áng trồng dâu
nuôi tằm và dệt vải nên được dân trại suy tôn như vị trùm trưởng. Khi Hai Bà Trưng
phất cờ khởi nghĩa, bà Vĩnh Huy chiêu mộ được hơn 1000 binh sĩ, luyện tập võ
nghệ rồi giả mặc làm nam giới, dẫn quân lên xin nhập với nghĩa quân Hai Bà diệt
giặc. Trong trận tấn công vào dinh lũy của Tô Định, Vĩnh Huy được trao chức Hữu
tướng quân, lập được công lớn, góp phần thu lại 65 thành trì.
Ba năm sau, nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang chiếm lại nước ta. Bà
Vĩnh Huy chỉ huy một đạo quân đánh lại. Do lực lượng chênh lệch, bà bị bắt. Mã
Viện thấy bà có nhan sắc bèn ép lấy làm vợ, bà giả vờ đồng ý rồi thừa cơ trốn thoát
về trại Tế áng, khẩn cấp triệu trai đinh và dân làng chuẩn bị chiến đấu. Bỗng nhiên
mây đen dày đặc, trời đất tối tăm. Đến khi trời quang thì không thấy bà đâu, chỉ
thấy một đống mối đùn lên. Dân làng thương tiếc, kính phục, tôn bà làm Đức Bà
làng Dâu. Hiện nay, ở gần làng có bãi đất rộng, gọi là "Bãi mộ đức Bà" hay "Bãi mộ
đức Chúa", tương truyền là nơi bà Vĩnh Huy hóa.
Hội làng Cổ Châu diễn ra vào hai dịp: từ mồng 9 đến 13 tháng Giêng, tương
truyền là ngày hóa của bà Vĩnh Huy, ngày 16 tháng 10 là ngày khánh hạ. Các dịp này
trước đây đều mổ trâu để tế thần. Ngoài ra, dân làng còn có lệ Hạ điền (mồng 10 tháng
4) và Thượng điền (mồng 10 tháng 7). Trong hội tháng Giêng có tục các gia đình
mang cỗ chay (gồm bánh giầy, bánh chưng, bánh mật, chè kho, mía tiện) đến khao
quan viên và toàn dân. Trong hội tháng 10 trước đây có thi dệt vải để tưởng nhớ công
lao truyền nghề của bà Vĩnh Huy. Các dòng họ cử những cô gái xinh đẹp, khéo dệt ra
dự thi. Giải thưởng cho người dệt được nhiều vải và vải đẹp chỉ là chiếc khăn điều hay
gói trầu têm cánh phượng nhưng dòng họ có người được giải tin rằng năm đó sẽ gặp
nhiều may mắn. Vì thế, hàng ngày, các bậc tay nghề cao thường truyền bảo tỉ mỉ kinh
nghiệm nghề nghiệp cho con cháu và các cô gái phải cố gắng, bền bỉ ngồi bên khung
dệt hàng ngày.
Lễ Hội làng Cổ Loa
(Hà Nội)
Xã Cổ Loa (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) nằm trong khu vực thành
Cổ Loa - Kinh đô của vua Thục An Dương, đầu thế kỷ thứ III TCN. Nơi đây có đền
Cổ Loa thờ An Dương Vương (gần có am thờ Mỵ Châu). Hàng năm, dân làng Cổ Loa
tổ chức mở hội vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, kỷ niệm ngày Thục Pháp nhập
cung.
Sáng ngày mồng 6, làng tổ chức cuộc rước văn tế từ nhà vị tiên chỉ ra đền
để tế thần. Theo thông lệ, 12 ông trưởng xóm đến đông đủ, ai nấy cũng phải sửa lễ,
văn tế được soạn thảo đặt lên giá. Đi đầu đám rước là phường bát âm, tiếp là quan
viên trong làng, sau đó là dân đinh mang lọng, rước giá văn tế và kiệu long đình.
Cuộc rước dừng lại giữa sân đền; giá văn tế được đặt lên long đình và long đình
được khiêng tới kê trước hương án đồ thờ. Phường bát âm tấu nhạc cùng với các
nhạc cụ dân gian khác, chủ tế làm lễ tế thần, sau đó các quan viên và những người
dự lễ, lần lượt vào lễ trước ban thờ cầu nguyện nhà vua phù hộ cho dân làng.
Buổi chiều là đám rước thần, có đông đảo dân làng tham dự, một số người
hóa trang áo trắng đỏ, đeo râu giả. Thứ tự, cuộc rước cờ quạt, long đình, các tư khí
bộ bộ bát bửu, phường bát âm, các quan viên lễ phục bưng theo khí giới của vua
(cung, kiếm, tên, nỏ), kỳ mục xóm Chùa khiêng long đình có bài vị vua, kỳ mục các
thôn khác có kiệu và long đình thôn mình, mỗi thôn cũng có phường bát âm, cờ quạt
và hóa trang riêng cùng dân chúng. Đám rước kéo dài chừng vài giờ, từ sân đền Cổ
Loa ra đến đầu làng thì giải tán, thôn nào về thôn ấy, chỉ có xóm Chùa - xóm sở tại của
đền, khiêng long đình, bài vị vua về đền.
Hội làng Cổ Loa còn kéo dài nhiều ngày với nhiều trò vui: đánh đáo, chơi
đu, cờ người… và đặc biệt, vào các buổi tối lại có hát chèo thờ thần.
Lễ hội đền Bà Tấm ở làng dương xá
(Hà Nội)
Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương Đanh (Tam
Dương), xưa nữa là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên đất của thôn Dương Đá. Trước đây riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay hợp với Thuận Quang và
Yên Bình thành xã Dương Xá mới.
Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi ỷ Lan) và sáu tượng nữ
khác gọi là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc ngai, trên ngai có bài vị
ghi: "Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu" và một vài bia ký ở hai gian bên cạnh. Đặc
biệt có bộ khám long đình rất đẹp mang niên đại thời Mạc.
Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang
tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn
Lâm (Hải Hưng cũ) và những làng cấy ruộng hậu của đền. Trong đền còn giữ được
tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn,
nên thường phải 5 năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng,
được tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn nhớ cả tên người được giải cờ người
năm đó là ông Trần Nhật Tân. Trước đây chính hội là từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 2
âm lịch, nhưng thực chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25 tháng 2 mới hết
hội. Ngay từ tiệc đầu xuân, dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ cẩn
cáo với Bà, mong Bà phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng cờ, ban tế
cùng các việc khác cho ngày hội.
Ngày 19 tháng 2 âm lịch tương truyền là ngày sinh của bà Tấm. Ngày hội
được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ
đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km.
Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu.
Liền sau đó là long đình rước bài vị bà ỷ Lan, có những người phục dịch theo kiệu.
Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe
dùng lấy nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ
Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc
Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám rư ớc rất lớn và dài,
bởi vì ruộng đất lộc của Bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai, Bình Trù, Liên Mỹ… Bà
cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do quy mô của đám rước dài và lớn như vậy
nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới rước được nước về tới đền.
Trong lúc diễn ra cuộc rước nước thì từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật
ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, cuộc tế lễ bắt đầu.
Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt.
Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ xa xưa năm nào cũng vậy,
có chăng thêm thì chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước
ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà tr ước đó ba bốn ngày để thật
trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết.
Sau khi đã xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu.
Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt là các
cuộc dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến
khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu vực
xung quanh. Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau,
lễ vật được chia ra làm đôi, riêng Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa
kia mới được chia cho các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60
phẩm oản và 60 quả chuối.
Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát mẻ, là
nơi diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm tướng. Mỗi quân cờ
đều có một chiếc ghế đẩu để ngồi. Riêng tướng cờ được che thêm một chiếc lọng.
Người chơi đánh nước nào thì người đóng vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh.
Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp
dẫn người xem không chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự thanh
tú của các nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo
dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng và trao giải
cho người nhất cuộc.
Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền suốt
từ ngày 19 tháng 2 đến hết hội. Thường các phường hát đến xin, địa phương tín nhiệm
phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến khi giã đám mới thanh toán
tiền cho họ. Ngoài ra, các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm
sôi nổi.
Trong hội còn có các trò chơi khác như: tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt
pháo và thời Pháp thuộc có cả hát cô đầu… Cứ như vậy lễ hội đền Bà Tấm kéo dài
cho đến hết ngày 21 tháng 2 âm lịch. Ngày 22 tháng 2 là ngày tế giã đám và kết
thúc hội. Cũng vào ngày đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ
trao giải.
Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn.
Khu vực đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội được chính quyền địa
phương và nhân dân trong xã tổ chức khá chu đáo. Nhiều trò vui dân gian được khôi
phục lại như tổ tôm điếm, chọi gà… Vì vậy khách đến hội mỗi năm một đông thêm.
Hội làng Đại Bái
(Bắc Ninh)
Làng Đại Bái từng có tên là làng Văn Lãng và đến thế kỷ XVII, tên đình
Văn Lãng được ghi vào văn bia. Giả thuyết cho rằng những địa danh có chữ "Lãng"
trong Phá Lãng, Lãng Ngâm, Văn Lãng, là dấu tích còn lại của hồ Lãng Bạc ngày
xưa. Đến đầu thế kỷ XX, Đại Bái còn là làng trong tổng Bình Ngô, huyện Gia Định.
Tổng Bình Ngô gồm có các xã: Bình Ngô, Đông Côi, Nghi Khúc, Thường Vũ,
Trương Xá, Yên Ngô và ba xã: Ngọc Xuyên, Đoan Bái, Đại Bái.
Làng Đại Bái nằm trên bờ sông Bái của huyện Gia Lương, thuộc tỉnh Bắc
Ninh. Tên nôm xưa đến nay vẫn quen gọi là làng Bưởi. Có ba làng Bưởi nằm kế
nhau: làng Bưởi Cuốc nay là Nghi Khúc, làng Bưởi Đoan nay là Đoan Bái, làng
Bưởi Nồi nay là Đại Bái. Xã Đại Bái ở đầu phía tây huyện Gia Lương, bắc giáp xã
Đông Cửu (có núi Thiên Thai), đông giáp xã Quỳnh Phú, nam giáp xã Quảng Phú,
tây giáp xã An Bình.
Đặc điểm riêng của làng Đại Bái là một làng thủ công có tiếng lâu đời:
"Đại Bái (Gia Định) chi dã thau nhi, thau bàn, thau ấm, thau điếu, hàm sinh kỳ cụ".
Đó là lời ghi trong Kinh Bắc phong thổ ký (Nguyễn Thắng viết vào năm 1807) mà
một nhà nho đã diễn nôm:
Đánh thau Đại Bái cành rành
Chậu thau, thức ấm đều sinh hòa nhà.
Đình làng Đại Bái có tên là đình Văn Lãng, thờ Thành Hoàng Lạc Long
Quân và thờ ông Nguyễn Công Hiệp. Đây là nơi chứng kiến lễ hội và những tập tục
truyền thống của làng Đại Bái.
Làng Đại Bái kết nghĩa với các làng Ngọc Xuyên, Đoan Bái. Vào những
ngày lễ tết, hội hè, ba làng thường mang quà bánh đến cúng tiến thần linh và chung
vui tại làng Bưởi Nồi.
Hội Bưởi Nồi được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 4 âm lịch. Trước đây
sách "Bắc Ninh phong thổ tạp ký" chép tóm tắt hội ở làng Đại Bái với "trò diễn thần
Bạch Kê" như sau: Hàng năm đến ngày 10 tháng 4 vào đám. Trước đấy một tháng,
làng mua một con gà trống trắng về nhốt vào lồng, đợi đến ngày vào đám thì mang
lồng gà ấy đến đình làm lễ. Lễ xong thả gà ra ngoài hương án. Từ đó về sau, con gà
trắng ngày ra đồng kiếm ăn, tối về đình ngủ dưới nhang án, nhân đó người ta gọi là
thần Bạch Kê. Hiện nay thì lệ ấy có thay đổi: Vào đám khoảng năm sáu ngày, khi
hành lễ và khi giã đám, người ta mua hai chiếc thuyền giấy thả xuống sông. Con gà
trống trắng lúc tế xong thì đem ngay về giết thịt ăn với nhau. Nguyên xã này thờ vua
Lạc Long Quân, thế nên khi vào đám phải dùng gà trắng để làm lễ thì dân làng mới
được yên ổn. Sở dĩ như thế là theo phong tục của tổ tiên truyền lại.
Xung quanh con gà trống trắng này, dân làng thường kể những mẩu chuyện
tăng thêm phần huyền diệu cho trò chạy gà. Người ta thường trầm trồ về sự thông
minh đặc biệt của gà, bởi nó được Thành Hoàng ban phép. Gà được nuôi trong hậu
cung đình, ngày đi ăn, tối về ngủ, biết nhúng chân vào chậu nước rửa chân, rồi nhảy
lên tấm gỗ bắc ngang định vị cho mình. Từ khi đưa vào đình, gà đứng quay đầu
chầu ra. Ngày mồng 10 vào đám, nó tự biết quay đầu chầu ra. Cho đến đêm 16 lại
quay đầu ra chờ định đoạt số phận. Làm thịt gà vào ngày 17, thân gà chia cho mọi
người, còn đầu gà thì phải chôn đi.
Một trò hội khác cũng hấp dẫn ở làng Đại Bái là trò ném cây bông. Ngày 17
giã đám là ngày ném cây bông. Cây bông là một cây tre hai đầu vót thành những
chùm phối xum xuê, được đặt ngay dưới cây đèn cao chừng mét rưỡi để trên hương
án. Quan viên chức sắc tề tựu xung quanh để xem các cô đào múa hát. Bài hát là bài
ca trù cầu chúc thần linh và trình bày nguyện vọng "cầu cho làng xóm bình yên, mưa
thuận gió hòa". Trai tráng của cả bốn xóm tập trung tại sân đình. Sau khi hát lễ xong,
ba hồi trống chiêng nổi lên, hai ông cai đám cầm cây bông ném ra ngoài, mọi người
tranh nhau cướp. Thanh niên xóm nào cướp được cây bông thì chạy mang về xóm ngõ
của mình. Những người khác cố đuổi theo để tranh lại, chỉ khi nào đưa được cây bông
vào ngõ xóm thì người khác không có quyền đuổi theo nữa. Cây bông chiến thắng là
điềm lành cho xóm trong năm. Nên xóm nào cướp được cây bông đều tổ chức ăn
mừng, hát chèo suốt đêm. Người ta còn đồn rằng cây bông tuy to, nặng, được ném bất
chợt từ trong ra ngoài sân đình, thế mà không rơi vào đầu ai, không gây thương tích.
Có lẽ vì thanh niên các xóm đã có ý thức chuẩn bị sẵn sàng nhanh tay nhanh mắt.
Nhưng cũng có người kể rằng, từ lâu, có lần cây bông ném ra trúng phải một người
làm họ ngã quay ra sân. Đỡ dậy, mới biết rằng anh ta đang có tang trở. Từ đó về sau,
người đang chịu tang không được phép dự trò chơi này.
Đặc biệt ở làng Đại Bái - làng nghề gò đồng truyền thống lại có những tục lệ
gắn với nghề "gia truyền" và chỉ làng này mới có lệ riêng này. Đây là những lệ làng
đặc sắc, thể hiện sự thành kính, sự ngưỡng vọng, lòng yêu nghề tha thiết của dân làng.
Điều trước hết dễ thấy là dân làng rất ngưỡng vọng đối với tổ sư nghề gò
đồng. Họ rất trân trọng ngày giỗ tổ và hết sức bảo vệ giữ gìn ngôi đình thờ vị tiền tiên
sư. Có một lệ làng rất đặc biệt là lễ thắp hương của người đồng niên. Tất cả mọi người
trong làng cứ đến 49 tuổi đều có nhiệm vụ thắp hương một ngày ở đình, đền thờ tổ.
Trong một năm có ba ngày lễ để tưởng nhớ vị tiền tiên sư. Hai ngày thuộc xuân thu
nhị tế là ngày 16 tháng 2 (lễ tiết đầu năm) và ngày 16 tháng 8 (lễ nhị tiết). Ngày giỗ tổ
là ngày mất của ông Nguyễn Công Truyền, vào 29 tháng 9 âm lịch. Đó là ngày vui của
làng nghề. Lễ vật dâng lên trong ngày lễ tổ gọi là lễ soạn, mỗi xóm biện hai mâm,
ngoài ra có thêm xôi gà, quà bánh. Sau khi cúng tế, cỗ soạn để dành kính các cụ trùm.
Các lý dịch chức sắc, tư văn… không được dự những mâm xôi gà do các xóm mang
ra.
Ngày nay, hội làng Đại Bái vẫn trường tồn và phát triển như một hiện tượng
văn hóa làng bền bỉ, mạnh mẽ, vượt thời gian, hài hòa với lịch sử.