Một số đề thi vào 10 của các tỉnh
SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
KỲ THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT
MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2015 – 2016
( Thời gian làm bài 120 phút)
Phần I: Trắc nghiệm (2,0 điểm)
Trong 8 câu hỏi sau, mỗi câu có 4 phương án trả lời A, B, C, D; trong đó chỉ có
một phương án đúng. Hãy chọn phương án đúng viết vào tờ giấy làm bài.
Câu 1: Từ nào dưới đây là từ ghép?
A. Lành lạnh
C. Lấp lánh
B. Cỏ cây
D. Xôm xốp
Câu 2: Trong câu thơ “Vầng trăng đi qua ngõ.”, tác giả Nguyễn Duy sử dụng
biện pháp tu từ:
A. So sánh.
C. Ẩn dụ.
B. Hoán dụ.
D. Nhân hóa.
Câu 3: Câu văn “Không ai nói với ai, nhưng nhìn nhau, chúng tôi đọc thấy
trong mắt nhau điều đó.” (Lê Minh Khuê) có mấy cụm động từ?
A. Hai
C. Bốn
B. Ba
D. Năm
Câu 4: Câu “Vâng, cháu cũng nghĩ như cụ.” có sử dụng:
A. Thành phần gọi – đáp.
C. Thành phần phụ chú.
B. Thành phần tình thái.
D. Thành phần cảm thán.
Câu 5: Thành ngữ “Nói có sách, mách có chứng” liên quan đến phương châm
hội thoại nào?
A. Phương châm quan hệ.
C. Phương châm về chất.
B. Phương châm cách thức.
D. Phương châm về lượng.
Câu 6: Trong câu “Điều này ông khổ tâm hết sức.” (Kim Lân), ngoài thành
phần chính còn có:
A. Thành phần trạng ngữ.
B. Thành phần khởi ngữ.
C. Thành phần phụ chú.
D. Thành phần gọi – đáp.
Câu 7: Các câu “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa,
tùy ý.”(Nguyễn Thành Long) đã sử dụng phép liên kết:
A. Phép lặp từ ngữ.
B. Phép nối.
C. Phép thế.
D. Phép đồng nghĩa, trái nghĩa.
Câu 8: Xét về cấu tạo ngữ pháp, câu “Anh mong được nghe một tiếng “ba”
của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi.” (Nguyễn Quang Sáng)
thuộc kiểu câu:
A. Câu đơn.
C. Câu ghép.
B. Câu đặc biệt.
D. Câu rút gọn.
Phần II: Đọc-hiểu văn bản (3,0 điểm)
Em hãy đọc đoạn văn sau:
Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc
cho kĩ. Nếu đọc được 10 quyển sách không quan trọng, không bằng đem thời
gian, sức lực đọc 10 quyển ấy mà đọc một quyển thật sự có giá trị. Nếu đọc
được mười quyển sách mà chỉ lướt qua, không bằng chỉ lấy một quyển mà đọc
mười lần. “Sách cũ trăm lần xem chẳng chán – Thuộc lòng, ngẫm kĩ một mình
hay”, hai câu thơ đó đáng làm lời răn cho mỗi người đọc sách. Đọc sách vốn
có ích riêng cho mình, đọc nhiều không thể coi là vinh dự, đọc ít cũng không
phải là xấu hổ. Đọc ít mà đọc kĩ, thì sẽ tập thành nếp suy nghĩ sâu xa, trầm
ngâm tích luỹ, tưởng tượng tự do đến mức làm đổi thay khí chất; đọc nhiều
mà không chịu nghĩ sâu, như cưỡi ngựa qua chợ, tuy châu báu phơi đầy, chỉ tổ
làm cho mắt hoa ý loạn, tay không mà về. Thế gian có biết bao người đọc
sách chỉ để trang trí bộ mặt, như kẻ trọc phú khoe của, chỉ biết lấy nhiều làm
quý. Đối với việc học tập, cách đó chỉ là lừa mình dối người, đối với việc làm
người thì cách đó thể hiện phẩm chất tầm thường thấp kém…
Và trả lời các câu hỏi dưới đây:
a) Đoạn văn trích trong văn bản nào? Của ai? (1,0 điểm)
b) Phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn là gì? Xác định nội dung chính
của đoạn văn? (1,0 điểm)
c) Trình bày suy nghĩ của em về tác dụng của việc đọc sách. (1,0 điểm)
Phần III: Tập làm văn (5,0 điểm)
Về Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng:
Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam
dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của
họ.
Theo em, ý kiến trên thể hiện như thế nào qua nhân vật Vũ Nương?
______________HẾT______________
ĐÁP ÁN ĐỀ THI VÀO LỚP 10 MÔN VĂN – NAM ĐỊNH 2015
Phần I: Trắc nghiệm khách quan (2,0 điểm)
Mỗi câu trả lời đúng được 0,25 điểm:
Câu
1
2
3
4
5
6
7
8
Đáp án
B
D
B
A
C
B
B
C
Phần II. Đọc hiểu văn bản
Câu
II
Ý
Nội dung
– Đoạn văn được trích trong văn bản Bàn về đọc sách.
a
– Tác giả: Chu Quang Tiềm.
– Phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn trên là nghị luận.
b
– Nội dung chính của đoạn văn: Bàn về cách đọc sách.
Có thể triển khai các ý sau:
– Sách là nơi đúc kết trí tuệ, tâm hồn nhân loại. Đọc sách chính là tiếp nhận
kho tàng tri thức vô tận ấy.
– Việc đọc sách có tác dụng to lớn trong việc mở mang trí tuệ, hiểu biết; bồi
dưỡng tâm hồn và nhân cách; phát triển năng lực ngôn ngữ cho con
c
người… (Dẫn chứng)
– Hiện nay do sự phát triển của công nghệ thông tin nên không ít người
quay lưng, thờ ơ với việc đọc sách mà không thấy hết được ý nghĩa to lớn
của việc đọc sách. Điều đó cần được xem xét một cách nghiêm túc và có sự
điều chỉnh hợp lí.
Về Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho
rằng: Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người
III
phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp
truyền thống đáng quý của họ.
1
Giới thiệu chung:
– Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, quê ở Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương. Ông nổi tiếng học rộng, tài cao.
– “Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn
lục“, áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16 – một
kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút“. Tác phẩm không
chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ
phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ.
2
Phân tích nhân vật Vũ Nương để làm sáng tỏ nhận định:
a
Số phận bất hạnh:
* Phải sống trong nỗi cô đơn, vất vả:
– Nỗi vất vả của Vũ Nương: Một mình gánh vác gia đình, nuôi dạy con thơ,
chăm sóc mẹ già.
– Nỗi cô đơn tinh thần (phải vượt lên):
+ Cảnh sống lẻ loi.
+ Nỗi nhớ thương khắc khoải.
+ Nỗi lo lắng cho chồng đang chinh chiến nơi xa.
* Phải gánh chịu nỗi oan lạ lùng và phải tìm đến cái chết:
– Nguyên nhân (của nỗi oan):
+ Do lời nói ngây thơ của bé Đản.
+ Do Trường Sinh vốn đa nghi, hay ghen lại đang buồn vì mẹ mất.
+ Do chiến tranh gây ra 3 năm xa cách, niềm tin vào Vũ Nương ị thử thách,
bị lung lay.
+ Có thể do cuộc hôn nhân bất bình đẳng giữa Vũ Nương và Trường Sinh,
do xã hội phong kiến trọng nam, khinh nữ cho phép Trường Sinh được đối
xử rẻ rúng, tàn tệ với vợ mình.
– Hậu quả (của nỗi oan):
+ Trường Sinh nghi ngờ, gạt đi lời thanh minh của Vũ Nương, mắng nhiếc,
đánh đuổi Vũ Nương đi.
+ Cùng đường Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tận. Đây là phản
ứng dữ dội, quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ nhân phẩm nhưng cũng là
cho thấy nỗi bất hạnh tột cùng của nàng.
* Phải sống không hạnh phúc thực sự dưới thủy cung:
– Vũ Nương tuy được cứu sống, sống bất tử, giàu sang, đã được minh oan
trên bến Hoàng Giang nhưng nàng không hạnh phúc thực sự:
+ Vẫn nhớ thương gia đình.
+ Vẫn mong trở về dương thế mà không thể.
=> Nhận xét: Số phận Vũ Nương tiêu biểu cho phận bạc của biết bao
người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo,
hà khắc.
b
Vẻ đẹp của Vũ Nương:
* Mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất của người phụ nữ xã hội phong kiến.
– Chi tiết Trường Sinh xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về” càng tô đậm
hơn vẻ đẹp nhan sắc, phẩm chất của nàng.
* Là người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo:
– Đảm đang (khi chồng đi lính):
+ Một mình gánh vác gia đình.
+ Chăm sóc mẹ chồng già yếu.
+ Nuôi dạy con thơ.
– Hiếu thảo (khi mẹ chồng ốm):
+ Nàng hết lòng chăm sóc như với cha mẹ đẻ của mình (cơm cháo, thuốc
thang, an ủi…)
+ Lễ bái thần phật cầu cho bà tai qua, nạn khỏi.
+ Lời trăng trối của bà trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình
cảm chân thành của Vũ Nương. (phút lâm chung bà cảm tạ công lao của
nàng -> mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu của xã hội phong kiến xưa
thường chỉ mang tính chất ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Những lời cảm
tạ của bà mẹ đã cho thấy Vũ Nương yêu thương bà thực lòng nên bà cũng
yêu quý, biết ơn nàng thực lòng như vậy)
+ Bà mất: nàng lo tang ma chu đáo.
* Là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha:
– Nết na, thủy chung:
+ Khi mới cưới: nàng hết sức giữ gìn khuôn phép.
+ Ngày tiễn chồng ra trận, trong lời từ biệt ta thấy nàng không màng công
danh phú quý, chỉ mong chồng trở về bình yên.
+ Ba năm xa chồng, Vũ Nương buồn nhớ khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm
trang, toàn tâm toàn ý chăm sóc gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ,
người mẹ trong gia đình.
+ Thậm chí, ngày Trường Sinh trở về, bị nghi ngờ, Vũ Nương chỉ biết khóc
rồi thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng.
=> Tấm lòng son sắt, thủy chung sáng ngời của nàng.
– Giàu lòng vị tha:
+ Khi bị chồng đổ oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, Vũ Nương chỉ đau khổ,
thanh minh mà chẳng hề oán hận, căm ghét chồng. Nàng vẫn bao dung với
người chồng hẹp hòi, ích kỉ.
+ Sống dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ thương gia đình, quê hương.
Việc nàng gửi vật làm tin chứng tỏ nàng vẫn sẵn sàng tha thứ cho chồng.
+ Khoảnh khắc gặp lại Vũ Nương không trách móc mà còn hết lời cảm tạ
Trường Sinh. Lời nói ấy cho thấy Vũ Nương hoàn toàn tha thứ cho chồng.
Trường Sinh đã được giải thoát khỏi nỗi ân hận, day dứt vì sự hàm hồ, hẹp
hòi, tàn nhẫn của mình.
=> Nhận xét: Vũ Nương trở thành hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ
Việt Nam thảo hiền, đức hạnh.
3
Đánh giá:
– Bằng việc xây dựng tình huống truyện độc đáo – xoay quanh sự ngộ nhận,
hiểu lầm lời nói của bé Đản; nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, kết hợp hài hòa
yếu tố hiện thực và kì ảo; khắc họa nhân vật thông qua lời nói trần thuật,
lời thoại; hành động…; Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Vũ
Nương – một điển hình cho số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
– Qua đó, bày tỏ niềm trân trọng và cảm thương sâu sắc, tiếng nói bênh
vực người phụ nữ trong xã hội xưa; tố cáo xã hội phong kiến nam quyền,
nhiều lễ giáo hà khắc, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã đẩy người phụ nữ
vào những bi kịch đớn đau.
SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO QUẢNG NINH
KỲ THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT
MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2015 – 2016
( Thời gian làm bài 120 phút)
Câu 1: (2,0 điểm)
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
(Trích : Viếng lăng Bác, Viễn Phương)
a) Chỉ ra và phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ được sử
dụng trong hai câu thơ trên ?
b) Chép một câu thơ khác có hình ảnh mặt trời mà em đã học trong chương
trình Ngữ văn 9, ghi rõ tên tác giả tác phẩm ?
Câu 2:(3,0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn từ 12 đến 15 câu theo kiểu diễn dịch trình bày suy nghĩ
về tình trạng học vẹt của nhiều học sinh hiện nay.
Câu 3: (5.0 điểm)
Trong tác phẩm Lòng yêu nước, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có viết:
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Hãy làm sáng tỏ điều đó qua việc phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông
Hai trong văn bản Làng của Kim Lân (Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2014, trang 162)
—–Hết—–
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị coi thi không giải
thích gì thêm.
Đáp án và hướng dẫn làm bài
Câu
Ý
Nội dung
1
a
–
Biện pháp tu từ:
+ Ẩn dụ: hình ảnh “mặt trời” ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác
Hồ.
–
Tác dụng: Khẳng định sự vĩ đại và sự vĩnh hằng của Bác trong lòng người
dân Việt Nam. Bác giống như mặt trời thiên nhiên ngày ngày vẫn soi sáng,
vẫn trường tồn cùng dân tộc, đem nguồn sáng đến cho nhân dân. Hai câu
thơ thể hiện rất cảm động tấm lòng biết ơn, tôn kính với vị cha già dân tộc.
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
b
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm)
Viết một đoạn văn từ 12 đến 15 câu theo kiểu diễn dịch trình bày
2
suy nghĩ về tình trạng học vẹt của nhiều học sinh hiện nay
Thí sinh phải viết đoạn văn từ 12 đến 15 câu theo kiểu diễn dịch và phải
đảm bảo các ý chính sau:
–
Học vẹt là cách nói ẩn dụ, ví cách học của học sinh với con vẹt – bắt
chước, nói nhại lại nhưng không hiểu gì. Khi học thuộc bài, đọc rất trôi chảy
nhưng khong nắm chắc nội dung, học một cách máy móc và thụ động.
–
Đây là hiện tượng phổ biến trong học sinh hiện nay.
–
Nguyên nhân:
+ Bản thân mỗi học sinh chưa tự giác trong học tập, có thái độ đối phó, thụ
động.
+ Sức ép từ phía gia đình.
+ Chương trình học nặng nề, khô khan; phương pháp giảng dạy của thầy cô
chưa phù hợp và hiệu quả.
–
Hậu quả: trống rỗng kiến thức, không có khả năng vận dụng những gì
đã học vào thực tế.
–
Giải pháp:
+ Bản thân học sinh cần có thái độ, động cơ, phương pháp học tập đúng
đắn, chủ động tiếp thu kiến thức.
+ Gia đình và nhà trường cần phối hợp để giảm bớt áp lực, mang lại sự
hứng thú khi học tập cho con em.
–
Liên hệ bản thân và rút ra bài học.
Trong tác phẩm Lòng yêu nước, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có
viết:
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ
3
quốc.
Hãy làm sáng tỏ điều đó qua việc phân tích diễn biến tâm trạng
nhân vật ông Hai trong văn bản Làng của Kim Lân
Khái quát:
I
–
Trích dẫn câu văn trong tác phẩm “Lòng yêu nước” của nhà văn Nga I-
li-a Ê-ren-bua:“Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu
Tổ quốc”.
–
Giới thiệu nhà văn Kim Lân và truyện ngắn “Làng”:
+ Kim Lân nhà một trong những cây bút truyện ngắn tiêu biểu của nền văn
học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp với ngòi bút luôn hướng về cuộc
sống nông thôn.
+ “Làng” là một trong những tác phẩm thành công của tác giả Kim Lân.
Truyện viết về nhân vật ông Hai – một lão nông hiền lành, chất phác, giày
tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng.
–
Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong văn bản“Làng” chính là
minh chứng xác thực cho câu văn của I-li-a Ê-ren-bua.
Phân tích:
II
1
Tình yêu làng của ông Hai:
a
Niềm tự hào, kiêu hãnh của ông Hai về làng của mình:
–
Dù đã rời làng nhưng ông vẫn:
+ Nghĩ về làng của mình, nghĩ về những buổi làm việc cùng anh em.
+ Lo lắng, nhớ đến làng: “Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá”
b
Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng của mình đi theo giặc:
–
Cổ ông nghẹn, giọng lạc hẳn đi.
–
Lúc đầu ông không tin nên hỏi lại.
–
Ông quá xấu hổ nên đã chép miệng, đánh trống lảng:“Hà, nắng gớm, về
nào…” rồi cúi mặt mà đi.
– Khi về nhà, ông nằm vật ra giường. Tối hôm đó ông trằn trọc không ngủ
được.
–
Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc.
–
Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả
nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.
–
Lo sợ sẽ bị bà chủ nhà đuổi vì ông biết rằng nơi đây ai cũng khinh bỉ vfa
không chứa chấp Việt gian.
c
Tâm trạng của ông Hai sau khi nghe tin làng được cải chính:
– Mặt ông vui tươi, rạng rỡ hẳn lên.
– Về nhà, ông chia quà cho lũ trẻ xong liền chạy khắp xóm để loan tin.
– Ông qua nhà bác Thứ và kể chuyện làng của mình.
Tình yêu nước của ông Hai:
2
– Tình yêu làng là cơ sở cho tình yêu nước.
– “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” khi nghe các tin dân ta đánh
Tây từ phòng thông tin.
– Ông và con ông đều ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh ( cuộc đối thoại giữa hai cha
con)
III
Đánh giá:
– Nhà văn xây dựng nhiều tình huống truyện khác nhau, miêu tả tâm lí
nhân vật qua những cuộc đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng.
–
Qua đây thể hiện tình yêu làng gắn liền với tình yêu nước của ông Hai.
Tình yêu Tổ quốc chẳng đến từ đâu xa xôi, nó bắt nguồn từ chính những
tình cảm gần gũi, bình dị, thân thương nhất.
SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO HÀ NỘI
KỲ THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT
MÔN: VĂN
NĂM HỌC 2014 – 2015
( Thời gian làm bài 120 phút)
Phần I: (7 điểm)
Dưới đây là trích đoạn trong truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang
Sáng):
“Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén của
nó. Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi thất thần hất cái trắng ra cơm văng
tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy nghĩ anh vung tay đánh vào
mông nó và hét lên:
– Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”
(Trích Ngữ văn 9, Tập 1, NXB Giáo dục 2013)
1. Chiếc lược ngà được viết năm nào? Ghi lại từ mang màu sắc Nam Bộ trong
đoạn trích trên.
2. Những biểu hiện của nhân vật bé Thu ở trên nói lên thái độ gì và qua đó bộc
lộ tình cảm như thế nào đối với nhân vật ông Sáu? Lời kể in nghiêng trong
đoạn trích trên giúp em nhận biết mục đích nói ở câu văn có hình thức nghi
vấn sau đó là gì?
3. Viết một đoạn văn khoảng 15 câu theo phép lập luận quy nạp làm rõ tình
cảm sâu nặng của bé Thu đối với cha trong truyện ngắn trên. Ở đó có sử dụng
câu có thành phần biệt lập và phép lặp để lên kết (gạch dưới thành phần biệt
lập và từ ngữ sử dụng làm phép lặp).
4. Kể tên một tác phẩm khác của chương trình ngữ văn 9, trong đó có nhân
vật người cha vì chiến tranh mà chia cách ,khi trở về đứa con trai cũng hoài
nghi xa lánh. Nêu suy nghĩ của em về chiến tranh (không quá 5 dòng).
Phần II. (3 điểm)
Cho đoạn thơ:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
(Y Phương, Nói với con, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục)
1. Tìm thành phần gọi – đáp trong những dòng thơ trên
2. Theo em việc dùng từ phủ định trong dòng thơ “Không bao giờ nhỏ bé
được” nhằm khẳng định điều gì?
3. Từ bài thơ trên và những hiểu biết xã hội, em hãy trình bày suy nghĩ
(khoảng nửa trang giấy thi) về cội nguồn của mỗi con người qua đó thấy được
trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tình hình đất nước hiện nay.
— HẾT —
Đáp án và hướng dẫn làm bài thi vào lớp 10 môn Văn
Hà Nội
Câu
Ý
Nội dung
“Chiếc lược ngà” được viết năm 1968.
I
1
Những từ ngữ mang màu sắc Nam Bộ trong đoạn trích: “chén”, “xoi”.
Những biểu hiện của bé Thu ở trên nói lên thái độ bướng bỉnh không chịu
nhận ông Sáu làm cha.
2
Lời kể được gạch chân trong đoạn trích trên giúp em nhận biết được mục
đích của câu văn có hình thức nghi vấn sau đó là nhằm bộc lộ cảm xúc – sự
tức giận của ông Sáu khi bé Thu không chịu nghe lời.
3
(1)Trước hết bé Thu là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc, đã
gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,
khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay
khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống để cuối cùng khi ông Sáu tức
giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. (2) Nguyễn Quang Sáng đã khéo
léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu và có người cho
rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết
nghĩ, chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa
con dành cho người cha yêu quý. (3)Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất
hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”, người cha
ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà
do cái thẹo trên má, cái dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng
khuôn mặt ông Sáu. (4) Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến
tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết
đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người
chiến sỹ. (5) Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô
bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền
chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên
giải phóng sau này. (6) Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan
góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ
mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. (7) Nhà văn tỏ ra
rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu
mến và trân trọng một cách đẹp đẽ, thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô
giá ấy nên người đọc có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những
giọt nước mắt trong chính tâm tư của mình hay bé Thu dường như lờ mờ
nhận ra mình có lỗi để rồi lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó
nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua
thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. (8) Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại
có ý tạo tiếng động gây sự chú ý như muốn mọi người trong nhà biết bé sắp
đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. (9) Có một sự đối lập trong những hành động
của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía
cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. (10) Để rồi ở đoạn cuối, khi
mà bé Thu nhận ra cha, tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay giờ trỗi
dậy vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau: con bé cứng cỏi
mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”, lúc đứng ở góc nhà, lúc
đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm
khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn
cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng
nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó. (11) Và rồi đến
khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu
bỗng trào dâng: nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu
hét lên “Ba…”,” vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó chạy
thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, hôn ba nó cùng khắp; nó
hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”. (12)
Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng
mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu
tiên trong đời nó, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. (13) Bao
nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha! (14)
Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị
thiêng liêng với nó. (15) Tình cảm sâu nặng của bé Thu với cha thật đáng
xúc động biết bao!
– Thành phần biêt lập: “Song thiết nghĩ”.
– Từ ngữ dùng làm phép lặp: “bé Thu”.
Tác phẩm: “ Chuyện người con gái Nam Xương”.
Chiến tranh là kẻ thù của hạnh phúc. Nó chỉ mang lại mất mát, đau khổ và
đói nghèo cho nhân loại. Nó không chỉ để lại hậu quả hôm nay mà còn dai
4
dẳng đến cả những ngày sau, đến nhiều thế hệ! Tuy nhiên, nếu để bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ quê hương, bảo vệ tự do độc lập thì chúng ta sẵn sàng trả giá
để bảo vệ những thứ quý giá ấy!
II
1
Thành phần gọi đáp: “ơi”, “nghe”.
2
Việc dùng từ phủ định trong dòng thơ “Không bao giờ nhỏ bé được” nhằm
khắc sâu thêm ý khẳng định trong lời nhắn nhủ của cha với con về lòng tự
tôn, ý thức về tầm vóc của dân tộc mình.
Cội nguồn là phần nền móng đã bị che khuất nhưng lại là trụ cột, làm nên
sức mạnh! Với dân tộc Việt Nam đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng
yêu nước, tình đoàn kết, nghĩa đồng bào… Những giá trị đó đã được các thế
hệ người Việt ra sức vun đắp, giữ gìn từ đời này sang đời khác, xuyên suốt
chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước và trở thành
truyền thống văn hóa tốt đẹp, làm nên cốt cách, tâm hồn người Việt Nam.
Khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD981 vào thềm lục địa, vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam, lòng yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam càng
thể hiện rõ nét. Thanh niên Việt Nam luôn ý thức được rằng biển đảo luôn là
một phần máu thịt rất thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc thân yêu
và họ đã hành động có trách nhiệm với Tổ quốc! Đó là hình ảnh của tuổi trẻ
3
trong cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài với những bộ áo quần cờ đỏ sao
vàng, với những lá quốc kỳ của Tổ quốc trên tay trên các đường phố ở nhiều
nước để biểu tình phản đối Trung Quốc. Trên các mạng xã hội như
Facebook, Youtube, Twitter, MySpace… những hình ảnh Việt Nam tràn ngập
với những status, những bình luận thể hiện lòng yêu nước, yêu chuộng hòa
bình, luôn hướng về đất nước. Đó là hình ảnh của một nữ sinh báo chí xinh
đẹp Bảo Linh gây sốt trong giới trẻ với phong trào vì hòa bình với thông
điệp “Tôi là người Việt Nam, tôi yêu Hòa bình. Nếu bạn cũng giống như thế,
hãy ôm tôi”. Đó là những đợt quyên góp, ủng hộ vật chất cho các chiến sĩ ở
Trường Sa và Hoàng Sa, cho cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư Việt
Nam…Là một học sinh, tôi luôn mang trong tim tình yêu biển đảo, tình yêu
và lòng khâm phục tới những người lính biển, những ngư dân chân chất nơi
đảo xa, luôn mong rằng biển đảo sẽ bình yên, rạng rỡ nụ cười! Còn bạn?
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CÀ MAU
ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10
MÔN: VĂN
Năm học 2013 – 2014
Thời gian làm bài 120 phút
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn ngắn (trong đoạn văn có sử dụng các phép liên kết là phép
nối và phép thế; chỉ rõ các phép liên kết đã sử dụng) nêu cảm nhận của em về
khổ thơ sau:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Ông đồ – Vũ Đình Liên, Ngữ văn 8, tập 2, NXBGDVN, 2013)
Câu 2 (2,0 điểm)
Viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) trình bày suy nghĩ của em về hai câu
ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Câu 3 (6,0 điểm)
Chất thơ trong đoạn trích Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long (Ngữ văn 9,
tập 1, NXBGDVN, 2012).
—————HẾT—————
Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm!
Đáp án và hướng dẫn làm bài
Câu 1.
Yêu cầu về hình thức: Viết thành đoạn văn, trong đoạn văn có sử dụng phép
liên kết là phép nối, phép thế (thí sinh phải chỉ rõ các phép liên kết đã sử
dụng).
Yêu cầu về nội dung: Đoạn văn cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
– Đây là khổ cuối của bài thơ Ông đồ (Vũ Đình Liên). Khổ thơ đã trực tiếp bộc
lộ cảm xúc của nhà thơ:
– Nếu hình ảnh ông đồ và hoa đào cùng xuất hiện ở khổ thơ đầu thì đến khổ
thơ cuối của bài thơ hoa đào vẫn xuất hiện theo quy luật (Năm nay
đào lại nở) còn ông đồ đã hoàn toàn vắng bóng (Không thấy ông đồ
xưa). Đằng sau hai câu thơ là nỗi niềm bâng khuâng, tiếc nuối của nhà thơ.
– Câu hỏi tu từ thể hiện niềm trắc ẩn xót thương của nhà thơ đối với những
người như ông đồ (thế hệ những nhà nho – biểu tượng của nền Nho học) đã bị
thời thế khước từ.
=> Khổ thơ kết đọng cảm xúc của toàn bài – nỗi thương cảm hoài niệm, nuối
tiếc cảnh cũ người xưa, là lòng thương người và tình hoài cổ (Hoài Thanh) của
thi nhân đối với thế hệ những nhà nho và với những nét đẹp trong văn hóa cổ
truyền của dân tộc.
Câu 2.
Ca dao dân ca là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng chúng ta từ thuở lọt lòng.
Dòng sữa tinh thần ấy lan xa theo hương lúa, cánh cò, trầm bổng ngân nga
theo nhịp chèo của con thuyền xuôi ngược, âu yếm thiết tha như lời ru của
mẹ… như khúc hát tâm tình quê hương đã thấm sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi
người. Em nhớ mãi lời ru của bà của mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Lời ca dao tuy giản dị mà ý nghĩa thật lớn lao, nó ca ngợi công lao trời biển
của cha mẹ và nhắc nhở đạo làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu.
Vẫn là thi pháp thường thấy trong ca dao, các tác giả dân gian dùng cách nói
ví von để tạo ra hai hình ảnh cụ thể, song hành với nhau: Công cha đi liền với
nghĩa mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta mượn hình ảnh núi Thái Sơn
và nước trong nguồn vô tận để so sánh với công lao nghĩa mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Cha mẹ sinh con ra, nuôi con mau lớn thành người. Tấm lòng cha mẹ dành
cho con thật vô tận, nó chỉ có thể sánh với núi sông hùng vĩ trường cửu mà
thôi. Công cha lớn lao như núi, cha thức khuya dậy sớm làm lụng vất vả lo cho
con có cơm ăn áo mặc, học hành, khôn lớn thành người. Người cha như chỗ
dựa tinh thần và vật chất cho con, cha nâng niu ôm ấp chăm chút cho con, ai
có thể quên công lao trời biển ấy. Chín tháng mang nặng rồi đẻ đau, mẹ chắt
chiu từng giọt sữa ngọt ngào nuôi con khôn lớn. Lúc con khoẻ mạnh cũng như
khi ốm đau lòng mẹ giành cho con: như biển Thái Bình dạt dào. Không có cha
mẹ làm sao có chúng ta được: con có cha mẹ, không ai ở lỗ nẻ mà lên, tục
ngữ đã dạy ta bài học đó. Câu ca dao đã nâng công lao của cha mẹ lên tầm kỳ
vĩ sánh với vũ trụ, đất trời. Những hình ảnh tuy giản dị đơn sơ mà thấm đượm
lòng biết ơn vô hạn của con cái với mẹ cha.
Luật gia đình của chúng ta ngày nay quy định bậc con cái phải có nghĩa vụ
kính trọng cha mẹ, săn sóc cha mẹ khi già yếu chính là kế tục truyền thống
tốt đẹp muôn đời của dân tộc ta uống nước nhớ nguồn. Những kẻ đi ngược lại
đạo lý ấy thì sẽ không bao giờ tốt với ai hết, và dĩ nhiên kẻ ấy không bao giờ
trở thành một công dân tốt cho xã hội. Những kẻ ấy nếu sống ở trên đời sẽ là
những ung nhọt bệnh hoạn của gia đình, xã hội mà chúng ta thường gọi là bất
nhân bất nghĩa.
Chúng ta được cha mẹ sinh ra để làm một con người, hãy sống cho xứng đáng
là con người. Trên thực tế không phải ở mọi lúc, mọi nơi những đứa con giữ
tròn đạo hiếu. Có biết bao cảnh con khinh rẻ cha mẹ, thậm chí đối xử tệ bạc
với những người đă sinh ra và nuôi dưỡng mình. Những cách sống của những
kẻ như vậy phải bị xã hội trừng trị. Bài ca dao đã đánh thức những kẻ đã và
đang sống thiếu lương tri, đồng thời cũng như luồng ánh sáng chiếu rọi vào
trái tim mỗi chúng ta – những đứa con.
Ngày nay chữ hiếu không chỉ dừng ở góc độ gia đình, rộng hơn là hiếu với dân,
với nước. Có được như vậy mới nhằm xây dựng một xã hội lành mạnh, đẹp đẽ
hơn, mà trước hết phải từ gia đình sống với nhau hiếu thuận có đạo đức.
Bài ca dao trên cũng như phần lớn các bài ca dao khác với nghệ thuận so
sánh ví von, lời thơ cân xứng hài hoà, hình ảnh giản dị mà hàm xúc… đã nhằm
nói lên được tình cảm gia đình sâu sắc. Tính truyền cảm, nội dung giáo dục
mạnh mẽ đã làm cho nó sống mãi với chúng ta bao đời nay.
Bài 3.
– Nguyễn Thành Long (1925-1991), quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam. Ông viết văn từ thời kì
kháng chiến chống Pháp, là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Thành công trong sáng tác của
Nguyễn Thành Long không phải ở khai thác tình huống dữ dội mà là sự nhẹ nhàng, trong trẻo,
thấm đẫm chất trữ tình.
– “Lặng lẽ Sa Pa” sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Lào Cai, in
trong tập “Giữa trong xanh” (1972), là một trong những tác phẩm thành công của ông.
Đây là một truyện ngắn đậm chất thơ.
Phân tích:
Khái quát:
– Thơ là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, thể hiện qua ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu hình
ảnh, nhạc điệu. Khái niệm chất thơ trong tác phẩm văn xuôi để chỉ tác phẩm có thiên hướng biểu
hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc trước những vẻ đẹp cuộc sống, thiên nhiên, con người và có ý
nghĩa khơi gợi cảm xúc trữ tình ở người đọc thông qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, giọng
văn nhẹ nhàng êm ái…
– Chất thơ được biểu hiện phong phú, bàng bạc trong cả đoạn trích Lặng lẽ Sa Pa nhưng
chủ yếu toát lên từ thiên nhiên đẹp đầy thơ mộng của Sa Pa, thấm đượm trong vẻ đẹp
cuộc sống một mình giữa thiên nhiên lặng lẽ của anh thanh niên, từ tình cảm, cảm xúc
đẹp đẽ về con người, nghệ thuật, cuộc sống của người họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ…
Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích Lặng lẽ Sa Pa:
Chất thơ trong thiên nhiên:
– Cảnh đẹp Sa Pa đẹp một cách kì lạ, quyến rũ khiến con người ta ngỡ ngàng khi lần đầu tiên bắt
gặp. Sa Pa bắt đầu với những rặng đào…những đàn bò lang cổ…; Sa Pa của nắng ngập
tràn (nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây… nắng chiếu làm cho bó hoa thêm rực rỡ…
nắng đã mạ bạc cả con đèo…); Sa Pa của những rừng cây (những cây thông chỉ cao quá đầu,
rung tít trong nắng), của sương (các vòm lá ướt sương)… Sa Pa không hoang vu, lạnh lẽo mà
mang nét đẹp thơ mộng, huyền ảo và rất đỗi hữu tình.
Chất thơ trong vẻ đẹp của con người:
* Nhân vật anh thanh niên – vẻ đẹp toát lên từ những suy nghĩ, cảm xúc, việc làm, cách
sống của anh:
– Đó là con người có tình yêu nghề, có ý thức sâu sắc về công việc của mình và ý nghĩa
của công việc với cuộc sống con người, có tinh thần trách nhiệm, biết vượt lên khó khăn
và gian khổ của hoàn cảnh sống và làm việc.
– Là một chàng trai với tâm hồn cởi mở, chân thành, quý trọng tình cảm, khát khao được
gặp gỡ, trò chuyện với mọi người. chức, sắp xếp cuộc sống một cách chủ động, ngăn
nắp, lãng mạn.
– Là con người khiêm tốn, trân trọng sự hi sinh thầm lặng của những người xung quanh.
Vẻ đẹp bình dị, thầm lặng của anh thanh niên đã đem lại niềm vui bất ngờ cho mọi
người và khơi gợi cho họ những nhận thức sâu sắc về lẽ sống, cuộc đời, nghệ thuật.
Lưu ý: Cần có dẫn chứng cụ thể cho mỗi ý trên.
* Các nhân vật khác:
– Người họa sĩ: con người từng trải, tâm huyết với nghệ thuật, khát khao đi tìm đối tượng
của nghệ thuật, có tâm hồn nghệ sĩ giàu xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp
của tâm hồn con người và nghệ thuật.
– Cô kĩ sư: cô gái mang nhiệt huyết của tuổi trẻ, có niềm khát khao cống hiến, sẵn sàng
rời thành phố đến với miền đất xa xôi khi vừa mới ra trường ; cuộc gặp gỡ với người
thanh niên đã khơi dậy trong cô những tình cảm lớn lao, cao đẹp, hiểu thêm về cuộc
sống tuyệt đẹp của người thanh niên, có những nhận thức sâu sắc về lẽ sống và vững tin
vào con đường mình đã lựa chọn.
– Ông kĩ sư vườn rau: hàng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát cách lấy phấn của
ông, tự tay thụ phấn cho hoa su hào…
– Người cán bộ nghiên cứu khoa học: luôn sẵn sàng trong tư thế suốt ngày chờ sét…
=> Đó là vẻ đẹp của những con người lao động thầm lặng mà cao quý luôn vì cuộc
sống, vì mọi người.
Đánh giá:
– Lặng lẽ Sa Pa là đoạn trích giàu chất thơ. Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, còn
có những chi tiết rất thơ, có ngôn ngữ văn xuôi trau chuốt, nhịp điệu nhẹ nhàng… khơi gợi nhiều
xúc cảm cho người đọc.
– Chất thơ là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và thành công của truyện
ngắn Lặng lẽ Sa Pa đặc biệt là trong đoạn trích, giúp cho chủ đề truyện được rõ nét và
sâu sắc (trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ
nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo
nghĩ như vậy cho đất nước) làm nên đặc sắc văn phong và khẳng định sự tìm tòi, sáng
tạo trong nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Thành Long.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CÀ MAU
ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10
MÔN: VĂN
Năm học 2013 – 2014
Thời gian làm bài 120 phút
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn ngắn (trong đoạn văn có sử dụng các phép liên kết là phép
nối và phép thế; chỉ rõ các phép liên kết đã sử dụng) nêu cảm nhận của em về
khổ thơ sau:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Ông đồ – Vũ Đình Liên, Ngữ văn 8, tập 2, NXBGDVN, 2013)
Câu 2 (2,0 điểm)
Viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) trình bày suy nghĩ của em về hai câu
ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Câu 3 (6,0 điểm)
Chất thơ trong đoạn trích Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long (Ngữ văn 9,
tập 1, NXBGDVN, 2012).
—————HẾT—————
Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm!
Đáp án và hướng dẫn làm bài
Câu 1.
Yêu cầu về hình thức: Viết thành đoạn văn, trong đoạn văn có sử dụng phép
liên kết là phép nối, phép thế (thí sinh phải chỉ rõ các phép liên kết đã sử
dụng).
Yêu cầu về nội dung: Đoạn văn cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
– Đây là khổ cuối của bài thơ Ông đồ (Vũ Đình Liên). Khổ thơ đã trực tiếp bộc
lộ cảm xúc của nhà thơ:
– Nếu hình ảnh ông đồ và hoa đào cùng xuất hiện ở khổ thơ đầu thì đến khổ
thơ cuối của bài thơ hoa đào vẫn xuất hiện theo quy luật (Năm nay
đào lại nở) còn ông đồ đã hoàn toàn vắng bóng (Không thấy ông đồ
xưa). Đằng sau hai câu thơ là nỗi niềm bâng khuâng, tiếc nuối của nhà thơ.
– Câu hỏi tu từ thể hiện niềm trắc ẩn xót thương của nhà thơ đối với những
người như ông đồ (thế hệ những nhà nho – biểu tượng của nền Nho học) đã bị
thời thế khước từ.
=> Khổ thơ kết đọng cảm xúc của toàn bài – nỗi thương cảm hoài niệm, nuối
tiếc cảnh cũ người xưa, là lòng thương người và tình hoài cổ (Hoài Thanh) của
thi nhân đối với thế hệ những nhà nho và với những nét đẹp trong văn hóa cổ
truyền của dân tộc.
Câu 2.
Ca dao dân ca là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng chúng ta từ thuở lọt lòng.
Dòng sữa tinh thần ấy lan xa theo hương lúa, cánh cò, trầm bổng ngân nga
theo nhịp chèo của con thuyền xuôi ngược, âu yếm thiết tha như lời ru của
mẹ… như khúc hát tâm tình quê hương đã thấm sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi
người. Em nhớ mãi lời ru của bà của mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Lời ca dao tuy giản dị mà ý nghĩa thật lớn lao, nó ca ngợi công lao trời biển
của cha mẹ và nhắc nhở đạo làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu.
Vẫn là thi pháp thường thấy trong ca dao, các tác giả dân gian dùng cách nói
ví von để tạo ra hai hình ảnh cụ thể, song hành với nhau: Công cha đi liền với
nghĩa mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta mượn hình ảnh núi Thái Sơn
và nước trong nguồn vô tận để so sánh với công lao nghĩa mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Cha mẹ sinh con ra, nuôi con mau lớn thành người. Tấm lòng cha mẹ dành
cho con thật vô tận, nó chỉ có thể sánh với núi sông hùng vĩ trường cửu mà
thôi. Công cha lớn lao như núi, cha thức khuya dậy sớm làm lụng vất vả lo cho
con có cơm ăn áo mặc, học hành, khôn lớn thành người. Người cha như chỗ
dựa tinh thần và vật chất cho con, cha nâng niu ôm ấp chăm chút cho con, ai
có thể quên công lao trời biển ấy. Chín tháng mang nặng rồi đẻ đau, mẹ chắt
chiu từng giọt sữa ngọt ngào nuôi con khôn lớn. Lúc con khoẻ mạnh cũng như
khi ốm đau lòng mẹ giành cho con: như biển Thái Bình dạt dào. Không có cha
mẹ làm sao có chúng ta được: con có cha mẹ, không ai ở lỗ nẻ mà lên, tục
ngữ đã dạy ta bài học đó. Câu ca dao đã nâng công lao của cha mẹ lên tầm kỳ