Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Những chính sách tạo nên sự phát triển hàn quốc hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.93 KB, 41 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thế kỷ XXI, với việc “bốn con hổ châu Á” đã đạt được tư cách
của nước phát triển. “Bốn con hổ châu Á” hay “Bốn con rồng nhỏ châu Á”
là thuật ngữ để chỉ các nền kinh tế của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc
và Đài Loan.
Hàn Quốc nằm trên Bán đảo Triều Tiên, một bán đảo trải dài 1.000 km
từ bắc tới nam, ở phần đông bắc của lục địa châu Á, nơi hải phận của bán đảo
tiếp giáp với phần cực tây của Thái Bình Dương. Phía bắc bán đảo tiếp giáp
với Trung Quốc và Nga. Phía đông của bán đảo là Biển Đông, xa hơn nữa là
nước láng giềng Nhật Bản. Ngoài bán đảo chính còn có hơn 3.200 đảo nhỏ.
Hàn Quốc, từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp
nghèo nhất thế giới, đã nghiêm túc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế từ
năm 1962. Sau chưa đầy bốn thập kỷ, đất nước đã đạt được những thành tựu
kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. Ngày nay,
người ta đang thấy được sự phát triển không ngừng của Hàn Quốc, cái tên
Hàn Quốc “Dynamic Korea” được thế giới quan tâm chú ý, thậm chí đã tạo ra
làn sóng Hàn Quốc - hình ảnh những con người nghị lực, năng động, sáng tạo.
Hình ảnh Hàn Quốc, văn hóa Hàn Quốc, lối sống Hàn Quốc qua nhiều chiến
lược quảng bá đặc biệt qua điện ảnh đã len lỏi, xâm nhập vào nhiều nước
trong khu vực và thế giới.
Vậy những chính sách nào đã tạo nên sự phát triển của Hàn Quốc như
hiện nay? Kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, trên cơ sở tham
khảo các tài liệu, cùng với quá trình tự nghiên cứu, với sự giúp đỡ, đóng góp
ý kiến, hướng dẫn của thầy cô giáo, em đã chọn vấn đề về: “Những chính
sách tạo nên sự phát triển Hàn Quốc hiện nay” làm đề tài tiểu luận môn
Lịch sử Thế giới (chuyên đề) của mình.

1



2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận tập trung nghiên cứu về những chính
sách để Hàn Quốc phát triển như hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề về những chính sách là vấn đề rộng, đề
cập vấn đề này ở phạm vi là một tiểu luận, em chỉ xin đề cập đến những chính
sách cơ bản để tạo nên sự phát triển “thần kì” của Hàn Quốc hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu những chính sách để làm rõ được sự
phát triển của Hàn Quốc trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nêu, phân tích và chứng minh về sự lựa chọn mô hình phát triển, nội
dung của những chính sách tạo nên sự phát triển của Hàn Quốc hiện nay.
+ Đánh giá về kết quả đạt được, qua đó rút ra những bài học kinh
nghiệm từ sự phát triển của Hàn Quốc
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành những mục đích và nhiệm vụ đề ra, tiểu luận đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp nghiên cứu chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, sử
dụng phương pháp phân tích, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch,
so sánh, thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, cùng một số
phương pháp khác.
5. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung của tiểu luận được kết cấu gồm 2 chương:
Chương I: Những chính sách tạo nên sự phát triển Hàn Quốc hiện nay.
Chương II: Kết quả và bµi häc kinh nghiÖm tõ sù ph¸t
triÓn thÇn kú cña Hµn Quèc

2



B NỘI DUNG
Chương I: Những chính sách tạo nên sự phát triển Hàn Quốc hiện nay.

I. Lựa chọn mô hình
Hàn Quốc lựa chọn con đường phát triển
theo mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội. Mô hình này phát triển toàn diện đã được áp
dụng ở một số nước: Thụy Điển, Thụy Sỹ, Na Uy,
Đức, Đài Loan… Nét đặc trưng của mô hình này là
mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi mục tiêu
công bằng xã hội. Kết quả của tăng trưởng nhanh

Biểu đồ Hàn Quốc

góp phần cải thiện mức độ công bằng hoặc là không làm gia tăng bất bình
đẳng, trường hợp xấu nhất là sự bất bình đẳng có gia tăng nhưng ở một mức
độ thấp cho phép. Nội dung chính của mô hình được thể hiện rõ nét qua
những chính sách can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Ở mỗi nước với
các điều kiện khác nhau nhưng sự can thiệp của Chính phủ đều mang những
nội dung chính sau:
Thứ nhất, Chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh thông
qua việc lựa chọn các mô hình công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đất nước.
Thứ hai, Chính sách đầu tư vào các ngành lĩnh vực của nền kinh tế
nhằm đảm bảo tăng trưởng nhanh nhưng không gây gia tăng bất bình đẳng. Ở
hầu hết các nước áp dụng mô hình này đều bắt đầu quá trình tăng trưởng
nhanh bằng phát triển mạnh nông nghiệp.
Thứ ba, Chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xóa đói
giảm nghèo và công bằng xã hội như chính sách về phân phối lại thu nhập,

chính sách trợ cấp xã hội…

3


II. Những chính sách tạo nên sự phát triển Hàn Quốc hiện nay.
1. Các chính sách về kinh tế
1.1.Giai đoạn hướng vào xuất khẩu 1962-1971
Về nông nghiệp
Trong những năm 1960, Hàn Quốc bị thiếu lương thực triền miên.
Chính sách nông nghiệp trong giai đoạn này chú trọng vào đảm bảo có đủ gạo
để ăn. Các chiến lược được đưa ra bao gồm:
Đầu tư vào những yếu tố hiện đại. Ngành phân bón và thuốc trừ sâu
được đầu tư phát triển, đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện năng
suất nông nghiệp. Từ năm 1965 đến 1969, sản lượng gạo của Hàn quốc đã
tăng 30%. Các loại máy nông nghiệp như máy kéo, máy gặt đập liên hợp cỡ
nhỏ cũng được đầu tư để phục vụ việc cơ giới hoá nông nghiệp. Các giống lúa
cho năng suất cao được trồng.
Đầu những năm 1970 các dự án thuỷ lợi được thực hiện phục vụ cho
hệ thống tưới tiêu, sắp xếp lại ruộng đất. Mô hình trợ giá lúa gạo được áp
dụng từ năm 1969 nhằm khuyến khích tăng năng suất lúa gạo và hỗ trợ thu
nhập cho hộ ở nông thôn.
Về công nghiệp
Lựa chọn chiến lược tăng trưởng dựa vào công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu và xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước, chính sách công
nghiệp của Hàn Quốc thời kỳ này là phát triển công nghiệp chủ yếu dựa vào
vốn vay nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1962-1966), Chính phủ tập trung phát
triển cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu cống, thủy điện), đồng thời chuẩn bị các cơ
sở cho quá trình đẩy mạnh xuất khẩu. Bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần

thứ nhất, cũng là quá trình công nghiệp hoá được thực hiện từ công nghiệp
nhẹ. Các lĩnh vực phát triển chủ yếu: phân bón, điện. sợi, hóa học. Kế hoạch
này Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào thị trường nội địa trong đó tập trung phát

4


triển sợi hóa học và lọc dầu thông qua liên doanh với nước ngoài, chủ yếu dựa
vào vốn của Mỹ.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1967 - 1971): mục tiêu chủ yếu là
hiện đại hóa cơ cấu công nghiệp hướng ngoại. Chính sách thay thế nhập khẩu
được thay bằng chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu dựa trên cơ sở sử dụng nhiều
lao động. Các ngành xuất khẩu chủ yếu là: sợi, nhân tạo, hóa dầu, thiểt bị
điện, và các ngành công nghiệp nhẹ như vải, cao su, gỗ dán.
Chính phủ Hàn Quốc tập trung cấp tín dụng lãi suất thấp và chịu các
chi phí vay mượn thấp hơn so với lãi suất thị trường cho các công ty. Chính
sách trợ cấp tín dụng này giúp cho các nhà xuất khẩu đủ số lượng vốn cần
thiếp, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và tăng nhanh xuất khẩu. Cuối những năm
1960, xuất khẩu tăng bình quân 30,8%.
Chính phủ tiến hành phá giá 100% đồng nội tệ (1964) và áp dụng tỷ giá
hối đoái thả nổi. Thời kỳ 1976 - 1985, tỷgiá hối đoái của Hàn Quốc được coi
là thấp nhất trong số các nước đang phát triển, điều này giúp giá hàng hoá
Hàn Quốc sát với giá hàng hoá của thế giới, duy trì sự cạnh tranh cho xuất
khẩu. Chính phủ thực hiện chính sách đa dạng hoá thị trường (Mỹ, Nhật Bản,
Tây Âu, khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Đông Âu, Mĩ Latinh, châu Phi).
1.2. Giai đoạn ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và hóa chất
(1972 - 1979)
Trong giai đoạn này Chính phủ quyết định chiến lược, cải thiện cơ cấu
ngành công nghiệp, tập trung vào phát triển công nghiệp nặng và hoá chất
nhằm cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị cho các ngành công nghiệp mới,

loại dần sự phụ thuộc vào nước ngoài đối với các ngành công ngành công
nghiệp mới. Chính sách “củ cà rốt và cây gậy” thông qua chương trình tín
dụng lãi suất thấp đã tạo ra lợi thế về vốn cho các ngành công nghiệp ưu tiên
để có thể khuếch trương hoạt động sản xuất trên thị trường trong nước và thế
giới. Các ngành đước phát triển chủ yếu gồm có: gang thép, máy móc, thiết bị
vận tải, thiết bị điện tử gia dụng, đóng tàu, hoá dầu, thiết bị công nghiệp.
5


Kế hoạch 5 năm lần thứ 3(1972-1976): Các ngành công nghiệp mới
xuất hiện, đó là xây dựng nhà máy thép Pohang (1973: sản xuất 1 triệu tấn
thép, 1994: 21 triệu tấn), hóa dầu, đóng tàu, thiết bị vận tải, đồ dùng điên dân
dụng.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 4(1977-1981): Chính phủ tiếp tục theo đuổi
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo cơ cấu kinh tế tự lực, cải thiện công nghệ và
tăng cường hiệu quả.
1.3. Giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và tự do hóa nền kinh tế (1980 - 1989)
Chính sách chủ yếu trong giai đoạn này là ổn định kinh tế, khuyến
khích sáng kiến của khu vực kinh tế tư nhân và cạnh tranh, tăng cường phúc
lợi quốc gia, công bằng xã hội, và tự do hóa quốc tế. Do đó, chính phủ đã thực
hiện chủ trương điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm phát triển ngành công nghiệp
có hàm lượng kĩ thuật cao. Nội dung điều chỉnh cơ cấu trên bốn khía cạnh:
điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, tự do hóa và mở cửa nền kinh tế, từng bước tư
nhân hóa ngành công nghiệp và mở rộng thị trường, thúc đẩy cạnh tranh.
Trong các khía cạnh đó, Chính phủ đã đóng vai trò tích cực.
Những cải cách chính sách về ngoại thương là chính sách ổn định hóa
kết hợp với tự do hóa. Trong giai đoạn 1979 - 1988, tỷ lệ tự do hóa nhập khẩu
đã tăng từ 68% lên 95%, tất cả các sản phẩm công nghiệp đều không phải
chịu những hàng rào phi thuế quan. Tỷ lệ thuế quan bình quân giảm từ 25%
xuống 17%. Gắn liền với tự do hóa thương mại, Hàn Quốc cũng tiến hành tự

do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh các chính sách bổ sung ưu đãi
FDI, Hàn Quốc cũng khuyến khích các doanh nghiệp trong nước hướng mạnh
đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là thị trường các nước Đông Nam Á.
Tháng 4/1981, luật độc quyền và thương mại công bằng đã được ban
hành, có tác dụng giảm độc quyền và thúc đẩy cạnh tranh trong tất cả các
ngành công nghiệp. Một hướng cải cách chính sách khác tự do hóa tài chính,
giảm thâm hụt trong chi tiêu của Chính phủ và cơ cấu lại hệ thống ưu đãi
công nghiệp. Năm 1981, Bộ tài chính đã thực hiện tư nhân hóa một số lượng
6


lớn các ngân hàng trong nước. Năm 1988, Luật đầu tư nước ngoài được xem
xét lại, mở cửa hơn nữa cho các nhà đầu tư.
1.4. Giai đoạn thực hiện chính sách “kinh tế mới” và “toàn cầu hóa”
(1990-1996)
Đầu những năm 1990, Hàn Quốc xảy ra tình trạng lạm phát cao
(khoảng 9% trong các năm 1990-1991), mức lương thực tế có xu hướng giảm
dần, giá cả tiêu dùng tăng, ngân sách có xu hướng bội chi. Vì vậy, Chính phủ
đã đưa ra những biện pháp kiểm soát cung tiền tệ và chi tiêu tài chính, các
biện pháp kích thích đầu tư theo ngành. Cơ chế tiền lương cũng được cải
cách.
Trong giai đoạn 1992 - 1996: Chính phủ đã ban hành kế hoạch phát
triển xã hội bao gồm các nội dung sau: Tăng cường khả năng cạnh tranh quốc
tế của công nghiệp; Cải thiện phúc lợi xã hội và phát triển cân đối; Tự do hóa
và quốc tế hóa nền kinh tế.
Về nông nghiệp
Tháng 4 năm 1989, “Kế hoạch tổng thể toàn diện để phát triển nông
thôn” được công bố nhằm cải thiện cơ cấu nông nghiệp và nâng cao mức sống
của nông dân. Năm 1991, “Kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn” được
xây dựng. Cụ thể:

Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp bằng cách đẩy mạnh công nghiệp
hoá nông thôn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế bền vững của
ngành nông nghiệp không chỉ trong nước mà còn ở trên thị trường quốc tế.
Chính phủ đầu tư vào các máy nông nghiệp hiện đại, các công nghệ cho năng
suất cao như kỹ thuật gen, các phương tiện tự động hóa.
Cơ cấu lại nguồn nhân lực tại nông thôn, thu hút thanh niên tham gia
vào nông nghiệp. Chính phủ phát động các chương trình hỗ trợ những nông
dân trẻ tích cực cam kết giữ nghề nông, các chương trình dạy kỹ thuật canh
tác mới tiên tiến. Cho vay các khoản vay lãi suất thấp đầu tư cơ sở hạ tầng
(đường sá, trường học, y tế…)
7


Mở rộng quy mô trang trại bằng cách nới lỏng những hạn chế pháp lý
đối với quyền sở hữu diện tích trang trại tối đa, cung cấp tín dụng dài hạn đặc
biệt. Chính phủ cam kết đầu tư 42000 tỷ won (52,5 tỷ USD) để phát triển
nông thôn trong giai đoạn 1992 – 1998. Nguồn ngân sách này được chia làm
2 loại: Ngân sách bồi thường thu nhập (dùng cho các chính sách trợ giá gạo,
trợ cấp thu nhập và sinh hoạt của các hộ nông dân), ngân sách đầu tư thực sự
(dùng cho các dự án, chương trình cải tạo đất đai, cơ giới hoá nông nghiệp,
marketing nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn…)
Về Công nghiệp: Phát triển công nghiệp dựa vào những sản phẩm có
hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao và có tri thức để thay thế những sản phẩm
cần nhiều vốn. Tăng cường lợi thế so sánh, tiếp tục phát triển các ngành sử
dụng nhiều lao đông tay nghề cao và công nghệ cao như điện tử, thiết bị thông
tin, ô tô, công nghiệp hàng không, vi điện tử, sinh học, hóa học cao cấp…Các
chính sách trong thời kỳ này tập trung giải quyết một số vấn để cơ bản:
Đổi mới năng suất lao động, tích luỹ công nghệ và nâng cao chất
lượng. Các ngành công nghệ tiên tiến như hàng bán dẫn, động cơ học được
chú trọng phát triển.

Mở rộng thị trường, công nghiệp hóa hướng vào khu vực tư nhân.
Chính phủ lập một ban điều hành tự do hoá nhập khẩu, giảm độc quyền, thúc
đẩy cạnh tranh, khuyến khích sử phát triển của các Chaebol (các tổ hợp công
nghiệp thuộc sở hữu gia đình) bằng các chính sách tín dụng.
Thu hút nhân lực có trình độ cao vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển
công nghệ. Chính phủ khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển dưới
hình thức giảm thuế, giảm giá đặc biệt, trợ cấp, cho vay lãi suất thấp
Xác định phát triển các nhóm ngành cần ưu tiên để chuyển từ “kinh tế
ống khói” sang nền kinh tế có kỹ thuật tinh vi, hiện đại. Đảm bảo một nền
công nghiệp phát triển bền vững, ưu tú và thân thiện với môi trường.

8


1.5. Giai đoạn 1997 đến nay
Để khắc phục khủng hoảng năm 1997, Hàn Quốc đã phải cầu cứu quỹ
tiền tệ quốc tế IMF. Đó là vay của quỹ này 57 tỷ USD cũng chỉ bằng 37%
tổng số tiền mà các công ty Hàn Quốc đang vay nợ nước ngoài nhưng cũng
giúp Hàn Quốc chặn đứng nguy cơ xuống dốc hơn nữa của nền kinh tế.
Nhưng để có được khoản tiền vay đấy, Hàn Quốc phải thực hiện một số yêu
cầu của IMF là: Cơ cấu lại khu vực tài chính; Tái cơ cấu các doanh nghiệp;
Cải cách lại thị trường lao động; Tự do hóa thị trường vốn; Tự do hóa thương
mại.
Đồng thời để thoát khỏi khủng hoảng cũng cần phải có sự cải cách từ
chính trong nền kinh tế Hàn Quốc, đó là: Cải cách hệ thống tài chính ngân
hàng; cơ cấu lại công ty; Tạo lập thị trường lao động linh hoạt và bảo đảm
việc làm. Đồng thời, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính phủ
thực hiện một loạt các biện pháp khuyến khích đầu tư nườc ngoài, mở rộng
các nguồn trợ giúp tài chính, giảm thuế kinh doanh, tạo điều kiện để các nhà
đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn trong việc tìm vị trí và địa bàn đầu tư. Phạm vi

đầu tư cũng được mở rộng. Thời gian để thành lập các xí nghiệp của người
nước ngoài được rút xuống còn 45 ngày (từ ngày 1/4/1995) so với trước kia là
200 ngày.
Để đối phó với khủng hoảng toàn cầu hiện nay, chính phủ Hàn Quốc đã
đưa ra những biện pháp đối phó nhằm 4 mục tiêu lớn: thực thi các biện pháp
khẩn cấp nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế, triển khai các chương trình
hỗ trợ nhằm cải thiện dân sinh, thúc đẩy cải cách nhằm đưa Hàn Quốc tham
gia nhóm các nước phát triển, đẩy nhanh quá trình chuẩn bị cho sự phát triển
“tăng trưởng xanh” trong tương lai. Chính phủ đã chọn 17 ngành công nghệ
làm động lực tăng trưởng kinh tế thuộc 3 lĩnh vực chính: công nhệ xanh, công
nghiệp công nghệ cao, dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
“Tăng trưởng xanh”: khái niệm này lần đầu tiên được thông qua tại
hội nghị Môi trường và phát triển được tổ chức bởi Bộ Môi trường Hàn Quốc
9


và UNESCAP (UB Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương). “Tăng
trưởng xanh” giới thiệu mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững cho tương lại
dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc bảo vệ môi trường cũng với
việc tăng tốc độ phát triển kinh tế. Đây là khái niệm bổ sung cho các khái
niệm về sự phát triển bền vững. Các dự án phát triển khái niệm “tăng trưởng
xanh” được tham gia bởi Viện Môi trường Hàn Quốc, Viện kinh tế - công
nghiệp và thương mại Hàn Quốc, học viện Tài chính Hàn Quốc.
“Tăng trưởng xanh” là sự hài hoà giữa môi trường và kinh tế. Đó là
việc nâng cao sự thân thiện với môi trường của các hoạt động kinh tế thông
qua việc phát triển các công nghệ mới, giảm ô nhiễm không khí, nguồn
nước…, giảm tiêu thụ năng lượng.
“Tăng trưởng xanh” là một trong các dự án lớn nhất của Chính phủ
Hàn Quốc hiện nay, mô hình thành phố xanh trong tương lai được quảng bá
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là trên các kênh

truyền hình đa ngôn ngữ của Hàn Quốc như KBS World, Arirang… Hàn Quốc
cho biết sẽ chi 1200 tỷ won (852 triệu USD) trong 10 năm tới nhằm đưa Hàn
Quốc vào nhóm những “quốc gia xanh” hàng đầu thế giới.
2. Các chính sách về xã hội
2.1.Chính sách phát triển giáo dục và nguồn nhân lực.
Chính sách phát triển giáo dục và nguồn nhân lực có thể chia làm 4 giai
đoạn:
Giai đoạn 1 (1945 – 1960): giai đoạn đặt nền móng.
Trước năm 1945, nền giáo dục Hàn Quốc chịu sự chịu sự chi phối của
Nhật Bản, do vậy phát triển rất chậm. Năm 1948, luật giáo dục mới được ban
hành trên nguyên tắc tự do dân chủ. Giáo dục bắt buộc được thể chế hóa, và
chính sách xóa nạn mù chữ của người lớn được thực hiện. Chính phủ đã cho
xây dựng hàng loạt các trường học, đào tạo giáo viên và in sách giáo khoa do
Nhà nước quản lý. Chương trình giáo dục trong giai đoạn này thực hiện theo
bốn cấp: Tiểu học (6 năm), trung học cơ sở (3 năm), trung học phổ thông (3
10


năm) và đại học (4 năm). Chính phủ còn công bố những nghị định khẩn cấp
phục hồi hệ thống giáo dục sau chiến tranh và hoàn thành các tiêu chuẩn quốc
gia khi xét tuyển học sinh vào bậc trung học. Nhờ có chính sách của Chính
phủ, sự bùng nổ giáo dục không chỉ diễn ra ở các trường tiểu học mà còn ở
các trường phổ thông và trung học. Việc nhập học các trường ở tất cả các cấp
vẫn tăng lên rất nhanh kể từ năm 1945. Mặc dù giáo dục phát triển nhanh
nhưng chưa được Nhà nước gắn chặt với lợi ích kinh tế, do đó yếu tố nhân lực
trong thời kỳ này chưa được phát huy.
Giai đoạn 2 (1961 – 1979): giai đoạn phát triển số lượng.
Chính sách giáo dục trong thời kỳ này là phát triển nhanh nguồn nhân
lực một cách thích hợp để phục vụ trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa.
Điều chỉnh quan trọng nhất trong giai đoạn này là phát triển nhanh hệ thống

giáo dục chuyên nghiệp, đào tạo lực lượng công kỹ thuật, cán bộ quản lý đáp
ứng việc mở rộng cơ cấu công nghiệp và phát triển nhanh các ngành phục vụ
xuất khẩu. Hệ thống giáo dục đại học được mở rộng nhờ các biện pháp sau:
Lên trung học không qua thi tuyển
Hủy bỏ khoảng cách về chất lượng giữa các trường đại học tại các tỉnh,
mở các trường đại học ngắn hạn.
Mở rộng chỉ tiêu cho các trường đại học tổng hợp tại các tỉnh,mở các
trường đại học ngắn hạn
Mở trường đại học chuyên nghiệp, trường đại học tổng hợp hàm thụ,
các trường trung học hàm thụ.
Nâng cấp các trường cao đẳng sư phạm thành các trường đại học sư
phạm.
Mở trường đào tạo cán bộ giáo dục nâng cao.
Song song với các chương trình đó, chương trình xóa nạn mù chữ cho
người lớn tuổi tiếp tục được thực hiện thông qua các tổ chức giáo dục như hội
bà mẹ Hàn Quốc, hội nữ sinh viên Hàn Quốc, cơ quan về những vấn đề lao
động.
Giai đoạn 3 (1980 – 1990): giai đoạn chất lượng cao

11


Chính phủ tiến hành cải cách giáo dục kể từ tháng 3-1985, trong đó
nhấn mạnh đến vấn đề cải cách trường học, cải cách hệ thống thi cử,tăng
cường bổ sung các phương tiện dạy học hiện đại, nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên, cập nhật nội dung và phương pháp giảng dạy, phát triển nhân lực có
trình độ khoa học cao, duy trì chương trình giáo dục đại học, và áp dụng cơ
chế chế giáo dục suốt đời.
Cũng trong giai đoạn này, ngân sách dành cho giáo dục tăng cao,chiếm
trên 20% ngân sách quốc gia. Năm 1988, giáo dục đia phương chiếm 88,4%

ngân sách của bộ giáo dục, trường quốc lập chiếm 9,1%, đại học và sau đại
học chiếm 5,4%,các khoản kinh phí đặc biệt chiếm 2,6% và kinh phí xây
dựng các cơ sở giáo dục chiếm 10,5%.
Giai đoạn 4 (1990 – nay): giai đoạn tiên tiến của nền giáo dục.
Trong chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ,phục vụ cho kỷ nguyên
công nghệ cao ở Hàn Quốc, kể từ đầu những năm 1990, chính phủ Hàn Quốc
đặc biệt chú trọng các chính sách đầu tư R&D. Cụ thể chính sách hỗ trợ và
phát triển nguồn nhân lực ở Hàn Quốc như sau:
Miễn nghĩa vụ quân sự cho các chuyên gia nghiên cứu người Hàn Quốc
ở nước ngoài thuộc lĩnh vực công nghệ cơ bản và công nghệ tiên tiến trong
thờ hạn năm năm. Thu hút các nhà khoa học Hàn Quốc ở nước ngoài về sinh
sống và làm việc ở trong nước với mức lương 900000won/tháng. Chú trọng
đào tạo ở mức các nhà khoa học có học vị tiến sĩ và độ tuổi dưới 40. Chú
trọng đào tạo các cán bộ khoa học và công nghệ trong ngành công nghiệp
thông tin.
Nhằm trợ cấp kinh phí cho đào tạo giáo dục trong giai đoạn phát triển
cao, chi phí cho R&D trong tổng sản phẩm quốc nội tăng nhanh,từ 0,26%
GNP năm 1965 lên 0,57% năm 1980, 1,92% vào năm 1989 và 2,7% vào năm
1995. Dự báo trong giai đoạn 2000 - 2020,chi tiêu R&D/GNP đạt mức 4%.
Hàn Quốc đang phấn đấu vào năm 2020 sẽ trở thành nột nước có nền công
nghiệp hiện đại trên thế giới.
12


2.2. Chính sách dân số
Xu hướng trong nhân khẩu học của Hàn Quốc là dân số đang già đi
theo năm. Con số thống kê vào năm 1999 cho thấy 6,9% dân số của Hàn
Quốc ở độ tuổi 65 trở lên và đến 2005 con số này là 9,1%. Chiều hướng già đi
của dân số là do tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao, dự tính đến năm 2020 thành
phần dân số già chiếm 15,7%. Để giải quyết vấn đề này chính phủ Hàn Quốc

đã đưa ra một số chính sách như sau:
Thứ nhất, khuyến khích phụ nữ sinh thêm con, chính phủ tăng ngân
sách hỗ trợ cho việc chăm sóc trẻ em lên 4,5 nghìn tỷ won, đồng thời mở rộng
cơ hội cho những người hảo tâm.
Thứ hai, thời gian nghỉ sinh con được nhân lương sẽ tăng lên 60 ngày
so với 30 ngày trước đây và mức lương phụ nữ được nhận trong khoảng thời
gian nghỉ sinh sẽ được tăng lên 500000 won 1 tháng so với 400000 won trước
đây.
Thứ ba, đối với những gia đình có từ 3 con trở lên có mức thu nhập
thấp hơn mức trung bình,chính phủ sẽ hỗ trợ từ 30000 won đến 60000 won 1
tháng cho mỗi trẻ em.
2.3. Chính sách về vấn đề đô thị hóa
Ngay từ những năm 70, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra chính sách điều
chỉnh nhanh chóng chiến lược phát triển đô thị bằng cách mở rộng vùng đô
thị, nâng cấp mở rộng các đô thị đã có. Một loạt các thành phố vệ tinh mới có
quy mô vừa và nhỏ lần lượt được dựng. Các thành phố mới đều là các trung
tâm công nghiệp lớn, tạo hành lang đô thị nối từ thành phố trung tâm ra các
cảng biển nằm ở miền Nam Hàn Quốc.
Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng trong
những năm 1960 và 1970 đã kéo theo sự di chuyển liên tục của những người
dân từ nông thôn ra thành phố, đặc biệt là Seoul, làm cho dân số tăng nhanh
tại những khu vực này. Chính vì thế mà Hàn Quốc đưa ra quy định về mức
dân số cho thành phố lớn; mức trần dân số được đặt ra cho mỗi khu vực căn
13


cứ vào cơ sở hạ tầng của từng nơi. Ví dụ: Tỉnh Kyonggi được định tiêu chuẩn
là 14,5 triệu dân sẽ phải đặt ra mức mức trần cho từng thành phố và hạt.
2.4. Chính sách giải quyết việc làm
Theo báo cáo mới đây của viện nghiên cứu lao động Hàn Quốc, tỷ lệ

thất nghiệp trong tháng 11/2008 tăng 3,3% so với 3,1% trong tháng 10, với
750.000 người thất nghiệp.Trong khi đó khảo sát của cục kê quốc gia Hàn
Quốc cho biết, trong quý III/2008, cứ 6 trụ cột kinh tế gia đình thì có một
người mất việc. Vì thế Chính phủ đã đưa ra môt số giải pháp và chính sách để
giải quyết tình trạng thất nghiệp cho giới trẻ như sau:
Các giải pháp tạm thời
Chương trình về kinh nghiệm làm việc trong giới trẻ là một trong
những giải pháp chủ yếu về việc làm cho thanh niên. Chương trình gồm 2
phần, một là hệ thống hỗ trợ kinh nghiệm làm việc và hai là hệ thống hỗ trợ
việc làm.Về hệ thống hỗ trợ kinh nghiệm làm việc, sinh viên các trường đại
học, cao đẳng hoặc sinh viên đã tốt nghiệp được làm việc như những thực tập
sinh cho các cơ quan nhà nước hoặc các công ty tư nhân để có kinh nghiệm
làm việc cũng như nhận được sự giúp đỡ trong lựa chọn nghề nghiệp trong
tương lai. Còn về hệ thống hỗ trợ việc làm,các công ty thuê các sinh viên thực
tập và những sinh viên này sẽ nhận được tiền trợ cấp trong 3 tháng và sau đó
những sinh viên này sẽ vào biên chế và sẽ lại nhận được tiền lương trong 3
tháng tiếp theo.
Phát triển sâu hơn nữa khả năng hướng nghiệp cho giới trẻ “đào tạo
hướng nghiệp theo kiểu may đo”, tập trung vào kiến thức dựa trên ngành công
nghệ IT, ICT cho các sinh viên đang tìm kiếm việc làm, trong đó đào tạo dạy
nghề chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất như đóng tàu, xe ô tô…cho học
sinh cấp 3 chưa có việc làm.
Hệ thống dịch vụ tại một điểm duy nhất hiện đang được xây dựng để
cung cấp các dịch vụ dạy nghề, tư vấn và hướng dẫn nghề nghiệp thông qua
phòng hỗ trợ nghề nghiệp cho giới trẻ tại trung tâm bảo đảm việc làm trên
14


toàn quốc. Hơn nữa nhờ các chương trình tìm kiếm việc làm nhiều công việc
tạm thời được thông tin cho giới trẻ.

Các giải pháp trung và dài hạn
Tại Hàn Quốc chương trình làm việc khoảng 40 giờ một tuần bắt đầu
triển khai ở ngành kinh tế nhà nước và các doanh nghiệp lớn có từ 1000 công
nhân trở lên từ tháng 7 năm 2004. Chương trình này sẽ áp dụng cho các doanh
nghiệp có từ 300 công nhân trở lên, bắt đầu thực hiện từ năm 2005. Đào tạo
hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp cho giới trẻ đang được mở rộng. Các
chương trình như du lịch việc làm, game việc làm tìm kiếm việc trên mạng…
đang xúc tiến và các thông tin đa dạng về việc làm được gửi đến giới trẻ qua
thư điện tử.
Cụ thể hóa các dự án trung và dài hạn về cung và cầu lao động sẽ được
tiến hành và kết quả được đánh giá trong chương trình giảng dạy, quy mô của
từng tầng lớp, sự lựa chọn nghề nghiệp, đào tạo hướng nghiệp để tránh mất
cân bằng giữa cung và cầu lao động. Bên cạnh đó, xây dựng một hệ thống có
thể lồng ghép các thông tin về thị trường lao động rải rác hàng loạt được lên
kế hoạch để hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực bằng một phương pháp tổng thể.
Các chính sách trong tương lai
Chính phủ Hàn Quốc cho biết năm 2008 sẽ là bước ngoặt cho tình trạng
thất nghiệp trong giới trẻ. Vì thế Hàn Quốc sẽ tập trung vào giải quyết nạn
thất nghiệp trong năm 2008. Năm 2004, Chính phủ đã ban hành đạo luật đặc
biệt để giảm tỷ lệ thất nghiệp và sẽ có hiệu lực trên cơ sở tạm thời trước năm
2008. Ủy ban đặc biệt về thất nghiệp trong giới trẻ cũng sẽ được thành lập
cùng với các cá nhân và nhà nước trong việc giám sát và cải tiến các phương
pháp đang được thực thi nhằm giảm nạn thất nghiệp.
Hơn nữa một chương trình mà giới trẻ sẽ được đào tạo hướng nghiệp và
tư vấn nghề nghiệp theo giai đoạn phát triển của mình, được thành lập làm
cho giới trẻ có một cái nhìn đúng đắn về nghề nghiệp và nâng cao khả năng

15



tìm kiếm việc làm. Đồng thời tập trung vào mở rộng cơ sở hạ tầng cho các
dịch vụ bảo đảm nghề nghiệp.
2.5. Chính sách cho người nghèo
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn đang tiếp diễn và Hàn Quốc là một
trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Đầu năm 2009, tăng trưởng
kinh tế của Hàn Quốc giảm mạnh và đi kèm với đó là sự gia tăng của nạn thất
nghiệp. Theo số liệu thống kê đầu năm, gần 260000 lao động đã mất việc làm
và khoảng 400000 hộ kinh doanh cá thể cũng phải đóng cửa. Đời sống người
dân, đặc biệt là người có thu nhập thấp bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Theo số liệu điều tra của Bộ lao động Hàn Quốc, với 7200 doanh
nghiệp trên cả nước, được công bố ngày 26/11, cho thấy mức lương tháng
bình quân của một người lao động trong quý III/2008 giảm 2,7%, còn
2.400.000 won (khoảng 1.600 USD). Mức lương của người lao động ký hợp
đồng một năm trở lên giảm 2,4% so với cùng kỳ năm 2007, của lao động thời
vụ giảm 9,2% còn 792.000 won. Nếu cộng thêm sự sụt giá giữa đồng won với
USD, thu nhập của người lao động giảm tới 40%. Trước tình hình đó chính
phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt các chính sách để giúp đỡ người dân.
Kế hoạch hỗ trỡ khẩn cấp của chính phủ lên tới 4,5 tỷ USD đã được
thực hiện nhằm ổn định đời sống sinh hoạt, hỗ trợ chi phí giáo giục, y tế…của
người dân. Khoảng 80% số tiền trợ cấp, tương đương gần 3,6 tỷ USD sẽ được
sử dụng hoàn toàn vào mục đích hỗ trợ sinh kế người dân.Không chỉ dừng lại
ở việc hỗ trợ sinh hoạt đơn thuần,chính phủ còn tạo ra các hình thức hỗ trợ
phù hợp với từng đối tượng.
Bộ tài chính và Chiến lược thông báo kế hoạch quản lý kinh tế năm
2009, trong đó tập trung bảo vệ các nhóm đối tượng có thu nhập thấp và bảo
đảm số lượng công việc ổn định hiên tại. Chính phủ hỗ trợ tài chính cho các
công ty tái cơ cấu kinh doanh nhằm đảm bảo việc làm cho nhân viên, chính
phủ khuyến khích các công ty tư nhân cho nhân viên nghỉ phép hoặc giảm
lương và chấp nhận gánh 75% lương cho các nhân viên nghỉ phép.
16



Các hộ gia đình rơi vào diện nghèo do khủng hoảng tài chính cũng sẽ
được hỗ trợ. Mức trợ cấp hàng tháng cho các hộ gia đình bốn người có thu
nhập thấp từ 1,2 triệu won sẽ tăng 1,3 triệu won. Quỹ học bổng cho sinh viên
được nâng từ mức 67 tỷ won lên hơn 418 tỷ won trong năm 2009.
Bộ y tế, phúc lợi và gia đình Hàn Quốc mới đây cho biết,từ tháng
7/2009, Bộ sẽ thực hiện chương trình trợ cấp cho trẻ em dưới năm tuổi của
các hộ gia đình có thu nhập hàng tháng dưới mức 2,78 triệu won. Tùy theo độ
tuổi của trẻ,mức trợ cấp hằng tháng sẽ dao động từ 167.000 đến 712000 won.
Trước đây, Hàn Quốc chỉ rõ chăm sóc trẻ em ở các hộ gia đình có thu nhập
trung bình dưới 1.3 triệu won một tháng.
2.6. Chính sách khắc phục vấn đề an sinh xã hội
Từ những năm 1980, các hệ thống chính sách khác nhau liên quan đến
vấn đề an sinh xã hội đã được chính phủ triển khai thực hiện. Những hệ thống
này gồm có việc mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế và hệ thống trợ giúp y tế
tương ứng vào các năm 1988, 1989 và áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp
năm 1995. Chính phủ đã tạo nền tảng cho việc xây dựng một xã hội bảo đảm
phúc lợi của người dân.
Hệ thống hưu trí quốc gia được triển khai lần đầu tiên năm 1988 đã
nhận bảo hiểm xã hội cho người lao động tại những nơi làm việc có từ 10
người trở lên. Năm 1992, hệ thống này đã được sửa đổi theo hướng nhận bảo
hiểm xã hội đối với những nơi làm việc có từ 5 người trở lên. Năm 1995 hệ
thống được mở rộng để nhận bảo hiểm xã hội cho những người tham gia lao
động trong ngành nông nghiệp và những người tự kiếm sống ở các vùng nông
thôn. Cuối cùng hệ thống này nhận bảo hiểm cho toàn dân năm 1999.
Mục tiêu ban đầu của hệ thống trên là đảm bảo tối thiểu cho những
người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế khi họ gặp phải những khó khăn về tài
chính. Ngoài ra còn có các chương trình phúc lợi trực tiếp dành cho những
người không hoạt động trong lĩnh vực này. Những chương trình trợ cấp này

gồm hai loại: trợ cấp giá sinh hoạt và trợ giúp y tế.
17


Nhờ mức sống tăng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe và y tế ngày càng
được cải thiện nên tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc đang tăng
nhanh dẫn đến số người già tăng đáng kể trong những năm qua. Nếu năm
1960, dân số ở độ tuổi từ 65 trở lên chiếm 2,9% trong tổng dân số của Hàn
Quốc thì năm 2005, tỷ lệ này đã tăng lên 9,1% và dự kiến sẽ đạt tới 14,4%
năm 2019.
Để nâng cao phúc lợi cho người già, chính phủ đã thực hiện các chính
sách sau: trợ cấp trực tiếp cho những người già sống dưới mức nghèo khổ, tạo
nhiều cơ hội việc làm cho người có tuổi bằng cách tìm các công việc phụ hợp
và mở các trung tâm giới thiệu việc làm, củng cố hệ thống chăm sóc sức khỏe
và mở các cơ sở công cộng dành cho người già với nhiều hình thức khác
nhau.
Từ cuối những năm 1980, cùng với việc nâng cao các biện pháp an
sinh, nhận thức về nhu cầu của người khuyết tật cũng tăng lên. Tháng 2-2003,
bộ y tế và phúc lợi đã xây dưng “kế hoạch phát triển phúc lợi 5 năm lần thứ 2
cho người khuyết tật giai đoạn 2003-2007”. Kế hoạch hành động này sẽ được
bộ y tế và phúc lợi xã hội thực hiện trên cơ sở phối hợp với một số bộ, ngành
khác nhau của chính phủ, như là Bộ giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực,
Bộ lao động,…
Kế hoạch phát triển này dự tính: Thứ nhất, cải thiện phúc lợi chung
bằng cách mở rộng các chương trình trợ cấp công cộng, lắp đặt thêm các thiết
bị phục vụ người khuyết tật ở những nơi công cộng và xây dựng thêm các
trung tâm phúc lợi; Thứ hai, tăng số lượng các cơ sở dạy nghề; và thứ ba phát
triển các cơ hội việc làm bằng cách hỗ trợ lắp đặt các thiết bị cần thiết.

18



Chương II: Đánh giá về kết quả và bµi häc kinh nghiÖm tõ sù
ph¸t triÓn thÇn kú cña Hµn Quèc
I. Đánh giá về kết quả tõ sù ph¸t triÓn thÇn kú cña Hµn
Quèc
1.Về kinh tế
1.1.Giai đoạn hướng vào xuất khẩu 1962-1971
Kết quả đạt được:
Ở giai đoạn này, nền kinh tế Hàn Quốc đạt được những kết quả sau: Tỷ
lệ xuất khẩu trong GNP tăng từ 2.4% năm 1961 lên 6.8% năm 1966 và 11.2%
năm 1971. Quá trình đô thị hóa đất nước diễn ra nhanh chóng, kéo theo tỷ lệ
việc làm tăng nhanh. GNP/người tăng hơn gấp 3 trong giai đoạn 1962 - 1971,
từ 87USD lên 289USD. Nguyên nhân là do Hàn Quốc biết tận dụng nguồn
lao động dư thừa có kỹ năng và chí phí rẻ. Bên cạnh đó, Hàn Quốc đã khắc
phục được sự thiếu thốn nghiêm trọng về mặt tài nguyên,vượt qua được
những sức ép về thị trường nhỏ bé trong nước để hướng ra xuất khẩu, tạo
động lực cho tăng trưởng kinh tế
Tỷ lệ tăng tiết kiệm và đầu tư trong nước rất cao. Tỷ lệ tăng trong nước
từ 15% đến 23%. Bên cạnh đó tỷ lệ tăng GNP thực tế hàng năm trong giai
đoạn 1962 – 1971 là khá cao 8.7%. Có được những kết quả này là do chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài đã đem lại cho Hàn Quốc nguồn ngoại tệ lớn.
Đồng thời, Hàn Quốc còn có lợi thế về nguồn lao động giá rẻ và có kĩ năng.
Các chính sách của chính phủ đã làm tỷ trọng công nghiệp trong GNP tăng từ
19.8% (1965) lên 22.8% (1970)
Tóm lại thành công kinh tế của Hàn Quốc trong những năm 1960
không chỉ có phần đóng góp của chiến lược hướng ngoại mà còn có phần
đóng góp của lực lượng lao động có đào tạo, tầng lớp doanh nhân năng động,
nguồn vốn nước ngoài, cải cách thể chế và môi trường thương mại quốc tế
thuận lợi.

19


Hạn chế:
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chính sách của chính phủ vẫn chưa
tạo ra bước ngoặt lớn, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP tương đối cao. Theo
số liệu năm 1965 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP là 38.4% so với 19.8 % của
công nghiệp.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2: kĩ thuật vẫn còn lạc hậu, giá nhân
công tăng, làm cho sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc bị giảm sức cạnh
tranh trên thị trường quôc tế. Ngoài ra còn có sự mất cân đối giữa công
nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Trong năm 1971: tổng giá trị sản xuất công
nghiệp các ngành công nghiệp nặng có tính then chốt như cơ khí chỉ chiếm
9.3 %, hóa chất và lọc dầu, than chiếm 15.5 %, luyện kim chiếm 6.1 % do vậy
phần lớn nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu dẫn đến nhập siêu ở mức rất cao.
1.2. Giai đoạn ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và hóa chất (1972-1979)
Kết quả:
GDP tăng 8.9%/năm trong giai đoạn 1972-1979, đặc biệt so với tỷ lệ
4.8%(1972). Thu nhập đầu người tăng cao và tỷ lệ tiết kiệm trong nước lớn.
GDP/người tăng từ 319USD(1972) lên 1647USD(1979). Tỷ trọng công
nghiệp trong GNP gia tăng 1 lượng đáng kể: từ 22.8%(1970) lên 40%(1980)
chủ yếu là do sự gia tăng của công nghiệp nặng. Đặc biệt trong thời kỳ này có
sự vươn lên của tập đoàn Posco, chuyên sản xuất thép đã trở thành xương
sống của nền kinh tế. Ngày nay, Posco là một trong 3 nhà sản xuất thép lớn
nhất thế giới. Hàn Quốc cũng là nước đứng đầu thế giới về đóng tàu với các
tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng như Huyndai Heavy Industries và Samsung
Heavy Industries nắm trọn thị trường đóng tàu toàn cầu.
Những thành tựu có được là do sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ với
các ngành máy móc, thiết bị điện tử, đóng tàu, luyện kim màu, coi đây là
ngành công nghiệp mới sử dụng nhiều lao động. Bên cạnh đó, nhà nước còn

chủ trương hỗ trợ cho công nghiệp nặng, chính phủ ban hành Sắc lệnh phát
20


triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất(tháng 1/1973), với mục tiêu đạt
50% xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng và hóa chất trong tổng kim ngạch
xuất khẩu (1980), luật thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ cũng được đưa
vào thực hiện(1972) và các biện pháp tự do hóa bước 1 về nhập khẩu công
nghệ nước ngoài được chính phủ thực hiện năm 1978 đã đem lại sự phát triển
công nghệ vượt bậc cho ngành công nghiệp.
Tóm lại, sự can thiệp tích cực của chính phủ và các biện pháp chính
sách năng động đã dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế đáng chú ý trong 1970.
Hạn chế:
Xảy ra những vấn đề nghiêm trọng về mặt cơ cấu và hiệu quả. Lạm
phát ở 2 con số, CPI bình quân hàng năm trong giai đoạn 1972-1979
cao(17.6%), tiền lương tăng nhanh trong các ngành công nghiệp nặng và hóa
chất, đầu tư tràn lan mở rộng của chính phủ và lãi suất cho vay thấp.
1.3.Giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và tự do hóa nền kinh tế (1980-1989)
Kết quả:
Tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế Hàn Quốc đạt mức ngoạn mục:
12%/năm trong giai đoạn 1986-1988. Năm1988, GNP đầu người đạt 4040
USD, trong khi giá trị thương mại đạt 111 tỷ USD đứng thứ 13 trên thế giới.
Thành tựu này một phần là do diều kiện quốc tế ưu đãi như lãi suất quốc tế
thấp, giá trị thấp của đồng USD và giá dầu mỏ thấp vào giữa những năm
1980.
Tỷ lệ của ngành chế tạo trong GNP tăng từ 14.3%(1962) lên 31.6%
(1988), trong khi nông nghiệp giảm từ 38.4% (1962) xuống 10.8% (1988).
Xuất khẩu sơ chế giảm từ 7.8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xuống 5.2%
trong khi hàng chế tạo tăng từ 22% lên 94,8%.
Hạn chế:

Do những cải cách cơ cấu kinh tế diễn ra mạnh mẽ,do sự phá giá của
đồng Won và do tiền lương tăng làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm
công nghiệp của Hàn Quốc.
21


1.4. Giai đoạn thực hiện chính sách “kinh tế mới” và “toàn cầu hóa”
(1990 - 1996)
Kết quả:
Sang đến những năm 1990, các chaebol (tổ hợp) phát triển mạnh như
Samsung, Huyndai và LG bắt đầu toàn cầu hoá. Trong thời gian này, những
đầu tư ban đầu của chính phủ dành cho các ngành điện tử và bán dẫn, chuẩn
bị cho kỷ nguyên số hoá sắp tới đặt nền móng cho ngành công nghệ thông tin
của Hàn Quốc trong thế kỷ XXI.
Theo niên giám thống kê 1992, GNP của Hàn Quốc đã đứng thứ 13 trên
thế giới, trong khi GNP đầu người đứng thứ 38. Hàn Quốc đứng ở thứ bậc cao
trong xuất khẩu hàng dệt, sắt thép, ô tô, tàu biển và điện tử. Trong giai đoạn
1992-1996: GDP tăng từ 3079 tỷ USD(1992) lên 4844 tỷ USD(1996). Xuất
khẩu tăng từ 766.32USD(1992) lên 1297.15USD(1996).
Hạn chế:
Nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào các chaebol, trong khi các công ty
vừa và nhỏ bị bóp nghẹt hoạt động sản xuất. Năm 1995, HQ có 13992 công ty
vừa và nhỏ bị phá sản, 6 tháng đầu năm 1996 con số này là 6425. Tính bình
quân, hàng ngày ở Hàn Quốc có tới 20 công ty vừa và nhỏ, 6 công ty tạm
ngừng sản xuất, và chỉ có 14 công ty mới ra đời.
Cuộc cải cách cơ cấu đã không theo kịp những cải cách tài chính. Điều
đó dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng GDP đã không ổn định trong giai đoạn 19901996. Lạm phát tăng trong khi thất nghiệp đạt ở mức thấp(2.5%) so với tiêu
chuẩn gia nhập OECD. Năm 1996, thâm hụt tài khoản hiện hành là 23.7 tỷ
USD(chiếm 5% GDP). Trong khi đó hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi của Hàn
Quốc đã không đem lại tác dụng và chính sách tiền tệ tỏ ra không thích hợp

trong môi trường mở cửa của thị trường vốn.
1.5.Giai đoạn 1997 đến nay:
Khủng hoảng 1997 đã làm cho nền kinh tế HQ rơi vào tình trạng sụp đổ
toàn diện. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế (1997) chỉ đạt 5.5% so với 7.1%
22


(1996) và 8.9%(1995), là mức thấp nhất kể từ 1970. Năm 1998, tăng trưởng
GDP thực tế ở mức âm 5.8%. Kể từ tháng1/1997, 8 chaebol đã tuyên bố phá
sản, đẩy số nợ không có khả năng thu hồi của các chaebol lên mức 52 tỷ
USD, chiếm 17% tổng số tiền cho vay của các ngân hàng.
Sự phá sản hàng loạt của các công ty lớn, vừa và nhỏ ở HQ trong cuộc
khủng khoảng tài chính tiền tệ vừa qua, cùng với lệnh đóng cửa 14 ngân hàng
không có khả năng thanh toán là đón giáng nặng nề đối với nền kinh tế Hàn
Quốc quen với tỷ lệ tăng trưởng cao và sự bành trướng kinh tế mạnh mẽ.
Đồng Won mất giá 50% đã đẩy món nợ nước ngoài của HQ lên mức 157 tỷ
USD tính đến tháng 4/1998 so với mức 120 tỷ USD năm 1997vaf 104.7 tỷ
USD(1996), trong khi dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc chỉ là 20.2 tỷ USD(tính
đến tháng 3/1998). Nợ trong nước của các công ty ở mức kỷ lục 450 tỷ USD
đã đẩy hệ thống ngân hàng Hàn Quốc vảo nguy cơ sụp đổ hàng loạt do các
công ty thiếu khả năng thanh toán. Tính đến hết năm 1998, Hàn Quốc đã đóng
cửa 21 ngân hàng thương mại, đình chỉ hoạt động của 10 ngân hàng công
thương. Tỷ lệ lạm phát tăng cao đã đẩy mức thu nhập bình quân tính theo đầu
người của người dân Hàn Quốc trở lại mức 9511USD(1997) và
6823USD(1998) tương đương với năm 1991.
Nhờ những chính sách của chính phủ nền kinh tế Hàn Quốc phục hồi
dần trở lại: Tốc độ tăng GDP (1999) đã đạt mức 2% và 7.2% (2000). Đồng
Won tăng giá trở lại đã giúp nền kinh tế hồi phục dần. Lạm phát ở mức thấp
và thị trường chứng khoán phục hồi. Tính đến 1999, nền kinh tế Hàn Quốc đã
hoàn toàn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Dự trữ ngoại tệ tính đến đầu

2000 đạt 76.8 tỷ USD và Hàn Quốc đã thanh toán xong khoản nợ nước ngoài
hơn 50 tỷ USD và Hàn Quốc đã thanh toán xong khoản nợ nươc ngoài hơn 50
tỷ USD. Tính tới tháng 9/1999, nợ nước ngoài của Hàn Quốc là 140.9 tỷ USD
trong khi các khoản tiền cho nước ngoài vay là 141.3 tỷ USD. Đầu tư nước
ngoài đạt mức cao nhất (15 tỷ USD vào 1999) và xuất khẩu ở mức 22.2%. Tỷ

23


lệ thất nghiệp đã giảm từ 8.6%(1998) xuống 4.8%(1999).Thu nhập đầu người
tăng trở lại ở mức 13000USD vào năm 2000.
Bước sang thế kỷ 21, cả Nhật Bản và Mỹ đêu bị Hàn Quốc vượt qua về
việc sản xuất linh kiên bán dẫn(như thẻ Ram và thẻ nhớ Flash) cũng như màn
hình số (màn hình tinh thể lỏng LCD& Plashma) và đồ điện tử gia dụng khác
như tivi, điện thoại di động và máy nghe nhạc.Công nghệ viễn thông đã đưa
Hàn Quốc thành nước nôi mạng có dây và không dây lớn nhất. Ngoài ra Hàn
Quốc còn đầu tư vào ngành chế tạo robot và tham vọng đưa nước này trở
thanh quốc gia số 1 về ngành này vào năm 2025.
Việc tái cơ cấu các tổ hợp, tư nhân hoá ngân hàng đã tạo cơ hội cho nền
kinh tế Hàn Quốc được tự do vận hành hơn với cơ chế thị trường. Tuy năm
2004, kinh tế nước này có suy giảm chút ít nhưng đã tăng trưởng trở lại ở mức
5% vào năm 2006 khiến cho Hàn Quốc vẫn giữ vị trí hang đầu tại châu Á.
Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã ảnh hưởng sâu sắc
đến nền kinh tế nước này. Đầu năm 2009, tăng trưởng kinh tế của HQ giảm
mạnh và đi kèm với đó là sự gia tăng của nạn thất nghiệp. theo số liệu thống
kê đầu năm 2009, tốc độ tăng trưởng của HQ là - 4.02%, có gần 260 nghìn lao
động đã mất việc làm và khoảng 460 nghìn hộ kinh doanh cá thể cũng phải
đóng cửa.Sau đây là bảng số liệu so sánh GDP các năm từ 2005 đến 2009:
Tốc độ tăng trưởng
Năm

2005
2006
2007
2008
2009

GDP (tỷ USD)
1027373.88
1114915.28
1201865.37
1256079.3
1251821.6

(%)
3.92
5.21
5.09
2.38
-4.02

24

Tỷ lệ lạm phát (%)
2.76
2.24
2.53
4.67
1.7



Tỷ USD

25


×