HẢI DƯƠNG
I/VỊ TRÍ ĐỊA LÍ:
Là một tỉnh thộc đồng bằng sông Hồng, diện tích 1661,2 km vuông.
-Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Qảng Ninh.
-Phía Nam giáp tỉnh Thái Bình.
-Phía Tây giáp tỉnh Hưng Yên.
-Phía Đông giáp tỉnh Hải Phòng
Hải Dương là một bộ phận lãnh thổ nằm trong địa bàn kinh tế trọng
điểm phía Bắc .
+Hệ thống giao thông:
Đường bộ:
Quốc lộ 5 (Hà Nội – Hải Phòng) đoạn qua tỉnh dài 44 km.
Quốc lộ 18 (Nội Bài – Quảng Ninh) đoạn qua tỉnh dài 20 km.
Quốc lộ 183 , QL 37
Đường sắt:
Tuyến Hà Nội – Hải Phòng. Tuyến Kép – Bãi Cháy đều chạy qua tỉnh.
Đường sông:
Khoảng 400 km chiều dài, hệ thống bến bãi đáp ứng thuận lợi.
Địa hình Hải Dương được chia làm hai phần rõ rệt:
-Phần đồi núi thấp, diện tích 140 km, thuộc hai huyện Chí Linh và
Kinh Môn. Độ cao TB <1000m
- Vùng đồng bằng có diện tích1521,2 km vuông, được hình thành do
quá trình bồi đắp phù sa chủ yếu của sông Thái Bình và sông Hồng. Địa hình
nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc đến Đông Nam.
II/HÀNH CHÍNH:
Tỉnh Hải Dương hiện nay bao gồm thành phố Hải Dương,
Các huyện thị là : Chính Linh, Nam Sách, Thanh Hàm , Kinh Môn ,
Kim Thành, Cẩm Giàng, Bình Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Ninh
Giang.
III/TÀI NGUYÊN:
+Rừng: Là rừng Chí Linh, diện tích 1300 ha, tập trung chủ yếu ở xã
Hoàng Hoa Thám, là rừng ẩm thường xanh ở đai núi thấp như : Lát hoa, lim
xanh, táu mật… ngoài ra còn có 128 loài cây dược liệu và 9 loài thực vật
quý hiếm , 13 loài cây làm cảnh
Rừng Chí Linh còn có nhiều loại động vật quý hiếm như: gà tiền mặt vàng,
sáo mỏ gà, cu li lớn…
+Khoáng sản: Hải Dương không có nhiều loại khoáng sản nhưng một
số loại khoáng sản lại có trữ lượng lớn , giá trị kinh tế cao , chủ yếu là vật
liệu xây dựng như đá vôi, cao lanh, sét chịu lửa…
VI ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU THỦY VĂN:
+Khí hậu:
Khí hậu nhiệt đới ẩm, có mùa đông lạnh, điển hình, mang những nét
chung của khí hậu miền Bắc. Nhiệt độ trung bình năm là 23,3 độ C. Độ ẩm
từ 80%- 90 %, lượng mưa TB năm từ 1400 – 1700 mm. Khí hậu có hai mùa
rõ rệt :mùa Đông gió lạnh, khô hanh, mùa hạ nóng ẩm, mư a nhiều.
+Thuỷ văn:
Sông ngòi khá dày và rải đều trên toàn tỉnh, đặc điểm lòng sông rộng,
độ dốc lòng sông nhỏ, có khả năng bồi đắp phù sa cho các cành đồng tưới
nước cho cây trồng , Hải Dương còn có nhiều hồ, ao đầm.
V/DÂN CƯ:
Dân số khoảng 1.701.100 người, mật độ 1024 người/km vuông, là tỉnh
đất chật người đông, gồm các dân tộc Việt, Hoa, Sán Dìu, Tày…
VI/SƠ LƯỢC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN:
Vào thời Lê, Hải Dương là một trong tứ trấn (Sơn Tây, Sơn Nam,
Kinh Bắc, Hải Dương)
Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dương, ở về phía Đông kinh thành Thăng
Long nên thường được gọi là tỉnh Đông.
Năm 1968 Hải Dương và Hưng Yên sát nhập thành tỉnh Hải Hưng.
Năm 1997, tỉnh Hải Dương được tái lập.
Tỉnh Hải Dương gắn bó với các tên tuổi, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu,
Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Danh y Tuệ Tĩnh, .
VII/VĂN HÓA DU LỊCH:
Lễ hội ở Hải Dương là lễ hội truyền thống của vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng.
+Lễ hội Côn Sơn:
Chùa Côn Sơn ở huyện Chí Linh, thờ Huyền Quang (Lý Đạo Tái) một
trong ba vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm và Nguyễn Trãi - nhà văn hóa lớn
của Việt Nam thế kỷ 15, nhà quân sự, chính trị thiên tài của nghĩa quân Lam
Sơn. Lễ hội mở vào ngày 18 đến 23 tháng giêng âm lịch nhằm tưởng nhớ vị
tổ thứ 3 của thiền phái Trúc Lâm. Khách thập phương đến với lễ hội để
tưởng niệm và vãn cảnh danh thắng.
Hội đền Kiếp Bạc: Lễ hội đền Kiếp Bạc diễn ra hàng năm từ ngày 18
- 20 tháng 8 âm lịch tại đền Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí linh. Đền
Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, vị tướng kiệt xuất thời Trần, tài đức song
toàn. Lễ hội gồm có lễ rước, diễn thủy binh trên sông Lục Đầu. Khách hội
về dự rất đông vừa để vãn cảnh, vừa để tham dự ngày giỗ của tướng quân
Trần Hưng Đạo.
Hội đền Yết Kiêu: Đền Yết Kiêu ở làng Hạ Bì, Hải Dương thờ Yết
Kiêu là tướng tài của Trần Hưng Đạo. Hạ Bì là quê hương ông. Lễ hội hàng
năm được mở vào ngày 8 tháng 2 âm lịch để ghi nhớ công ơn của ông trong
những cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Sau phần nghi lễ, phần hội có
đánh cờ, bơi, đánh đáo đĩa.
Hội đền Quát: Đền Quát thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, thờ Yết
Kiêu. Lễ hội được mở vào ngày 15 tháng 8 dương lịch để tưởng nhớ công ơn
của ông. Hội có bơi trải và bơi triềng trình làng.
Lễ hội đền Cao: Lễ hội đền Cao mở trong 3 ngày từ ngày 22 đến
ngày 24 tháng giêng âm lịch hàng năm.
Khu di tích danh thắng Côn Sơn: Khu di tích ở xã Cộng Hoà, huyện Chí
Linh, nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng - Kỳ Lân, cách Hà Nội khoảng
70 km. Khu di tích, danh thắng này gồm có núi non, chùa, tháp, rừng thông,
khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân
trong lịch sử. Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm
của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm). Mảnh đất này
đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần
Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc - danh nhân văn
hoá thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm
và đọc bia về Nguyễn Trãi.
Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được những dấu tích văn hoá thời
Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp. Tiêu biểu là:
Chùa Côn Sơn
Chùa có tên chữ là Tư Phúc tự, hay còn gọi là chùa Hun, toạ lạc ở ngay dưới
chân núi Côn Sơn, có từ trước thời Trần. Vào đời Lê, chùa được trùng tu và
mở rộng rất nguy nga đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời gian, chùa
Côn Sơn ngày nay chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán lá xanh
của các cây cổ thụ. Chùa được kiến trúc theo kiểu chữ công (I) gồm Tiền
đường, Thiêu hương, Thượng điện. Thượng điện thờ Phật, có những tượng
Phật từ thời Lê cao 3 m. Phía sau chùa là nhà Tổ, có tượng Trúc Lâm tam tổ
(Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang), tượng ông bà Trần Nguyên
Đán, hai pho tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Sân chùa có cây đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư
động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ
Tông và bia hình lục lăng, "Côn Sơn thiện tư bi phúc tự" đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc khi Người về thăm di tích này (15/2/1965).
Giếng Ngọc :Giếng nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn
Cờ Tiên, phía dưới chân Đăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng
nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa
nguồn nước quí. Nước giếng trong vắt, xanh mát quanh năm, uống vào thấy
khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên là Giếng Ngọc và nước ở giếng được các
sư dùng làm nước cúng lễ của chùa.