Ngày 08/6/2017
TIỂU HỒ SƠ TÌNH HUỐNG SỐ 02.1
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC
I.
Nguyên vào ngày 16/4/2012 tại Trụ sở Văn phòng Luật sư C, địa chỉ: 190 Phố Đ,
thành phố B bà Tạ Thị Đặng có ký “Hợp đồng dịch vụ khoán việc” số 02/HĐ-DV với
Văn Phòng Luật sư C – Đoàn Luật sư Tp.B do Ông Nguyễn Văn A – Trưởng văn phòng
làm đại diện ký.
Theo Hợp đồng này thì hai bên có thỏa thuận trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày ký
hợp đồng này nếu Ông A đòi lại được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại địa chỉ
số 316 Nguyễn Trãi, Tp.B cho bà Tạ Thị Đặng thì bà Đặng sẽ trả thù lao cho ông A 100
cây vàng bốn số 9. Ông A được tạm ứng trước 20 cây vàng bốn số 9. Sau 03 tháng ông A
nếu không đòi đòi lại được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 316
Nguyễn Trãi, Tp.B cho Bà Đặng thì ông A phải hoàn trả lại cho bà Đặng số vàng (20 cây
vàng) mà ông A đã nhận.
Vào ngày 8/5/2012 và ngày 25/7/2012 bà Đặng đã giao đủ cho ông A 20 cây vàng
(có giấy Biên nhận kèm theo).
Tuy nhiên đã quá thời hạn thực hiện hợp đồng dịch vụ như thỏa thuận của hai bên
mà ông A vẫn chưa hoàn thành được công việc theo thỏa thuận nên vào ngày 14/7/2013
ông A và bà Đặng đã ký Biên bản chấm dứt hợp đồng số 02/HĐ-DV ký ngày 16/4/2012.
Theo đó, Ông A có nghĩa vụ hoàn trả lại 20 cây vàng cho bà Đặng trong thời gian 15
ngày kể từ ngày ký biên bản chấm dứt hợp đồng này.
Vào ngày 10/12/2013 và ngày 30/12/2013 Luật sư A đã thanh toán cho bà Đặng
trước số tiền tương ứng với 05 cây vàng và cam kết số tiền còn lại sẽ thanh toán nốt vào
ngày 31/12/2008. Nhưng Luật sư A đã không thực hiện đúng như cam kết đã hứa với bà
Đặng.
Ngày 08/6/2017
Ngày 10/3/2014 bà Tạ Thị Đặng đã làm đơn khiếu nại gửi đến Đoàn Luật sư Tp.B
với nội dung đề nghị Luật sư Nguyễn Văn A hoàn trả số tiền trong Hợp đồng đã ký với
Văn phòng luật sư số 02/HĐ-DV ngày 16/4/2012 với số tiền còn lại tương đương 15 cây
vàng.
Ngày 28/4/2014 và ngày 12/5/2014 Luật sư A đã có đơn trình bày về đơn khiếu nại
của bà Tạ Thị Đặng gửi Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư Tp.B và Hội đồng khen thưởng, kỷ
luật.
Vào ngày 14/5/2014 Hội đồng khen thưởng, kỷ luật đã có buổi làm việc với Luật sư
A tại Văn phòng Đoàn Luật sư TP.B. Theo đó Luật sư A cam kết “đến ngày 21/5/2014 sẽ
trả một khoản tiền từ 15.000.000 đồng – 20.000.0000 đồng cho Bà Đặng tại Văn phòng
Đoàn Luật sư TP B và số tiền còn lại sẽ trả hết cho bà Đặng làm nhiều lần trong thời gian
03 tháng kể từ sau ngày 21/5/2014. Và bà Đặng cũng đã chấp nhận lời cam kết trả nợ của
Luật sư A (Theo Biên bản làm việc ngày 21/5/2014 giữa Hội đồng Khen thưởng, kỷ luật
với bà Đặng).
Ngày 27/5/2014 tại Văn phòng Đoàn Luật sư TP B, Luật sư A đã trả cho Bà Đặng
1.000 USD (Một ngàn đô la Mỹ), bà Đặng đã nhận đủ số tiền và viết giấy biên nhận tiền.
Luật sư A hứa sẽ trả tiếp cho bà Đặng 2.000USD (Hai ngàn đô la Mỹ) trong thời hạn 30
ngày kể từ ngày 27/5/2014.
Ngày 21/8/2014 Luật sư A gửi đơn đề nghị đến Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP B
và Ban Khen thưởng, kỷ luật đề nghị cho phép Luật sư A thu hẹn 03 tháng mà tiến đến
21/11/2014 sẽ thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán trên. Đến ngày 26/8/2014 Luật sự A sẽ
trả cho bà Đặng tiếp số tiền là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Ngày 27/10/2014 Hội đồng khen thưởng, kỷ luật có giấy mời làm việc cho Luật sư
A vào ngày 29/10/2014 nhưng đến ngày Luật sư A đã không có mặt để làm việc với Hội
đồng khen thưởng, kỷ luật.
Ngày 08/6/2017
Ngày 05/11/2014 tại Văn phòng luật sư TP B, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật đã có
buổi làm việc với Luật sư A. Tại buổi làm việc, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật chấp nhận
ấn định nhày trả nợ hết cho bà Đặng theo đơn đề nghị của Luật sư A ngày 21/8/2014 xin
được gia hạn cuối cùng là ngày 21/11/2014. Hội đồng khen thưởng, kỷ luật đề nghị Luật
sư A phải trả hết số nợ còn lại cho bà Đặng vào ngày cuối cùng là ngày 21/11/2014. Về
phía Luật sư A đã đề nghị Hội đồng khen thưởng, kỷ luật cho Luật sư A đến ngày
21/9/2012 sẽ thanh toán trả cho bà Đặng số tiền tương đương vào khoản 50% số nợ
(khoảng 7 cây vàng). Số tiền còn lại Luật sư A sẽ thanh toán nốt vào hạn cuối cùng là
ngày 21/9/2014.
II.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Thứ nhất: Việc văn phòng Luật sư C do ông Nguyễn Văn A làm trưởng văn phòng
ký Hợp đồng dịch vụ khoán việc với bà Tạ Thị Đặng nhằm giúp bà Tạ Thị Đặng đòi lại
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại địa chỉ 316 Nguyễn Trãi, TP B là đúng theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên xét về điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận trong Hợp
đồng dịch vụ khoán việc số 02/HĐ/DV ngày 16/4/2012 có điều khoản về thù lao không
đúng theo quy định, cụ thể:
Tại Điểm 2.3 Điều 2 của Hợp đồng dịch vụ khoán việc số 02/HĐ/DV ngày
16/4/2012: “Bên A được hưởng thù lao là 100 cây vàng bốn số chín, được tạm ứng trước
20 cây vàng bốn số chín trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký Hợp đồng này, số tiền còn lại
sẽ thanh toán nốt sau khi kết thúc vụ việc: Bên B hoàn thành việc đòi lại nhà và đất tại
316 Nguyễn Trãi, TP B cho Bên A”.
Theo quy định của Luật Luật sư 2006, việc trả thù lao cho Luật sư A là do hai bên tự
nguyện thỏa thuận và được ghi trong Hợp đồng dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên trong trường
hợp trên, việc hai bên thỏa thuận về thù lao là Luật sư A sẽ hưởng thù lao 100 cây vàng
bốn số chín, được tạm ứng trước 20 cây vàng và số tiền còn lại sẽ thanh toán nốt sau khi
kết thúc vụ việc là Luật sư A đã hoàn thành việc đòi lại nhà và đất tại 316 Nguyễn Trãi,
TP B cho Bên A. Như vậy, với thỏa thuận về thù lao trên của bà Đặng và Luật sư A chúng
Ngày 08/6/2017
ta có thể thấy Luật sư A đã có hành động hứa trước kết quả của vụ việc để làm cơ sở để
tính thù lao.
Việc Luật sư A hứa trước kết quả để làm cơ sở để tính thù lao đối với bà Đặng đã vi
phạm quy tắc 14.11 trong bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam,
Ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ- HĐLSTQ ngày 20/7/2011 của Hội đồng Luật
sư Toàn quốc, cụ thể: “Cam kết bảo đảm kết quả vụ việc nhằm mục đích lôi kéo khách
hàng hoặc để tính thù lao cho khách hàng theo kết quả cam kết”.
Thứ hai: Trong quá trình thực hiện công việc theo Hợp đồng, theo như trình bày
của bà Đặng trong đơn khiếu nại ngày 10/3/2014 Luật sư A đã không làm được gì để bảo
vệ quyền lợi cho bà Đặng, thời gian thì kéo dài, thậm chí Luật sư A còn không biết phiên
tòa xử vào lúc nào. Về phía Luật sư A trình bày do bà Đặng bị ốm, Luật sư A bị tai nạn
gẫy chân nên thời gian thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý là 03 tháng không thực hiện
được.
Nếu những gì mà bà Đặng trình bày là đúng thì Luật sư A còn vi phạm quy tắc 3:
Bảo vệ tốt nhất lợi ích khách hàng trong quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư
Việt Nam khi Luật sư A đã không đảm bảo chất lượng dịch vụ pháp lý do mình cung cấp,
không tận tâm trong công việc khi mà thời gian xét xử vụ án luật sư cũng không nắm rõ
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Trong quá trình thực hiện vụ việc của khách hàng, Luật sư A phải chủ động, tích
cực giải quyết vụ việc của khách hàng và thông báo tiến trình giải quyết vụ việc cho
khách hàng được biết, tuy nhiên Luật sư A đã không có hành động thông báo tiến trình
giải quyết vụ cho khách hàng được biết, lấy lý do bị tai nạn gãy chân làm nguyên nhân
cho việc thời gian thực hiện vụ án là 03 tháng theo thỏa thuận của hai bên trong Hợp
đồng là không thể thực hiện được. Như vậy, Luật sư A còn vi phạm thêm quy tắc 8.1:
“Luật sư chủ động, tích cực giải quyết vụ việc của khách hàng và thông báo tiến trình
giải quyết vụ việc để khách hàng biết”.
Ngày 08/6/2017
Thứ ba: Sau khi hết thời hạn thực hiện Hợp đồng, bà Đặng và Luật sư A đã thống
nhất chấm dứt thanh lý hợp đồng dịch vụ và Luật sư A phải trả lại cho bà Đặng số tiền
tương ứng 20 cây vàng theo thỏa thuận của hai bên tại Hợp đồng dịch vụ đã ký trước đó.
Trong biên bản chấm dứt hợp đồng luật sư A đã cam kết sẽ trả lại cho bà Đặng 20 cây
vàng trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký biên bản chấm dứt Hợp đồng (ngày 14/7/2013),
nhưng mãi đến ngày 30/12/2013 Luật sư A mới trả lại cho bà Đặng số tiền tương đương
05 cây vàng, mặc dù bà Đặng đã nhiều lần yêu cầu ông Đặng trả toàn bộ số tiền còn lại.
Khi bà Đặng có đơn khiếu nại gửi cho Đoàn Luật sư TP B, Hội đồng khen thưởng kỷ luật
đã có nhiều buổi làm việc với Luật sư A về việc đơn khiếu nại đòi tiền của bà Đặng. Luật
sư A đã nhiều lần cam kết thời gian hoàn trả đủ số tiền còn thiếu cho bà Đặng nhưng đến
nay Luật sư A vẫn chưa thực hiện xong nghĩa vụ như đã cam kết. Như vậy Luật sư A đã
vi phạm Hợp đồng mà hai bên đã ký kết do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Thứ tư: Việc Luật sư A kéo dài thời gian trả tiền cho bà Đặng hết lần này đến lần
khác không chỉ làm mất uy tín của Luật sư A đối với khách hàng mà còn ảnh hưởng
không nhỏ đến uy tín của giới luật sư, uy tín của Đoàn Luật sư TP B, vi phạm nguyên tắc
15: Bảo vệ danh dự, uy tín của giới luật sư.
Thứ năm: Trong các giao dịch của Luật sư A với bà Đặng đều tiến hành thanh toán
bằng vàng và ngoại tệ (đồng đô la Mỹ) đây là những ngoại hối bị hạn chế lưu thông trên
lãnh thổ Việt Nam. Do đó, việc Luật sư A tiến hành các các giao dịch dân sự trên bằng
đồng ngoại hối (không thuộc trường hợp pháp luật cho phép sử dụng ngoại hối trên lãnh
thổ Việt Nam) đã vi phạm pháp luật Việt Nam về việc sử dụng ngoại hối.
III.
-
ĐỀ XUẤT HƯỚNG GIẢI QUYẾT
Về phía Luật sư A cần: Đứng ra xin lỗi về việc chậm trễ trong quá trình hoàn lại tiền cho
bà Đặng cũng như sự thiếu trách nhiệm của bản thân Luật sư A trong quá trình thực hiện
công việc. Đồng thời chủ động thương lượng, hòa giải với khách hàng để thống nhất một
ngày cụ thể cho việc Luật sư A thực hiện thanh toán toàn bộ số tiền còn thiếu cho Bà
Ngày 08/6/2017
Đặng. Bồi thường những thiệt hại phát sinh cho Bà Đặng (nếu có), đồng thời trả lãi suất
chậm trả cho bà Đặng theo quy định của pháp luật.
-
Về phía khách hàng (bà Đặng): được quyền chấp nhận gia hạn thêm thời hạn trả tiền
của Luật sư A và yêu cầu Luật sư A trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trong trường hợp Luật sư A vẫn không thực hiện như đúng cam kết, để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bà Đặng có quyền khởi kiện dân sự đối với Luật sư
A, để yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình.
-
Về phía Đoàn Luật sư TP B: Ban Chủ nhiệm đoàn luật sư TP B đứng ra hòa giải tranh
chấp giữa Luật sư A và bà Đặng, đồng thời cần có biện pháp xử lý kỷ luật đối với việc vi
phạm của Luật sư A theo Khoản 1 Điều 85 Luật Luật sư 2006.
IV.
-
KINH NGHIỆM, BÀI HỌC RÚT RA
Trước khi đồng ý nhận vụ việc và ký hợp đồng dịch vụ với khách hàng, luật sư cần xem
xét, nghiên cứu vụ việc theo khả năng chuyên môn của mình có thực hiện được hay
không? Nếu vụ việc không thuộc khả năng của mình thì phải từ chối nhận vụ việc.
-
Khi đã thỏa thuận thời gian hoàn thành công việc, Luật sư cần tận tâm trong công việc,
phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng. Phải chủ động thông báo tiến độ thực
hiện công việc cho khách hàng biết. Nếu như thời gian thực hiện công việc kéo dài hơn
thỏa thuận giữa Luật sư với khách hàng thì luật sư cần thông báo cho khách hàng biết rõ
nguyên nhân để từ đó đưa ra cách giải quyết phù hợp, tránh trường hợp khách hàng cho
rằng luật sư không có năng lực làm mất uy tín của Luật sư trong mắt khách hàng.
-
Luật sư ký hợp đồng dịch vụ pháp lý để thực hiện công việc theo yêu cầu của khách hàng
và nhận thù lao theo thỏa thuận, nhưng không được phép cam kết/hứa trước kết quả vụ
việc nhằm làm cơ sở tính thù lao, như vậy là vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư.
Ngày 08/6/2017
-
Khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, thù lao và phí dịch vụ hai bên thanh toán bằng đồng
tiền Việt Nam.
TIỂU HỒ SƠ TÌNH HUỐNG SỐ 02.2
I.
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC:
Nguyên vào ngày 07/5/2012 Văn phòng luật sư C có nhận được Đơn mời Luật sư
của bà Nguyễn Thanh Hà – chủ tịch HĐTV Công ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK
Kim Long yêu cầu văn phòng Luật sư C cử luật sư bênh vực về mặt pháp lý cho công ty
chúng tôi trong vụ: các đại lý gây náo động tại cửa hàng do hai bên không thống nhất giải
quyết và tiến tới náo loạn.
Ngày 07/7/2012 bà Nguyễn Thanh Hà và Văn phòng luật sư C – do Luật sư Lê Thu
H là trưởng văn phòng luật sư làm đại diện ký với nhau Hợp đồng dịch vụ pháp lý số
07/2012/HDDV về việc bà Hà yêu cầu Văn phòng luật sư C cử luật sư để: “Dịch vụ pháp
luật, tư vấn, thay mặt công ty Kim Long hòa giải với các đại lý, làm việc với cơ quan
pháp luật để tiến tới cửa hàng của công ty có thể tiếp tục kinh doanh”. Lệ phí và thù lao
của luật sư trong Hợp đồng là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
Ngày 19/01/2014 Thanh tra Bộ Tư Pháp gửi công văn số 71 đến Ban Chủ nhiệm
Đoàn Luật sư TP B về việc Thanh tra Bộ đã tiến hành xác minh làm rõ nội dung mà ông
Phan Tử Q và bà Trần Mỹ L đã tố cáo bà Lê Thu H – Trưởng Văn phòng Luật sư C thuộc
Đoàn luật sư TP B lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Mỹ L; lừa ông Nguyễn Mạnh T số
tiền 375.000.000 đồng và 9.000 USD để lo thủ tục thông quan lô hàng 20 ô tô đầu kéo
nhập khẩu từ Hà Lan về TP.HCM; Lừa bà nguyễn Thanh Hà - chủ tịch HĐTV Công ty
TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long số tiền 230.000.000 đồng thông qua việc
ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2012/HDDV ngày 07/7/2012; vay tiền ông Phan Tử
Ngày 08/6/2017
Q và bà Phan Xuân M đã năm năm nhưng đến nay vẫn không trả; lấy bằng cấp 3 của em
chồng tẩy xóa làm hồ sơ vào đại học từ đó có 02 bằng đại học là ĐH Kinh tế và ĐH Luật.
Qua quá trình xác minh làm rõ nội dung của ông Q và bà L tố cáo bà H, Thanh tra
sở kết luận:
-
Đối với nội dung tố cáo bà H lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Mỹ L, ông Nguyễn
Mạnh T và bà Nguyễn Thanh H; vay tiền ông Phan Tử Q và bà Phan Xuân M đã 5 năm
nhưng đến nay chưa trả không thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư Pháp;
-
Việc ông Q và bà L tố cáo Luật sư H giả mạo bằng tốt nghiệp cấp 3 để học đại học Kinh
tế Quốc dân và Đại học Luật là không có cơ sở;
-
Riêng đối với nội dung tố cáo bà Lê Thu H lừa bà Nguyễn Thanh Hà chủ tịch HĐTV
Công ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long số tiền 230.000.000 đồng thông
qua việc ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2012/HDDV ngày 07/7/2012, đoàn Thanh
tra cho rằng việc Luật sư H ký hợp đồng dịch vụ pháp lý để “chống náo loạn” là hoàn
toàn không đúng lĩnh vực hoạt động của văn phòng và không có khả năng thực hiện.
Về phía Luật sư H cho biết, nội dung Hợp đồng chỉ ghi: “Dịch vụ pháp luật, tư
vấn, thay mặt công ty Kim Long hòa giải với các đại lý, làm việc với cơ quan pháp luật
để tiến tới cửa hàng của công ty có thể tiếp tục kinh doanh”. Điều này là phù hợp pháp
luật và Văn phòng Luật sư C hoàn toàn có chức năng thực hiện công việc này. Còn việc
xuất hiện từ “náo loạn” là ý kiến riêng xuất phát từ đơn mời Luật sư ngày 7/5/2012 của
Công ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long.
-
Mặc khác tại Hợp đồng có ghi phí dịch vụ là 200,000,000 đồng nhưng theo ý kiến của
Thanh Tra Bộ Tư pháp thì Luật sư H đã thu 230,000,000 đồng và đã vi phạm đạo đức
nghề nghiệp của luật sư. Về phía Luật sư H trình bày do khối lượng công việc phát sinh
nên hai bên đã tự thỏa thuận bằng miệng trả thêm thù lao là 20.000.000 đồng ngoài Hợp
đồng đã ký là sai. Tuy nhiên Luật sư H khẳng định tổng mức thù lao Luật sư H nhận là
220,000,000 đồng chứ không phải là 230,000,000 đồng như ý kiến của Đoàn Thanh tra
Bộ Tư pháp.
Ngày 08/6/2017
II.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
1. Đối với việc làm của bà Lê Thu H là trưởng văn phòng Luật sư C
Thứ nhất: Theo tôi việc Luật sư H trưởng văn phòng Luật sư C đại diện ký hợp
đồng dịch vụ pháp lý với Công ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long ngày
07/7/2012 về việc: “Dịch vụ pháp luật, tư vấn, thay mặt công ty Kim Long hòa giải với
các đại lý, làm việc với cơ quan pháp luật để tiến tới cửa hàng của công ty có thể tiếp
tục kinh doanh” theo đơn mời luật sư ngày 7/5/2012 của bà Nguyễn Thanh Hà – chủ tịch
HĐQT Công ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long là phù hợp với quy định
của pháp luật, đúng với lĩnh vực hoạt động của văn phòng và Văn phòng Luật sư C có đủ
điều kiện, khả năng để thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý này. Bởi căn cứ theo nội dung
thỏa thuận tại Hợp đồng dịch vụ pháp lý mà hai bên ký kết thì Văn phòng Luật sư C đứng
ra tư vấn pháp luật, đồng thời thay mặt cho công ty Kim Long hòa giải với các đại lý và
làm việc với các cơ quan pháp luật chứ Văn phòng Luật sư C không ký hợp đồng với
công ty Kim Long để thực hiện công việc “chống náo loạn” như kết quả thanh tra của
Thanh tra Bộ đã đưa ra. Điều này được chứng minh qua các phiếu thu được lập với lý do
nộp là Dịch vụ tư vấn pháp lý theo Hợp đồng.
Tuy nhiên, Văn phòng Luật sư C cũng có sai sót trong quá trình thực hiện công việc
theo Hợp đồng đã ký, khi thu một khoản tiền thù lao từ Công ty Kim Long nằm ngoài
phạm vi hoạt động của văn phòng đó là khoản thu căn cứ theo Phiếu thu lập ngày
7/7/2012 với lý do nộp tiền là: “Tiền dịch vụ chống náo loạn của các đại lý tại trụ sở
công ty” khoản thu này hoàn toàn không phù hợp với quy định của pháp luật và văn
phòng Luật sư C không có chức năng để thực hiện công việc này. Đây cũng có thể xem là
sai sót của nhân viên văn phòng khi tiến hành lập phiếu thu hoặc cũng có thể xem văn
phòng Luật sư C đã có sai phạm trong việc thu phí dịch vụ không đúng lĩnh vực hoạt
động.
Thứ hai: Đối với vấn đề thù lao theo hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký ngày
07/7/2012 thì lệ phí văn phòng và thù lao của luật sư theo thỏa thuận của hai bên là
200.000.000 đồng. Phí thù lao theo quy định của pháp luật thì do hai bên tự nguyện thỏa
Ngày 08/6/2017
thuận, tuy nhiên theo hợp đồng dịch vụ mà hai bên ký kết phí thù lao là 200,000,000
đồng nhưng căn cứ theo các khoản thu thực tế thì số tiền thù lao mà văn phòng luật sư C
nhận được là 220,000,000 đồng vượt hơn so với Hợp đồng đã ký là 20,000,000 đồng mà
giữa hai bên không ký thêm bất cứ phụ lục hợp đồng nào khác.
Như vậy việc Văn phòng Luật sư C nhận thêm thu phí thù lao là 20,000,000 đồng
ngoài Hợp đồng dịch vụ là đã vi phạm khoản 3 Điều 1 Luật luật sư 2012: “Nhận, đòi
hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và
chi phí đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý” và vi phạm quy
tắc 14.5: “Đòi hỏi từ khách hàng hoặc người có quyền, lợi ích liên quan với khách hàng
bất kỳ khoản tiền chi thêm hoặc tặng vật nào ngoài khoản thù lao và các chi phí kèm theo
đã thỏa thuận, trừ trường hợp khách hàng tự nguyện thưởng cho luật sư khi kết thúc
dịch vụ”
2. Đối với kết luật của Thanh tra Bộ Tư pháp về sai phạm của Văn phòng Luật sư
C.
Thứ nhất: Việc Đoàn Thanh tra Bộ Tư pháp kiểm tra Hợp đồng dịch vụ pháp lý số
07/2012/HDDV ngày 07/07/2012 giữa Văn phòng Luật sư C với Công ty TNHH dịch vụ
và thương mại XNK Kim Long và kết luật rằng hợp đồng dịch vụ pháp lý với mục đích
để “chống náo loạn” là hoàn toàn không đúng lĩnh vực hoạt động của văn phòng và
không có khả năng thực hiện, theo tôi kết luận này của Đoàn Thanh tra Bộ Tư Pháp chưa
đủ cơ sở bởi lẽ trong hợp đồng dịch vụ mà Luật sư H ký với Công ty Kim Long không hề
đề cập đến nội dung công việc chống náo loạn. Nếu Đoàn Thanh tra Bộ chỉ căn cứ vào
Đơn mời luật sư ngày 07/5/2012 của bà Nguyễn Thanh Hà – chủ tịch HĐQT Công ty
TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long làm cơ sở cho kết luận của mình thì tôi
cho rằng kết luận này không đủ tính thuyết phục. Hơn nữa Văn phòng Luật sư C thu phí
thù lao là theo nội dung công việc đã thực hiện theo Hợp đồng dịch vụ đã ký đó là Dịch
vụ tư vấn pháp lý, vì vậy tôi cho rằng kết luận của Thanh tra Bộ trong trường hợp này là
không chính xác.
Ngày 08/6/2017
Thứ hai: Về việc thu phí thù lao dịch vụ Thanh tra Bộ Tư pháp kiểm tra xác nhận từ
phiếu thu tiền cho thấy Văn phòng Luật sư C đã thu 220,000,000 đồng và qua một số tài
liệu khác của Công ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long cho thấy Văn
phòng Luật sư C đã thu 230,000,000 đồng. Việc làm này cho thấy Văn phòng Luật sư C
có dấu hiệu nhận thêm tiền ngoài mức thù lao ghi trong hợp đồng, vi phạm đạo đức hành
nghề luật sư.
Việc văn phòng Luật sư C nhận thù lao thêm ngoài mức thù lao ghi trong Hợp đồng
theo kết luận của Thanh tra Bộ là đúng. Căn cứ theo 4 phiếu thu mà Văn phòng Luật sư C
đã lập thì tổng mức thù lao mà Văn phòng đã nhận từ Công ty Kim Long là 220,000,000
đồng. Tuy nhiên, Thanh tra Bộ cho rằng có tài liệu khác cho thấy luật sư H đã nhận
230,000,000 đồng là không có cơ sở bởi Đoàn Thanh tra Bộ đã không đưa ra được tài liệu
khác ở đây là tài liệu gì để chứng minh cho kết luận của mình. Như vậy, theo tôi Thanh
tra Bộ kết luận văn phòng Luật sư C có dấu hiệu nhận thêm tiền ngoài mức thù lao ghi
trong hợp đồng, vi phạm đạo đức hành nghề luật sư là đúng nhưng việc xác định tổng
mức thù lao mà văn phòng Luật sư C đã nhận chưa chính sát hoàn toàn.
3. Đối với Đoàn Luật sư thành phố B
Theo đơn gửi Đoàn Luật sư TP B ngày 06/01/2012 của Công ty Kim Long về việc
đề nghị giải quyết vụ việc của Luật sư H - VPLS C thì từ năm 2012 đến năm 2013 Công
ty TNHH dịch vụ và thương mại XNK Kim Long đã có rất nhiều công văn gửi đến Đoàn
Luật sư TP B và cũng được Đoàn Luật sư mời lên làm việc rất nhiều lần nhưng đến nay
vẫn không nhận được bất cứ thông tin nào từ phía Đoàn Luật sư.
Theo quy định của Luật Luật sư thì Đoàn Luật sư có trách nhiệm giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; đứng ra hòa giải tranh chấp giữa khách hàng với luật
sư và tổ chức hành nghề luật sư. Như vậy, Đoàn Luật sư TP B khi nhận được đơn khiếu
nại của công ty Kim Long đối với Văn phòng Luật sư C thì phải tích cực giải quyết đơn
khiếu nại, làm rõ vấn đề chứ không trì hoãn, kéo dài làm ảnh hưởng đến khách hàng cũng
như uy tín của Đoàn Luật sư.
Ngày 08/6/2017
III.
-
ĐỀ XUẤT HƯỚNG GIẢI QUYẾT
Việc Luật sư H nhận thêm một khoản thù lao vượt ngoài khoản thù lao đã ký trong Hợp
đồng dịch vụ pháp lý đối với khách hàng không những vi phạm quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam mà còn vi phạm quy định của Luật Luật sư, do đó theo
đề nghị của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật, Ban chủ nhiệm đoàn luật sư TP B cần áp
dụng mức xử lý kỷ luật theo Khoản 1, Điều 85 Luật Luật sư để xử lý kỷ luật đối với Luật
sư H. Theo tôi, dựa trên tính chất và mức độ vi phạm của Luật sư, Tôi đề nghị xử phạt ở
mức khiển trách.
-
Việc ông Q và bà L tố cáo Luật sư H xử dụng hồ sơ giả để vào đại học để từ đó có 02
bằng đại học là hoàn toàn sai sự thật. Riêng trong vụ việc này Luật sư H có thể làm đơn
phản tố khiếu nại việc hai người này làm tổn hại danh dự và uy tín của mình căn cứ theo
Điều 37 BLDS về Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.
IV.
-
BÀI HỌC, KINH NGHIỆM RÚT RA
Trước khi nhận thực hiện một công việc nào đó, Luật sư/tổ chức hành nghề Luật sư cần
xem xét công việc đó có phù hợp với lĩnh vực hoạt động của Luật sư/Tổ chức hành nghề
Luật sư hay không? Và Luật sư/tổ chức hành nghề Luật sư có đủ khả năng để thực hiện
công việc đó hay không?
-
Cần phải xác định cụ thể nội dung công việc phải thực hiện và ghi rõ trong Hợp đồng
dịch vụ pháp lý để tránh tranh chấp phát sinh về sau.
-
Trong quá trình thực hiện công việc, nếu có phát sinh thêm một số công việc hay phát
sinh thêm phí thù lao dịch vụ ngoài hợp đồng thì hai bên cùng nhau thỏa thuận và đi đến
ký phụ lục hợp đồng cho phần việc cũng như phần tiền dư ra so với hợp đồng.
-
Các khoản thù lao mà Luật sư/Tổ chức hành nghề Luật sư thu vào phải được lập Phiếu
thu cụ thể, rõ ràng trong đó ghi chính xác, cụ thể lý do nộp tiền phù hợp với công việc
thực hiện theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký trước đó.
Ngày 08/6/2017