Phân biệt hợp đồng phụ với phụ lục hợp đồng. Xây dựng và phân tích tình
huống để minh họa.
A.
MỞ BÀI
Bộ luật dân sự 2015 có nhiều khái niệm có thể gây nhầm lẫn. Riêng phần
hợp đồng, các quy định khá chung chung của pháp luật cũng gây ra nhiều bất lợi
trong quá trình áp dụng. Trong đó, tồn tại hai khái niệm khiến nhiều trường hợp
áp dụng không đúng, đó là phụ lục hợp đồng và hợp đồng phụ. Để làm rõ hơn
hai khái niệm này cũng như phân biệt được nó, em xin chọn đề: “Phân biệt hợp
đồng phụ với phụ lục hợp đồng. Xây dựng và phân tích tình huống để minh
họa.” Bài làm còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô có góp ý để em hoàn thiện hơn.
B.
I.
1.
NỘI DUNG
PHỤ LỤC HỢP ĐỒNG VÀ HỢP ĐỒNG PHỤ
Phụ luc hợp đồng
Điều 403, Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
“1, Hợp đồng có thể có phụ lục kèm theo để quy định chi tiết một số điều
khoản của hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của
phụ lục hợp đồng không được trái với nội dung của hợp đồng.
2. Trường hợp phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với nội dung của điều
khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Trường hợp các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản
trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã
được sửa đổi”
Theo quy định trên ta có thể nhận thấy phụ lục hợp đồng là phần quy định
chi tiết một số điều khoản của hợp đồng, vì vậy nó là một bộ phận của hợp đồng.
Phụ lục của hợp đồng có hiệu lực cùng với hiệu lực của hợp đồng. Bản phụ lục
của hợp đồng được xây dựng kèm theo hợp đồng, nên nó không thể áp dụng
riêng rẽ mà luôn luôn phụ thuộc và thực hiện cùng với việc thực hiện hợp đồng,
nên nội dung phụ lục của hợp đồng phải phù hợp với nội dung của hợp đồng.
Các bên tham gia ký kết hợp đồng không những chỉ có nghĩa vụ phải thực
hiện đúng nội dung hợp đồng đã ký kết, mà còn phải thực hiện đúng các nội
dung được thể hiện trong bản phụ lục của hợp đồng.
Khi tham gia ký kết hợp đồng, nếu phụ lục của hợp đồng được xây dựng
cùng với quá trình thảo luận ký kết hợp đồng thì ít trường hợp phụ lục của hợp
đồng lại trái với nội dung của hợp đồng. Nhưng trong trường hợp các bên đã ký
kết hợp đồng mà trong quá trình thực hiện hợp đồng có một số điều khoản chưa
được rõ ràng hoặc có những vấn đề phát sinh cần được giải thích hoặc được thể
hiện rõ hơn, các bên tham gia ký kết hợp đồng mới cùng nhau thảo luận và lập
một bản phụ lục của hợp đồng. Trong trường hợp phụ lục của hợp đồng có nội
dung trái với hợp đồng thì các bên tham gia giao kết hợp đồng sẽ phải lập một
bản hợp đồng mới sửa đổi, bổ sung hợp đồng đã lập trước đó, trừ trường hợp các
bên đều biết và không có ý kiến.
2. Hợp đồng phụ
Trong phân loại hợp đồng, dựa vào đọ phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực của
hợp đồng người ta phân chia thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
“Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.”
Trước hết, hợp đồng phụ muốn có hiệu lực phải đáp ứng dủ các điều kiện
về chủ thể, nội dung, hình thức…Nhưng vì hiệu lực hợp đồng phụ phụ thuộc vào
hợp đồng chính nên nếu hợp đồng chính vô hiệu, hợp đồng phụ cũng sẽ vô hiệu
theo.
II.
TÌNH HUỐNG
Ngày 20/11/2015, anh Nguyễn Hoàng Nam kí kết với chị Lê Thị An một
hợp đồng vay 100 triệu, lãi suất 0.3%/ tháng, trong thời hạn một năm nếu không
có thỏa thuận khác. Các khoản tiền cho vay được chia làm nhiều đợt. Kèm theo
-
hợp đồng, là phụ lục ghi nhận như sau:
Một năm là khoảng thời gian từ 20/11/2015 đến 20/11/2016
Thời gian nhận tiền và số tiền nhận được ghi nhận như sau:
Thời gian nhận tiền
20/11/2015
20/5/2015
20/7/2015
Số tiền nhận
30 triệu
50 triệu
20 triệu đồng
Trong hợp đồng quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên. Đồng
thời, anh Nam thế chấp cho chị An mảnh đất trị giá 300 triệu đồng để bảo đảm
III.
cho hợp đồng vay này.
Các trường hợp giả định sẽ được nêu trong từng mục của bài.
PHÂN BIỆT HỢP ĐỒNG PHỤ VÀ PHỤ LỤC HỢP ĐỒNG. PHÂN TÍCH
TÌNH HUỐNG ĐỂ MINH HỌA.
1. Bản chất
Xét về bản chất, phụ lục hợp đồng và hợp đồng phụ hoàn toàn khác nhau.
Phụ lục hợp đồng là một phần của hợp đồng, trong khi hợp đồng phụ là
một loại hợp đồng.
Như đã nêu trên, phụ lục hợp đồng được kèm theo hợp đồng để giải thích
chi tiết một số điều khoản hợp đồng. Phụ lục hợp đồng chỉ phát sinh khi có hợp
đồng và chỉ có ý nghĩa nếu gắn với một hợp đồng cụ thể. Khi tách biệt, phụ lục
hợp đồng không có giá trị vì nội dung của nó mặc dù là thỏa thuận nhưng không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể nếu không
gắn với hợp đồng “gốc”.
Trong tình huống đề bài nêu, phụ lục hợp đồng A1 giải thích cho điều
khoản “số tiền nhập chia làm nhiều đợt” trong hợp đồng vay của anh Nam và chị
An. Phụ lục này buộc phải đi kèm với hợp đồng vay, Nếu không có hợp đồng
vay làm cơ sở, chỉ căn cứ vào phụ lục hợp đồng sẽ không thể hiểu được thời
gian và khoản tiền này là chị An giao cho anh Nam theo mục đích gì.
Trong khi đó, hợp đồng phụ là một trong số các loại hợp đồng. Hợp đồng
phụ bản chất của nó vẫn là các thỏa thuận mà theo đó quyền và nghĩa vụ của các
bên có thể phát sinh, thay đổi, chấm dứt. Hợp đồng phụ thường là hợp đồng đảm
bảo, tức là hợp đồng được hình thành trong đó nội dung của nó là một biện pháp
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng phụ có thể được giao kết hoặc
không, phụ thuộc vào ý chí của các bên và nếu tách khỏi hợp đồng chính, hợp
đồng phụ trong trường hợp một bên đã thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trong tình huống đưa ra, có thể thấy giữa anh Nam và chị An đã giao kết
hợp đồng thế chấp mảnh đất của anh Nam trị giá 300 triệu để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ. Trong trường hợp anh Nam đã lấy tiền đợt 1 ( ngày 20/11/2015) – 30
triệu đồng, nhưng sau đó, anh không muốn vay của chị An nữa, anh Nam tự ý
đơn phương chấm dứt hợp đồng. Lúc này, mảnh đất của anh Nam vẫn là tài sản
bảo đảm cho đến hạn trả tiền hoặc đến lúc anh Nam trả tiền cho chị trong trường
hợp anh Nam trả tiền trước thời hạn. Sau thời hạn, nếu anh Nam không trả tiền,
chị An hoàn toàn có quyền xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật dù
hợp đồng đã chấm dứt từ lâu.
Như vậy, có thể thấy được, về bản chất phụ lục hợp đồng và hợp đồng phụ
hoàn toàn khác nhau. Người ta có thể thực hiện hợp đồng phụ một các tương đối
độc lập nhưng không thể thực hiện phụ lục hợp đồng mà không căn cứ vào hợp
đồng.
2. Căn cứ phát sinh
Phụ lục hợp đồng phát sinh từ một hoặc một số điều khoản trong hợp đồng.
Như trong định nghĩa, phụ lục hợp đồng kèm theo hợp đồng để giải thích
chi tiết một số điều khoản trong hợp đồng. Như vậy, nếu hợp đồng có điều
khoản không rõ ràng hoặc dễ gây hiểu nhầm cần được giải thích bằng văn bản
mới xuất hiện phụ lục hợp đồng. Nếu các bên có thể tự hiểu các điều khoản và
tự ngầm thống nhất với nhau thì phụ lục hợp đồng là không cần thiết, có thể
không phát sinh.
Nếu anh Nam và chị An tự mặc định với nhau rằng khoảng thời gian một
năm là từ 20/11/2015 đến 20/11/ 2016 hoặc là 360 ngày kể từ 20/11/2015 thì
không cần phải lập thêm phụ lục hợp đồng để giải thích. Như vậy, phụ lục hợp
đồng được lập dựa trên điều khoản về thời gian và các đợt lấy tiền để hình
thành.
Còn hợp đồng phụ có căn cứ phát sinh là hợp đồng chính. Nó không phát
sinh từ một hoặc một vài điều khoản hợp đồng mà phát sinh từ nội dung của hợp
đồng chính, để đảm bảo nội dung hợp đồng được thực hiện hoặc để bổ sung điều
khoản có ảnh hưởng đến nội dung, mục đích của hợp đồng. Như hợp đồng thế
chấp của anh Nam và chị An không phát sinh từ bất cứ điều khoản nào của hợp
đồng vay mà phát sinh từ mục đích đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của anh Nam.
Như vậy, về căn cứ phát sinh, phụ lục hợp đồng phát sinh từ điều khoản
còn hợp đồng phụ phát sinh từ nội dung, mục đích chính của hợp đồng chính.
Chính điều này làm dẫn đến nội dung của hai loại này hoàn toàn khác nhau.
3. Nội dung
Xét về nội dung, phụ lục hợp đồng giải thích nội dung điều khoản hợp
đồng một cách chi tiết.
Khoản 1 điều 404, bộ Luật dân sự 2015 quy định:
“Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản
đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của
các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực
hiện hợp đồng.”
Như vậy, phụ lục hợp đồng dựa vào ý chí các bên trong cả quá trình để ghi
nhận sự giải thích các điều khoản đó. Ngoài giải thích các điều khoản, phụ lục
còn ghi nhận một vài sửa đổi các điều khoản của hợp đồng. Các bên có thể
thông qua phụ lục hợp đồng, quy định sự thay đổi trong hợp đồng nhưng những
sự thay đổi đó thường không có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng.
Anh Nam và chị An cũng đã đề ra phụ lục để gia hạn thêm thời gian thực hiện
nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp này, thời gian thực hiện nghĩa vụ thay đổi
nhưng nói không làm ảnh hưởng nghiệm trọng đến mức phải lập một bản hợp
đồng phụ để bổ sung hay sửa đồi nội dung hợp đồng vay.
Trong khi đó, nếu anh Nam muốn vay thêm của chị An 500 triệu so với ban
đầu, tức số tiền vay lên đến 150 triệu thì điều này không thể ghi nhận trong phụ
lục hợp đồng, mà nó buộc phải lập thành một hợp đồng phụ hoặc một hợp đồng
vay khác.
Nội dung của hợp đồng phụ chính là nội dung của hợp đồng được ghi nhận
tại điều 398, Bộ luật dân sự 2015:
“1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp
đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp.”
Các điều khoản trong hợp đồng phụ cũng được chia thành điều khoản cơ
bản, điều khoản thông thường, điều khoản tùy nghi.
Nội dung của hợp đồng phụ do các bên thỏa thuận, có thể gần như độc lập
với nội dung hợp đồng chính.
Nội dung của hợp đồng thế chấp do anh Nam và chị An tự nguyện thỏa
thuận. Trong đó chứa đựng các điều khoản cơ bản về chủ thể, nội dung, đối
tượng….
Như vậy, xét về nội dung, phụ lục hợp đồng giả thích điều khoản hợp đồng
còn hợp đồng phụ đưa ra các điều khoản tạo nên một hợp đồng mới có mối quan
hệ về hiệu lực với hợp đồng chính.
4. Hiệu lực.
Theo quy định của bộ luật dân sư 2015:
“Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng”. Điều đó có nghĩa là về mặt
pháp lý, phụ lục hợp đồng và hợp đồng ngang hàng với nhau. Tuy nhiên, như đã
nói, phụ lục hợp đồng với mục đích là giải thích điều khoản của hợp đồng, nên
khi hợp đồng hết hiệu lực hoặc bị tuyên vô hiệu thì hiển nhân phụ lục hợp đồng
cũng không còn.
Giả sử, chị An và anh Nam sau khi giao kết hợp đồng và nảy sinh mâu
thuẫn. Chị An không cho anh Nam vay tiền nữa, đơn phương chấm dứt hợp
đồng. Lúc này, ngoài hợp đồng chính vô hiệu thì phụ lục hợp đồng cũng vô hiệu.
Bởi nếu không cho anh Nam vay thì giải thích điều khoản về thời gian, về các
giai đoạn nhận tiền cũng không còn ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu sau đợt nhận tiền
thứ nhất, chị An mới đơn phương chấm dứt hợp đồng thì một phần phụ lục hợp
đồng tương ứng vẫn có hiệu lực.
Hợp đồng phụ cũng phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính, tuy nhiên,
vẫn có trường hợp ngoại lệ.
Khoản 2 điều 407 quy định:
“Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy
định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”
Như vậy, rõ ràng có 2 ngoại lệ được ghi nhận: thứ nhất là thỏa thuận của
các bên và thứ hai là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Pháp luật dân sự
tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên, chính vì vậy, khi các bên thỏa thuận về
việc hợp đồng phụ thay thế hợp đồng chính thì hợp đồng phụ không vô hiệu khi
hợp đồng chính vô hiệu. Ngoài ra, đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ, không áp dụng điều luật này, Nghĩa là kể cả hợp đồng chính chấm dứt,
nhưng nếu một phần nghĩa vụ của bên được đảm bảo đã thực hiện, thì hợp đồng
phụ vẫn không mất hiệu lực dù hợp đồng chính đã chấm dứt.
Trong trường hợp anh Nam dù chỉ nhận một trong ba đợt nhận tiền thì hợp
đồng thế chấp vẫn có hiệu lực. Và nếu anh Nam không trả tiền đúng thời hạn, thì
tài sản bảo đảm là mảnh đất sẽ được xử lí theo đúng quy định pháp luật.
5. Điều kiện có hiệu lực của phụ lục hợp đồng và hợp đồng phụ
Phụ lục hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các điều khoản giải thích không trái
với nội dung của điều khoản trong hợp đồng, tức là phải phù hợp với ý chí của
các bên khi giao kết hợp đồng. Quan trọng nhất của phụ lục hợp đồng chính là
làm sáng tỏ ý chí của các chủ thể trong các điều khoản quy định không rõ ràng.
Nếu mục đích này không đạt được thì tất nhiên phụ lục hợp đồng cũng không có
giá trị.
Giả sử, trong phụ lục hợp đồng giải thích một năm là khoảng thời gian từ
20/11/2015 đến 20/11/2017. Như vậy, thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã kéo
dài thêm một năm so với ý chí của hai bên. Như vậy, điều khoản này của phụ lục
hợp đồng sẽ bị vô hiệu.
Tuy nhiên, “nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với
điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được
sửa đổi.” Như vậy, sự nhất trí của hai bên là một điều kiện khác để phụ lục hợp
đồng có hiệu lực. Điều này không khó giải thích. Khi có sự đồng ý của các bên,
tức là có sự thống nhất ý chí của các bên. Lúc này, coi như các bên ngầm thỏa
thuận điều khoản được sửa đổi.
Cũng trong trường hợp giải sử trên, nếu anh Nam và chị An đều chấp nhận
việc giải thích khoảng thời gian trên thì coi như hợp đồng được sửa thời hạn
thanh toán thành 2 năm kể từ ngày 20/11/2015.
Còn đối với hợp đồng phụ, chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện ở
điều 117 và không thuộc các trường hợp ở các điều 123 đến 129 Bộ luật dân sự.
Điều 117 quy định các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực:
“a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp luật có quy định.”
Trong trường hợp này, anh Nam và chị An đủ năng lực hành hi và năng lực
pháp luật dân sự để giao kết hợp đồng. Thứ hai, hai người hoàn toàn tự do về ý
chí và hành động khi giao kết hợp đồng. Mục đích của giao dịch dân sự là thế
chấp mảnh đất để đảm bảo nghĩa vụ trả tiền của anh Nam, điều này hoàn toàn
hợp pháp. Đồng thời, hợp đồng thế chấp này hoàn toàn không rơi vào các điều
từ 124 đến 129. Như vậy, hợp đồng phụ này hoàn toàn đủ điều kiện để có hiệu
lực.
Như vậy, trên đây là một vài điểm khác biệt giữa phụ lục hợp đồng và hợp
đồng phụ. Có thể thấy, từ bản chất đến các đặc điểm khác đều có sự khác biệt rất
rõ ràng.
6. Hình thức
Pháp luật không hề có quy định về hình thức của phụ lục hợp đồng, chính
vì vậy, phụ lục hợp đồng chỉ có thể được trình bày dưới dạng văn bản.
Ngược lại, vì bản chất của hợp đồng phụ là hợp đồng nên theo quy định của
pháp luật, các bên có thể giao kết hợp đồng bằng miệng, bằng hành động hoặc
bằng văn bản.
Điều này được quy định chi tiết tại điều 119, Bộ luật dân sự 2015:
“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp
dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch
bằng văn bản.
2.
Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”
C.
KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua việc phân tích tình huống có thể thấy phân biệt được
phụ lục hợp đồng và hợp đồng phụ. Phân biệt hai khái niệm có ý nghĩa trong
việc xác định hiệu lực hợp đồng cũng như một số khía cạnh pháp lý khác. Trong
thực tế, không ít trường hợp người ta nhầm lẫn giữ hai khái niệm này dẫn đến
những hậu quả pháp lý không ngờ. Hi vọng bài làm đã đáp ứng được những
phân biệt cơ bản và có thể làm cơ sở để giảm bớt sự nhầm lẫn giữa hai khái
niệm tưởng chừng giống mà thực chất lại khác nhau này.
D.
1.
2.
3.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật dân sự 2015
Nguyễn Minh Tuấn, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, nxb Tư Pháp
Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật dân sự II, nxb Công An Nhân Dân.