Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận môn lý thuyết tài chính lý thuyết chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.73 KB, 20 trang )

CHƯƠNG 24:
LÝ THUYẾT CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
NHẮC LẠI
Từ tháng 9/2007 đến 12/2008, Cục dữ trữ liên bang (Fed) đã giảm lãi suất dự trữ liên
ban Fed từ 5% xuống còn 0% và tiếp tục duy trì mức lãi suất 0% này trong nhiều năm sau
đó. Tại sao Fed lại tiến hành hạ lãi suất và tiếp tục giữ chúng ở mức thấp như vậy?
Giới truyền thông lo lắng “Liệu chính sách tiền tệ mở rộng này có dẫn đến lạm
phát ngoài kỳ vọng hay không?”. Thập niên 60 tỷ lệ lạm phát đã có những thay đổi đáng
kể, đầu những năm 1960, tỷ lệ lạm phát chỉ là 1-2%, thì những năm cuối của thập niên đã
lên đến 5%. Đến năm 1974, tỷ lệ này đã lên đến 2 con số. Sau khi giảm nhẹ trong những
năm 1975-1978, thì tỷ lệ lạm phát lại nhảy vọt lên hơn 10% vào năm 1979 và 1980, rồi lại
hạ xuống đạt mức 5% trong giai đoạn 1982-1990, tiếp đến tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn
khoảng 2% vào cuối những năm 1990, để rồi sau đó lại tăng lên mức 5% năm 2008. Lạm
phát đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính sách và công chúng, và làm thế nào
để kiểm soát nó thường xuyên được đề cập trong các chính sách kinh tế.
Trong chương này, chúng ta sử dụng mô hình tổng cung tổng cầu (AD/AS) được
nghiên cứu ở chương 22 để phát triển một lý thuyết của chính sách tiền tệ. Cụ thể, chúng
ta sẽ xem xét vai trò của chính sách tiền tệ trong việc tạo ra lạm phát và ổn định nền kinh
tế. Chúng ta cùng xem xét 3 câu hỏi sau: Các nguyên nhân gây ra lạm phát? Việc ổn định
lạm phát có ổn định sản lượng đầu ra của nền kinh tế? Nên sử dụng chính sách chủ động –
phản ứng với các biến động trong hoạt động của nền kinh tế - hay là chính sách thụ động,
không tác động?

I. PHẢN ỨNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỐI VỚI CÁC CÚ SỐC
Trong chương 16, chúng ta thấy mục tiêu chính của các ngân hàng trung ương là
ổn định giá cả: điều này có nghĩa là họ cố gắng duy trì mức lạm phát (π) gần với mức lạm
phát mục tiêu (πT) – gần với 0%. Hầu hết các ngân hàng trung ương chọn mức lạm phát
mục tiêu là từ 1 – 3%. Có một cách khác để hiểu làm thể này mà ngân hàng trung ương có
thể theo đổi sự ổn định giá cả đó là họ đưa ra các chính sách tiền tệ nhằm cố gắng giảm



thiểu sự chênh lệch giữa lạm phát và tỷ lệ lạm phát mục tiêu (π - π T) – khoảng cách lạm
phát (Inflation gap).
Trong chương 16, chúng ta biết rằng các ngân hàng trung ương cũng quan tâm đến
việc ổn định nền kinh tế. Bởi vì, nền kinh tế chỉ được gọi là bền vững nếu nó ở mức sản
lượng tiềm năng, nên mục tiêu ổn định nền kinh tế có nghĩa là các nhà chính sách muốn
tổng sản lượng đầu ra phải gần với mức sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, Y P. Hay,
điều này có nghĩa là các ngân hàng trung ương mong muốn giảm thiểu khoảng cách giữa
tổng sản lượng đầu ra và sản lượng tiềm năng (Y – Y P) – chênh lệch sản lượng (Output
gap). Ở chương 22 phân tích mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu, chúng ta đã xem
xét 3 loại cú sốc của nền kinh tế (Cú sốc cầu, các cú sốc cung trong ngắn hạn và các cú
sốc cung dài hạn) và tác động của những cú sốc này đến lạm phát và sản lượng của nền
kinh tế. Ở chương này, chúng ta sẽ xem các ngân hàng trung ương sử dụng các chính sách
để đối phó với các cú sốc này như thế nào. Trong trường hợp có các cú sốc cầu và các cú
sốc cung dài hạn, các nhà hoạt định chính sách có thể có thể đồng thời theo đuổi mục tiêu
ổn định giá cả và ổn định hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, nếu cú sốc cung là ngắn hạn (tạm
thời), các nhà hoạch định chính sách phải lựa chọn một trong hay mục tiêu, hoặc là ổn
định giá cả, hoặc là ổn định hoạt động kinh tế. Sự đánh đổi này gây khó khăn cho các
ngân hàng trung ương theo đổi nhiệm vụ kép này.
1.1. PHÁN ỨNG VỚI CÚ SỐC TỔNG CẦU:
Chúng ta cùng xem xét các tác động của một cú sốc cầu, chẳng hạn sự khủng
hoảng của thị trường tài chính bắt đầu từ 8/2017 đã làm tăng các ma sát tài chính và dẫn
đến chi tiêu của cả ngưởi tiêu dùng lẫn doanh nghiệp đều giảm. Nền kinh tế ban đầu tại
điểm 1, tại mức sản lượng tiềm năng Y P và mức lạm phát mục tiêu πT. Một cú sốc cầu tiêu
cực làm giảm tổng cầu, làm đường cầu dịch chuyển sang trái từ AD 1 đến AD2 (Hình 1).
Các nhà hoạch định chính sách có thể phản ứng với cú sống này theo 2 cách.
Không can thiệp/Không có chính sách phản ứng: Vì ngân hàng trung ương
không can thiệp (bằng cách thay đổi của các thành phần tự định của chính sách tiền
tệ) nên đường tổng cầu lúc này vẫn là AD 2 và nền kinh tế tiến đến điểm 2 (là giao
điểm của AS1 và AD2). Tại đây, tổng sản lượng giảm xuống Y 2 nhỏ hơn mức sản
lượng tiềm năng YP, và lạm phát giảm xuống π2 nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát mục tiêu πT.

Tại mức sản lượng dưới mức tiềm năng, sự đi xuống bắt đầu xuất hiện trong thị


trường hàng hoá và lao động, lạm phát lúc này thấp hơn mức lạm phát π T. Đường
tổng cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển xuống và sang phải (AS 1 đến AS3) và nền kinh
tế sẽ chuyển sang điểm 3. Sản lượng sẽ quay về mức sản lượng tiềm năng, nhưng
lạm phát đã giảm xuống mức π 3. Kết quả này có vẻ tốt – lạm phát thấp và sản
lượng ở mức sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên tổng sản lượng đầu ra sẽ ở mức dưới
mức sản lượng tiềm năng trong một thời gian, nếu mức lạm phát ở dưới mức lạm
phát mục tiêu, việc giảm lạm phát lúc này là điều không mong muốn (như đã trình
bày trong chương 9 và 16).

Chính sách ổn định nền kinh tế và lạm phát trong ngắn hạn: Các nhà hoạch
định có thể loại bỏ chênh lệch sản lượng (output gap) và chênh lệch lạm phát
(inflation gap) trong ngắn hạn bằng cách tăng tổng cầu làm cho nền kinh tế quay
trở lại mức ban đầu (trước khi có cú sốc). Ngân hàng trung ương có thể chủ động
nới lỏng các chính sách tiền tệ thông qua việc giảm lãi suất thực tế ở mọi mức lạm
phát cho trước. Hành động này làm tăng chi tiêu đầu tư và làm tăng tổng cầu,
đường tổng cầu dịch chuyển sang phải AD2  AD1 (Hình 2), nền kinh tế quay về
điểm ban đầu. (Fed đã tiến hành các bước này bằng cách hạ lãi suất liên bang từ
5% xuống ¼% và cuối cùng là 0% trong hơn 15 tháng kể từ tháng 9/2017).


Phân tích chính sách tiền tệ đối với một cú sốc trong tổng cầu, không có sự đánh
đổi giữa mục tiêu ổn định giá cả và ổn định hoạt động kinh tế. Một chính sách ổn định
lạm phát cũng sẽ ổn định hoạt động kinh tế. Theo Olivier Blanchard – chuyên gia kinh tế
của MIT (nay là Quỹ tiền tệ quốc tế IMF), không có mâu thuẫn giữa hai mục tiêu ổn định
lạm phát và ổn định nền kinh tế, và đây được gọi là sự trùng hợp ngẫu nhiên của Chúa
(divine coincidence).




Mở rộng: Nới lỏng định lượng (Tín dụng) để phản ứng trước Khủng hoảng
tài chính toàn cầu

Chúng ta đã xem xét các nhà hoạt định chính sách có thể chống lại những cú sốc
trong tổng cầu, ổn định sản lượng đầu ra và lạm phát bằng cách giảm lãi suất thực
tế. Tuy nhiên, đôi khi cú sốc tổng cầu tiêu cực lớn đến nỗi mà ngân hàng trung
ương không thể hạ lãi suất thực tế hơn nữa bởi vì lãi suất danh nghĩa đã chạm sàn
bằng 0, như đã diễn ra sau sự sụp đổ của Lehman Brothers vào cuối năm 2008.
Trong trường hợp này khi mà lãi suất đã xuống gần bằng 0 không thể cắt giảm
được nữa (the zero-lower-bound) phát sinh, ngân hàng trung ương phải chuyển
sang các chính sách tiền tệ phi truyền thống được thảo luận trong chương 15. Mặc
dù những chính chính sách tiền tệ phi chính thức này liên quan đến các thương vụ


mua tài sản và cung cấp thanh khoản, nhưng kết quả của chúng cho thấy một sự
mở rộng trong bảng cân đối của ngân hàng trung ương (nới lỏng định lượng), nói
một cách cụ thể hơn là mới lỏng tính dụng (credit easing). Làm các nào mà việc
nới lỏng định lượng (tín dụng) này lại có thể ổn định sản lượng và lạm phát trong
giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu?
Như ở chương 9, sau sự sụp đổ của Lehman Brothers, chi phí đi vay thực cho cả
các hộ gia đình và các doanh nghiệp đều tăng mạnh do ma sát/rào cản tài chính tăng
đáng kể (). Chi phí đi vay thực tế cao hơn dẫn đến một sự suy giảm trong chi tiêu
tiêu dùng và chi tiêu đầu tư dự kiến, do đó làm cho tổng cầu giảm mạnh và dịch
chuyển đường tổng cầu sang trái đến AD2 như ở hình 2. Mặc dù Fed đã giảm lãi
suất liên bang đến mức gần bằng 0% (the zero-lower-bound), nhưng điều này không
đủ để dịch chuyển đường tổng cầu quay trở lại AD1. Bằng cách tiến hành các
thương vụ mua tài sản và cung cấp thanh khoản, Fed có thể làm giảm những rào
cản/ma sát tài chính() và hạ thấp chi phí đi vay thực tế của hộ gia đình và các doanh

nghiệp. Kết quả là đường tổng cầu đã dịch chuyển sang bên phải như hình 2, do đó,
nền kinh tế đã tránh được tình trạng giảm phát và thúc đẩy các hoạt động kinh tế để
nền kinh tế không bước vào suy thoái, như trong những năm 1930. Tuy nhiên, cú sốc
tiêu cực của tổng cầu (đến từ cuộc khủng hoảng tài chính) lên nền kinh tế là vô cùng
lớn, đến mức gói nới lỏng định lượng (tín dụng) của Fed cũng không thể giúp nền
kinh tế trách khỏi khủng hoảng, Fed không thể đưa đường tổng cầu quay trở về mức
AD1. Do đó, bất chấp những nổ lực của Fed, nền kinh tế vẫn trải qua một cuộc suy
thoái nghiêm trọng, với mức lạm phát xuống dưới 2%.
1.2. PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI CÚ SỐC CUNG DÀI HẠN:
Chúng tôi minh họa một cú sốc cung vĩnh viễn trong Hình 3. Một lần nữa, nền kinh
tế bắt đầu ở điểm 1, mức sản lượng tiềm năng Y 1p và lạm phát ở mức T. Giả sử nền kinh tế
gánh chịu một cú sốc cung tiêu cực dài hạn,nguyên nhân là do sự gia tăng các quy định làm
giảm mức sản lượng tiềm năng trong dài hạn. Mức sản lượng tiềm năng giảm từ Y 1p xuống
Y3p, làm đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang trái từ LRAS 1 sang LRAS3. Cú sốc
cung dài hạn gây ra một cú sốc giá, làm đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển lên trên từ
AS1 sang AS2. Có hai chính sách khả thi đối phó với cú sốc cung dài hạn này.


Không chính sách đối phó: Nếu các nhà hoạch định chính sách không có sự can
thiệp, nền kinh tế sẽ chuyển sang điểm 2, với lạm phát tăng lên 2 và sản lượng giảm
xuống Y2. Bởi vì mức sản lượng này vẫn cao hơn sản lượng tiềm năng, Y 3p, đường
tổng cung ngắn hạn tiếp tục dịch chuyển lên và sang trái cho đến đường AS 3, nơi
giao cắt đường AD1và LRAS3. Nền kinh tế chuyển sang điểm 3, loại bỏ khoảng cách
đầu ra nhưng để lại lạm phát cao hơn ở3 và sản lượng thấp hơn ở Y3p.

Chính sách ổn định lạm phát: Theo hình 4, ngân hàng trung ương có thể giữ lạm
phát ở mức lạm phát mục tiêu và ổn định lạm phát bằng cách giảm tổng cầu. Mục
tiêu là làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang trái đến AD 3, nơi nó giao cắt
đường tổng cung dài hạn (LRAS3) tại mức lạm phát mục tiêu của T. Để dịch
chuyển đường tổng cầu về AD3, các ngân hàng trung ương sẽ sử dụng chính sách

tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất thực ở bất kỳ tỷ lệ lạm phát nhất định nào,
làm giảm chi tiêu cho đầu tư và giảm tổng cầu ở bất kỳ tỷ lệ lạm phát nhất định.
Do đó, nền kinh tế đi tới điểm 3, nơi chênh lệch sản lượng đầu ra bằng không và
lạm phát đang ở mức mục tiêu của T
Ở đây một lần nữa, việc giữ chênh lệch lạm phát ở mức zero cũng kéo theo chênh
lệch sản lượng bằng zero, do đó, ổn định lạm phát đã ổn định hoạt động kinh tế. Sự


trùng hợp ngẫu nhiên của Chúa (divine coincidence)cũng đúng khi xảy ra cú sốc
cung lâu dài: Không có sự đánh đổi trong các mục tiêu kép về ổn định lạm phát và
ổn định hoạt động kinh tế.

1.3. PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI CÚ SỐC CUNG NGẮN HẠN:
Khi có một cú sốc cung trong ngắn hạn, chẳng hạn như khi giá dầu tăng lên vì tình
trạng bất ổn chính trị ở Trung Đông hoặc do thiên tai, chẳng hạn như cơn bão tàn phá ở
Florida,sự trùng hợp ngẫu nhiên của Chúa (divine coincidence) không phải lúc nào cũng
đúng. Các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với một đánh đổi trong ngắn hạn giữa
ổn định lạm phát và ổn định nền kinh tế. Để minh họa, chúng bắt đầu xem xét nền kinh tế
tại điểm 1 của Hình 5, trong đó tổng sản lượng đầu ra ở mức sản lượng tiềm năng Yp và
lạm phát ở mức T. Một cú sốc tiêu cực từ phía cung, ví dụ như sự gia tăng giá dầu, sẽ làm
di chuyển đường tổng cung ngắn hạn đi lên và sang trái từ AS1 đến AS2 nhưng lại không
thay đổi đường cung dài hạn bởi vì đây là cú sốc tạm thời. Nền kinh tế chuyển sang điểm
2, với lạm phát tăng lên 2 và sản lượng giảm xuống Y2. Các nhà hoạch định chính sách có
thể phản ứng với cú sốc cung tạm thời theo ba cách:
Không có phản hồi chính sách: Không có sự thay đổi trong chính sách tiền tệ, do
đó đường tổng cầu cũng không thay đổi. Vì tổng sản lượng nhỏ hơn sản lượng tiềm


năng Yp, cuối cùng đường tổng cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển trở lại về phía bên
phải, quay trở lại AS1. Nền kinh tế sẽ quay trở lại điểm 1 của Hình 5 và khoảng

cách của cả sản lượng và lạm phát được thu hẹp, vì sản lượng và lạm phát quay trở
lại mức ban đầu là Yp và T. Cả lạm phát và hoạt động kinh tế đều ổn định theo thời
gian. Về lâu dài, không có sự đánh đổi giữa hai mục tiêu,sự trùng hợp ngẫu nhiên
của Chúa (divine coincidence) vẫn được giữ vững.Trong khi chúng ta chờ đợi
trong thời gian dài, nền kinh tế sẽ trải qua một giai đoạn giảm sản lượng và tỷ lệ
lạm phát cao hơn. Điều này mở ra cánh cửa cho chính sách tiền tệ cố gắng ổn định
hoạt động kinh tế hoặc lạm phát trong ngắn hạn.

Chính sách ổn định lạm phát trong ngắn hạn: Lựa chọn chính sách thứ hai của
các nhà hoạch định tiền tệ là giữ lạm phát ở mức mục tiêu

T

trong ngắn hạn bằng

chính sách thắt chặt tiền tệ tự động và tăng lãi suất thực ở bất kỳ tỷ lệ lạm phát
nhất định. Làm như vậy sẽ làm chi tiêu cho đầu tư và tổng cầu giảm theo từng tỷ lệ
lạm phát, dịch chuyển đường tổng cầu sang trái thành AD3 trong Hình 6. Nền kinh
tế hiện đang chuyển sang điểm 3, trong đó đường tổng cầu (AD3) cắt đường tổng
cung ngắn hạn (AS2) tại điểm có tỷ lệ lạm phát T. Bởi vì sản lượng ở điểm 3 thấp
hơn sản lượng tiềm năng, sự chao đảo trong nền kinh tế làm di chuyển đường tổng
cung ngắn hạn xuống AS1. Để giữ tỷ lệ lạm phát tại T, các nhà chức trách tiền tệ sẽ


cần phải di chuyển đường cầu ngắn hạn trở lại AD1 bằng cách đảo ngược việc thắt
chặt tự động và cuối cùng, nền kinh tế sẽ quay trở lại điểm 1.
Như hình 6 minh họa, ổn định lạm phát làm giảm tổng sản lượng xuống Y3 trong
ngắn hạn và theo thời gian, sản lượng sẽ quay trở lại mức sản lượng tiềm năng tại
Yp. Việc ổn định lạm phát để đối phó với cú sốc cung tạm thời đã dẫn đến một sự
gia tăng lớn hơn của sản lượng thực so với sản lượng tiềm năng, do đó hành động

này đã không ổn định hoạt động kinh tế.

Chính sách ổn định hoạt động kinh tế trong ngắn hạn: Một chính sách thứ ba là
các nhà hoạch định chính sách tiền tệ sẽ ổn định hoạt động kinh tế thay vì lạm phát
trong ngắn hạn bằng cách tăng tổng cầu. Theo Hình 7, bây giờ họ sẽ di chuyển
đường tổng cầu sang bên phải thành AD3, nơi nó cắt đường tổng cung ngắn hạn AS2
và tổng cung dài hạn tại điểm 3. Để làm điều này, họ phải tự động giảm nhẹ chính
sách tiền tệ bằng cách giảm lãi suất thực ở bất kỳ tỷ lệ lạm phát nhất định. Ở điểm 3,
khoảng cách sản lượng quay trở về 0, do đó, chính sách tiền tệ đã ổn định hoạt động
kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát đã tăng lên 3, cao hơn T, do đó, lạm phát vẫn chưa được
ổn định. Ổn định hoạt động kinh tế để đối phó với cú sốc cung tạm thời dẫn đến lạm
phát gia tăng, do đó, lạm phát chưa được ổn định.


1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA ỔN ĐỊNH LẠM PHÁT VÀ ỔN ĐỊNH HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ:
Chúng ta có thể rút ra những kết luận sau đây từ phân tích này:
1. Nếu hầu hết các cú sốc đối với nền kinh tế là những cú sốc tổng cầu hoặc những
cú sốc tổng cung cố định, thì chính sách ổn định lạm phát cũng sẽ ổn định hoạt động kinh
tế, ngay cả trong ngắn hạn.
2. Nếu các cú sốc tổng cung tạm thời phổ biến hơn, thì một ngân hàng trung ương
phải lựa chọn giữa hai mục tiêu ổn định trong ngắn hạn.
3. Về lâu dài không có mâu thuẫn giữa ổn định lạm phát và hoạt động kinh tế trong
việc phản ứng lại với các cú sốc.
II. CÁC NHÀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CỐ GẮNG ỔN ĐỊNH HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ NHƯ THẾ NÀO?
Tất cả các nhà kinh tế đều có cùng các mục tiêu chính sách (để thúc đẩy việc làm
và ổn định giá cả) nhưng họ thường không cùng quan điểm về cách tốt nhất để đạt được
những mục tiêu đó. Giả sử các nhà hoạch định chính sách đối mặt với một nền kinh tế có
tỷ lệ thất nghiệp cao bắt nguồn từ một cúc sốc tiêu cực từ phía cung hoặc cầu, dẫn đến



tổng sản lượng đầu ra giảm. Các nhà hoạt động thụ động tin rằng tiền lương và giá cả rất
linh hoạt, do cơ chế tự điều chỉnh nhanh chóng. Họ lập luận rằng đường tổng cung ngắn
hạn sẽ đi xuống, làm cho nền kinh tế trở nên toàn dụng việc làm nhanh chóng. Do đó, họ
tin rằng hành động của chính phủ là không cần thiết để loại bỏ tình trạng thất nghiệp. Các
nhà hoạt động năng động, nhiều người trong số họ là những người theo trường phái
Keynes và được gọi là Keynesians, coi cơ chế tự điều chỉnh thông qua tiền lương và giá
cả là rất chậm bởi vì tiền lương và giá cả thì cứng nhắc. Kết quả là họ tin rằng phải mất
một khoảng thời gian dài để đạt được trong dài hạn, họ đồng ý với câu nói nổi tiếng của
Keynes rằng "Về lâu về dài, tất cả chúng ta đều đã chết." Do đó họ thấy sự cần thiết về
việc chính phủ phải theo đuổi chính sách tích cực để loại bỏ tỷ lệ thất nghiệp cao
2.1. Độ trễ và thực hiện chính sách:
Nếu các nhà hoạch định chính sách có thể thay đổi đường tổng cầu ngay lập tức,
các chính sách của họ có thể được sử dụng để di chuyển ngay lập tức nền kinh tế đến mức
toàn dụng việc làm, như chúng ta đã thấy ở phần trước. Tuy nhiên, một số loại độ trễ ngăn
chặn điều này xảy ra ngay lập tực, và có sự khác biệt về độ dài của độ trễ của chính sách
tiền tệ so với chính sách tài khóa.
1. Độ trễ dữ liệu là thời gian để các nhà hoạch định chính sách thu thập dữ liệu để cho

biết những gì đang xảy ra trong nền kinh tế. Chẳng hạn, dữ liệu chính xác về GDP,
nó không có sẵn cho đến vài tháng sau khi một quý kết thúc.
2. Độ trễ nhận thức là khoảng thời gian cần thiết để các nhà hoạch định chính sách
hiểu rõ những thông tin mà dữ liệu thu thập mang lại liên quan đến tương lai của
kinh tế. Ví dụ, để giảm thiểu các sai sót, Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (tổ
chức tư nhân xác định chu kỳ kinh doanh) sẽ không tuyên bố nền kinh tế rơi vào
suy thoái cho đến ít nhất sáu tháng sau khi suy thoái bắt đầu.
3. Độ trễ lập pháp thể hiện khoảng thời gian thông qua luật để thực hiện một chính
sách cụ thể. Độ trễ lập pháp không xảy ra đối với hầu hết các tác động từ chính
sách tiền tệ, chẳng hạn như hạ lãi suất. Tuy nhiên, nó lại quan trọng đối với việc

thực hiện chính sách tài khóa, đôi khi phải mất sáu tháng đến một năm để thông
qua luật thay đổi thuế suất hoặc chi tiêu của chính phủ.
4. Độ trễ triển khai là thời gian để các nhà hoạch định chính sách thay đổi các công
cụ chính sách một khi họ đã quyết định lựa chọn chính sách mới. Một lần nữa, độ
trễ này ít quan trọng đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ hơn là chính sách tài
khóa vì Cục Dự trữ Liên bang có thể ngay lập tức thay đổi chính sách của nó về tỉ


lệ lãi suất. Thực tế thực hiện chính sách tài khóa có thể mất nhiều thời gian; Ví dụ
như việc các cơ quan chính phủ thay đổi thói quen chi tiêu của họ sẽ mất thời gian,
cũng như thay đổi bảng thuế.
5. Độ trễ hiệu quả là thời gian để chính sách thực sự có ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Độ trễ hiệu quả bao gồm độ dài thời gian (thường là một năm hoặc lâu hơn) và độ
biến thiên (nghĩa là, có sự không chắc chắn đáng kể về thời gian của độ trễ này là
bao lâu).
Sự tồn tại của tất cả những độ trễ này làm cho các công việc của các nhà hoạch
định chính sách khó khăn hơn, do đó làm suy yếu trường hợp của chính sách năng động.
Khi tỷ lệ thất nghiệp cao, chính sách của những người năng động là dịch chuyển đường
tổng cầu về phía bên phải nhằm khôi phục nền kinh tế với mức toàn dụng việc làm có thể
không mang lại kết quả mong muốn. Thật vậy, nếu những độ trễ chính sách được mô tả ở
trên kéo dài, thì khi đường tổng cầu chuyển sang bên phải, cơ chế tự sửa chữa có thể đã
đưa nền kinh tế trở lại trạng thái đầy đủ, do đó khi chính sách có tác động nó có thể gây ra
Sản lượng tăng cao hơn tiềm năng, dẫn đến sự gia tăng lạm phát. Trong trường hợp các đô
trễ chính sách kéo dài hơn so với thời gian hoạt động của cơ chế tự điều chỉnh, một chính
sách không chủ nghĩa có thể mang lại kết quả tốt hơn.
III. LẠM PHÁT BAO GIỜ VÀ Ở ĐÂU CŨNG LÀ HIỆN TƯỢNG TIỀN TỆ
Milton Friedman nổi tiếng với câu nói của mình rằng về lâu dài "Lạm phát bao giờ
và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ." Ở đây chúng ta thấy câu nói này được cũng cố
thêm bởi phân tích về tổng cung và tổng cầu, bởi vì nó cho thấy các nhà hoạch định chính
sách tiền tệ có thể nhắm đến một mục tiêu lạm phát bất kỳ trong dài hạn bằng cách thay

đổi đường tổng cầu thông qua chính sách tiền tệ tự định. Để minh họa, hãy xem hình 8,
nơi nền kinh tế đang ở điểm số 1với tổng sản lượng đầu ra tiềm năng tại Y P và tỉ lệ lạm
phát tại mục tiêu lạm phát ban đầu 1T.
Giả sử ngân hàng trung ương tin rằng mục tiêu lạm phát này quá thấp và quyết
định nâng nó lên

3

T

. thông qua việc làm giảm chính sách tiền tệ một cách độc lập bằng

cách giảm lãi suất thực ở bất kỳ tỷ lệ lạm phát đã cho trước đó, bằng cách đó chi tiêu cho
đầu tư và tổng cầu tăng. Trong Hình 8, đường tổng cầu dịch chuyển thành đường AD 3.
Nền kinh tế sau đó sẽ di chuyển sang điểm số 2 tại giao điểm của AD 3 và AS1, với lạm
phát tăng lên 2. Do tổng sản lượng cao hơn sản lượng tiềm năng Y 2> Yp, đường tổng cung
ngắn hạn sẽ dịch chuyển lên sang trái, cuối cùng dừng lại ở đường AS 3, khi nền kinh tế


chuyển sang điểm 3, nơi mà lạm phát đang ở mức mục tiêu cao hơn là 3T và khoảng cách
sản lượng đầu ra đã trở lại mức không.
Phân tích trong Hình 8 minh họa những điểm chính sau:
1. Các nhà chức trách về tiền tệ có thể nhắm đến mục tiêu tỷ lệ lạm phát bất kỳ
trong dài hạn với những điều chỉnh chính sách tiền tệ tự định.
2. Sản lượng tiềm năng - và tổng sản lượng đầu ra sản xuất trong dài hạn - không
phụ thuộc vào chính sách tiền tệ.

IV. NGUYÊN NHÂN CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ LẠM PHÁT
Nếu mọi người chấp nhận việc lạm phát cao không tốt cho một nền kinh tế, thì tại
sao chúng ta lại quan tâm nhiều về việc đó? Có phải các chính phủ theo đuổi một chính

sách lạm phát tiền tệ một cách có chủ ý? Chúng ta đã thấy rằng chính sách tiền tệ có thể
thiết lập ra mức lạm phát trong dài hạn, do đó để đạt được các mục tiêu khác, chính phủ


thường kết thúc bằng việc áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng quá mức và gây ra lạm phát
cao. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét các chính sách của chính phủ là những nguyên
nhân phổ biến nhất của lạm phát.


Lạm phát và mục tiêu việc làm cao

Mục tiêu chính của hầu hết các chính phủ là tạo ra công ăn việc làm cao, và việc
theo đuổi mục tiêu này có thể dẫn đến lạm phát cao. Chính phủ Hoa Kỳ đã được thông
qua hai đạo luật (Đạo luật Việc làm năm 1946 và Đạo luật Humphrey-Hawkins năm 1978
nhằm thúc đẩy tạo ra việc làm cao. Cả hai luật đều yêu cầu cam kết tạo ra việc làm cao
phù hợp với lạm phát ổn định - nhưng thực tế chính phủ Hoa Kỳ và Cục Dự trữ Liên bang
thường theo đuổi một mục tiêu việc làm cao mà ít quan tâm đến hậu quả lạm phát gây ra
từ các chính sách. Xu hướng này phản ảnh đúng trong những năm 1960 và 1970, khi
chính phủ và FED bắt đầu đóng vai trò tích cực trong nỗ lực ổn định thất nghiệp.
Hai loại lạm phát có thể là kết quả từ một chính sách ổn định năng động để thúc
đẩy mức việc làm cao:
- Lạm phát do Chi phí đẩy xuất phát từ một cú sốc cung tiêu cực hoặc do công
nhân đòi mức tiền lương tăng thêm vượt quá mức tăng năng suất có thể đảm bảo.
- Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ việc các nhà hoạch định chính sách theo đuổi
các chính sách làm tăng tổng cầu.
Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng phân tích tổng cầu và tổng cung để kiểm tra tác động
của mục tiêu việc làm cao đối với cả hai loại lạm phát.
4.1. Lạm phát Chi phí đẩy
Hãy xem xét nền kinh tế Hình 9, ban đầu ở điểm 1, Giao điểm của đường tổng cầu
AD1 và đường cung AS1.

Giả sử người lao động thành công trong việc đòi mức lương cao hơn, bởi vì họ
muốn tăng tiền lương thực tế (tiền lương về hàng hóa và dịch vụ họ có thể mua) ở mức
cao hơn mức bình thường, hoặc vì họ dự đoán được lạm phát cao và mong muốn mức
lương của mình theo kịp mức tăng trong lạm phát. Cú sốc chi phí đẩy, hoạt động như một
cú sốc cung tiêu cực tạm thời, làm tăng tỷ lệ lạm phát và thay đổi đường cung tổng cung
ngắn hạn lên và sang trái thành AS2. Nếu ngân hàng trung ương không có hành động để
thay đổi lãi suất cân bằng và đường cong chính sách tiền tệ vẫn không thay đổi thì nền


kinh tế sẽ chuyển sang điểm 2’? Tại giao điểm của đường cung AS 2 tổng cung ngắn hạn
mới và đường tổng cầu AD 1. Sản lượng sẽ giảm xuống Y’? Dưới mức sản lượng tiềm
năng và tỷ lệ lạm phát sẽ tăng lên mức π2’, dẫn đến sự gia tăng thất nghiệp.
Ngược lại, các nhà hoạch định chính sách với một mục tiêu việc làm cao sẽ thực
hiện các chính sách như cắt giảm thuế, tăng mua sắm của chính phủ, hoặc nới lỏng về
chính sách tiền tệ, để tăng tổng cầu. Các chính sách này sẽ làm thay đổi đường cầu tổng
cầu trong Hình 9 tới AD2? Nhanh chóng đưa nền kinh tế trở lại tiềm năng sản xuất tại
điểm 2 và tăng tỷ lệ lạm phát lên π2. Các công nhân lúc này có mức lương cao hơn và
được bảo vệ bởi chính phủ trước tình trạng thất nghiệp quá mức.

Sự thành công trong việc tăng lương của công nhân có thể khuyến khích họ tìm
kiếm mức lương cao hơn nữa. Ngoài ra, những người lao động khác giờ đây có thể nhận
ra rằng mức lương của họ đã giảm so với những người lao động đồng nghiệp của họ,
khiến họ phải kiếm thêm lương. Do đó, một cú sốc cung cấp âm tạm thời sẽ xảy ra, làm
cho đường tổng cung ngắn hạn trong Hình 9 chuyển sang AS 3 và sang trái một lần nữa.
Thất nghiệp lại phát triển trở lại khi chúng ta tiến tới điểm 3’, thúc đẩy các chính sách của
nhà hoạt động một lần nữa để thay đổi đường tổng cầu AD3 và đưa nền kinh tế trở lại


trạng thái đầy đủ với tỷ lệ lạm phát cao hơn π3. Nếu quá trình này tiếp diễn, kết quả sẽ là
tăng lạm phát liên tục - lạm phát chi phí đẩy.


.

4.2. Lạm phát do cầu kéo
Mục đích của việc làm cao có thể dẫn đến lạm phát chính sách tài khóa và tiền tệ
theo cách khác. Ngay cả khi làm việc đầy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên), một số thất
nghiệp luôn có mặt vì sự mâu thuẫn trong thị trường lao động làm phức tạp quan hệ của
người lao động thất nghiệp với người sử dụng lao động. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp khi việc
làm đầy đủ sẽ lớn hơn không. Khi các nhà hoạch định chính sách đánh giá thấp tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên và đặt ra mục tiêu cho tỷ lệ thất nghiệp quá thấp (nghĩa là ít hơn tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên), họ đặt ra mục tiêu cho chính sách tiền tệ mở rộng lạm phát.
Hình 10 cho thấy kịch bản này thể hiện bằng cách sử dụng phân tịch tổng cung và
tổng cầu. Nếu các nhà hoạch định chính sách đặt mục tiêu thất nghiệp 4% dưới mức tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên 5%, họ sẽ cố gắng đạt được mục tiêu sản lượng lớn hơn sản lượng
tiềm năng. Chúng ta đặt mức mục tiêu sản lượng này trong Hình 10 dưới dạng Y T. Giả sử
chúng ta bước đầu ở điểm 1: Nền kinh tế đã ở mức tiềm năng nhưng thấp hơn mức mục
tiêu là YT. Để đạt mục tiêu thất nghiệp là 4%, các nhà hoạch định chính sách phải ban
hành các chính sách như chính sách tài khóa mở rộng hoặc nới lỏng về chính sách tiền tệ
để tăng tổng cầu. Đường tổng cầu trong Hình 10 chuyển sang bên phải cho đến khi nó đạt
đến AD2 và nền kinh tế sẽ chuyển sang điểm 2’, trong đó sản lượng ở Y T và các nhà hoạch
định chính sách đã đạt được mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp 4% - nhưng có nhiều câu chuyện
hơn. Tại YT, tỷ lệ thất nghiệp 4% nằm dưới mức tự nhiên, và sản lượng cao hơn mức tiềm
năng, làm cho tiền lương tăng lên. Đường tổng cung ngắn hạn sẽ chuyển sang trái, cuối
cùng là đến AS2, chuyển nền kinh tế đến điểm 2. Đến điểm 2, nó quay trở lại mức sản
lượng tiềm năng nhưng với tỷ lệ lạm phát cao hơn ở mức π2. Chúng ta có thể dừng lại ở
đó, nhưng do thất nghiệp lại cao hơn mức mục tiêu, các nhà hoạch định chính sách một
lần nữa sẽ thay đổi đường tổng cầu tới AD3 để đạt mục tiêu sản lượng ở điểm 3’. Và toàn
bộ quá trình sẽ tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế đi lên từ điểm 3 trở lên. Kết quả tổng thể là tỷ
lệ lạm phát gia tăng đều đặn.



Theo đuổi mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp quá thấp hoặc, tương ứng với một mục tiêu
sản lượng quá cao, dẫn đến lạm phát tiền tệ hoặc chính sách tài khóa. Các nhà hoạch định
chính sách thất bại về hai mặt: họ đã không đạt được mục tiêu thất nghiệp và gây ra lạm
phát cao hơn. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ thất nghiệp mục tiêu thấp hơn tỷ lệ tự nhiên, quá trình
chúng ta thấy trong Hình 10 sẽ được tiến hành trước khi họ nhận ra sai lầm của họ.
4.3. Lạm phát do cầu kéo so với lạm phát chi phí đẩy
Khi lạm phát xảy ra, làm thế nào để chúng ta nhận biết được lạm phát do cầu kéo
hay là lạm phát chi phí đẩy? Chúng ta thường dự đoán mức lạm phát do cầu kéo khi nhận
thấy tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn mức thất nghiệp tự nhiên và lạm phát chi phí đẩy khi tỷ lệ
thất nghiệp cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên. Thật không may, các nhà kinh tế học và các
nhà hoạch định chính sách vẫn đang phải vật lộn với việc đo lường tỉ lệ thất nghiệp tự
nhiên. Phức tạp hơn nữa, lạm phát chi phí đẩy có thể được bắt đầu bằng lạm phát kéo theo
nhu cầu, làm khó khăn them cho việc phân biệt. Khi lạm phát cầu kéo sẽ tạo ra tỷ lệ lạm
phát cao hơn, lạm phát kỳ vọng sẽ tăng và làm cho người lao động đòi hỏi mức lương cao
hơn (lạm phát chi phí đẩy) để mức lương thực sự của họ không giảm. Cuối cùng, các
chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng tạo ra cả hai loại lạm phát, vì vậy chúng ta không
thể phân biệt giữa hai loại này trên cơ sở đó.


Ở Hoa Kỳ, như chúng ta sẽ thấy trong ứng dụng sau đây, lý do chính cho chính
sách lạm phát là do lập trường của các nhà hoạch định chính sách đối với một mục tiêu
việc làm cao. Như chúng ta đã thấy trong Chương 19, lạm phát cao cũng có thể xảy ra do
thâm hụt ngân sách của chính phủ liên tục.


Mở rộng: Thời kỳ đại lạm phát ở Mỹ.

Bây giờ chúng ta đánh giã nguồn gốc của chính sách tiền tệ lạm phát, chúng ta có
thể điều tra nguyên nhân của sự gia tăng lạm phát của Hoa Kỳ từ năm 1965 đến năm

1982, một thời kỳ được gọi là "Đại lạm phát".
Hình 11(A) mô tả sự gia tăng lạm phát trong suốt những năm đó. Ngay trước khi
bắt đầu cuộc Đại lạm phát, tỷ lệ lạm phát tại Mỹ ở dưới mức 2% hàng năm; Vào cuối
những năm 1970, mức trung bình khoảng 8% và đạt đỉnh điểm ở mức gần 14% vào năm
1980 sau cuộc khủng hoảng giá dầu vào năm 1979. Hình 11(B) so sánh tỷ lệ thất nghiệp
thực tế với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên ước tính. Lưu ý rằng nền kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp
thấp hơn tỷ lệ tự nhiên trong từng năm từ 1960 đến 1973 (thể hiện các khu vực in màu
xanh nhạt). Cái nhìn sâu sắc này cho thấy rằng trong giai đoạn 1965-1973, nền kinh tế Mỹ
trải qua lạm phát cầu kéo mà chúng ta đã mô tả trong Hình 10. Đó khi các nhà hoạch
định chính sách đã theo đuổi một chính sách nới lỏng chính sách tiền tệ tự định đã làm
thay đổi đường tổng cầu sang bên phải nhằm mục đích đạt được mức sản lượng cao, do
đó làm tăng lạm phát. Những năm giữa thập niên 60, các nhà hoạch định chính sách, các
nhà kinh tế và các chính trị gia đã cam kết một tỷ lệ thất nghiệp mục tiêu là 4%, mức thất
nghiệp họ tin là phù hợp với sự ổn định về giá. Hậu quả là hầu hết các nhà kinh tế ngày
nay đều đồng ý rằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cao hơn đáng kể trong thập kỷ 60 và 70, từ
5% đến 6%, như thể hiện trong trong Hình 11(B). Mục tiêu thất nghiệp những năm giữa
thập niên 4% những năm giữa thập niên 60 không phù hợp đã bước đầu gây ra cuộc lạm
phát lâu dài nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Sau năm 1975, Biểu đồ 11(B) cho thấy tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở trên tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên (Khu vực hồng nhạt), nhưng lạm phát vẫn tiếp tục tăng (hình 11A), cho thấy sự
xuất hiện của lạm phát chi phí đẩy mà chúng tôi mô tả trong Hình 9 (động lực thúc đẩy từ
lạm phát do cầu kéo). Nhận thức của công chúng về chính sách của chính phủ hướng tới
mức việc làm cao giải thích sự duy trì của lạm phát. Tỷ lệ lạm phát kỳ vọng cao hơn từ
lạm phát do cầu kéo thay đổi đường tổng cung ngắn hạn trong hình 9 di chuyển lên và bên


trái, điều này gây ra sự gia tăng thất nghiệp, điều mà các nhà hoạch định chính sách đã cố
gắng loại bỏ bằng cách nới lỏng chính sách tiền tệ, dịch chuyển đường tổng cầu sang bên
phải. Kết quả là sự gia tăng lạm phát liên tục.
Chỉ khi Cục Dự trữ Liên bang cam kết thực hiện chính sách tiền tệ chống lạm phát

dưới thời Chủ tịch Paul Volcker, thực hiện việc tăng lãi suất của quỹ liên bang lên mức
20%, thì lạm phát đã giảm xuống, chấm dứt thời kỳ Đại lạm phát.


SUMMARY
Đối với các cú sốc tổng cầu và các cú sốc cung dài hạn, sự ổn định giá cả và các
mục tiêu ổn định hoạt động kinh tế đều nhất quán: Ổn định lạm phát ổn định hoạt động
kinh tế ngay cả trong ngắn hạn. Tuy nhiên, đối với các cú sốc cung tạm thời, có một sự
cân bằng giữa ổn định lạm phát và ổn định hoạt động kinh tế trong ngắn hạn. Về lâu dài,
không có xung đột giữa lạm phát ổn định và hoạt động kinh tế.
Các nhà hoạt động chủ động coi cơ chế tự điều chỉnh thông qua mức lương và điều
chỉnh giá là rất chậm và do đó chính phủ phải theo đuổi chính sách chủ động, để giải
quyết vấn đề thất nghiệp cao khi nó phát triển. Mặt khác, các nhà thụ động tin tưởng rằng
nhờ cơ chế tự điều chỉnh nhanh nên chính phủ tránh đưa ra các chính sách chủ động để
loại bỏ tình trạng thất nghiệp.
Quan điểm của Milton Friedman cho rằng “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một
hiện tượng tiền tệ”, điều này được thể hiện qua phân tích tổng cầu và cung cầu: Nó cho
thấy các nhà hoạch định chính sách tiền tệ có thể đặt mục tiêu tỷ lệ lạm phát bất kỳ trong
dài hạn thông qua chính sách tiền tệ tự định, điều chỉnh Lãi suất thực cân bằng bằng cách
sử dụng công cụ chính sách tỷ lệ lãi suất liên bang để thay đổi mức độ tổng cầu.
Hai loại lạm phát có thể là kết quả từ một chính sách ổn định của các nhà năng
động để thúc đẩy việc làm cao: lạm phát chi phí đẩy, xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực
hoặc sự đòi hỏi mức lương cao hơn mức bình thường của NLĐ; và lạm phát kéo do cầu
kéo, kết quả là khi các nhà hoạch định chính sách theo đuổi các mục tiêu sản lượng và
việc làm cao thông qua các chính sách làm tăng tổng cầu. Cả hai loại lạm phát trên đều
dẫn tới lạm phát lớn từ năm 1965 đến năm 1982.




×