1
Đề bài:“Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ
tuyệt. Trong đó, có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong tự trong
thơ vậy”
(Nguyễn Đăng Mạnh – Trong cuộc toạ đàm về cuốn Chân dung và đối thoại của Trần
Đăng Khoa,Báo Văn nghệ, số 14, 4/1999)
Anh/chị hãy giải thích ý kiến trên và chọn một số truyện ngắn làm sáng tỏ.
Bài tham khảo
Ta đã từng biết đến khá nhiều những tập truyện ngắn, những tác phẩm vượt qua bao
quy luật khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng và sống mãi trong lòng
bạn đọc. Khi bàn về sự thành công của các tác phẩm đó, ta vội nhớ tới nhận định của nhà phê
bình Nguyễn Đăng Mạnh:“Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ
trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó, có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự
trong tự trong thơ vậy”. Và có lẽ hơn ai hết, Nam Cao đã rất thành công khi gây dựng những
chi tiết đặc sắc trong những trang viết của đời mình, mà trong đó, tiêu biểu nhất là truyện
ngắn “Chí Phèo”,“Đời thừa”.
Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên một tác phẩm truyện ngắn chính là chi tiết. Chi tiết
tuy là những biểu hiện nhỏ nhặt nhưng lại là yếu tố nghệ thuật quan trọng trong tác phẩm tự
sự, là thành phần cấu tạo nên cốt truyện nhằm phục vụ dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Truyện ngắn không nhiều chương, nhiều hồi, nhiều sự kiện và chi tiết như tiểu thuyết, truyện
vốn cô đọng, hàm súc về dung lượng nên mọi chi tiết phải có sự lựa chọn kĩ lưỡng của nhà
văn. Nguyễn Đăng Mạnh quả không sai khi nói “mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi
chữ trong bài thơ tứ tuyệt”. Có ai lại phân tích một bài thơ tứ tuyệt mà bỏ sót một từ, một chữ
đâu. Bởi vậy mà những chi tiết cô đọng, hàm súc được các nhà văn lựa chọn kĩ càng, có vị trí
vô cùng quan trọng trong các tác phẩm truyện ngắn. Vốn đã quan trọng, nay còn quan trọng
hơn khi chi tiết được so sánh giống như “nhãn tự” của một bài thơ tứ tuyệt. “Nhãn tự” là đôi
mắt, là linh hồn, là nơi gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm của nhà thơ, và cũng là nơi dồn nén
những điều mà họ muốn nói. Chi tiết cũng vậy, chúng góp phần hình thành tính cách nhân
vật, chủ đề tác phẩm, khẳng định sự tinh tế, độc đáo tài hoa của người đã viết ra chúng. Tùy
theo biểu hiện cụ thể mà chi tiết có những khả năng khác nhau: giải thích, tái hiện,…. khiến
hình tượng nghệ thuật trở nên gợi cảm và sống động, đồng thời nó cũng khắc họa rõ nét hơn
tư tưởng của tác giả trong tác phẩm đó. Cách đánh giá của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của những chi tiết trong tác phẩm mà còn đặt ra yêu
cầu sáng tạo những chi tiết độc đáo, đặc sắc trong những tác phẩm truyện ngắn để chúng
không bị phai mờ giữa kho tàng văn chương đồ sộ của nước nhà.
Nam Cao là một cây bút lớn, ông đã để lại cho nền văn xuối hiện thực nhiều kiệt tác
với những tìm tòi độc đáo, những sáng tạo mới mẻ về tư tưởng và nghệ thuật. Có thể tác
phẩm kịch và thơ mà ông viết không có gì đặc sắc nhưng những thiên truyện thì đúng là tác
phẩm của một nhà văn lớn. Truyện Nam Cao chủ yếu xoay quanh hai đề tài: người trí thức và
Bản tham khảo đề ôn thi học sinh giỏi
2
người nông dân nghèo. Nhưng mỗi lần viết truyện lại là một lần khám phá riêng bởi sự xuất
hiện của những chi tiết độc đáo và đặc sắc.
“Chí Phèo” là một trong những tác phẩm như vậy của Nam Cao. Ấn thượng nhất đổi
với người đọc chính là chi tiết “cái lò gạch cũ”. Ngay phần đầu của truyện đã có hình ảnh
“cái lò gạch cũ bỏ không”, nơi Chí Phèo sinh ra. Và kết thúc truyện, hình ảnh cái lò gạch ấy
xa nhà vắng người qua lại đã hiện lên trong trí tưởng tượng và sự lo sợ của Thị Nở, khi Thị
hồi tưởng lại những lúc đã ăn nằm với Chí Phèo. Chỉ một hình ảnh nhưng vừa dùng để mở
đầu và kết thúc tác phẩm đã tạo cho thiên truyện có cái kết đầu cuối tương xứng, kết cấu
vòng tròn. Điều đó cũng đã để lại một nỗi day dứt, ám ảnh và nỗi bi thương trong lòng độc
giả. Cái lò gạch cũ đầu tác phẩm là nơi mở đầu một số phận, một kiếp người đau khổ, đầy bi
kịch thương tâm. Hình ảnh cái lò gạch cũ cuối tác phẩm không phải là hình ảnh thực mà là
một hình ảnh tưởng tượng để nói lên rằng dù Bá Kiến, Chí Phèo chết, nhưng Lý Cường liền
đó đã báo hiệu một Bá Kiến mới. Vậy, Chí Phèo tất sẽ ra đời. Giả dụ, Thị Nở không đẻ ra Chí
Phèo con thì ắt sẽ có thị khác. Chừng nào còn những kẻ thống trị tồn tại bằng cách chà đạp
lên nhân phẩm con người một cách tàn bạo, chừng ấy vẫn còn những người lương thiện bị
biến thành lưu manh. Tính tất yếu đó đã được Nam Cao đưa vào chi tiết “cái lò gạch cũ” như
một phương diện để người đọc cảm nhận được một quy luật hiện thực thật ghê sợ. Có lẽ bởi
vậy mà khi tác phẩm ra đời, Nam Cao đã đặt tên truyện là “Cái lò gạch cũ”.
Kết cấu tâm lí cũng đã đem lại thành công cho tác phẩm nhờ cách mở đầu bằng tiếng
chửi. Chỉ một chi tiết “tiếng chửi” thôi chẳng những đã giới thiệu thật hấp dẫn tính cách độc
đáo của nhân vật mà còn hé lộ tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo say rượu, ngật
ngưỡng giữa đường với ba con chó dữ tưởng chừng như không gì điên rồ hơn. Ai lại đi “chửi
Trời, rồi chửi Đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn và chửi cái
đứa chết mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo”. Phải nói đây là câu chửi hoàn toàn có hệ thống và
phạm vị đối tượng được thu lại hẹp dần, ta sẽ hiểu đó không phải là tiếng chửi của kẻ say
không biết trời đất là gì. Nhà văn viết: “Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn sẽ không chửi. Khổ cho
hắn và khổ cho người, hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi….. Khi Chí Phèo ngật ngưỡng
bước ra khỏi trang sách của Nam Cao, người ta liền nhận ra đây mới là hiện thân đầy đủ nhất
cho nỗi khốn khổ, tủi nhục của người dân bần cùng. Ta khó có thể phát hiện được đâu là cái
lưu manh của thằng đâm thuê chém mướn, đâu là cái bất cần của kẻ cố cùng. Chí đã đánh mất
tất cả để rơi xuống đáy tận sâu nhất của xã hội, nơi mà đến những người dân làng Vũ Đại
cũng đã căm ghét, khinh miệt hắn. Những người bình thường đều xa lánh hắn, sự lương thiện
xa lánh hắn, tiếng chửi trở thành ngôn ngữ riêng để Chí Phèo tự trấn an mình, nó như một
phản ứng quen thuộc giúp Chí quên đi sự xa lánh của mọi người. Những tín hiệu yêu cầu giao
tiếp cứ phát đi liên tục nhưng chỉ vấp phải bức tường lặng im đến đáng sợ để cuối cùng, hắn
chỉ có thể đối diện với chính mình. Có thể nói, bài chửi kia là bàu hát lộn ngược ủa Chí Phèo.
Cũng có thể nói, bài chửi kia là âm bản tiếng khóc của một linh hồn méo mó và đau khổ,
tiếng khóc khắc khoải của loài quỷ dữ. Một chi tiết “tiếng chửi” đã khơi dậy trong lòng người
đọc sowh tò mò về những trang tiếp theo của một cuốn phim bi thảm về cuộc đời Chí Phèo.
Xuyên suốt tác phẩm, ta nào có thể quên vẻ đẹp tâm hồn của một con quỷ dữ trong
chi tiết “bát cháo hành”. Cháo hành là món ăn đơn sơ, bình dị và rẻ tiền của những gia đình
nông dân. Hình ảnh bát cháo hành thể hiện sự chăm sóc ân cần của Thị Nở khi Chí Phèo ốm
Bản tham khảo đề ôn thi học sinh giỏi
3
đau trơ trọi một mình trong túp lều ven sông. Chi tiết đó là biểu hiện của tình người hiếm hoi
mà Chí được hưởng, đã đánh thức tình người và tính người vị vùi lấp lâu nay ở Chí. Bát cháo
hành đã làm cho hắn ngạc nhiên, khiến hắn ăn năn và suy nghĩ về tình trạng thê thảm của
mình. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời, Chí được một người đàn bà cho bát cháo hành vì từ
trước tới nay, hắn nào thấy có ai tự nhiên cho cái gì, nếu muốn thì phải dọa nạt, cướp giật thì
người ta mới sợ. Bát cháo hành nồng ấm tình người chính là cơn gió thổi bùng lên cái đốm
lửa lương thiện vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo, khơi dậy trong Chí ước mơ giản dị
và cũng rất nông dân về một gia đình bé nhỏm yên bình. Nam Cao đã cho thấy ở đáy sâu tâm
hồn tưởng chừng cằn cỗi, mê muội của Chí vẫn có chút ánh sáng lương thiện còn sót lại để
rồi con người ấy lại trở về với thế giới bằng phẳng của cõi người. Chính Thị Nở cùng tình
yêu thương thuần khiết nhất, cùng những tình cảm nguyên thủy đã lôi cái phần lương thiện ấy
từ giữa đống hỗn tạp, gai góc và phủ lên trong tâm hồn Chí một cái nhìn lạc quan và lòng
ham sống. Có lẽ, nhà văn muốn khẳng định một điều: tình yêu lứa đôi không phải là một đặc
ân dành cho các ông hoàng, bà chưa, không phải đặc ân dành cho những tri thức giàu có,
những cô gái xinh đẹp. Khát vọng yêu thương luôn hiện hưu trong những số phận cay đắng
nhất của xã hội. Khác với ngoại hình xấu xí, đần độn của Thị Nở, khác với ngoại hình của
con quỷ dữ làng Vũ Đại, họ đều là những tâm hồn trong sáng, khao khát hạnh phúc gia đình
bình dị và đơn sơ. Phần linh hồn của Chí lâu nay buộc phải bán rẻ để đổi lấy miếng ăn thì giờ
đây đã trở về.
Nam Cao đã sử dụng giọt nước mắt như một phương tiện để nhân vật bộc lộ mình, có
lẽ vì thế mà không một tác phẩm nào lại không có sự xuất hiện của giọt nước mắt. Bởi vậy
mà giọt nước mắt của Chí Phèo như một minh chứng cuối cùng của sự lương thiện trong Chí.
Sống trong xã hội làng Vũ Đại khô héo tình người, giọt nước mắt Chí Phèo tưởng như đã khô
cạn, tiêu tan nhưng hóa ra vẫn chảy len lỏi, âm thầm và trong suốt. Nước mắt chảy là tính
người đã hồi sinh khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở. Nhưng nếu khởi đầu là giọt nước
mắt cảm động, ăn năn thì cuối cùng là giọt nước mắt tuyệt vọng “hắn ôm mặt khóc rưng rức”.
Chí khóc bởi hạnh phúc quá ít ỏi, chỗ dựa cuối cùng của hắn đã từ bỏ hắn. Chí hiểu rằng,
không ai chấp nhận sự tồn tại của hắn. Hắn thấy tương lai của mình lại trở về với những cơn
say triền miên và nỗi cô đơn khủng khiếp, mọi nẻo đường đến với sự lương thiện của hắn đã
đóng kín
“Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”.
Đứng cạnh một tác phẩn đồ sộ như “Chí Phèo”, “Đời thừa” cũng là một trong những
truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài “người trí thức nghèo trong xã hội cũ”. Nam Cao đã xây
dựng thành công hình tượng nhân vật Hộ, một nhà văn nghèo khổ nhưng sống bằng triết lí
tình thương. Hắn rất cẩn trọng trong sự nghiệp văn chương và đã từng mơ ước sẽ viết được
một tác phẩm làm mờ hết các tác phẩm khác cùng thời. Nhưng từ khi cưu mang người đàn bà
lỡ làng như Từ, gánh nặng áo cơm đã giết chết những giấc mơ xưa. Hắn trở thành một nhà
văn cẩu thả trong nghề nghiệp, trở thành một người chồng vũ phu với vợ con, tâm hồn hắn
tưởng chừng như đã chết.
Bản tham khảo đề ôn thi học sinh giỏi
4
Nhưng có lẽ chính tình thương yêu của Từ đã thức tỉnh Hộ qua chi tiết “ấm nước đầy
và nước hãy còn ấm”. Cảm thấy buồn chán và đau khổ vì gánh nặng áo cơm, Hô uống rượu
thật say rồi trở về nhà và trút những cơn giận vô cớ lên đầu vợ con. Lúc đầu, Từ đau khổ,
chợt nghĩ chồng mình ghen tuông nhưng sau đó, Từ âm thầm chịu đựng những cơn say
khủng khiếp và dữ dội hơn trước. Khi Hộ tỉnh dậy, nhận được sự chăm chút tận tâm của Từ
qua chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm”. Chỉ một chi tiết thoáng qua nhưng nó đã thể
hiện tình thương yêu sâu bền, lòng biết ơn và sự bao dung, nguyên vẹn của người vợ yếu ớt.
Nó đánh thức lương tâm và lương tri của Hộ, khiến anh thấm thía về tình nghĩa day dứt, ăn
năn về những hành vi vũ phu với vợ con. Cũng chi tiết ấm nước đã góp phần khắc họa tính
cách của nhân vật Từ, một người phụ nữ mềm yếu nhưng thương yêu chồng, biết bao dung và
tha thứ cho những lỗi lầm của chồng. Và cũng chi tiết ấy đã thể hiện tình cảm nhân đạo và
những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống nghèo khó đầy những
khó khăn, gian khổ. Người phụ nữ Việt vẫn bao dung và thương yêu, tình nghĩa đối với người
chồng của mình.
Giọt nước mắt lại một lần nữ xuất hiện đã gieo vào lòng người đọc nhiều suy nghĩ sâu
sắc về cuộc đời, về lẽ sống. Khi tỉnh rượu, nhìn từ mong manh, yếu ớt “khổ cả một đời”, tình
thương trong anh lại trào về. Thế là “nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người
ta bóp mạnh và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra
tiếng khóc”. Và trong cơn sa ngã, Hộ vẫn trung thực với chính mình, vẫn giữ lấy lẽ sống tình
thương, hắn nghẹn ngào trong nước mắt: “Anh chỉ là một thằng khốn nạn”. Nhưng nước mắt
vẫn chỉ là nước mắt, Hộ vẫn bế tắc trong bi kịch không cách nào thoát ra được. Không bởi
vậy mà chúng ta mất đi niềm tin ở Hộ, đúng như lời Từ “anh chỉ là người khổ sở”, Hộ đáng
thương hơn đáng trách. Có lẽ những giọt nước mắt của Hộ đã làm người đọc ít nhiều hi vọng
nó sẽ thanh lọc tâm hồn, nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lại trước vực thẳm sa ngã.
Chi tiết “tiếng ru con” của Từ xuất hiện mờ nhạt ở cuối tác phẩm nhưng lại in đậm
trong lòng người đọc nỗi buồn khắc khoải:
“Ai làm cho khói lên giời
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li
Ai làm cho Nam Bắc phân kì
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”
Tiếng ru của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ
nữ được sống trong tình yêu mà có ít hạnh phúc. Tiếng “ai” nghe sao mà não nề, ao oán.
Hạnh phúc, mái ấm gia đình, cái Đẹp mà Hộ và Từ lúc đầu từng vun đắp cũng chỉ như làn
khói lúc dạt dào đầy ắp nhưng lại dễ vỡ, dễ mất, dễ bay. Tiếng ru hò trong dòng nước mắt
chua xót, mặn đắng những mùi đời, nhưng với Từ có lẽ bi thương ấy không là gì so với tấn bi
kịch mà Hộ phải gánh trên đôi vai. Là mưa đó nhưng cơn mưa của Nam Cao quả là thấm đẫm
tình người. Vậy mà vì miếng cơm manh áo, vì những thứ vụn vặt lại khiến tình cảm vợ chồng
rạn nứt, dù cho đã nhiều lần cố gắng chắp vá, hàn gắn nhưng rồi xung quanh lại kéo đến, hai
chữ “biệt li” như làm cho khoảng cách ngày càng nới rộng ra. “Nam Bắc phân kì” như là một
Bản tham khảo đề ôn thi học sinh giỏi
5
sự tách biệt giữa một phụ nữ đời thường và một nhà văn chỉ biết sống vì lí tưởng nghệ thuật.
Có lẽ vì thế mà kết câu hò lại là giọt nước mắt: “Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Dù
chỉ là lời ru của một người học thức kém nhưng lại đầy sự thấu hiểu và thông cảm cho cuộc
đời của chồng. Ta có cảm giác khi viết lên những dòng này, Nam Cao cũng rất đau đớn, xót
xa cho một đời văn sĩ và tư hỏi liệu rằng đó có phải là lời nhắc nhở cho những nhà văn đang
ngủ say trên lí tưởng mà quên đi rằng cuộc đời chính là nghệ thuật của văn chương.
Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát biểu:
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường
đại học cuộc sống là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm văn chương. Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không phải tác phẩm mà là chi tiết, một
yếu tố đôi khi được coi là nhỏ nhặt, vặt vãnh. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung
thành của thời đại” (Balzac) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt
đầu từ những chi tiết nhỏ. Đã có ý kiến cho rằng: “Đôi khi chỉ vì một đôi mắt mà ta phải cưới
nguyên một người đàn bà”. Câu nói đó đã khẳng định một thực tế là đôi khi, chi tiết có thể
đánh gục được cả tổng thể, thậm chí nó thay thế lấn át tổng thể. Cũng giống như nhân vật Chí
Phèo (Chí Phèo-Nam Cao), nhân vật Bê-li-cốp (Người trong bao-Sê Khôp), nhân vật AQ (
AQ chính truyện-Lỗ Tấn),….. đều là những hình tượng điển hình đặc sắc, được phác họa
bằng nhiều chi tiết cụ thể nhưng có sức khái quát cao, phản ánh được diện mạo, bản chất con
người và bộ mặt của xã hội. Đồng thời, thể hiện những quan điểm nghệ thuật về con người
rất riêng của mỗi nhà văn. Như vậy, chi tiết nghệ thuẩ dù chỉ là yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm
nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. thiếu chi tiết, nhà văn khống thể đúc lên
tác phẩm. Chi tiết càng có sức biểu hiện, sức khơi gợi và ám ảnh càng lớn, càng góp phần
nâng cao giá trị tác phẩm. Và trong kho tàng văn chương đồ sộ, không có một tác phẩm lớn
nào mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống cả. Đó là lí do mà Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh so sánh chi tiết chính là nhãn tự của một bài thơ tứ tuyệt.
Những chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt và vặt vãnh đã góp phần làm nên thành
công của nhà văn Nam Cao. Nó đã khái quát lên một chân lí nghệ thuật: nghệ thuật chân
chính không những tìm thấy cái bình thường trong sự phi thường mà còn phát hiện cái phi
thường trong sự bình thường, thậm chí là tầm thường. Có lẽ chỉ có nhà văn lớn có khối óc và
trái tim lớn mới làm được điều đó.
Bản tham khảo đề ôn thi học sinh giỏi