Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TÌM HIỂU và bảo tồn GIÁ TRỊ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.29 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA DU LỊCH
-------------------

BÁO CÁO THỰC TẬP
TÌM HIỂU VÀ BẢO TỒN GIÁ TRỊ NHÃ NHẠC
CUNG ĐÌNH HUẾ

Đơn vị thực tập

: Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế

Cán bộ hướng dẫn

: PHẠM THỊ DUNG

Sinh viên thực hiện : TRẦN BẢO THUẬN
Ngành

: Hướng Dẫn Du Lịch

Huế, ngày 01 tháng 4 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ vô
cùng to lớn từ các anh, chị tại phòng Hướng dẫn – Thuyết minh của Trung Tâm Bảo
Tồn Di Tích Cố Đô Huế, các thầy, cô Khoa Du Lịch – Đại Học Huế.
Tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành đến Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô
Huế đã cho tác giả có cơ hội thực tập ở đây. Xin gửi lời cám ơn đến các anh, chị phòng
Hướng dẫn – Thuyết minh, đặc biệt là cô Phạm Thị Dung và chú Nguyễn Việt Dũng.


Trong khoảng thời gian thực tập ở đây, các anh chị đã tạo điều kiện, giúp đỡ cũng như
đưa ra không ít lời khuyên để tác giả hoàn thành tốt hơn bài báo cáo thực tập.
Đồng thời, xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến các thầy, cô Khoa Du Lịch – Đại Học
Huế, những người, cùng với tri thức và tâm huyết của mình đã truyền đạt vốn kiến
thức quý báu cho tác giả trong suốt thời gian học tập tại trường. Đặc biệt tác giả xin
gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới ThS. Lê Thanh Minh đã quan tâm giúp đỡ, hướng
dẫn để tác giả hoàn thành tốt luận văn này trong thời gian qua. Sự chỉ bảo tận tình và
chu đáo của cô đã giúp tác giả nhận ra những thiếu sót cũng như tìm ra hướng đi đúng
đắn khi gặp rắc rối.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên.
Chuyên đề tốt nghiệp này không thể tránh được những thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô để có thể bổ sung, nâng cao ý
thức của mình,phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này. Xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 01, tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực tập
Trần Bảo Thuận


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung
MỤC LỤC

PHẦN 1. THÔNG TIN CHUNG.......................................................................................................................... 4
PHẦN 2. BÁO CÁO THỰC TẬP.......................................................................................................................... 4
1. TÌM HIỂU THỰC TIỄN
1.1. Ý THỨC, TINH THẦN, THÁI ĐỘ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC ĐƯỢC GIAO:
1.2. TỔNG QUAN VỀ TRUNG TÂM BẢO TỒN DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ:
1.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
2.THỰC HÀNH NGHIỆP VỤ:

2.1. Ý THỨC, TINH THẦN, THÁI ĐỘ VỚI HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ:
2.2. KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG TÁC NGHIỆP VỤ, HOÀN THÀNH BÁO CÁO THU HOẠCH:
3. ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VÀ BẢO TỒN GIÁ TRỊ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ:
3.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
3.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
3.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
3.5. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI:
3.6. KHÁI QUÁT VỀ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ:
3.7 GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT:
3.8 THÁCH THỨC VÀ BẢO TỒN:

5
5
5
11
11
11
12
12
12
14
15
15
15
16
20
24

PHẦN 3. KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 29


SVTH: Trần Bảo Thuận

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

PHẦN 1. THÔNG TIN CHUNG
Họ và tên sinh viên: Trần Bảo Thuận
Lớp: K47 Hướng Dẫn Du Lịch, Khoa Du Lịch Đại học Huế.
Tên cơ sở thực tập: Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế
Cán bộ hướng dẫn thực tập: Cô Phạm Thị Dung
Thời gian thực tập: Từ 06/02/2017 đến 06/04/2017
NỘI DUNG CÔNG VIỆC THỰC TẬP ĐƯỢC GIAO
Thời gian
thực tập
Ngày
06/02/2017
Từ 07/02/2017
đến 20/02/2017

Từ 21/02/2017
đến 05/03/2017
Ngày
06/03/2017
Từ 07/03/2017
đến 31/03/2017

Ngày
01/04/2017
Ngày
04/04/2017
Ngày
06/04/2017
Ngày
07/04/2017

Nội dung thực tập
Ban lãnh đạo phòng Hướng dẫn thuyết minh
gặp mặt đoàn sinh viên thực tập trao đổi công
việc thực tập
Đọc sách tham khảo tư liệu về văn hóa Huế
Thống nhất đề tài Báo cáo thực tập
Thu thập tài liệu, đề cương sơ bộ của Báo cáo
thực tập
Thực hành thực tế, học hỏi nghiệp vụ hướng
dẫn du lịch
Tiếp tục thu thập tài liệu viết báo cáo thực tập
Kiểm tra thuyết minh hướng dẫn tại Đại Nội

Địa điểm
Trung Tâm Bảo Tồn
Di Tích Cố Đô Huế
Trung Tâm Bảo Tồn
Di Tích Cố Đô Huế
Đại Nội, Bảo tàng Cổ
vật cung đình Huế
Trung Tâm Bảo Tồn

Di Tích Cố Đô Huế
Đại Nội

Lăng Minh Mạng,
Thực hành thực tế, học hỏi nghiệp vụ hướng
lăng Khải Định, lăng
dẫn du lịch tại các điểm lăng
Tự Đức
Trung Tâm Bảo Tồn
Nộp bản thảo báo cáo thực tập
Di Tích Cố Đô Huế
Lăng Minh Mạng, lăng
Kiểm tra thuyết minh tại các điểm lăng
Khải Định, lăng Tự Đức
Trung Tâm Bảo Tồn
Nộp báo cáo thực tập và file bài báo cáo
Di Tích Cố Đô Huế
Trung Tâm Bảo Tồn
Hoàn tất thủ tục đợt thực tập
Di Tích Cố Đô Huế
Trung Tâm Bảo Tồn
Tổng kết đợt thực tập
Di Tích Cố Đô Huế
PHẦN 2. BÁO CÁO THỰC TẬP

SVTH: Trần Bảo Thuận

4

Lớp: K47 HDDL



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

1. Tìm hiểu thực tiễn
1.1. Ý thức, tinh thần, thái độ thực hiện công việc được giao:
- Xác định rõ mục tiêu thực tập của bản thân
- Luôn nâng cao tinh thần, thái độ tự giác học tập, cố gắng nổ lực để hoàn thành
tốt các nhiệm vụ của cơ quan.
- Chủ động tìm hiểu thông tin với bạn bè, cán bộ hướng dẫn nhằm nâng cao hiểu biết.
- Biết lắng nghe, chịu sửa đổi khi các cô chú hướng dẫn nhận xét, góp ý.
- Chấp hành đúng nội quy, quy định của cơ quan thực tập.
- Tham gia đầy đủ công việc được phân công.
1.2. Tổng quan về Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế:
Địa chỉ: 23, Tống Duy Tân, Thành phố Huế, Việt Nam
Điện thoại: +(84.234). 3523237- 3513322 – 3512751
Fax: +(84.234). 3526083
E-mail: ;
Website: huedisan.com.vn & hueworldheritage.org.vn
Lịch sử hình thành:
Được chính thức thành lập vào ngày
10/6/1982. Cơ quan chủ quản trực tiếp là Ủy ban
Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Cơ quan quản lý
về chuyên môn là Bộ Văn hóa, Thể thao & Du
lịch. Cơ quan phối hợp trong quan hệ đối tác với
UNESCO: Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt
Nam. Tư vấn và phối hợp quốc tế trong công tác
quản lý bảo tồn di sản: Văn phòng UNESCO tại

Hà Nội.

SVTH: Trần Bảo Thuận

5

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Chức năng chính:
Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Quần thể di tích Cố đô Huế (được UNESCO
công nhận là Di sản Văn hóa thế giới từ năm 1993), giá trị Nhã nhạc - Âm nhạc Cung
đình Việt Nam (được UNESCO công nhận là Di sản Phi vật thể Đại diện của Nhân
loại năm 2003), và cảnh quan môi trường gắn liền với quần thể di tích.
Những năm qua, với sự hỗ trợ của Chính phủ, của các cá nhân và tổ chức trong
và ngoài nước, đặc biệt là sự phát huy nội lực của bản thân, Trung tâm BTDTCĐ Huế
đã gặt hái được nhiều thành tích đáng kể. Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp
thiết bằng các biện pháp chống dột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cỏ xâm
thực, gia cố và thay thế các bộ phận bị lão hóa, nhờ vậy mà trong điều kiện thiên tai
khắc nghiệt, các di tích vẫn được bảo tồn và kéo dài tuổi thọ. Đi đôi với việc bảo quản
cấp thiết, nhiều công trình di tích và cơ sở hạ tầng đã được tu bổ từng phần hoặc tu bổ
hoàn nguyên. Tổng kinh phí tu bổ trong giai đoạn 1996-2009 chiếm trên 400 tỉ đồng từ
nguồn ngân sách Trung ương, địa phương và tài trợ quốc tế. Đến năm 2008, Trung tâm
đã cơ bản hoàn tất công tác dựng pano quy hoạch khoanh vùng bảo vệ di tích và hiện
đang tiếp tục định vị, xác định tọa độ phục vụ công tác cắm mốc khoanh vùng bảo vệ
di tích, tiếp tục lập hồ sơ điều chỉnh khu vực khoanh vùng bảo vệ một số khu di tích

đảm bảo phù hợp với quy hoạch chung và các quy định hiện hành.
Để phục vụ đắc lực cho công tác phục hồi và trùng tu di tích, các ngành nghề
thủ công truyền thống phục vụ cho công tác tu bổ đã được phục hồi. Xưởng Sản xuất
vật liệu truyền thống của TTBTDTCĐ Huế (nay là Công ty Cổ phần Tu bổ Di tích
Huế) đến nay đã đầu tư nghiên cứu phục hồi các vật liệu truyền thống để phục vụ cho
công tác trùng tu như gạch Bát Tràng, gạch vồ, gạch hoa trang trí, ngói thanh lưu ly và
hoàng lưu ly; Các ngành nghề khác như: sơn thếp, nề ngoã, hội họa, lắp ghép sành sứ,
mộc, sản xuất pháp lam, đúc đồng truyền thống và các nghệ nhân nghề thủ công của
địa phương cũng đã được hỗ trợ, tạo điều kiện để phục hồi và phát triển theo định
hướng bảo tồn, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Cơ sở hạ tầng và cảnh quan thiên
nhiên, sân vườn của nhiều di tích đã được tôn tạo, đẩy lùi không gian hoang phế, từng
bước trả lại diện mạo, dáng vẻ huy hoàng, đích thực ban đầu cho di tích.
Giai đoạn từ 2001 đến nay, Trung tâm đã bảo tồn, tu bổ trên 100 hạng mục công
trình, đảm bảo các nguyên tắc khoa học về bảo tồn của quốc gia và quốc tế, đồng thời

SVTH: Trần Bảo Thuận

6

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

chú trọng công tác nghiên cứu sưu tầm tư liệu, đảm bảo điều tra thám sát khảo cổ học
đi trước một bước; Tổ chức thành công trên 20 hội thảo tầm cỡ quốc gia và quốc tế;
Biên soạn và xuất bản trên 30 đầu sách và kỷ yếu hội thảo; Xây dựng gần 100 hồ sơ
khoa học phục vụ công tác bảo tồn, trùng tu di tích và phục hồi các bài bản nhạc, múa

và tuống cung đình; Thực hiện được hàng chục đề tài nghiên cứu, ứng dụng cấp bộ,
ngành, khẳng định được vai trò và vị thế của mình trong lĩnh vực bảo tồn; Tổ chức
hàng trăm cuộc biểu diễn Nhã nhạc, hàng chục cuộc trưng bày triển lãm về di sản văn
hóa Huế trong nước và quốc tế; Thực hiện thành công hai bộ hồ sơ đệ trình UNESCO
đề nghị công nhận quần thể di tích Huế là "Di sản Văn hóa Thế giới" (được công nhận
ngày 11/12/1993) và Nhã nhạc-Âm nhạc Cung đình Việt Nam là "Di sản Văn hóa Phi
Vật thể Đại diện của Nhân loại" năm 2003; Hợp tác với hàng chục tổ chức, học viện
và trường đại học trong và ngoài nước về nghiên cứu và đào tạo; Hợp tác và phối hợp
với các tổ chức bảo tồn quốc tế thực hiện hàng chục dự án bảo tồn, tu bổ di tích và các
tác phẩm nghệ thuật đạt chất lượng cao.
Ngoài ra, Trung tâm còn ra tờ tin chuyên đề theo định kỳ hàng quý từng năm.
Bên cạnh việc bảo tồn các tài sản văn hóa vật thể, công tác gìn giữ và bảo tồn
các giá trị văn hoá phi vật thể cũng từng bước được khẳng định. Kể từ khi thành lập
(1994), Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế đến nay đã có hơn 100 diễn
viên, nhạc công đã qua đào tạo chuyên ngành; có đội ngũ cán bộ, chuyên viên am hiểu
nghệ thuật; có sự cộng tác của các nhà nghiên cứu, nghệ nhân, nghệ sĩ có uy tín và
giàu kinh nghiệm...
Nhiều năm qua, Nhà hát đã sưu tầm, dàn dựng và biểu diễn trên dưới hàng chục
bài nhạc lễ; xây dựng nhiều điệu múa cung đình đặc sắc. Bên cạnh đó, Nhà hát còn
tham gia nhiều Festival, liên hoan nghệ thuật trong và ngoài nước được dư luận đánh
giá cao.
Việc xã hội hoá công tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Văn hóa Huế cũng
được đẩy mạnh bằng các cuộc thi tìm hiểu về di tích Huế trong học đường và cho các
đoàn viên thanh niên thuộc các cơ quan nhà nước trong Tỉnh, thi thiếu nhi vẽ tranh về
di tích Huế, khuyến khích sưu tầm các tài liệu, hiện vật liên quan đến di tích, ghi băng
hình các nghệ nhân hoặc thu thập thông tin từ các nhân chứng sống đã từng làm việc
tại các di tích Huế... Ngoài ra, Trung tâm còn thực hiện phương án mở cửa miễn phí

SVTH: Trần Bảo Thuận


7

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

các điểm di tích cho khách tham quan vào ngày Quốc khánh Nước CHXHCN Việt
Nam (2-9) và ngày mồng Một tết Âm lịch hàng năm để phục vụ nhu cầu hưởng thụ
văn hoá cho đông đảo công chúng. Nhà hát Nghệ thuật Hoàng gia Duyệt Thị Đường
cũng được mở cửa các ngày trong tuần với những chương trình âm nhạc truyền thống
đặc sắc do các diễn viên của Nhà hát Nghệ thuật Cung Đình Huế biểu diễn phục vụ
cho khách du lịch, góp phần làm phong phú thêm nội dung tham quan. Đặc biệt, trong
các kỳ Festival Huế, Trung tâm đã có nhiều hoạt động đóng góp quan trọng vào sự
phong phú, đặc sắc của chương trình lễ hội với các loại hình nghệ thuật cung đình như
múa cung đình, tuồng cung đình, Nhã nhạc, lễ tế Nam Giao, Lễ Truyền lô.
Là một đơn vị lớn mạnh trên lĩnh vực quản lý bảo tồn và trùng tu di sản văn hoá,
được UBND Tỉnh giao nhiệm vụ tự hạch toán thu chi ngân sách hàng năm doanh thu
từ vé tham quan di tích, hàng năm, ngoài nguồn vốn Trung ương cấp và vốn kêu gọi tài
trợ từ các tổ chức quốc tế, Trung tâm trích thêm khoảng 30-32 tỷ đồng từ doanh thu
của đơn vị cho công tác bảo tồn và tu bổ di tích.
Những nỗ lực của Trung tâm BTDTCĐ Huế đã mạng lại những thành quả đáng
kể. Lượng khách đến thăm di tích Huế tăng đều qua các năm. Từ năm 1996 đến năm
2013, Trung tâm đã đón hàng ngàn lượt khách trong và ngoài nước đến tham quan các
điểm di tích. Riêng năm 2013, Trung tâm đã đón gần 1 triệu lượt khách quốc tế và hơn
1 triệu lượt khách nội địa, đạt doanh thu trên 127 tỷ đồng, góp phần củng cố nguồn
kinh phí đầu tư trùng tu và phát huy giá trị các di tích.
Sự nghiệp bảo tồn gìn giữ di tích Huế không dừng lại ở đó mà nói như lời khẳng

định của Tiến sĩ Richard A.Engelhardt - cố vấn văn hóa của UNESCO vùng Châu Á
Thái Bình Dương - " Huế vẫn mãi mãi được giữ gìn"...
Thông tin về phòng Hướng dẫn – thuyết minh:
- Hướng dẫn, thuyết minh giới thiệu về văn hóa Huế, các giá trị về lịch sử, kiến
trúc, mỹ thuật… cho du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan di tích Huế.
- Phối hợp với các phòng ban trong Trung tâm và các đơn vị chức năng trong tỉnh
để mở rộng và phát triển du lịch.
- Phục vụ hướng dẫn, thuyết minh các đoàn nguyên thủ quốc gia, các đoàn khách
của Chính phủ, UBND tỉnh… đến tham quan di tích Huế.

SVTH: Trần Bảo Thuận

8

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

- Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ di sản văn hóa thế giới nói
chung và văn hóa Huế nói riêng, giới thiệu với du khách trong và ngoài nước về công
cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế.
- Tham gia dịch thuật phục vụ các Hội nghị quốc tế do Trung tâm Bảo tồn Di tích
Cố đô Huế tổ chức.
- Phối hợp với các phòng ban trong Trung tâm tham gia phục vụ các lễ hội trong
khuôn khổ Festival Huế và các chương trình lễ hội thường xuyên như: Lễ tế Xã Tắc,
Lễ tế Nam Giao …
- Phối hợp với các đơn vị chức năng để giới thiệu và mở rộng các tour, tuyến du

lịch mới trong và ngoài tỉnh.
Thông tin về Nhà hát nghệ thuật truyền thống cung đình Huế:

Nhà hát Minh Khiêm Đường

Nhà hát Duyệt Thị Đường

SVTH: Trần Bảo Thuận

9

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Nhà hát NTTT CĐ Huế - thuộc Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế có chức
năng bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật cung đình Huế, bao gồm: Nhã nhạc,
Múa cung đình và Tuồng cung đình.
- Nghiên cứu chọn lọc, bảo tồn giá trị các thể loại di sản văn hoá nghệ thuật
truyền thống cung đình Huế.
- Sưu tầm các giá trị văn hóa truyền thống có liên quan đến cung đình như: nhạc
cung đình, ca múa cung đình, tuồng cung đình và lễ hội cung đình.
- Tổ chức bảo tồn, lưu trữ, trưng bày, biểu diễn phục vụ khách tham quan du lịch
nhằm tạo sự sinh động, phong phú cho chương trình tham quan và tăng thêm nguồn
thu cho ngân sách.
- Tổ chức giao lưu, hợp tác văn hóa nghệ thuật khi có nhu cầu và được cấp trên
cho phép. Phối hợp với các cơ quan văn hóa nghệ thuật nhằm đào tạo nhạc công và

diễn viên để nâng cao trình độ cán bộ.
- Tạo nguồn thu để góp phần vào công cuộc tu bổ di tích theo phương châm "lấy
di tích nuôi di tích".
Nhà hát có trên 150 diễn viên, nhạc công đã qua đào tạo chuyên ngành; có đội
ngũ cán bộ, chuyên viên am hiểu nghệ thuật; có sự cộng tác của các nhà nghiên cứu,
nghệ nhân, nghệ sĩ có uy tín và giàu kinh nghiệm như: G.S - TS Trần Văn Khê, GS TS Tô Ngọc Thanh, GS Hoàng Châu Ký, NSƯT Trần Kích, Nghệ nhân Lữ Hữu
Thi... Nhiều năm qua, Nhà hát đã sưu tầm, dàn dựng và biểu diễn trên dưới 40 bài
nhạc lễ; xây dựng nhiều điệu múa cung đình và các trích đoạn Tuồng tiêu biểu, góp
phần gìn giữ và bảo tồn những giá trị đặc sắc của nghệ thuật biểu diễn truyền thống
Việt Nam. Nhà hát đã tham gia biểu diễn tại nhiều liên hoan nghệ thuật ở trong và
ngoài nước, được dư luận đánh giá cao.
Nhiều năm qua, Nhà hát đã sưu tầm, dàn dựng và biểu diễn trên 40 bài nhạc lễ,
xây dựng nhiều tiết mục múa Cung đình đặc sắc như: Lục cúng hoa đăng, Nữ tướng
xuất quân, Lân mẫu xuất Lân nhi... các trích đoạn Tuồng Cung đình tiêu biểu trong vở
sơn hậu, Tam Nữ Đồ Vương, Quần phương tập khánh. Bên cạnh đó, Nhà hát còn tham
gia nhiều Festival, Liên hoan nghệ thuật trong nước và Quốc tế, đạt được nhiều thành
tích, nhiều giải thưởng. Cùng với những chương trình biểu diễn tại các Nhà hát như:
Duyệt Thị Đường, Minh Khiêm Đường... Nhà hát NT - TTCĐ đang tiếp tục sự nghiệp

SVTH: Trần Bảo Thuận

10

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung


nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản Nghệ thuật Cung đình Huế cho các thế hệ tiếp
nối, đồng thời quảng bá, đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của
công chúng. Đến với chương trình biểu diễn của Nhà hát NT - TTCĐ Huế, mọi người
như được sống lại trong không gian văn hoá - nghệ thuật của Hoàng cung Huế cách đây
hàng mấy trăm năm. Cung điện cổ kính, thành quách rêu phong dường như được hồi
sinh và hoà trong âm thanh, sắc màu: Rực rỡ mà trang nghiêm, hoành tráng mà trữ tình.
1.3. Bài học kinh nghiệm:
Khoảng thời gian thực tập hai tháng tại Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế
là một cơ hội lớn, nơi các anh chị đã tạo không ít cơ hội cho tôi được tiếp xúc với thực
tế, cụ thể là các điểm đến di tích là các lăng tẩm và Đại Nội.
Trong quá trình kiểm tra kiến thức cũng như kỹ năng thuyết minh, lúc bắt đầu tôi
nhận thấy mình còn có một phần thiếu tự tin nhưng về sau đã ổn định lại. Các anh chị
ở đây đã giúp đỡ cũng như chia sẻ không ít thông tin cũng như kinh nghiệm của mình
về những kỹ năng nghề nghiệp cũng như xử lý các tình huống có thể phát sinh.
Tôi đã có cơ hội áp dụng những kiến thức mình học được ở trường cũng như
những thông tin thu nhận được từ các anh chị ở phòng Hướng dẫn – thuyết minh vào
thực tế.
Tôi nhận ra rằng ở bất cứ điểm du lịch nào, dù đã quen thuộc cũng cần phải nắm
rõ kiến thức, có sự chuẩn bị rõ ràng về thông tin, không bao giờ được chủ quan.
Quá trình thực tập đã giúp tôi hiểu biết thêm không ít về văn hóa lịch sử Việt
Nam nói chung và Huế nói riêng, về con người và văn hóa cố đô mình.
2.Thực hành nghiệp vụ:
2.1. Ý thức, tinh thần, thái độ với hoạt động nghiệp vụ:
- Luôn chấp hành đúng những quy định về thực hành nghiệp vụ.
- Lắng nghe và tuân thủ ý kiến của cấp trên.
- Nghiêm túc tham gia các phân công của cơ sở thực tập, linh hoạt trong các hoạt
động như tìm hiểu tài liệu tại thư viện, thực tế tại các điểm lăng và Đại Nội.
- Chú ý quan sát, ghi chép tiếp thu thông tin, ý kiến từ các anh chị hướng dẫn.
- Nỗ lực hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.


SVTH: Trần Bảo Thuận

11

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

2.2. Khả năng vận dụng các phương pháp để thực hiện công tác nghiệp vụ,
hoàn thành báo cáo thu hoạch:
- Về thực hành nghiệp vụ:
+ Nghiên cứu các tài liệu, sách báo có liên quan đến các điểm di tích phục vụ tốt
cho công tác thực hành nghiệp vụ.
+ Vận dụng kỹ năng quan sát các hoạt động thao tác của cán bộ hướng dẫn.
+ Chuẩn bị chu đáo về mặc cá nhân như: trang phục, thẻ sinh viên, thẻ ra vào Di tích…
+ Luôn đưa ra câu hỏi khi thắc mắc về một vấn đề nào đó.
- Về báo cáo thu hoạch:
+ Thu thập sưu tầm các tài liệu tham khảo về Nhã nhạc cung đình.
+ Xin sự giúp đỡ từ cán bộ hướng dẫn khi có thắc mắc.
+ Vận dụng các phương pháp để viết báo cáo thu hoạch như: thu thập thông tin, so
sánh đối chiếu, tìm hiểu lịch sử, nghiên cứu khoa học và logic, phân tích và tổng hợp.
2.3. Công việc được giao:
Đọc sách tham khảo tư liệu về văn hóa Huế.
Thu thập tài liệu viết báo cáo thực tập.
Thực hành thực tế, học hỏi nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại các điểm lăng và Đại Nội.
Làm báo cáo thực tập.
3. Đề tài: Tìm hiểu và bảo tồn giá trị Nhã nhạc cung đình Huế:

3.1. Lý do chọn đề tài:
Nếu như trước đây những nhu cầu vật chất nhận được phần lớn sự quan tâm của
mọi người, những nhu cầu như ăn uống là những nhu cầu thiết yếu thì ngày nay, sự
bùng nổ của khoa học kỹ thuật đã cải thiện đời sống con người một cách đáng kể và
theo đó du lịch, giải trí trở thành những nhu cầu không thể thiếu.
Cùng với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, du lịch ở Thừa Thiên huế đã
có những bước phát triển lớn. Huế đã trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn
của cả nước. Huế có được một nguồn tài nguyên du lịch lớn và phong phú với nhiều di
sản độc đáo được UNESSCO công nhận là di sản thế giới. Triều Nguyễn (1802-1945),
triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam, đã để lại cho cố đô Huế một di sản đồ sộ bao
gồm cả di sản vật thể và phi vật thể có giá trị nổi bật toàn cầu: Quần thể di tích cố đô
Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới (1993), Âm nhạc cung đình Việt Nam -

SVTH: Trần Bảo Thuận

12

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Nhã nhạc (triều Nguyễn) được vinh danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của
Nhân loại (2003) và ba Di sản tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu
bản triều Nguyễn (2014) và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016).
Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta.Trên phương diện
văn hóa nghệ thuật, triều Nguyễn có một số đống góp nhất định trong bảo tồn và phát
triển tính truyền thống Việt Nam. Cụ thể hơn, âm nhạc truyện Nguyễn kế thừa từ

những triều đại trước đã phát triển rực rỡ, phong phú về cả đề tài, thể loại và số lượng.
Các chúa Nguyễn, vua Nguyễn đã cho xây dựng không ít các đền đài, nhà hát, tổ
chức các lễ hội, tuyển mộ nhân tài âm nhạc khắp nơi, thành lập các tổ chức âm nhạc
cung đình, thu thập các tác phẩm âm nhạc có từ trước và sáng tác thêm nhiều các tác
phẩm mới. Đây là điều kiện cho âm nhạc cung đình bấy giờ đạt đến đỉnh cao. Nhã
nhạc cung định Huế có thể xem như là phát triển đến hoàn chỉnh.
Nhã nhạc cung đình Huế là một di sản phi vật thể độc đáo. Đây là thể loại nhạc cung
đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội, lễ tế trong năm, hoặc chỉ đơn giản
được biễu diễn cho Vua thưởng thức, Nhã nhạc cung đình Huế được UNESSCO công
nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại, với đánh giá: “Trong các thể loại
nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia”.
Âm nhạc cung đình Huế là sự kế thừa và phát triển lên một đỉnh cao mới những
thành tựu của dòng nhạc cung đình Thăng Long đã được xây dựng từ nhiều thế kỉ
trước. Sự kế thừa và phát triển đó thể hiện ở những yếu tố như: việc duy trì một số tổ
chức dàn nhạc cung đình của những triều đại trước và tạo những biến thể mới đa dạng
trên cơ sở những tổ chức dàn nhạc thời Lê, việc tiếp tục sử dụng nhiều nhạc khí thông
dụng trong âm nhạc cung đình Thăng Long, việc duy trì và biến hoá một số điệu múa
cung đình đã có từ trước và sáng tạo thêm nhiều điệu múa mới, sáng tạo một thể loại
ca nhạc thính phòng mới (đàn ca Huế) và đẩy khí nhạc Việt Nam lên một bước phát
triển cao hơn cả về kĩ thuật diễn tấu, hình thức hoà tấu, kế thừa nghệ thuật hát bội
Đàng Ngoài và phát triển nó lên độ cực thịnh, kế thừa có biến hoá hệ thống âm luật
năm Hồng Đức thời Lê, nửa cuối thế kỉ 15 và phát triển nhạc ngữ, nhạc lí, kế tục
truyền thống học hỏi, tiếp thu và Việt hoá những yếu tố nước ngoài đã định hình trong
âm nhạc Việt nói chung, âm nhạc cung đình Thăng Long nói riêng.
Nhã nhạc- âm nhạc cung đình Việt Nam là một di sản độc đáo mà Huế còn giữ được.

SVTH: Trần Bảo Thuận

13


Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Một buổi biểu diễn Nhã nhạc cung đình tại cổng Ngọ Môn – Huế
Tuy vậy, các cua Nguyễn từ sau thời Tự Đức, vì nhiều nguyên do dẫn đến không
chú trọng nền âm nhạc cung đình như trước nữa, gây ra sự sa sút. Chất lượng nghệ
thuật cũng giảm. Đến sau khi vua Bảo Đại thoái vị thì nền âm nhạc cung đình Huế đã
xuống cấp trầm trọng. Cho đến cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, di sản này đã thực
sự ở trong tình trạng lâm nguy do đội ngũ nghệ nhân ngày càng vắng bóng và do thiếu
môi trường diễn xướng. Đồng thời, có thể thấy được sự phát triển của âm nhạc hiện
đại đã khiến cho nhạc xưa, mà ở đây là Nhã nhạc, tuy độc đáo và mang bản sắc dân tộc
độc đáo, vẫn một phần nào đó đã đi vào dĩ vẵng. Để Nhã nhạc có thể tồn tại, phát triển,
cần có sự thúc đẩy của con người. Yêu cầu bức thiết được đặt ra ở đây: Bảo tồn Nhã
nhạc cung đình Huế.
3.2 Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này được thực hiện với mục đích:
- Tìm hiểu một cách sâu sắc từ nguồn gốc, lịch sử hình thành, cho đến các yếu tố
tạo nên giá trị của Nhã nhạc cung đình Huế, là một di sản phi vật thể và truyền khẩu
của nhân loại thông qua sách báo, tư liệu và các nghiên cứu. Nhã nhạc cung đình triều
Nguyễn có thể đại diện cho nền âm nhạc cung đình Việt Nam với đầy đủ các yếu tố
trong âm nhạc cung đình các triều đại trước. Nó là sự kế thừa và phát triển từ những
thành tựu của nhạc cung đình Thăng Long, là sự hội nhập, tiếp thu văn hóa Hoa, Chăm
và cũng chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo.

SVTH: Trần Bảo Thuận


14

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

- Tìm hiểu, đưa ra một cái nhìn trực quan, chi tiết về hai khía cạnh của Nhã nhạc
cung đình Huế: giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
- Nghiên cứu này cho thấy tầm quan trọng của giá trị Nhã nhạc cung đình Huế, cho
thấy yêu cầu bức thiết hiện tại là cần phải bảo tồn và phát huy các giá trị của Nhã nhạc
cung đình Huế, để nó có thể phát triển, tiếp cận với cả du khách trong lẫn ngoài nước.
3.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là Nhã nhạc cung đình Huế, được
UNESSCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể năm 2003, bao gồm: các
yếu tố hình thành, đặc điểm nổi bậc, những giá trị, những thách thức cũng như giải
pháp bảo tồn Nhã nhạc cung đình Huế hiện nay và vấn đề liên quan ( bảo tồn nhà hát
Duyệt Thị Đường).
3.4. Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu
2. Phương pháp so sánh, tổng hợp
3. Phương pháp tiếp cận lịch sử và logic
3.5. Cấu trúc đề tài:
Cấu trúc bao gồm 3 phần chính:
Phần 1. Mở đầu.
Phần 2. Nội dung.
Chương 1: Khái quát về Nhã nhạc cung đình Huế.
1.1 Một số khái niệm về Nhã Nhạc cung đình

1.2 Lịch sử hình thành Nhã nhạc cung đình
1.3 Giới thiệu chung về Nhã nhạc cung đình Huế
Chương 2: Tổng quan các yếu tố chính tạo nên Nhã nhạc cung đình Huế
2.1. Các nhân tố chi hình thành nền tảng âm nhạc cung đình Huế.
2.2. Dòng nhạc.
2.3. Tổ chức dàn nhạc.
2.4. Những nghệ sĩ cung đình.
Chương 3: Giá trị Nhã nhạc cung đình Huế.
3.1. Giá trị nội dung
3.2. Giá trị nghệ thuật

SVTH: Trần Bảo Thuận

15

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Chương 4: Một số vấn đề về bảo tồn Nhã nhạc cung đình Huế.
4.1. Nhà hát Duyệt Thị Đường
4.2. Thách thức bảo tồn
4.3. Giải pháp phát triển
Phần 3. Kết luận.
3.6. Khái quát về Nhã nhạc cung đình Huế:

Nhã nhạc cung đình Huế chính thức hình thành với sự lên ngôi của triều

Nguyễn vào đầu thế kỉ 19. Tuy nhiên, nền tảng ban đầu của Âm nhạc cung đình Việt
Nam đã bắt đầu manh nha từ thế kỉ 17 dưới thời các chúa Nguyễn khi vào cát cứ Đàng
Trong. Thời kỳ hưng thịnh nhất của âm nhạc cung đình Huế là nửa đầu thế kỷ 19
cho tới thời Vua Tự Đức (1848 – 1883).
Dưới thời Nguyễn, Nhã nhạc được dùng trong các lễ tế đại triều 2 lần/ tháng,
thường triều 4 lần/tháng: Nam Giao, Tịch Điền, sinh nhật Vua và Hoàng hậu. Tế bất
thường: Đăng quang, lễ tang của vua và hoàng hậu, đón tiếp sứ thần. Tùy theo từng
cuộc tế lễ mà có các thể loại khác nhau, như đai triều nhạc dùng trong lễ Nguyên đán,
Ban sóc ... Đại yến cửu tấu nhạc dùng trong mừng thọ, chúc thọ, tiếp đãi sứ thần ...
Cung trung nhạc biểu diễn trong trong các cung hoàng thái hậu và thái hoàng thái
hậu... Miếu nhạc sử dụng tại các nơi thờ vua, chúa ... Ngũ tự nhạc dùng trong tế Xã
tắc, Tiên nông...

SVTH: Trần Bảo Thuận

16

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Nhã nhạc lúc này có hệ thống bài bản rất phong phú, với hàng trăm nhạc chương
(lời ca bằng chữ Hán). Các nhạc chương đều do Bộ Lễ biên soạn phù hợp với từng
cuộc lễ của triều đình. Tế Giao có 10 nhạc chương mang chữ Thành (thành công); Tế
Xã tắc có 7 nhạc chương mang chữ Phong (được mùa); Tế Miếu có 9 nhạc chương
mang chữ Hòa (hòa hợp), Tế Lịch Đại Đế vương có 6 nhạc chương mang chữ Văn (trí
tuệ); Lễ Đại triều dùng 5 bài mang chữ Bình (hòa bình); Lễ Vạn thọ dùng 7 bài mang

chữ Thọ (trường tồn); lễ Đại yến dùng 5 bài mang chữ Phúc (phúc lành)... Từ cơ sở kế
thừa các triều đại trước, triều Nguyễn đã cho bổ sung thêm nhiều loại thể nhạc như
Huyền nhạc, Ty trúc tế nhạc, Ty chung, Ty khánh, Ty cổ.
Vào cuối thế kỷ 19, khi đất nước lâm vào nạn ngoại xâm, vai trò của triều đình
mờ dần, thì âm nhạc cung đình cùng các lễ nghi cũng giảm và mờ dần. Vào cuối thời
Nguyễn, chỉ còn duy trì 2 loại dàn nhạc là Đại nhạc (gồm trống, kèn, mõ, bồng, xập
xõa) và tiểu nhạc (trống bản, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam, địch, tam âm, phách tiền).
Ngoài ra, triều đình cho du nhập dàn Quân nhạc của phương Tây, làm cho vai trò của
Nhã nhạc càng mờ nhạt thêm.
Khoảng năm 1947-1948, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại, vợ vua Khải Định) đã tập
hợp một số nghệ nhân cung đình từ thời vua Bảo Đại, nhờ đó một số thể loại ca múa
nhạc cung đình được duy trì. Những năm 80 của thế kỷ 20, âm nhạc cung đình Huế bắt
đầu được sự quan tâm của Bộ Văn hoá và chính quyền địa phương. Vào những năm
90, âm nhạc cung đình Huế bước vào giai đoạn phục hưng. Từ đó tới nay loại hình
nghệ thuật này đã được đưa đi giới thiệu ở nhiều nơi trên thế giới.
Niên biểu Nhã nhạc cung đình Huế:
Khoảng thời gian từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 18 dưới thời các chúa Nguyễn (1558 –
1777):
Từ những năm 30 của thế kỉ 17, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (1572 – 1634)
tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các
chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ
Thanh Bình ở Huế đã tiếp thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc
Nguyên (1623 – 1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của
các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội ca, đội
múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cho đến đầu thế kỉ 18, nhạc cung đình

SVTH: Trần Bảo Thuận

17


Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá
của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu
(1692 – 1725) sau chuyến đi thăm Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem
ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là điệu
múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô ” tiểu hầu ” của
đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy ” đội
mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao lòng
người xem ” (hồi ký Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963).
Khoảng thời gian cuối thế kỉ 18: dưới thời Tây Sơn (1788 – 1802)
Năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, một vua
Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh, cầu hòa
và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là “An
Nam quốc vương” và vui lòng thưởng thức đoàn “An Nam quốc nhạc” biểu diễn chúc
thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại
giao Đại Việt quốc thư mà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội
điển triều Thanh đã mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công và vũ công
người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà Hội điển triều
Thanh đã ghi lại bằng chữ nôm: “một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p’o),
hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t’an hien tse, có thể là đàn tam), một
cái đàn hồ cầm (kai t’an hou k’in), một cái đàn song vận (kai t’an choang wen, có thể
là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t’an p’i p’a), một cái tam âm la (kai san in lo). Đó
là phần nhạc khí.
Khoảng thời gian thế kỉ 19: dưới sự thịnh trị của triều Nguyễn (1802 – 1885)

Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình
Đại Việt – Việt Nam – Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô Phú Xuân
(Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương loại chí
của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ 19) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử
quán (giữa thế kỉ 19) cho biết: Từ sau khi Gia Liều nhạc, Thường triều nhạc, Yến
nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc dcổ điển đất nước và
con người thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuống cổ điển, cung đình đmmai
(thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát rạp hát lớn

SVTH: Trần Bảo Thuận

18

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình,
nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh
Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng
Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập
của những rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An
Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v…
Từ năm 1802 đến 1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc
cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh,
một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.
Từ năm 1820 đến 1840: Vua Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị

đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với
50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội
Huế: Thanh bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát
bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân
khấu đã phát triển tốt đẹp:
“Trong trường hát vào mùa xuân rạng rỡ, ca múa nghiêm trang, trên sân khấu
mây vờn, hòa tiếng nhạc của lời ca trong trẻo. Diễn lại mấy chuyện vui xưa nay, kể hết
những điều kỳ quan trong thiên hạ. Tiếng nhạc tao nhã rõ ràng, âm thanh phát ra chậm
rãi. Tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng trống, tiếng sáo hòa lại với nhau để nghe. Âm
thanh dội lên đến mây xanh (các diễn viên ) thi nhau biểu diễn. Xem diễn trò hề vui
nhộn, nhưng trong lòng người thưởng thức, lại thấy bàng hoàng. Các đấng đế vương
chúa tể ngày xưa tưởng như đang hiện ra rõ ràng trước mặt, các vị anh hùng hào kiệt
thưở trước cũng sống lại rạng rỡ đâu đây”.
Từ năm 1841 đến 1883: Thời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và
hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864)
trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức
đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị,
vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa thơ văn,
thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn
tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 – 1907)

SVTH: Trần Bảo Thuận

19

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp


CBHD: Phạm Thị Dung

Khoảng thời gian cuối thế kỉ 19 và nửa đầu thế kỷ 20: (1885 – 1945)
Từ năm 1858 đến 1885: Người Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà
Nẵng, rồi chiếm dần Miền Nam, Miền Bắc. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân
(Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết
quyền bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút.
Từ năm 1889 đến 1925: Vua Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng
ấu (nghệ nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.
Từ năm 1925 đến 1945: Dưới thời Vua Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội
gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt
động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao
(3 năm một lần).
Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần
cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước công chúng.
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Môn, Vua Bảo Đại, hoàng đế cuối cùng của
triều Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời tan rã.
Đến năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế được UNESSCO công nhận là kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
3.7 Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật:
Giá trị nội dung:
Trung tuần tháng 8/2002, bộ hồ sơ Nhã nhạc đã được Trung tâm BTDTCĐ Huế
thực hiện và Chính phủ đã ký quyết định gửi đến UNESCO đăng ký ứng cử vào Danh
mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại.
Hồ sơ Nhã nhạc bao gồm: trên 100 trang (hồ sơ viết), gần 100 trang phụ lục, trên
50 ảnh tư liệu và hiện trạng, phim slide, băng hình thuyết minh (10 phút), băng hình
minh họa (70 phút), cùng nhiều tài liệu liên quan khác. Hồ sơ đã khẳng định Nhã nhạc
là loại hình âm nhạc cung đình đạt đỉnh cao vào thế kỷ 19 ở Việt Nam, Huế là trung
tâm hội tụ và lan tỏa các giá trị này. Với các giá trị của không gian, bối cảnh, các kỹ
năng kỹ thuật, cách thức diễn xướng, trình tấu, vị thế mang tính chất khẳng định bản

sắc văn hóa thực trạng của công cuộc bảo tồn và chương trình hành động...
Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam đã được UNESCO công
nhận là kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại cùng với 27 kiệt tác khác của

SVTH: Trần Bảo Thuận

20

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Châu Á; Châu Mỹ La tinh, vùng Caribê ; Châu Âu; Châu Phi; vùng Trung Đông , Đa
quốc gia.
Với những giá trị nổi bật, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam, bằng tất cả
những gì còn lại ở Huế chắc chắn sẽ tiếp tục được giữ gìn và bảo tồn một cách hiệu
quả, góp phần cùng với các loại hình di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam
khẳng định vị thế của một dân tộc, một quốc gia trong khu vực và thế giới.
Giá trị nghệ thuật:
Nhã nhạc là loại hình âm nhạc cung đình đạt đỉnh cao vào thế kỷ 19 ở Việt Nam,
Huế là trung tâm hội tụ và lan tỏa các giá trị này. Với các giá trị của không gian, bối
cảnh, các kỹ năng kỹ thuật, cách thức diễn xướng, trình tấu, vị thế mang tính chất khẳng
định bản sắc văn hóa thực trạng của công cuộc bảo tồn và chương trình hành động.
Các thể loại âm nhạc cung đình Huế bao gồm: nhạc lễ nghi thờ cúng và nhạc lễ
nghi triều chính, múa cung đình, ca nhạc thính phòng và kịch hát (tuồng cung đình).
Xưa kia nhạc cung đình Huế bao gồm nhiều thể loại: Giao nhạc dùng trong lễ Tế
Giao; Miếu nhạc dùng trong các lễ tế miếu; Ngũ tự nhạc dùng trong các cuộc tế lễ

Thần Nông, Thành Hoàng, Xã Tắc; Đại triều nhạc dùng trong những dịp lễ lớn hoặc
đón tiếp sứ thần các nước; Thường triều nhạc dùng trong các lễ thường triều; Yến nhạc
dùng trong các cuộc yến tiệc lớn trong cung đình; Cung nhạc phục vụ trong nội cung.
Múa cung đình Huế xưa có nhiều điệu sử dụng vào những dịp khác nhau. Mười
một điệu múa cung đình còn tồn tại đến ngày nay là: Bát dật dùng trong tế giao, miếu,
xã tắc, lịch đại đế vương và Khổng Tử; Lục cúng, Tam tinh, Bát tiên, Đấu chiến thắng
Phật, Tứ linh, Tam quốc tây du dùng trong các ngày lễ vạn thọ, thánh thọ, tiên thọ và
lễ cúng Mụ; Trình tường tập khánh trong các lễ tứ, ngũ tuần đại khánh chúc cho dân
giàu nước mạnh; Nữ tướng xuất quân trong những ngày lễ chiến thắng, hưng quốc
khánh niệm, dạ yến và tiếp sứ thần ngoại quốc; Vũ phiến dành cho hoàng thái hậu,
hoàng hậu, phi tần, công chúa thưởng lãm trong những yến tiệc tân hôn; Lục triệt hoa
mã đăng trong lễ hưng quốc khánh niệm cho công chúng xem ở trước Phu Văn lâu.
Đặc trưng của Âm nhạc cung đình Huế là sự hội nhập, tiếp biến văn hoá Hoa,
Chăm và những ảnh hưởng của Phật, Nho. Múa cung đình có quan hệ mật thiết
với nghệ thuật tuồng (hát bội). Âm nhạc cung đình Huế tổng hợp trong đó sự phong
phú, đa dạng về nhiều mặt: về loại hình nghệ thuật, thể loại, chủng loại nhạc khí và âm

SVTH: Trần Bảo Thuận

21

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

sắc, bài bản, cơ cấu tổ chức dàn nhạc và các hình thức hoà tấu, môi trường trình diễn,
nhạc điệu… Nhờ vậy đến với âm nhạc cung đình Huế người thưởng thức sẽ có nhiều

"món" để thay đổi “khẩu vị” không những cho thính giác mà cả thị giác.
Âm nhạc cung đình Huế có qui mô lớn và tính chuyên nghiệp cao: là loại nhạc
chính thống của quốc gia, nhiều tổ chức dàn nhạc và tiết mục ca múa nhạc cung đình
có qui mô lớn, gồm nhiều loại nhạc khí, nhiều diễn viên, nhạc công, ca công trình
diễn. Ngoài ra đây còn là thể loại nhạc có tính ứng tấu, biến hóa linh hoạt và tính bác
học cao.
Tại Việt Nam, âm nhạc dân gian phát triển khá phong phú ở cả ba miền. Nền âm
nhạc dân gian ấy gắn liền với đời sống con người từ lúc sơ sinh đến khi trưởng thành và
lúc lìa bỏ cõi trần. Con người ngay từ khi mới được sinh ra cho đến khi trở về với cát bụi
luôn gắn liền với những bài đồng dao, hát ru, hò, lý, ca trù, ca Huế, bài chòi, ca tài tử…
Tuy nhiên, theo GS Trần Văn Khê, “nhạc cung đình chỉ có ở miền Trung, và đặc
biệt tại Huế mới còn có di tích của bộ môn âm nhạc độc đáo, tinh vi mà chúng ta đến
ngày nay chưa nhận thấy được hết cái giá trị của bộ môn đó”.
Cũng theo GS Trần Văn Khê thì nhã nhạc cung đình Huế còn có giá trị rất độc
đáo ở chỗ: “chẳng có bộ môn âm nhạc nào được ghi vào sử sách Việt Nam từ xưa đến
giờ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của các triều đại, biến cố trong đất nước, vẫn còn
lưu lại được một di sản đáng kể, có thể dùng làm những bài học cho chúng ta về nhiều
mặt nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản phong phú
và quan điểm thẩm mỹ rất sâu sắc”.
Nhã nhạc cung đình Huế có một giá trị nghệ thuật rất cao, mà theo giải thích của GS
Trần Văn Khê là: “Nhạc khí dùng trong nhạc cung đình rất đẹp trong hình thức, đóng ráp
kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim, tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng,
tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc. Dàn nhạc đa dạng: Đại nhạc gồm đại hồng chung, trống đại,
trống võ, bồng, mõ, thanh la, chập chõa, sinh tiền, kèn, nhị; tiểu nhạc (hay nhã nhạc) có
đàn dây tơ: đàn nguyệt (2 dây), đàn tam (3 dây), tỳ bà (4 dây), đàn nhị (2 dây có cung
kéo); có hai sáo trúc, trống bảng một mặt, 3 thanh la nhỏ, sinh tiền”.
Cũng theo nhà nghiên cứu âm nhạc Trần Văn Khê thì “Trong dàn Nhã nhạc ta
cóthể nghe tiếng chững chạc trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng chuyền tiếng rơi vào
nhịp nhịp ngoại, tiếng chầy, tiếng phi bay bướm của tỳ bà, tiếng trong nhờ nhạc công


SVTH: Trần Bảo Thuận

22

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

đàn nhị dùng tay mặt kéo cung, tay trái vuốt ve “nên lời dịu ngọt”, tiếng đục của đàn
tam đem tiếng thổ chen vào tiếng kim của tam âm la, với tiếng nỉ non vi vút “như tiếng
hạc bay qua” của hai ống sáo, tất cả nhạc khí ấy cùng theo nhịp do tiếng trống bảng
dìu dắt, tiếng trống khi khoan khi nhặt, khi đánh nhịp chánh diện khi vào nội phách
khi ra ngoại phách toàn bộ dàn Nhã nhạc, liên tục trong 10 bài Ngự, từ nhịp điệu
khoan thai của mấy bản Phấm Tuyết, Nguyên Tiêu lúc mở đầu, lần lần dồn dập qua các
bài Hồ Quảng, Liên Hoàn, Bình Bán, Tây Mai, Kim Tiền, rộn rã từ Xuân Phong, Long
Hổ đi đến náo nhiệt qua cấp điệu như tiếng vó ngựa trong bài Tẩu Mã”.
Bởi nhạc khí đa dạng nên sự phối hợp giữa các âm thanh cũng trở nên độc đáo.

Một số hình ảnh các nghệ nhân sử dụng nhạc khí biểu diễn
Từ hơn 90 năm trước – năm 1918, khi chứng kiến lễ Tế Giao diễn ra trong hai
ngày 12 và 13 tháng 2 âm lịch, nhà báo Phạm Quỳnh trong bút ký “Mười ngày ở Huế”
đã ghi lại cảm xúc của mình: “Ngoài sân phường ca hát ca khúc An thành, vừa múa,
vừa hát. Đương đêm hơn một trăm con người đồng thanh hát ca, nghe rất cảm động,
tưởng thấu đến tận trời cao đất thẳm, cái tấm lòng thành của cả một dân tộc, một
nước”, “Cảnh giao đàn ban đêm như cảnh trong mộng, đèn thắp sáng trong đàn thành
từng dãy dọc, dãy ngang, trông xa như một chữ Triện lớn viết bằng những nét chấm
sáng mà treo lưng chừng trời. Tiếng đàn, tiếng sáo thì như nước chảy, suối reo, tiếng

hát như tiếng thiên thần…”.

SVTH: Trần Bảo Thuận

23

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

Với những giá trị về nhiều mặt và rất đặc trưng của loại hình nhã nhạc của
ViệtNam, ngày 7.11.2003 tại Paris, ông Koichiro Matsura – Tổng Giám đốc UNESCO
– tuyên bố: Nhã nhạc cung đình Huế (cùng với 27 kiệt tác của các quốc gia khác) được
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
3.8 Thách thức và bảo tồn:
"Bảo vệ" là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn
hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát
huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc
phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản
này”. Theo GS.TS Đặng Văn Bài – Phó chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, đại
diện của Việt Nam trong ủy ban Di sản thế giới: Trước đây, do nhận thức chưa đầy đủ
về di sản văn hóa phi vật thể, coi nó chỉ là một bộ phận mang tính chất năng của di sản
văn hóa vật thể mà không phải là một dạng di sản có tính độc lập tương đối. Vì thế,
việc bảo vệ và phát huy giá trị chưa được quan tâm thỏa đáng, dẫn đến tình trạng nhiều
giá trị văn hóa phi vật thể bị biến dạng và thậm chí còn bị mai một, thất truyền. Như
vậy có thể thấy, từ khi nhà Nguyễn cáo chung Nhã nhạc cung đình Huế cũng mất dần
môi trường diễn xướng, các nhạc công cung đình đã từng trình diễn các bài bản Nhã

nhạc phục vụ cho các nghi lễ tế Giao, tế Miếu, tế Xã Tắc… đã không còn đất diễn, một
số bỏ nghề, số còn lại cố bám víu vào nghiệp diễn và đưa loại hình này vào trình diễn
trong các dịp tế đình làng, tế họ tộc… ở các vùng nông thôn của Huế và các vùng phụ
cận. Ngoài ra, do có tư tưởng giấu nghề và chỉ truyền nghề nhạc cho những người
trong cùng họ tộc nên dẫn đến sự thất truyền một cách đáng tiếc của một số bài bản
nằm trong hệ thống Nhã nhạc cung đình Huế.
Việc bảo tồn những tinh hoa của Nhã nhạc cung đình Huế là một công việc cần
thiết trong bối cảnh đất nước đang hội nhập và phát triền. Do đó, những giải pháp đưa
ra trong việc bảo tồn loại hình nghệ thuật đặc trưng này cũng cần phải có một quy chế
riêng như: Có chính sách ưu đãi, khuyến khích nhiều hơn nữa đối với những gia đình
có truyền thống, có tay nghề và đang nắm giữ những bí kíp nghề nghiệp; kịp thời xét
tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân (vấn đề này, thời gian qua chúng
ta đã làm, nhưng số nghệ nhân Nhã nhạc được đề xuất thì đếm chưa hết ngón của một
bàn tay); có chính sách khuyến khích đối với những người cung cấp các tài liệu có liên

SVTH: Trần Bảo Thuận

24

Lớp: K47 HDDL


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

CBHD: Phạm Thị Dung

quan đến việc sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn Nhã nhạc; nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực thông qua mô hình truyền dạy, đào tạo tập huấn cho nhạc công làm nguồn
nhân lực kế thừa, và tăng cường đội ngũ cán bộ có chất lượng làm công tác nghiên cứu
về Nhã nhạc cung đình Huế.

Thực hiện Công ước quốc tế về Bảo tồn Di sản Văn hóa Phi vật thể (gọi tắt là
Công ước 2003) mà Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công
ước này, với sự giúp đỡ của UNESCO, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình
Huế - Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, đơn vị được giao trách nhiệm thực hiện dự
án với sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp hỗ trợ của các cơ quan ban ngành và
tổ chức liên quan thực hiện, đã tiến hành nhiều hoạt động: khảo sát và tư liệu hóa; đào
tạo và truyền dạy; quảng bá và phát huy… Trong các hoạt động đó, công tác đào tạo
nhạc công Nhã nhạc trẻ và tập huấn nâng cao kỹ năng biểu diễn Nhã nhạc là một trong
những hoạt động nhằm xây dựng những nền tảng vững chắc cho việc nghiên cứu, tư liệu
hóa và truyền dạy các kỹ năng về Nhã nhạc cho thế hệ trẻ, đồng thời nâng cao nhận thức
về tầm quan trọng của di sản này ở các cấp độ địa phương, quốc gia và quốc tế.
Nhiều học viên có năng khiếu xuất thân từ các gia đình nghệ nhân truyền thống
đã được tuyển chọn, đào tạo và truyền dạy để trở thành lực lượng nhạc công Nhã nhạc
trong tương lai có đủ kiến thức về văn hoá và kỹ năng nghề nghiệp.
Khóa đào tạo được bắt đầu từ ngày 03/11/2005, với các chuyên ngành đào tạo:
đàn nguyệt, đàn tam, sáo, trống, đàn tỳ bà, đàn nhị và kèn. Đây là một khoá đào tạo
đặc biệt được đào tạo theo hình thức truyền khẩu từ các nghệ nhân (truyền nghề,
truyền ngón theo dạng một thầy, một trò) và được dạy ký-xướng âm theo kiểu truyền
thống (Họ, Xự, Xàng, Xê, Cống…). Khóa đào tạo nhạc công Nhã nhạc này đã được
các giáo sư, nghệ nhân, nghệ sĩ có uy tín trực tiếp lên chương trình và giảng dạy như
cố GS.TS Trần Văn Khê, GS.TS Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Hà Sâm, cố nghệ nhân dân
gian Trần Kích, nghệ nhân Trần Thảo, nhà giáo Nguyễn Đình Sáng (nguyên Hiệu
trưởng Trường VHNT tỉnh TT-Huế), nhà Huế học Nguyễn Xuân Hoa… cùng một số
nghệ sĩ Nhã nhạc có tên tuổi của Huế.
Vào tháng 7/2008, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế, mà đại
diện là Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã mời 2 chuyên gia về âm nhạc là
PGS.TS Oshio Satomi, giảng viên Đại học Miyagi-Nhật Bản và TSKH. Phạm Lê Hòa,

SVTH: Trần Bảo Thuận


25

Lớp: K47 HDDL


×