Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế mức giá cố định mô hình mundell fleming

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.64 KB, 21 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH
LỚP TÀI CHÍNH KHÓA 26
-----------

MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Chương 6: MỨC GIÁ CỐ ĐỊNH: MÔ HÌNH MUNDELL – FLEMING

GVHD: TS.Nguyễn Thị Ngọc Trang
Thực hiện: Nhóm 7
1. Nguyễn Tiến Khoa
2. Lê Thị Ngoan
3. Nguyễn Duy Luân

Tháng 6/2017


MỤC LỤC

2


GIỚI THIỆU
Trong Chương 5, chúng ta đã xem xét cách thức xác định tỷ giá hối đoái khi mức
giá là hoàn toàn linh hoạt. Trong chương này, chúng ta nhìn vào khía cạnh đối lập.
Điều gì sẽ xảy ra khi mức giá được cố định?
Mô hình Mundell-Fleming (M-F) trung thành với trường phái truyền thống của
Keynesian rằng đó là tổng cung có vai trò thụ động trong việc cố định mức giá, trong khi


sự thay đổi của tổng cầu quyết định mức độ hoạt động của nền kinh tế. Nó có ảnh hưởng
lớn trong những năm 1960, đặc biệt trong các lĩnh vực hoạch định chính sách, nhất là vì
nó tập trung chủ yếu vào các câu hỏi có tính pháp lý liên quan đến việc kết hợp tối ưu các
biện pháp tài chính và tiền tệ cho quản lý nhu cầu trong một nền kinh tế mở.
Vào thời điểm mô hình M-F đã được phát triển, hệ thống Bretton Woods vẫn ít
nhiều không thể bác bỏ, ít nhất trong thị trường tiền tệ (mặc dù nó chưa bao giờ được sự
ủng hộ của dư luận trong giới học thuật). Không đáng ngạc nhiên trong hoàn cảnh này,
hầu hết sự chú ý tập trung vào các kết luận của nó về tỷ giá hối đoái cố định. Trong
chương này, chúng ta xem xét phân tích M-F cả lãi suất cố định và lãi suất thả nổi.
Như chúng ta sẽ thấy, đặc điểm phân biệt của phương pháp M-F đang được nhấn
mạnh vào các điều kiện khác nhau một mặt xác định sự cân bằng hiện tại, mặt khác xác
định dòng vốn ròng. Kết quả là sự cân bằng lưu lượng chứng khoán không bền vững không quá khó có thể mô tả phản ứng ngắn hạn của một nền kinh tế mở nhỏ, nhưng thời
gian triển khai ngày càng dài và trở nên ít thực tế.
Trong Phần 6.1, bối cảnh được thiết lập và các giả định được đưa ra rõ ràng và
trong phần tiếp theo, sự cân bằng ban đầu được mô tả. Bốn phần tiếp theo (6.3 đến 6.6)
phân tích kết quả của các thí nghiệm chính sách sau đây: sự mở rộng về tiền tệ và tài
khóa theo lãi suất thả nổi và các bài tập tương tự trong chế độ tỷ giá cố định. Phần 6.7 so
sánh và tương phản mô hình M-F với mô hình tiền tệ trong chương cuối.
6.1 Bối cảnh
Mô hình M-F được thiết lập trong bối cảnh của một mô hình kinh tế vĩ mô mà chỉ
đơn giản là trường hợp đặc biệt được gọi là Keynesian trong Chương 4. Vì lý do đó,
chúng ta sẽ hạn chế việc trình bày ở đây để tóm tắt ngắn gọn.

3


6.1.1 Nền kinh tế trong nước
Giả định 6.1: Đường tổng cung là một đường thẳng nằm ngang.
Giả định này cho rằng gánh nặng điều chỉnh để tổng cầu dao động rơi vào mức độ
hoạt động kinh tế y, chứ không phải là về mức giá, P vì để đơn giản hóa vấn đề, ta cho P

= 1, do đó, M biểu thị cả cung tiền tiền danh nghĩa lẫn thực.
Trong khi phân tích, chúng ta chỉ cần tập trung vào bên phía cầu của nền kinh tế.
Trong thực tế, sản lượng điều chỉnh một cách thụ động, chúng ta chỉ cần xem xét mô hình
IS-LM , với tổng cầu xác định.
6.1.2 Cán cân thanh toán.
Tính năng đặc biệt của mô hình M-F là trong đặc điểm của khu vực bên ngoài nền
kinh tế. Cụ thể, cán cân thanh toán hiện tại được xác định không phụ thuộc vào tài khoản
vốn, để đạt được cân bằng tổng thể cần sự điều chỉnh trong nền kinh tế trong nước.
Tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai ghi chép mọi luồng thu nhập đi vào và đi ra khỏi quốc gia trong
một thời kỳ nhất định, do mua bán hàng hóa và dịch vụ, thu nhập từ đầu tư và các khoản
chuyển giao. Trong tài khoản vãng lai có 3 khoản mục: cán cân thương mại, thu nhập yếu
tố ròng, chuyển nhượng ròng.
Giả thuyết 6.2. PPP không có giá trị, ngay cả trong dài hạn. Thay vào đó, độ lớn
của thặng dư tài khoản vãng lai phụ thuộc đồng biến với tỷ giá thực và nghịch biến đến
thu nhập thực.
Thặng dư tài khoản vãng lai, B, được tính:
B = B(y, Q) = B(y, S)

By < 0

Bs > 0

(6.1)

Dấu bằng thứ hai xảy ra vì, tỷ giá hối đoái thực = tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Do
P=1), được đưa ra bởi cả mức giá nội địa và mức giá nước ngoài.
Khi thu nhập càng cao, nhu cầu nhập khẩu càng lớn và do đó thặng dư càng nhỏ
hay thâm hụt càng lớn.
Ở giai đoạn này, có thể tạo ra một vai trò đối trọng với thu nhập từ nước ngoài,

cho phép nó có tác động tích cực đến sự cân bằng hiện tại, thông qua xu hướng nhập
khẩu của Hoa Kỳ. Điều này dễ dàng suy luận xem sự gia tăng thu nhập của Mỹ có ảnh
hưởng gì đối với giá trị của đồng bảng Anh
=> Sự gia tăng thu nhập của Mỹ sẽ có tác động lên giá trị của đồng bảng Anh.
4


Có một số yếu tố ngoại sinh khác được đưa vào phương trình 6.1: những cú sốc cho thị
hiếu quốc tế, những cú sốc về cầu xuất khẩu.
Tài khoản vốn
Tài khoản vốn ghi chép mọi luồng vốn đi vào và đi ra khỏi lãnh thổ một quốc gia trong
một thời kỳ nhất định, do mua bán tài sản giữa nền kinh tế trong nước với nước ngoài, và
số tiền cho vay hoặc đi vay có liên quan đến nước ngoài.
Vai trò của lãi suất là quan trọng trong mô hình M-F. bởi vì ta có hai giả định sau:
Giả định 6.3. Tỷ giá hối đoái kỳ vọng là không đổi.
Giả định 6.4. Sự luân chuyển vốn không hoàn hảo.
Trong bối cảnh mô hình Mundell-Fleming, luân chuyển vốn hoàn hảo được coi là một
trường hợp đặc biệt. Nói chung, chênh lệch lãi suất quốc tế là lý do kích thích dòng vốn
có hạn vào hoặc ra khỏi một quốc gia.
Như đã đề cập trong Chương 3,việc luân chuyển vốn không hoàn hảo sẽ như là một điểm
khởi đầu của nguồn cung vốn giới hạn cho các quỹ kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage
funds). Để hợp lý hơn, có thể lập luận rằng, do lo ngại rủi ro, dòng tiền của các quỹ vào
trong nước sẽ làm gia tăng phí bảo hiểm rủi ro về chứng khoán bằng đồng nội tệ và
ngược lại đối với dòng tiền từ bên ngoài.
Nói cách khác, nếu chúng ta định nghĩa r*, lãi suất ở nước ngoài được xem là biến ngoại
sinh, bao gồm bất kỳ khoản giảm giá kỳ vọng nào của đồng nội tệ chúng ta có:
K = K(r − r*) = K(r)

K′ > 0


(6.2)

Điều này nghĩa là dòng vốn ròng vào nước Anh, K, sẽ tăng khi lãi suất trong nước lớn
hơn lãi suất ở Mỹ, bao gồm bất kỳ sự giảm giá nào trong giá trị của đồng bảng Anh.
Cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán (BP) đạt được cân bằng khi dòng vốn đủ để tài trợ cho thâm hụt tài
khoản vãng lai, hoặc hấp thụ sự dư thừa. Tất nhiên, theo định nghĩa, theo một chế độ tỷ
giá hối đoái thuần túy, cán cân thanh toán tổng thể phải luôn ở trạng thái cân bằng. Điều
này nghĩa là tổng thặng dư vốn và tài khoản vãng lai phải bằng không, hay nói cách khác
một khoản thặng dư trên một tài khoản phải được cân bằng bởi một sự thâm hụt ở một tài
khoản khác.
Nếu ta cộng các phương trình 6.1 và 6.2 cho các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn
tương ứng, sự thả nổi thuần túy đòi hỏi phải có điều kiện sau để áp dụng vào mọi thời
điểm:
5


B(y, S) + K(r) = 0

(6.3)

hoặc:
F(y, S, r) = 0 Fy < 0

Fs > 0

Fr > 0

(6.4)


Trong hình 6.1 (b), các đường BP là sự kết hợp của y và r phù hợp với cán cân thanh
toán cân bằng cho các giá trị khác nhau của S.
Các đường này dốc lên,, vì khi thu nhập tăng với bất kỳ lãi suất nào, tài khoản vãng lai
giảm sút vì nhu cầu nhập khẩu tăng lên.
Để giữ cân bằng, tài khoản vốn phải được tăng lên, điều đó chỉ có thể đạt được bằng cách
tăng lãi suất của nước Anh.
Và sau đó thu nhập cao phải gắn với lãi suất cao hơn để giữ cán cân thanh toán được cân
bằng. → Thu nhập y và lãi suất r đồng biến trong phương trình đường BP.

Figure 6.1 Monetary expansion under floating rates in the Mundell–Fleming model
Mức độ của sự gia tăng lãi suất cần thiết để bù đắp sự gia tăng trong thu nhập ( độ dốc
của đường thẳng) phụ thuộc vào độ co giãn lãi suất của các dòng vốn ròng. Độ co giãn
6


này lớn hơn, đường thẳng càng bằng phẳng. Trong trường hợp đặc biệt , thị trường có
tính vốn hoàn toàn di động, chỉ cần tăng lãi suất một lượng nhỏ không dễ nhận thấy là đủ
để kích thích dòng vốn , khi đó đường thẳng BP là hoàn toàn nằm ngang .
Mặt khác, một sự gia tăng trong S (do sự mất giá của đồng bảng Anh) có nghĩa là thặng
dư tài khoản vãng lai lớn hơn và kéo theo dòng vốn ròng chảy vào ít hơn, làm cho lãi suất
thấp hơn.
Như vậy, tăng S dịch chuyển đường BP xuống và sang phải. Trường hợp ngoại lệ là
khi đường BP nằm ngang, trong trường hợp đó, nó không bị ảnh hưởng bởi những thay
đổi trong tỷ giá hối đoái S.
Hình 6.1 cũng theo dõi của cán cân thanh toán một cách rõ ràng trong sơ đồ (a) và (c).
Đường TT được thể hiện qua công thức 6.1. Khá giống với đường PPP của Chương 5.
Tuy nhiên, ở chương 6 thì mức giá không đổi. Tương tự, trong nền kinh tế trong nước,
thu nhập mang gánh nặng điều chỉnh do các mức giá, như vậy trong khu vực bên ngoài,
cùng thu nhập, cùng tỷ giá hối đoái, có thể xác định được điểm cân bằng tài khoản vãng
lai. Nghĩa là, nếu thu nhập tăng, tỷ giá cũng phải tăng theo (giá trị của đồng bảng

Anh giảm) để cân bằng tài khoản vãng lai.
Chú ý rằng ngay cả trong cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn, nền kinh tế không cần để ý đến
đường TT, bởi vì chúng ta không yêu cầu cân bằng tài khoản vãng lai - dù là trong ngắn
hạn hay dài hạn. Chúng ta chỉ nhấn mạnh rằng bất kỳ thâm hụt tài khoản vãng lai
(hoặc thặng dư) sẽ được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn (hoặc thâm hụt) với
cùng một lượng.
Hình 6.1 (a) biểu thị công thức 6.4 trong hệ quy chiếu(r, S). Cán cân thanh toán trạng thái
cân bằng cộng lãi suất cao hơn (một tài khoản vốn thuận lợi hơn) với một mức ngoại tệ
thấp hơn (và do đó là một khu vực nước ngoài ít cạnh tranh). Nên đường FF dốc xuống ở
một mức thu nhập nhất định cho trước. Khi thu nhập tăng lên, đường FF dịch chuyển
sang phải, từ trạng thái cân bằng đòi hỏi phải giảm giá để bù đắp cho nhu cầu nhập khẩu
bổ sung.
Một lần nữa, đường FF là đường thẳng nằm ngang nếu nguồn vốn là hoàn toàn di động
và do đó không có sự thay đổi khi thu nhập tăng lên (vốn luân chuyển hoàn hảo -> chênh
lệch lãi suất bằng không -> đường FF không phụ thuộc vào lãi suất).
6.2 Sự cân bằng
Để thuận tiện, chúng ta bắt đầu ở trạng thái cân bằng trong hình 6.1 tại các điểm
A, a và E.

7


Tại Lãi suất r0 và tỷ giá S0, cán cân thanh toán là trong trạng thái cân bằng, như có
thể thấy điểm a và A nằm trên đường FF và BP tương ứng. Hơn nữa, theo tỷ giá hối đoái
thực liên quan, thị trường sản phẩm dọc theo đường đánh dấu IS (S 0) (điểm A cũng nằm
trên đường IS (S0) – cân bằng trên thị trường hàng hóa), do đó, sự kết hợp (r0, y0) là
phù hợp với các cân bằng tổng thể của nền kinh tế trong nước.
Hơn nữa, theo dõi mức thu nhập từ y 0 ở đường 45° trong hình 6.1 (d) và đối chiếu
qua đường TT, chúng ta thấy (tại E) không có sự thâm hụt tài khoản vãng lai (thâm hụt tài
khoản vãng lai bằng 0) tại sự kết hợp giữa tỷ giá - thu nhập này, và không có hiện tượng

vốn ra hay vào trong nước.
6.3 Chính sách tiền tệ mở rộng trong điều kiện tỷ giá hối đoái thả nổi.

Bây giờ xem xét các tác động của chính sách tiền tệ mở rộng, ví dụ như tăng gấp
đôi lượng cung tiền. Điểm đầu tiên cần lưu ý là, vì mức giá được cố định bởi đường tổng
cung nằm ngang, nên sự gia tăng trong cung tiền danh nghĩa là tương đương với một gia
tăng trong cung tiền thật. Do đó, Hình 6.1 (b) đường LM dịch chuyển sang phải, do đó lãi
suất giảm.
Tăng lượng cung tiền > LM sang phải > lãi suất giảm
8


Vậy nó giảm đến đâu? Ngay từ cái nhìn đầu tiên, câu trả có thể là: đến vị trí r2.
Nhưng điều này không chính xác vì một số lý do. Ở C không đạt trạng thái cân bằng bởi
vì, tại vị trí đầu tiên, với lãi suất thấp hơn, dòng vốn vào ròng nhỏ hơn so với lúc trước
tùy thuộc vào sự mở rộng cung tiền. Hơn nữa, ở cấp độ hoạt động cao hơn, sự cân bằng
tài khoản vãng lai phải giảm đi. Vì cả hai lý do trên, sự kết hợp ở C phải liên quan đến sự
mất cân bằng cán cân thanh toán (khi y lớn hơn, tài khoản vãng lai giảm (làm cho BP
giảm). Vậy ở điểm C cán cân thanh toán mất cân bằng).
Rõ ràng tỷ giá hối đoái phải mất giá. Có thể kết luận rằng giá trị của đồng bảng
Anh cần phải giảm đủ để làm cho tài khoản vãng lai cân bằng. Tuy nhiên, điều này là
không đúng. Lưu ý rằng, trường hợp đã được giả định thuần túy cho để tiện phân tích, tác
giả đã chọn để bắt đầu phân tích từ một số dư tài khoản vãng lai bằng không - không có
gì yêu cầu điều kiện này để áp dụng trong trường hợp cân bằng.
Thay vào đó, khi tỷ giá hối đoái (danh nghĩa và thực) mất giá, khả năng cạnh tranh
của sản xuất trong nước sẽ tăng và nhu cầu sản lượng của Anh tăng lên, dịch chuyển
đường IS sang IS (S1). Việc tăng nhu cầu có tác động đẩy lãi suất một phần trở lại mức
ban đầu là r0.
=> Đồng tiền nội tệ bị mất giá (S tăng) để đưa tài khoản vãng lai về vị trí cân
bằng, khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước được cải thiện và nhu cầu đối với

hàng hóa nội địa tăng (xuất khẩu tăng), dịch chuyển đường IS ra phía IS (S1).
Cuối cùng, nền kinh tế sẽ dừng lại tại B, nơi mà lãi suất đang ở mức r 1 và cán cân
thanh toán trở lại cân bằng, là đường BP (S 1). Khu vực ngoại thương được quay trở lại
trạng thái cân bằng bởi 2 cơ chế: lãi suất tăng trở lại có tác dụng làm giảm thâm hụt tài
khoản vốn tới mức mà thặng dư tài khoản vãng lai được tạo ra bởi sự mất giá tiền tệ đủ
để bù đắp thâm hụt này.
Lưu ý rằng thặng dư tài khoản vãng lai (tại F) là kết quả ròng của một ảnh hưởng
tích cực, sự gia tăng trong S, và một ảnh hưởng tiêu cực, sự gia tăng y.
Trong trường hợp lưu chuyển vốn hoàn hảo, lãi suất không giảm là điều có thể xảy
ra, do đó tỷ giá hối đoái sẽ điều chỉnh các yếu tố bên ngoài. Kết quả là một sự gia tăng
trong cả thu nhập và giá của USD.
Kết luận 6.1. Trong mô hình M-F của một tỷ giá hối đoái thả nổi, một sự gia tăng
cung tiền gây ra:
- Mất giá trong tỷ giá hối đoái
- Tăng thu nhập
9


- Giảm tỷ lệ lãi suất, vốn cung cấp không phải là hoàn toàn linh hoạt
- Tài khoản vãng lai được cải thiện (thặng dư) trong cán cân thanh toán.
Chú ý kết luận đầu tiên về chất lượng (định tính) giống như trong mô hình tiền tệ,
mặc dù không có lý do để giả định rằng sự mất giá sẽ tương ứng với việc cung tiền tăng
lên. Tương tự như vậy, tăng thu nhập cũng không gây ngạc nhiên. Nó chỉ đơn giản là sự
tương ứng của sự gia tăng giá sẽ diễn ra với đường tổng cầu cổ điển.
Tuy nhiên, như đã được đề cập, trọng tâm của mô hình Mundell-Fleming, được
công bố như nó đã thể hiện trong thời kỳ hoàng kim của quản lý nhu cầu, chủ yếu là về ý
nghĩa chính sách. Về khía cạnh này, nó được đánh giá là có ý nghĩa rất quan trọng mang
lại chính sách tiền tệ mở rộng hiệu quả đối với mức độ hoạt động kinh tế có thể được cho
thấy tính xác thực rõ ràng một cách rõ ràng - thậm chí cho phép tác động đến sự gia tăng
nhu cầu bao gồm cả khi có sự sụp đổ tỷ giá hối đoái.

Hơn nữa, như chúng ta đã thấy, nếu đường BP nằm ngang - nói cách khác, nếu có
vốn tự do luân chuyển - lãi suất sẽ được hoàn toàn cố định, loại bỏ hiệu ứng lấn át hoàn
toàn và kết quả là sự tác động mở rộng tối đa trên tổng cầu.
6.4 Chính sách tài khóa mở rộng trong điều kiện tỷ giá hối đoái thả nổi
Phần này mô tả một chính sách tài khóa mở rộng thuần túy. Chính phủ gia tăng chi
tiêu (từ G0 để G1) với cung tiền không thay đổi.
Trong trường hợp này, với cung cố định và mức giá không đổi, đường LM trong
hình (6.2b) không thay đổi. Tương tự như vậy, việc mở rộng chính tài khóa làm đường IS
dịch chuyển sang phải, thông qua việc bơm tiền trực tiếp vào tổng chi tiêu quốc gia. Tuy
nhiên, nếu việc in thêm tiền được loại trừ, như chúng ta đang giả định ở đây, thì chính
phủ chỉ có thể tài trợ cho chi tiêu thêm bằng cách vay mượn. Vì tiền và thị trường tín
dụng đang ở trạng thái cân bằng, việc tăng vay mượn có thể làm cho lãi suất tăng cao
hơn. Và nó sẽ làm ảnh hưởng đến mục tiêu của chính sách về thu nhập và lãi suất.
Điểm C của hình 6.2 (b), khi IS (G1, S0) cắt đường cong LM, tuy nhiên điều này
không phù hợp với trạng thái cân bằng trong khu vực ngoại thương. Lãi suất cao hơn có
nghĩa là dòng tiền sẽ chảy vào London , có nghĩa là làm nhu cầu đồng Bảng Anh tăng
cao. Sự sụt giảm trong tài khoản vãng lai cũng không phải do sự gia tăng thu nhập có thể
đủ để bù đắp cho nó.

10


Hình 6.2: Chính sách tài khóa mở rộng với tỷ giá thả nổi trong mô hình
Mundell – Fleming.
Do đó, đồng bảng được đánh giá cao , người Mỹ sẽ cho chính phủ Anh vay theo
mức lãi suất mới hấp dẫn. Khi đó, hàng hóa của Anh sẽ trở nên ít hấp dẫn đối với người
nước ngoài , chuyển đường cong IS trở lại xuống bên trái và đẩy một phần lãi suất trở lại
mức trước khi mở rộng.
Quá trình này sẽ kết thúc khi sự kết hợp của tỷ giá và lãi suất mà trạng thái cân
bằng trong nước được khôi phục lại tại B , trên đường IS (G 1, S1 của Hình 6.2 (b). Trong

lĩnh vực ngoại thương (hình 6.2 (c)), tại điểm F: tài khoản vãng lai thâm hụt vì có sự gia
tăng thu nhập y và với sự gia tăng trong giá trị của đồng bảng Anh (S giảm).
Các trường hợp luân chuyển vốn hoàn hảo: Khi đường BP và FF nằm ngang,
đường IS không thể di chuyển. Vì với cả hai đường BP và LM không bị ảnh hưởng, sự
kết hợp giữa thu nhập và lãi suất không thay đổi - hệ thống phải ở lại điểm A trong sơ đồ
IS- LM (Hình 6.2 (b)). Trong thị trường tiền tệ , với lãi suất được cố định bởi các yếu tố
bên ngoài, và cung tiền thực không thay đổi, chỉ có một mức thu nhập duy nhất là phù
hợp với trạng thái cân bằng. Kéo theo theo tỷ giá hối đoái phải di chuyển để giữ đường
cong IS không thay đổi, để bù đắp cho chính sách mở rộng (theo yêu cầu của việc tăng
chi tiêu chính phủ).
11


Do đó, với thị trường vốn hoàn hảo, hiệu ứng lấn át là hoàn toàn. Toàn bộ sự gia
tăng chi tiêu chính phủ bị vô hiệu hóa bởi sự sụt giảm trong cầu từ khu vực ngoại thương.
Nói cách khác, với lãi suất cố định theo thị trường vốn quốc tế, gánh nặng điều chỉnh rơi
hoàn toàn vào tỷ giá hối đoái. Toàn bộ sự gia tăng chi tiêu chính phủ được tài trợ bằng
cách vay mượn từ nước ngoài. Do đó, mỗi pound của chính phủ chi thêm làm tăng 1
pound vào thặng dư tài khoản vãng lai và cân bằng đòi hỏi nó phải được bù đắp bởi cùng
một lượng hàng nhập khẩu ròng của hàng hoá và dịch vụ. Nhu cầu do đó được đẩy trở lại
mức ban đầu, việc tăng chi tiêu ngân sách không tác động gì đến đầu ra.
Kết luận rút ra từ 6.2. Trong mô hình Mundel - Fleming của một tỷ giá hối đoái
thả nổi, mở rộng chính sách tài khóa gây ra:
- Một sự đánh giá cao trong tỷ giá hối đoái
- Tăng thu nhập , vốn cung cấp không phải là hoàn toàn di động
- Sự gia tăng lãi suất , vốn cung cấp không phải là hoàn toàn di động
- Một sự suy giảm trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
Lưu ý rằng, nếu xét đến các chính sách, kết quả là sự mở rộng cuối cùng của nhu
cầu nhỏ hơn dự đoán hoàn toàn dựa trên phân tích trong nền kinh tế đóng. Lý do là cơ
chế kinh tế đóng, nhờ đó sự gia tăng lãi suất cho thấy một số khoản chi tiêu tự định đã

được bổ sung trong bối cảnh hiện tại do sự gia tăng giá trị của tỷ giá hối đoái trong nước,
lần này bởi người nước ngoài trong xuất khẩu ròng của nước Anh. Với mục đích chính
sách, kết luận từ mô hình Mundell-Fleming là trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, chính
sách tiền tệ mạnh hơn chính sách tài khóa và hơn nữa, điều này đúng hơn, khi cung vốn
co giãn nhiều hơn.
6.5 Chính sách tiền tệ mở rộng trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định
Bây giờ chúng ta chuyển sự chú ý sang chế độ tỷ giá hối đoái cố định, để xem
những kết luận của chúng ta cần phải thay đổi như thế nào.
Trong hình 6.3 (b), các trạng thái cân bằng ban đầu tại A là giống như trong trường
hợp lãi suất thả nổi. sự khác biệt là, có một đường thẳng đứng biểu thị tỷ giá hối đoái cố
định trong Hình 6.3 (a) và (c).
Bây giờ hãy xem xét tác động của một sự mở rộng tiền tệ, hay nói đúng hơn là mở
rộng tín dụng trong nước từ DC0 đến DC1.

12


Tác động của sự gia tăng trong cung tiền làm đường LM dịch chuyển xuống dưới
trong hình 6.3 (b), đường LM mới - LM (DC1, FX0). Các trạng thái cân bằng mới tại B là
kết quả của sự gia tăng trong cung tiền với một dự trữ ngoại tệ không đổi.

Hình 6.3: Nới lỏng chính sách tiền tệ với tỉ giá cố định trong mô hình Mundel –
Fleming.
Bắt đầu từ cán cân cân bằng thanh toán, việc giảm lãi suất (từ r 0 đến r1), tài khoản
vốn xấu đi. Đồng thời, sự gia tăng thu nhập (từ y 0 để y1) với một tỷ giá không thay đổi
gây ra một sự suy giảm trong tài khoản vãng lai - tại điểm F trong hình 6.3 (c).
Đây chỉ là điểm dừng tạm thời. Cán cân thanh toán thâm hụt và nguồn cung dư
thừa của đồng bảng Anh, tỷ giá hối đoái cố định chỉ có thể được giữ nguyên bằng cách
giảm dự trữ. Như chúng ta đã thấy trong Chương 5, trong khi không có thêm các chính
sách gì khác (đường IS không dịch chuyển), sẽ có giảm dần trong dự trữ ngoại tệ. Quá

trình này chỉ kết thúc khi cung tiền và đường LM trở về vị trí cũ (bơm ngoại tệ ra thị
trường để mua nội tệ với mục đích giảm cung tiền).
Tại điểm cân bằng mới. Sự khác biệt duy nhất là trong thành phần của cung tiền,
mà bây giờ được tạo thành từ một số lượng thấp hơn ngoại tệ (FX 1, thay vì FX0) và một
số lượng lớn tài sản được tạo ra trong nước (DC1, thay vì DC0).
13


Trong một số trường hợp, với khả năng lưu chuyển vốn hoàn hảo, giả định rằng
bất kỳ sự sụt giảm lãi suất nào cũng bị loại trừ (ngay cả trong ngắn hạn) vì nó sẽ lập tức
gây ra sự gia tăng dự trữ ngoại tệ. Vì vậy, trong trường hợp này, quá trình điều chỉnh sẽ
không nhiều, với dòng tiền chảy ra nước ngoài thị trường ngoại tệ.
Miễn là các dòng lưu chuyển vốn không hoàn toàn co giãn, ít nhất cũng có thể có
khả năng triệt tiêu sự suy giảm của dự trự ngoại tệ. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy trong
Chương 5, thật khó tin rằng chính sách có thể hoạt động khác trong thời gian rất ngắn, vì
nó dựa vào thị trường tiền tệ là hoàn toàn khó chấp nhận một trữ lượng dự trữ bị sụt
giảm, và không có dấu hiệu kết thúc sự suy giảm.
Kết luận 6.3. Trong mô hình M-F - tỷ giá hối đoái cố định, tăng cung tiền gây ra:
- Trong ngắn hạn, vốn không hoàn toàn lưu động, lãi suất giảm, thu nhập tăng và
cán cân thanh toán xấu đi trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
- Trong dài hạn, có sự giảm sút trong dự trữ ngoại tệ, nhưng không có sự thay đổi
trong thu nhập, lãi suất hoặc cán cân thanh toán.
6.6 Chính sách tài khóa mở rộng trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định
Cuối cùng, chúng ta xem xét tác động của việc chính phủ tăng chi tiêu bằng tiền
vay mượn trong điều kiện tỉ giá cố định.
Bắt đầu từ điểm A của hình 6.4 b, tác động làm đường IS dịch chuyển lên phía
trên. Lãi suất phải tăng khi các chuyên gia cố gắng gia tăng nợ vay của họ từ thị trường
tài chính . Đường IS mới cắt đường LM tại C.

14



Tuy nhiên, C ko phải là điểm cân bằng trong dài hạn, vì ko nằm trên đường BP.
Lãi suất r2 cao hơn sẽ cải thiện tài khoản vốn còn tài khoản vãng lai sẽ xấu đi vì thu nhập
tăng (y2). Trong biểu đồ của BOP hình (a), kể cả sau khi dịch chuyển lên của đường FF,
lãi suất vẫn còn quá cao đối với sự cân bằng dài hạn như đã thấy ở điểm H.
LM(DC0, FX0) LM(DC0, FX1) IS(G1) IS(G0)
Thêm 1 lần nữa giải pháp nằm trong sự thay đổi các thành phần nội sinh của cung
tiền (thường xảy ra khi có một sự dự trữ tích lũy), khi những người nước ngoài cố gắng
tận dụng lãi suất cao ở Anh bằng việc nắm giữ đồng bảng Anh và chứng khoán Anh. Khi
cung tiền tăng, đẩy đường LM dịch chuyển xuống dưới tạo ra điểm cân bằng tại B trong
hình 6.4 b, khi đó một sự gia tăng trong thu nhập và giảm trong lãi suất sẽ làm tài khoản
vãng lai và tài khoản vốn cùng xấu đi, mang cán cân thanh toán trở về sự cân bằng (điểm
J - hình 6.4A).
Kết quả là sự thâm hụt trong tài khoản vãng lai (điểm D trong hình 6.4c) được tài
trợ bằng tài khoản vốn khi lãi suất nội địa tăng.
Những người nước ngoài sẵn lòng hơn là để tăng mức cho vay đối với Anh Quốc,
thì sự cần thiết phải tăng lãi suất của Anh, bởi vì 1 ít chi tiêu của khu vực tư nhân trong
nước cần được giải phóng. Trong giới hạn, với khả năng lưu chuyển vốn hoàn hảo, người
nước ngoài có thể được thuyết phục để gánh vác trách nhiệm tài trợ cho toàn bộ chi tiêu

15


bổ sung mà không tăng lãi suất. Không nhiều người làm như vậy, hiệu quả là tăng thu
nhập rất đáng kể.
Kết luận chung trong trường hợp này có thể được diễn tả như sau:
- Trong ngắn hạn, một sự gia tăng trong lãi suất và thu nhập và toàn bộ những số
dư on BOP (tăng dự trữ ròng).
- Trong dài hạn, một sự gia tăng nhiều hơn trong thu nhập trong khi có sự điều

chỉnh giảm một khoảng nào đó của lãi suất và toàn bộ số dư cán cân thanh toán sẽ được
đưa về bằng 0, để lại một khoản thâm hụt trong tài khoản vãng lai.
6.7 So sánh mô hình tiền tệ và mô hình Mundell–Fleming
Thật hữu ích để so sánh trực tiếp mô hình tiền tệ và mô hình Mundell–Fleming
được xem xét qua để mục sau: mức giá, thu nhập, kỳ vọng và lãi suất.
6.7.1 Mức giá
Trong mô hình tiền tệ, vì đường tổng cung luôn ở mức cao, mức giá di chuyển với
sự linh hoạt hoàn hảo để giải quyết cả thị trường tiền tệ và hàng hoá. Sau đó, PPP đảm
bảo rằng tỷ giá hối đoái thực được duy trì ở mức cân bằng.
Trong mô hình Mundell–Fleming, mức giá chỉ đơn giản là một chỉ số cố định mà
không có vai trò gì trong nền kinh tế vĩ mô nội địa. Nó không thể đóng vai trò nào trong
việc xác định trạng thái cân bằng trong khu vực mở
6.7.2 Thu nhập
Hậu quả của những giả định tương phản về mặt cung của nền kinh tế là hai quan
điểm hoàn toàn khác nhau về phần đóng góp của thu nhập trong mô hình
Trong mô hình tiền tệ, với việc làm đầy đủ và yếu tố thị trường hoạt động hoàn
hảo, sự thay đổi thu nhập thực tế chỉ có thể là các sự kiện ngoại sinh. Hơn nữa, tiêu dùng
được ngầm hiểu là phụ thuộc vào lãi suất hơn là thu nhập. Theo đó, vai trò duy nhất còn
lại của thu nhập là để giúp xác định nhu cầu về số dư thực. Như chúng ta đã thấy, do tăng
thu nhập từ bên ngoài dẫn đến tăng lên nhu cầu về tiền tệ và liên quan đến việc tăng giá
tiền tệ.
Ngược lại, thu nhập là một trong ba biến nội sinh trong hệ thống M-F, còn lại là lãi
suất trong nước và tỷ giá (thả nổi), hay cán cân thanh toán. Tăng thu nhập (nội sinh) có
liên quan đến ba loại tác động trong bối cảnh này. Thứ nhất, trong chừng mực nó làm
tăng nhu cầu về tiền bạc, nó dẫn đến sự gia tăng lãi suất, những thứ khác đều không đổi.
Thứ hai, chi tiêu cho tiêu dùng (tác động Keynes) nó làm tăng nhu cầu về hàng hoá và
16


dịch vụ. Thứ ba, và đặc biệt hơn, nó liên quan đến một tài khoản vãng lai ngày càng trầm

trọng hơn thông qua khuynh hướng nhập khẩu và, các yếu tố khác không đổi, hoặc thâm
hụt dự trữ hoặc mất giá tiền tệ.
6.7.3 Kỳ vọng và lãi suất
Mô hình không cung cấp một vai trò rõ ràng cho sự kỳ vọng, mặc dù cả hai đã
cung cấp khuôn khổ cho các mô hình phức tạp hơn mà hoàn toàn khắc phục sự thiếu sót
này, như chúng ta sẽ thấy sau trong cuốn sách.
Tuy nhiên, tính chất của mô hình tiền tệ là kỳ vọng được đưa ra từ bên ngoài hoặc
phụ thuộc vào một số mô hình phức tạp hơn đối với các biến khác (xem Chương 13).
Hơn nữa, theo tinh thần của truyền thống cổ điển của nó, cách tiếp cận tiền tệ giả định
rằng lãi suất thực được xác định hoàn toàn trong thị trường tiết kiệm. Khi kết hợp với sự
chẵn lẻ về tỷ lệ lãi suất, hai sự kiện này hàm ý rằng lãi suất danh nghĩa không thể dao
động tự do của thị trường tiền tệ. Công việc đó được giữ lại ở mức giá. Lãi suất trong
nước có hiệu quả gắn với (mặc dù thường không bằng) tỷ lệ ngoại tệ.
Cách tiếp cận của Keynes giúp cân bằng thị trường hàng hóa phụ thuộc ít nhất vào
thu nhập cũng như lãi suất. Hệ quả là, trong bối cảnh trong nước, lãi suất được tự do để
giúp giải quyết cả thị trường tiền tệ và hàng hoá. Nhìn từ quan điểm quốc tế, mối liên hệ
với lãi suất nước ngoài hầu như đã bị phá vỡ hoàn toàn. Thay cho UIRP, chúng ta có mối
liên hệ:
r = r* + set + ρ
Bây giờ, nếu phí bảo hiểm rủi ro bắt buộc (vào cuối kỳ) tăng lên cùng với số lượng
tài sản nội tệ được giữ, thì quy mô luồng vốn vào bất cứ điểm nào sẽ là một chức năng
ngày càng tăng của lãi suất trong nước, với một giá trị nhất định sự giảm xuống của kỳ
vọng (kỳ hạn thứ hai ở vế phải). Tất cả điều này là rất tốt, với điều kiện tỷ lệ giảm đi kỳ
vọng sẽ được thực hiện khi đối mặt với những thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô đáng kể,
và thứ hai là phí bảo hiểm rủi ro bắt buộc được xác định độc lập với các biến số khác. Về
điểm cuối cùng này, chúng ta sẽ có nhiều điều để nói hơn trong Chương 14.
Xét đến kỳ vọng, có vẻ như các biện pháp chính sách được xem xét trong chương
này sẽ không để lại những mong đợi không thay đổi. Một khi có thể cho rằng những kỳ
vọng rất có thể phụ thuộc vào lập trường chính sách của chính phủ, logic đằng sau kết
luận của M-F Bắt đầu làm sáng tỏ.

Cổ phiếu và dòng lưu chuyển

17


Các phương pháp nghiên cứu khác nhau cho việc xác định lãi suất trong hai mô
hình rất liên quan đến cách tiếp cận tương phản của họ để xác định cân bằng.
Theo truyền thống cổ điển, sự cân bằng trong mô hình tiền tệ, trong thời kỳ tỷ giá
thả nổi của nó ít nhất, là một trạng thái ổn định theo nghĩa đầy đủ: cả cổ phiếu, tiền và
hàng hóa đều sẵn sàng, không có xu hướng lưu chuyển ròng theo cả hai hướng. Một khi
nền kinh tế đã điều chỉnh để mở rộng tiền tệ, chẳng hạn, không có lý do gì để cân bằng
mới không tồn tại mãi mãi, nếu không bị xáo trộn.
Ngược lại với phân tích M-F: phản ứng của việc mở rộng cung tiền có liên quan
đến thặng dư do sụt giảm tài khoản vãng lai, sau đó sẽ tài trợ cho việc xuất khẩu vốn
ròng, để đáp ứng với mức lãi suất mới thấp hơn trong nước.
Một luồng vốn ròng chảy vào hoặc ra khỏi một quốc gia là bằng chứng cơ bản cho
thấy rằng việc giữ cân bằng đang trong quá trình điều chỉnh và có thể chắc chắn rằng việc
điều chỉnh có thể kéo dài. Trên thực tế, thị trường vốn quốc tế không bao giờ được nghỉ
ngơi. Tuy nhiên, quá trình này có thể kéo dài, ở một số điểm nó sẽ được hoàn thành. Các
cổ phiếu của tài sản sẽ được điều chỉnh hoàn toàn với sự xáo trộn, không có xu hướng
tăng vốn vào hoặc ra khỏi đất nước - và đây là tình huống mà người ta mong đợi sẽ tìm
thấy trong trạng thái cân bằng hoàn toàn.
Và đây không phải là một lý thuyết chính xác. Nếu có một ví dụ về dòng vốn vào
sau khi mở rộng tài chính theo tỷ giá hối đoái thả nổi tạm thời, thâm hụt tài không đổi, do
đó giảm thâm hụt tài khoản vãng lai, đẩy lãi suất lên cao hơn và giảm thu nhập. Trong
giới hạn, không có sự thay đổi trong thu nhập hoặc lãi suất. Đơn giản chỉ cần có một sự
đánh giá về quy mô đầy đủ để loại bỏ chi tiêu bổ sung.
Như đã được đề cập trong phần giới thiệu, phân tích M-F có ảnh hưởng rất lớn bởi
kết luận của nó về hiệu quả tương đối của chính sách tiền tệ và tài chính theo lãi suất cố
định và thả nổi. Không thể phân tích so sánh được trong bối cảnh mô hình tiền tệ, đơn

giản bởi vì nó không có gì để nói về tác động của những thay đổi trong chi tiêu của chính
phủ. Tại sao không?
Một cách để hiểu được tính năng này của mô hình cổ điển là quay trở lại nhận
dạng của thị trường hàng hoá về dòng chảy được bơm vào và rò rỉ. Viết lại phương trình
4.3, chúng ta có:
Tiết kiệm ≡ I + G + B
Khi chi tiêu ngân sách ròng tăng lên, sẽ có sự gia tăng về lượng bơm vào ở vế phải
của đồng nhất thức này. Sự bình đẳng được duy trì như thế nào?
18


Theo quan điểm của Keynes, sự cân bằng được duy trì bởi sự kết hợp của tăng thu
nhập, làm tăng tiết kiệm, và tăng lãi suất, cũng làm tăng tiết kiệm nhưng điều quan trọng
hơn là làm giảm đầu tư ("hiệu ứng lấn át"). Phân tích M-F đi theo những gợi ý về nền
kinh tế mở của cơ chế này
Trái lại, quan điểm cổ điển là sự gia tăng thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ
mang lại sự tiết kiệm bổ sung cần thiết một cách tự phát. Lý do chỉ đơn giản là các đại lý
kinh tế nhận thấy rằng chi tiêu thêm sẽ phải được thanh toán bằng thuế trong tương lai,
ngay cả khi nó được tài trợ bằng vay mượn tại thời điểm này. Do đó, họ sẽ muốn tăng
mức tiết kiệm hiện tại của mình với lãi suất nhất định để có thể trả thuế khi đến hạn
Trên thực tế, có thể chứng minh rằng, nếu thuế không làm thay đổi quyết định tiết
kiệm, các đại lý có trách nhiệm và không mù quáng mua thêm khoản nợ chính phủ phát
hành để tài trợ thêm chi tiêu với mức giá như trước khi sự thay đổi diễn ra . Họ sẽ làm
như vậy bởi vì lợi nhuận mà họ kiếm được từ nợ, được đo lường đúng, sẽ đủ để trang trải
cho gánh nặng thuế bổ sung.
Nếu chúng ta có thể dựa vào cơ chế tương đương Ricardian, (theonhà kinh tế cổ
điển vĩ đại David Ricardo), chúng ta không cần phải phân biệt giữa chi tiêu của khu vực
tư nhân và khu vực công. Chính phủ chỉ đơn giản là một cơ quan được tạo ra bởi một nhà
nước dân chủ để hành động thay mặt cho các công dân của mình - vay mượn như mọi thứ
khác. Thực tế là một công dân tư nhân thích mua bây giờ và trả tiền sau đó không tự động

tăng lãi suất. Tại sao nó nên làm như vậy khi anh ta hoặc cô ấy kênh toàn bộ quá trình
(chi tiêu và mượn) thông qua các cơ quan của chính phủ?
Trên cơ sở tương tự, người ta mong đợi sự gia tăng G ở vế phải của phương trình
6.6 sẽ được tự động kết hợp với sự gia tăng tiết kiệm cần thiết để tài trợ cho nó. Nói cách
khác, đường cong IS không cần thay đổi do sự thay đổi trong tỷ lệ chi tiêu giữa khu vực
nhà nước và tư nhân
Trong thực tế, chắc chắn sẽ có một số vi phạm trong mạch dẫn từ ngân sách của
quốc gia đến ngân sách hộ gia đình
Trước tiên, các hộ gia đình có thể đơn giản là không quan tâm đến việc sử dụng
gánh nặng thuế trong tương lai. Không thể dễ dàng truy cập được thông tin: những thay
đổi về chi tiêu của chính phủ chỉ được công khai dưới dạng số liệu thống kê chính thức,
các tài khoản công nghiệp hoá, giấy tờ trắng và vân vân. Trong bất kỳ trường hợp nào,
cũng là một điều để hấp thụ thực tế là £1 chi tiêu thêm của chính phủ ngày nay sẽ phải
được thanh toán tại một số điểm trong tương lai bằng các khoản thuế bổ sung có giá trị
hiện tại là £1. Một điều khá khác là chấp nhận rằng tôi hoặc giả sử con tôi sẽ phải trả
những khoản thuế đó. Vào thời điểm cuối cùng, tôi không còn có thể khả năng chi trả nợ
19


thuế: Tôi có thể đã chết, nghỉ hưu, di cư hoặc thất nghiệp. Hơn nữa, trừ khi các khoản
thanh toán coupon của tôi được miễn thuế thu nhập, việc mua chứng khoán của chính phủ
sẽ mang lại ít hơn tôi cần phải thanh toán hóa đơn thuế, khi đến hạn.
Vì những lý do này, kết quả có khả năng nhất đối với một nền kinh tế giống như
của Anh hoặc Mỹ dường như có một mức độ nào đó vượt quá số không (theo Ricardians)
nhưng nhỏ hơn so với các mô hình Keynesian được mô tả trong chương này.
Câu hỏi đặt ra là cuối cùng là một kinh nghiệm và một thực tế, mặc dù tầm quan
trọng của nó vẫn chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng
6.8 Chứng minh
Không quan tâm đến việc thử nghiệm mô hình M-F dưới hình thức trình bày ở
đây, ít nhất là về thời kỳ thả nổi, dường như vô nghĩa để cố gắng giải thích các sự kiện

bằng cách bắt đầu giả định rằng giá cả được cố định . Mặt khác, việc đưa giá linh hoạt
theo cách này hay cách khác làm thay đổi mô hình một cách quyết liệt, như chúng ta sẽ
thấy trong Chương 7.
Tuy nhiên, các giai đoạn nhất định trong 20 năm qua đã thúc đẩy sự giải thích của
một số nhà kinh tế theo cơ chế M-F.
Cụ thể, sự gia tăng đồng thời cả đồng đô la và lãi suất thực của Mỹ lên mức kỷ lục
trong nửa đầu của những năm 1980 đã dẫn nhiều nhà bình luận cho thấy thâm hụt ngân
sách liên bang đang gia tăng là thủ phạm.
Thật không may, bất cứ điều gì có thể đúng trong các tòa án hình sự, trong kinh tế
các bằng chứng từng phần hiếm khi chỉ ra một hướng. Trong trường hợp hiện tại, lãi suất
thực ở mức cao nhất hoặc ở mức cao nhất trong thế giới công nghiệp hóa, bất chấp lập
trường ngân sách thận trọng của một số nước có liên quan. Hơn nữa, sự sụp đổ tiếp theo
của đồng đô la đã diễn ra tốt trước bất kỳ dấu hiệu hữu hình nào cho thấy thâm hụt ngân
sách của Mỹ thậm chí có thể ổn định.
Tất nhiên, sự sụt giảm của đồng đô la, khi nó cuối cùng đã xảy ra, ngay lập tức
được một số nhà bình luận coi là phản ứng của thị trường. .. .. Thâm hụt liên bang.
Thật dễ dàng để mang tính khôi hài về những lời giải thích tùy biến. Tuy nhiên,
cần phải nhận ra rằng cả hai đều có thể chính xác và cố gắng hòa giải hai vị trí mâu thuẫn
này để đưa chúng ta trở lại một trong những điểm yếu trọng tâm của mô hình M-F.
Vấn đề đã được bàn đến khi thảo luận về vấn đề tính biến đổi của vốn về cổ phiếu
và lưu chuyển. Giả sử rằng Hoa Kỳ đã có thể tài trợ chi tiêu liên bang bổ sung bằng việc
20


vay mượn từ nước ngoài (chủ yếu là Nhật Bản) vào đầu những năm 1980. Đổi lại, nó
đem lại lợi nhuận cao hơn (rất cao). Tuy nhiên, nếu Nhật Bản đã điều chỉnh hoàn toàn
nắm giữ chứng khoán vào giữa những năm 1980, họ sẽ ngừng xuất khẩu vốn sang Mỹ trừ
phi phí bảo hiểm rủi ro tăng thêm, một sự phát triển không thành hiện thực, vì một lý do
nào đó. Do đó, đồng USD đã phải giảm. Các nhà quản lý tiền tệ quốc tế khó có thể bỏ
qua thực tế là năm 1987, khi họ cho vay vào quốc gia có chủ nợ lớn nhất thế giới, vào

năm 1987, họ được yêu cầu cho vay với khoản nợ lớn nhất thế giới - không bao giờ chấm
dứt tình trạng suy thoái Tài chính đối ngoại của Hoa Kỳ
Việc hợp lý thời điểm quá khứ (chắc chắn không phải là một lời giải thích) minh
hoạ những thiếu sót của tập trung M-F đối với dòng chảy chứ không phải là các cổ phiếu
vốn. Tất nhiên, nó cũng minh hoạ sự cần thiết phải cẩn thận về sức mạnh giả mạo của
những lý lẽ hợp lý sau này!
6.9 Các kết luận
Bốn mươi năm sau khi phát triển, phân tích được trình bày trong chương này có vẻ
chưa rõ ràng, có thể vì những biến động diễn ra trên thị trường tiền tệ trong những năm
can thiệp. Tuy nhiên, mô hình tập trung vào các cơ chế hầu như chắc chắn vẫn đang hoạt
động với một cái nhìn hay một cái khác ngày nay và trong quá trình cung cấp một số hiểu
biết hữu ích.
Hơn nữa, mặc dù cuốn sách này không chủ yếu liên quan đến các vấn đề thiết kế
chính sách nhưng đáng chú ý là các câu hỏi của Mundell và Fleming đề cập đến việc
phân công cụ chính sách thích hợp vẫn còn thỉnh thỏang. Tuy nhiên, trả lời cho họ một
cách thỏa đáng liên quan đến việc phân tích các mô hình phức tạp hơn rất nhiều so với
mô hình được đưa ra ở đây.
Phần lớn các nghiên cứu gần đây phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp từ công việc
của Mundell và Fleming, như chúng ta sẽ thấy. Trong Chương 7, chúng ta sẽ xem xét một
mô hình cố gắng khắc phục hai điểm yếu của mô hình M-F: mức giá liên tục và kỳ vọng
tĩnh. Chương 8 mở rộng mô hình để cung cấp một đặc tả rõ ràng về sự cân bằng thị
trường tài sản.
TÓM LƯỢC
Mô hình M-F được thiết lập trong bối cảnh cung đường tổng cung (tức là mức giá
cố định), sự vắng mặt của PPP, sự linh hoạt về vốn ít hơn và hoàn hảo.
 Với tỷ giá hối đoái thả nổi, sự cân bằng đòi hỏi thị trường tiền tệ và hàng hoá phải
rõ ràng, như trong mô hình IS-LM, trong khi ở khu vực mở thì tổng số thâm hụt


21



trên tài khoản hiện tại và tài khoản vốn là 0. Điều kiện thứ hai đảm bảo cân bằng
về cung và cầu trên thị trường tiền tệ.
 Với tỷ giá hối đoái thả nổi, chính sách tiền tệ mở rộng gây ra sự mất giá và giảm
lãi suất, trong khi việc mở rộng tài chính lại có hiệu quả ngược lại.
 Với tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ mở rộng có ảnh hưởng lâu dài gây ra
sự sụt giảm trong các khoản dự trữ, trong khi mở rộng ngân sách tạo ra tăng thu
nhập và lãi suất với một khoản dự phòng ngắn hạn.
 Mô hình M-F tương phản với mô hình tiền tệ ở một số khía cạnh: nhấn mạnh đến
mức độ hoạt động và lãi suất chứ không phải là mức giá, tập trung vào dòng lưu
chuyển chi tiêu và chuyển động vốn hơn là cổ phiếu của tài sản và trọng tâm vai
trò của nó mang lại cho cơ chế lấn át.

22



×