Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI TP.HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.87 KB, 51 trang )

MỤC LỤC


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOD

Nhu cầu oxy sinh hóa

BĐKH

Biến đổi khí hậu

BVMT

Bảo vệ môi trường

CN

Công nghiệp

COD

Nhu cầu oxy hóa học

CTNH

Chất thải nguy hại

ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long



ĐNB

Đông Nam bộ

DN

Doanh nghiệp

KCN

Khu công nghiệp

KCN-KCX

Khu công nghiệp – khu chế xuất

KDTSQTG

Khu dự trữ sinh quyển thế giới

KHCN & MT

Khoa học Công Nghệ và Môi Trường

NN

Nông nghiệp

ÔND


Ô nhiễm dầu

ÔNMT

Ô nhiễm môi trường

RNMCG

Rừng ngập mặn Cần Giờ

TN&MT

Tài nguyên và môi trường

TP

Thành phố

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TSS

Tổng lượng chất rắn lơ lửng

TTCN

Trung tâm công nghiệp


TX

Thị xã

VKTTĐPN

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

XH

Xã hội


PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép con
người mở rộng khả năng khai thác tài nguyên, vượt qua các giới hạn bình thường của
không gian như độ cao, chiều sâu... Cùng với sức ép của sự bùng nổ dân số ở nhiều
nước, vấn đề cạn kiệt tài nguyên cũng

bắt đầu song hành với nỗi lo ấy. Tài nguyên

trên đất liền cạn kiệt, con người bắt đầu hướng đến tài nguyên trên biển. Hướng ra
biển, tiến ra biển trở thành một hướng phát triển mới của loài người, một chiến lược
lâu dài của nhiều nước trên thế giới.
Là một quốc gia ven biển, nằm bên bờ Biển Đông, Việt Nam có đường bờ biển
2
dài 3260 km từ Móng Cái đến Hà Tiên; có vùng biển và thềm lục địa rộng 1 triệu km ,
gấp hơn 3 lần lãnh thổ trên đất liền; với nhiều tài nguyên, khoáng sản quan trọng.

Những lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện

tự nhiên và tiềm năng kinh tế của vùng biển

nước ta đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với sự đóng góp của các ngành kinh tế biển vào quá trình CNH-HĐH đất nước
đã đánh dấu một bước phát triển mới của Việt Nam trong công cuộc “tiến ra biển”.
Tuy nhiên, đi đôi với sự phát triển về kinh tế biển, ô nhiễm môi trường biển cũng đang
trở thành một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Các vụ tràn dầu, rò rỉ các chất
độc hại của tàu thuyền quốc tế, các rừng ngập mặn bị tàn phá; nước thải công nghiệp
không qua xử lý đổ trực tiếp xuống sông, suối chảy ra biển; thiên tai làm xói mòn bờ
biển đã gây thiệt hại không nhỏ đến môi trường biển của Việt Nam.
Tp. Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ
thuật quan trọng của cả nước. Bên cạnh sự phát triển vượt bậc về kinh tế, Tp. Hồ Chí
Minh cũng gặp phải những thách thức về vấn đề môi trường, trong đó vấn đề ô
nhiễm môi trường biển cũng được TP hết sức quan tâm. Những thách thức về vấn đề
môi trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung đòi hỏi
chúng ta phải tiếp cận, hiểu rõ các nguyên nhân, các nguồn gây ô nhiễm môi trường
biển, đánh giá những tác động của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế
- xã hội nhằm giảm thiểu những tác động đó để bảo đảm sự phát triển bền vững cho
môi trường biển nước ta hiện nay. Đó cũng chính là lý do mà tôi chọn đề tài “Ô
NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI TP.HỒ CHÍ MINH”.
3


1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Mục đích của đề tài là tìm hiểu thực trạng của ô nhiễm môi trường biển, ảnh
hưởng của nó đến các hoạt động kinh tế - xã hội của thành phố, cũng như đề xuất các

giải pháp cho vấn đề này. Từ đó hướng đến sự phát triển bền vững môi trường biển tại
Tp. Hồ Chí Minh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
-

Tìm hiểu cơ sở lí luận vấn đề môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển và các nguồn
gây ô nhiễm môi trường biển hiện nay.

-

Tìm hiểu thực trạng ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí
Minh nói riêng.

-

Đánh giá những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế xã hội Tp. Hồ Chí Minh

-

Tìm hiểu chiến lược biển của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng để đưa ra các
giải pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí
Minh và những ảnh hưởng của nó đến các hoạt động kinh tế - xã hội

1.3.2

Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn cho phép, đề tài chỉ nghiên cứu những ảnh hưởng của ô nhiễm

môi trường biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh (xét từ góc
độ Địa lí Kinh tế - xã hội) đặt trong mối quan hệ với vùng ĐNB và vùng KTTĐ phía
Nam, cũng như đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho môi trường biển trong
giai đoạn tới.
Do phạm vi ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế xã hội của thành phố diễn ra ở nhiều khía cạnh nên đề tài chỉ phân tích một vài khía
cạnh nổi bật nhất như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ …và trong phạm vi không
gian là các quận có hoạt động liên quan đến môi trường biển như Nhà Bè, Cần Giờ…

4


PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận
- Trong bối cảnh các nguồn tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt, thì
những tài nguyên trên biển được nhiều nước hướng đến. Vấn đề khai thác tài nguyên
trên biển, “hướng ra biển” của nhiều nước đã làm cho ô nhiễm môi trường biển trở
thành một trong nhưng vấn đề đang được quan tâm trong giai đoạn hiện nay và cả
trong tương lai. Vì vậy trên quan điểm lịch sử - viễn cảnh, chúng ta sẽ đánh giá khách
quan về vấn đề này trong quá khứ cũng như đưa ra nhưng dự báo trong tương lai. Từ
đó, chúng ta sẽ có những nhận định đúng đắn cho vấn đề này để có thể phát huy được
các ưu thế của đề tài, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót của nó.
- Ô nhiễm biển không chỉ bao gồm các hoạt động ô nhiễm xảy ra trên biển mà
còn bao gồm các hoạt động có nguồn từ đất liền. Vì thế ô nhiễm môi trường biển tại
Tp. Hồ Chí Minh có liên quan mật thiết đến các hoạt động ô nhiễm tại hệ thống sông
Sài Gòn – Đồng Nai. Sông Đồng Nai là một trong những con sông lớn của Việt Nam.
Lưu vực sông Đồng Nai nằm phần lớn trong các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Vì
vậy khi nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh cần liên hệ
với những vấn đề môi trường tại lưu vực của hai con sông này.
Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường biển không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn rất
nhiều nước

trong khu vực Biển Đông và trên thế giới, chính vì vậy trên cơ sở hệ thống của
khu vực, vùng giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này hiện nay. Từ đó học
hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến, phát huy những thế mạnh của chúng ta để khắc
phục triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường biển cũng như hạn chế đến mức thấp nhất tác
hại của nó đến kinh tế - xã hội và môi trường.
- Khi nghiên cứu vấn đề môi trường đặc biệt là ô nhiễm môi trường biển cần
phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phát triển kinh tế - xã hội
của TP.HCM phải đi đôi với sử dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên,
chống gây ô nhiễm môi trường; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
2.2 Cơ sở thực tiễn
Ô nhiễm môi trường là một trong những vấn đề đang được quan tâm hàng đầu
hiện nay. Tình trạng ô nhiễm xảy ra ở khắp mọi nơi cùng với sự phát triển về kinh tế 5


xã hội của các nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển tình trạng này càng đáng
báo động. Việt Nam cũng không là một trường hợp ngoại lệ. Với 3260 km đường bờ
biển, với nhiều bãi cát đẹp thích hợp cho du lịch, cùng nhiều tài nguyên khoáng sản
quan trọng đã nói lên vai trò của biển đối với Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề khai thác
tài nguyên biển cũng phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường biển. Ô nhiễm biển hiện
nay tại Việt Nam cũng đang trong tình trạng báo động. Có nhiều đề tài nghiên cứu đã
đề cập đến vấn đề này như:
-

Trong cuốn sách “Bảo vệ môi trường biển – vấn đề và giải pháp” của TS Nguyễn
Hồng Thao, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004, có đề cập đến vấn đề ô nhiễm môi
trường biển, các nguyên nhân gây ô nhiễm, các điều ước quốc tế và khu vực Đông
Nam Á về vấn đề ô nhiễm môi trường biển. Tác giả cũng phân tích rất kĩ về hiện trạng
tài nguyên, vấn đề ô nhiễm biển cũng như các chiến lược, hoạt động liên quan đến
vấn đề này tại Việt Nam. Tuy nhiên cuốn sách cũng chưa đề cập đến vấn đề tác động

của ô nhiễm môi trường biển đến các vấn đề kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.

-

Đề cập đến chiến luợc biển của Việt Nam, cũng như các công ước quốc tế về biển mà
Việt Nam đang thực hiện, cuốn sách “Công ước biển 1982 và chiến lược biển của
Việt Nam” cũng do TS Nguyễn Hồng Thao (chủ biên) cùng nhóm tác giả PGS.TS Đỗ
Minh Thái, TS Nguyễn Thị Như Mai, ThS. Nguyễn Thị Hường, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, 2008, đã nêu đầy đủ và chi tiết về Công ước biển 1982. Trong đó, có một
phần đề cập đến vấn đề ô nhiễm môi trường biển là “Thực hiện công ước 1982 trong
lĩnh vực bảo vệ và gìn giữ môi trường biển”. Tuy nhiên cuốn sách cũng chỉ đánh giá
các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển và các biện pháp bảo vệ môi trường biển chứ
chưa phân tích về tác động ngược lại của ô nhiễm biển đến các hoạt động kinh tế - xã
hội.

-

Nhằm nghiên cứu đề xuất phương pháp đánh giá tác động của ô nhiễm dầu tới hệ sinh
thái và lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm dầu gây ra, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã tổ chức một buổi Hội thảo với chủ đề “Đánh giá tác động ô nhiễm dầu đến
hệ sinh thái biển và ven biển và lượng giá thiệt hại kinh tế” vào ngày 14/06/2007 tại
Hà Nội. Hội thảo đã đánh giá được tác động của ô nhiễm môi trường biển đến các hệ
sinh thái tiêu biểu như rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô…Tuy nhiên việc đánh giá
vẫn chỉ mang tính đại diện chưa đi vào nghiên cứu cụ thể và chưa đánh giá được
6


những tác động khác đến đời sống con người như về sức khỏe, tinh thần...
-


Trong báo cáo tổng kết khoa học và công nghệ về đề tài “Cơ sở khoa học cho việc
phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển
cho một số khu vực trọng điểm” nhóm tác giả PGS.TS Ngô Doãn Vịnh, TS Trương
Văn Tuyên, Hà Nội, 2004, đã trình bày một cách cặn kẽ về vai trò của biển và ven
biển trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cũng như tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của dải ven biển trong giai đoạn hiện nay. Đề tài đã đưa ra được
cái nhìn toàn diện về quy mô phát triển cũng như mô hình phát triển cho một số khu
vực trọng điểm như khu vực đô thị cảng Hải Phòng, mô hình phát triển kinh tế - xã hội
xã Phú Đa, tỉnh Thừa Thiên Huế…
Bên cạnh đó, cũng còn một số đề tài nghiên cứu khác về vai trò chiến lược của
biển và dải ven biển Việt Nam như đề tài “Vai trò chiến lược của biển và dải ven
biển Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của TS
Trương Văn Tuyên - Viện chiến lược phát triển; hay đề tài “Luận chứng phương
án phát triển tuyến động lực ven biển Vũng Tàu – Cần Giờ - Tp. Hồ Chí Minh” của
Th.S Trần Sinh - Trung tâm Kinh tế miền Nam, Bộ KH&ĐT; đề tài “ Nghiên cứu hiện
trạng và các giải pháp bảo vệ môi trường vùng ven biển Việt Nam” của TS. Lê Kim
Dung, Viện chiến lược phát triển…
Một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển là các nguồn nước
thải từ các KCN – KCX đổ trực tiếp ra sông, suối, kênh, rạch và tiếp tục đổ ra biển.
Nghiên cứu về vấn đề ô nhiễm các hệ thống sông hiện nay, tiêu biểu có các đề tài như
“Quản lý tổng hợp và thống nhất

tài nguyên môi trường lưu vực sông Đồng Nai

– một vấn đề cấp bách” của GS.TS Lâm Minh Triết, KS. Nguyễn Thanh Hùng, Viện
Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh; hay đề tài “Tầm
quan trọng của sông Sài Gòn trong sự phát triển bền vững” cũng của GS.TS Lâm
Minh Triết, người có rất nhiều năm nghiên cứu say mê về đề tài bảo vệ môi trường
nước cho TP.HCM nói chung và sông Sài Gòn nói riêng. Chưa bao giờ sông Sài Gòn

được quan tâm nhiều như hiện nay bởi những diễn biến ngày càng xấu về chất lượng
nước của dòng sông đe

dọa nghiêm trọng đến đời sống xã hội và trước hết đe dọa

trực tiếp về nhu cầu cấp nước cho thành phố và đe dọa nghiêm trọng cho sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững của TP.HCM, tỉnh Tây Ninh và Bình Dương trên lưu vực
sông Sài Gòn.
7


Nói đến chiến lược biển, kinh tế biển, phải nhắc đến Đề án Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020 và Nghị quyết về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020”
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chiến lược Biển
Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về
biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ
vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội
với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm
thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn
vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với
sự phát triển của cả nước. Từ đó, có thể thấy trong văn bản này Đảng và Nhà nước ta
cũng rất quan tâm đến vấn đề “hướng ra biển” của Việt Nam.
-

Như vậy, cho đến nay, đã có rất nhiều đề tài viết về vấn đề ô nhiễm môi trường biển,
các hoạt động kinh tế biển tại Việt Nam cũng như ảnh hưởng của hoạt động kinh tế
biển đến kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, chưa có một đề tài cụ thể nào đề cập đến ảnh
hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội của Tp. Hồ
Chí Minh hiện nay. Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tham khảo ý kiến thầy hướng
dẫn, cũng như kiểm nghiệm từ thực tế em đã thực hiện đề tài này. Em hy vọng đề tài

của mình sẽ giúp cho mọi người tiếp cận với vấn đề ô nhiễm môi trường biển một cách
dễ dàng hơn và có cái nhìn trực quan hơn về tác động của kinh tế đến môi trường biển
cũng như những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế xã hội của Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.

8


PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.

Phương pháp định lượng

3.1.1

Phương pháp sưu tầm và thống kê số liệu
Để đề tài được hoàn thành, việc sưu tầm các tài liệu liên quan có ý nghĩa quan
trọng, những tài liệu nghiên cứu, những thông tin dựa vào các nguồn như sách, tạp chí,
báo chuyên ngành, các website chuyên ngành về môi trường và ô nhiễm môi trường
biển giúp cho việc phân tích được cặn

kẽ hơn. Sau khi sưu tầm các tài liệu tham

khảo, người nghiên cứu phải chắt lọc các thông tin cần thiết, thống kê các số liệu theo
thời gian cho phù hợp với đề tài đã chọn. Phương pháp sưu tầm và thống kê số liệu
cho phép người nghiên cứu có cái nhìn khách quan nhất về vấn đề ô nhiễm môi trường
biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên nguồn
tài liệu lấy từ nhiều kênh thông tin khác nhau nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
3.1.2

Phương pháp phân tích và xử lí số liệu

Phương pháp này giúp phân tích các số liệu liên quan đến đề tài. Từ các số liệu
thống kê đã có, thông qua chương trình Microsoft Office Excel, người nghiên cứu có
thể đưa ra những nhận định, đánh giá chính xác về vấn đề ô nhiễm môi trường biển
hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh.

3.1.3

Phương pháp thực địa
Việc nghiên cứu một vấn đề không thể thiếu sự tìm hiểu từ thực tế. Thông qua
hoạt động quan sát, tìm hiểu từ thực tế của vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện nay
tại Tp. Hồ Chí Minh, người nghiên cứu sẽ đưa ra được những minh chứng tốt nhất cho
vấn đề trên. Từ đó, đánh giá được đúng thực trạng của vấn đề ô nhiễm môi trường biển
hiện nay và những tác động của nó tại Tp. Hồ Chí Minh.

3.1.4

Phương pháp bản đồ - biểu đồ
Thông qua việc sử dụng các bản đồ - biểu đồ liên quan đến vấn đề ô nhiễm biển
tại Tp. Hồ Chí Minh, người nghiên cứu có được cái nhìn trực quan, sinh động về vấn
đề. Từ đó đưa ra những nhận định chính xác về ô nhiễm môi trường biển hiện nay.
Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng phần mềm Mapinfo 7.0, dựa trên cơ
sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý. Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí
thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ.

9


3.2

3.2.1


Phương pháp định tính
Phương pháp chuyên gia
Dựa trên những quan điểm, những bài báo, những tác phẩm, những công trình
nghiên cứu của các chuyên gia trong ngành, người nghiên cứu tìm hiểu, phân tích vấn
đề ô nhiễm môi trường biển, tác động của ô nhiễm đến các hoạt động kinh tế - xã hội
để tìm ra những ưu và khuyết của vấn đề. Bên cạnh đó, dựa trên các quan điểm đã nêu
(trong phần 5) để đưa ra những nhận định chính xác về vấn đề ô nhiễm môi trường
biển và tác động của nó đến kinh tế - xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.

3.2.2

Phương pháp dự báo
Sau khi đã có những nhận định cũng như các số liệu thống kê cần thiết về vấn đề ô
nhiễm môi trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh, việc dự báo về vấn đề ô nhiễm
biển trong tương lai là hết sức cần thiết. Dựa trên các công thức dự báo sẵn có, thông
qua một số phép tính, người nghiên cứu đưa ra những phân tích, đánh giá về tác
động của ô nhiễm biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội trong tương lai của Tp. Hồ
Chí Minh. Từ đó, đưa ra những giải pháp cho vấn đề này trong thời gian sắp tới

10


PHẦN IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
4.1 Hiện trạng môi trường biển Việt Nam
Hiện nay, môi trường biển nước ta đang có dấu hiệu bị ô nhiễm và suy thoái. Môi
trường vùng nước ven bờ đã bị ô nhiễm dầu, kẽm, và chất thải sinh hoạt. Các chất rắn
lơ lửng như Si, NO3, NH4 và PO4 cũng ở mức đáng lo ngại. Chất lượng trầm tích đáy
biển ven bờ- nơi cư trú của nhiều loài thuỷ hải sản- cũng bị ô nhiễm.
Hàm lượng hoá chất bảo vệ thực vật chủng anđrin và enđrin trong các mẫu sinh

vật đáy ở các vùng cửa sông ven biển phía bắc đều cao hơn giới hạn cho phép. Đa
dạng sinh học động vật đáy ở ven biển miền bắc và thực vật nổi ở miền trung suy giảm
rõ rệt.Lượng hoá chất bảo vệ thực vật tồn lưu trong cơ thể các loài thân mềm hai mảnh
vỏ được xác định cao nhất là tại Sầm Sơn và cửa Ba Lạt (11,14- 11.83 mg/kg thịt
ngao), tháp nhất là tại Trà Cổ (1,54 mg/kg).Các chất anđrin, enđrin, đienđrin, đặc biệt
là anđrin và enđrin có hầu hết ở các mẫu phân tích, biến đổi từ 0,12 đến 3,11 mg/kg.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta từ tháng sáu đến trung tuần
tháng bảy âm lịch tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt là tại Khánh Hoà, Ninh Thuận,
Bình Thuận. Thuỷ triều đỏ xuất hiện khá nhiều ở nam trung bộ. Hơn 30km bãi biển từ
Cà Ná đến Long Hương nhầy nhụa nhũng bột báng màu xám đen dày cả tắc, trộn với
xác chết của sinh vật tạo nên mùi hôi thối. Thiệt hại do thuỷ triều đỏ gây ra rất lớn.
Vùng biển ven bờ nước ta đã phát hiện được khoảng 8-16 loài vi tảo biển gây hại tiềm
năng với mật độ hơn 2 x 104 tế bào/ lít. Hiện tượng thuỷ triều đỏ xảy ra ở vùng biển
Bình Thuận đã tiêu diệt tôm, cua, cá, san hô, rong cỏ biển.
Theo số liệu thống kê cho thấy khoảng 70% ô nhiễm biển đại dương có nguồn
gốc từ đất liền, xuất phát từ chất xả thải của các thành phố, thị xã, thị trấn, từ các
ngành công nghiệp, xây dựng, hoá chất…trong đó đáng kể nhất và nguy hại nhất là các
chất thải từ các nhà máy thông qua hệ thống cống rãnh, xả thải ra biển và đại dương
một lượng lớn các chất bồi lắng, hoá chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các
chất phóng xạ.

11


Ô nhiễm biển Đà Nẵng
Hàng năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880 km 3 nước, 270-300 triệu
tấn phù xa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển, như các chất hữu cơ, dinh
dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại từ các khu dân cư tập trung, từ các khu
công nghiệp và đô thị, từ các khu nuôi trồng thuỷ sản ven biển và các vùng sản xuất
nông nghiệp. Đến năm 2010, dự tính lượng chất thải sẽ tăng rất lớn ở các vùng nước

ven bờ, trong đó dầu khoảng 35.160 tấn/1 ngày, nitơ tổng số 26-52 tấn/ngày và tổng
amoni 15-30 tấn/ngày.
Báo cáo hiện trạng môi trường đã chỉ ra rằng chất lượng môi trường biển và vùng
ven biển tiếp tục bị suy giảm. Nước biển của một số khu vực có biểu hiện bị axit hoá
do độ pH trong nước biển tầng mặt biến đổi trong khoảng 6,3-8,2. Nước biển ven bờ
có biểu hiện bị ô nhiễm bởi chất hữu cơ, kẽm, một số chủng thuốc bảo vệ thực vật.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt tại Khánh Hoà,
Ninh Thuận, Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang nuôi trồng tại vùng này. Chất
lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên của loài bị phá huỷ gây tổn
thất lớn về đa dạng vùng bờ.Có khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau
và trên 70 loài đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam. Hiệu suất khai thác hải sản giảm rõ
rệt, thêm vào đó, tình trạng dùng các ngư cụ đánh bắt có tính chất huỷ diệt diễn ra khá
phổ biến như xung điện, chất nổ, đèn cao áp quá công suất cho phép… làm cạn kiệt
các nguồn lợi hải sản ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng,
sản lượng và kích thước cá đánh bắt.
12


Trong các yếu tố làm ô nhiễm môi trường biển thì các chất phóng xạ cũng đóng
góp một vai trò đáng kể. Các vùng biển, đặc biệt là nước biển tại các vùng lân cận các
mỏ sa khoáng titan, trong điều kiện môi trường thủy địa hóa thuận lợi, các chất phóng
xạ bị hòa tan và di chuyển ra biển, gây ô nhiễm nước biển. Khi con người khai thác
khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên vô hình dung đã tàn phá thiên nhiên, làm mất cân
bằng sinh thái, mất lớp phủ thực vật che chắn và bảo vệ đất, làm cho vùng mỏ bị xói lở
và bóc mòn, quặng bị phong hóa phá hủy và phát tán đi các nơi, ảnh hưởng đến môi
trường và sức khỏe con người.Nước thải từ các khai trường, xưởng tuyển không được
xử lý, thu gom, để chảy tràn lan ra môi trường xung quanh. Các bãi biển đều có địa
hình dốc ra phía biển, càng làm cho các chất thải, nước thải trôi xuống biển, đem theo
các chất phóng xạ và các chất độc hại khác làm ô nhiễm môi trường nước biển.
Ô nhiễm môi trường biển còn xảy ra ở các cảng. Các cảng đều phải đối mặt với

nước đục do liên quan đến hoạt động của tàu thuyền ra vào cảng, nạo vét luồng lạch,
đổ phế thải. Độ đục nước vùng cảng Hải Phòng là 418-424mg/l, cảng Đà Nẵng 33167mg/l. Nồng độ dầu ở tất cả các cảng đều vượt mức cho phép 0,3mg/l(TCVN59431995), cảng Hải Phòng 0,42mg/l, cảng Cái Lân 0,6mg/l, cảng Vũng Tàu 0,52mg/l,
cảng Vietso Petro 7,57mg/l. Mặt dầu loang ngăn chặn không khí hoà tan vào nước nên
hàm lượng oxy trong nước thấp, trung bình 3,3-10,9mg/l vào mùa khô và 1,16-6,1mg/l
vào mùa lũ, trong khi đó nhu cầu oxy rất cao,cần tới 13,6-31mg/l. Nước thải công
nghiệp và nước thải sinh hoạt đổ ra biển chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng học luôn ở
mức cao. Ở một số cảng đáng báo động là hàm lượng thuỷ ngân đã vượt ngưỡng cho
phép,cảng Vũng Tàu vượt 3,1 lần, cảng Nha Trang vượt 1,1 lần. Hiện nay, hàm lượng
dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam
và vượt rất xa tiêu chuẩn hiệp hội các nước Đông Nam Á. Đặc biệt có những thời điểm
vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu đạt mức 1,75mg/l, gấp 6 lần giới
hạn cho phép, vịnh Hạ Long có 1/3 diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 11,73mg/l.
Môi trường biển bị ô nhiễm đã dẫn tới suy thoái đa dạng sinh học biển, điển hình
là hệ sinh thái san hô. Vùng biển Việt Nam có khoảng 1.122 km 2 rạn san hô, nếu hệ
sinh thái này bị mất, biển nước ta có nguy cơ sẽ trở thành "thủy mạc" không còn tôm
cá nữa. Đó là thông điệp mà các nhà môi trường và bảo tồn thiên nhiên nước ta đã
cảnh báo. Theo số liệu của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đến nay có khoảng
13


20% rạn có độ phủ san hô sống nghèo (độ phủ 0-25%), 60% thuộc loại thấp (26-50%),
17% còn tốt (51-75%) và chỉ có 3% rất tốt (trên 75%). Các rạn san hô ở vùng biển
Việt Nam có giá trị cực kỳ quan trọng như điều hòa môi trường biển, cung cấp dinh
dưỡng trong vùng biển thông qua các chu trình sinh địa hóa; đồng thời còn là nơi cư
trú, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều loài thủy sinh vật không chỉ vùng bờ, mà
còn từ ngoài khơi vào theo mùa trong đó có nhiều loài đặc hải sản.
Nhưng một nghịch lý vẫn đang xảy ra với hệ sinh thái này. Trước đây con người
không bao giờ hại đến san hô nhưng nay nhu cầu xây đá mỹ nghệ, hòn non bộ, trang
trí nội ngoại thất ngày càng nhiều nên tình trạng khai thác, vận chuyển, buôn bán san
hô ở các địa phương ven biển đang diễn ra rất phức tạp. Bờ Đông Nam của đảo Cồn

Cỏ từng bị các đối tượng lặn xuống và dùng cưa để khai thác san hô đen đem bán.
Nhiều khu vực biển miền Trung, ngư dân đi lấy san hô đã thành một loại nghề sinh
sống. Vì lợi nhuận, không ít người đã làm ảnh hưởng đến sự hình thành tự nhiên của
dải san hô gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Những rạn san hô mất đi, đồng
nghĩa với sự cạn kiệt các nguồn lợi thủy sản.
Viện Hải Dương học Việt Nam đã từng cảnh báo: "Chưa bao giờ nguồn san hô
nước ta lại đứng trước thách thức sống còn như hiện nay. Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san
hô chưa kể mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phòng, theo đà
này 20 năm nữa san hô không còn trong vùng biển Việt Nam".
4.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển:
- Từ lục địa mang ra: Các hoạt động phát triển trên đất liền, đặc biệt trên các lưu
vực sông như đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng và
khai thác thủy sản nước lợ, các khu dân cư, khai khoáng,... Các chất thải không qua xử
lý đổ ra sông suối và cuối cùng “trăm sông đều đổ về biển cả”. Lượng thải từ đất liền
ra biển ở nước ta chiếm khoảng 50-60%.
- Từ trên biển: Các hoạt động trên biển như hàng hải, nuôi trồng và đánh bắt hải
sản, phát triển cảng và nạo vét đáy biển, du lịch biển, thăm dò và khai thác khoáng
sản biển (chủ yếu dầu, khí), nhận chìm tàu và các sự cố môi trường biển khác (tràn
dầu, thải dầu, đổ dầu cặn bất hợp pháp, đổ thải phóng xạ, hóa chất độc hại,...).
- Từ không khí đưa xuống: Các hoạt động tương tác biển – khí cũng kéo theo
hiện tượng lắng các chất gây ô nhiễm xuống biển. Loại này khó theo dõi và quản lý vì
thường phát tán trên diện rộng.

14


- Từ đáy biển đưa lên: Chủ yếu ở những khu vực có hoặc chịu ảnh hưởng của các
hoạt động địa động lực mạnh như động đất, núi lửa, sóng thần,... Để thuận tiện trong
đánh giá, người ta chia các tác động môi trường ra thành các tác động trường diễn
(mức độ thấp, thời gian dài) và cấp diễn (thời gian ngắn, tác động nhanh mạnh). Tác

động trường diễn bao gồm sự xâm nhập của một chất độc hoặc một yếu tố do con
người gây ra, thường là liên tục và ở mức độ tương đối thấp, gây ra ô nhiễm hoặc suy
thoái môi trường tiềm năng, từ từ và lâu dài. Thí dụ: việc xả các chất dinh dưỡng
vào biển bắt nguồn từ nước thải. Tác động cấp diễn biểu hiện khi hoạt động xả thải
xảy ra trong thời gian ngắn, có thể gây ra hiệu ứng rõ ràng, song nó sẽ giảm dần theo
thời gian. Tràn dầu là một thí dụ theo kiểu này: thoạt đầu, dầu thường có tác động
thảm hoạ đối với các hệ sinh thái và các nơi sinh cư (habitat) ở biển, nhưng chúng có
thể sẽ được cải thiện sau khi dầu đã tràn hết.
Trong thực tế, ô nhiễm có thể phát sinh từ một nguồn, ở một địa điểm nhất định
(đơn nguồn hoặc rõ nguồn gốc, point source) hoặc từ nhiều nguồn, ở những địa điểm
khác nhau (đa nguồn hoặc không rõ nguồn gốc, non-point). Trong một số trường hợp,
ô nhiễm phát sinh từ một nguồn, như từ một ống cống hoặc từ miệng cống nước thải
của một nhà máy (như vụ Formosa Hà Tĩnh). Khi đó, nồng độ của chất gây ô
nhiễm (contaminant) hoặc cường độ tác động (thí dụ: nhiệt độ ở gần miệng cống nhà
máy điện) sẽ phải giảm dần trên khoảng cách xa dần so với điểm nguồn. Bản chất của
sự giảm như vậy phụ thuộc vào tính chất lý-hoá của chất gây ô nhiễm hoặc yếu
tố dòng chảy và môi trường trầm tích, cũng như tốc độ xâm nhập của chất hoặc yếu
tố gây ô nhiễm. Trong trường hợp như vậy, việc xác định và quản lý tương đối đơn
giản, bởi vì cơ quan quản lý có thể tìm ra nguồn phát sinh và theo dõi được quy mô
không gian của tác động đó.
Ngược lại, các tác động kiểu đa nguồn thì hoàn toàn không thể gán cho một địa
điểm phát sinh nào cả. Thí dụ khá rõ về kiểu đa nguồn là: nước chảy sau khi mưa làm
các độc chất và chất dinh dưỡng bắt nguồn từ phân bón sau đó có thể bị cuốn
vào biển trên một dải bờ khá rộng, không rõ nguồn xuất phát từ đâu. Trong trường hợp
này, hoạt động quản lý sẽ khó hơn nhiều vì khó xác định rõ ràng nguồn phát thải về
mặt địa lý.
Theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, ô nhiễm môi
trường biển bao gồm 6 nguồn chính sau:
15



Bảng 1.1. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển theo Công ước của Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển năm 1982
STT

Các nguồn gây ô nhiễm

1. Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát từ các dòng
sông, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải của công nghiệp.
2. Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán của
quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị
thuộc quyền tài phán của họ.
3. Ô nhiễm do các hoạt động tự nhiên và nhân tạo trong vùng (tức vùng đáy
biển di sản chung của loài người) lan truyền tới.
4. Ô nhiễm do sự nhận chìm và trút bỏ chất thải.
5. Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn tàu thuyền trên
6. biển.
Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển.
Nguồn: TS Nguyễn Hồng Thao, 2004
-

Theo bản báo cáo đánh giá về hiện trạng môi trường biển của nhóm GESAMP năm
1990, tỷ lệ các hoạt động của con người gây ô nhiễm môi trường biển như sau: Các
hoạt động dầu khí ngoài khơi: 1%, giao thông biển: 12%, nhận chìm: 10%, phù sa và ô
nhiễm có nguồn gốc từ đất liền: 44%, ô nhiễm từ khí quyển: 33%

-

Cách phân loại này khác với cách phân loại cổ điển căn cứ vào tiêu chuẩn lý hóa của
chất gây ô nhiễm. Xác định nguồn gây ô nhiễm gắn liền với các lĩnh vực, khu vực

hoạt động của con người trong một tổng thể, thể hiện sự cần thiết quản lý tổng hợp
đấu tranh chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường biển

16


Bảng 1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển
(phân loại theo tiêu chuẩn lý hóa của các chất gây ô nhiễm)
STT

Nguồn hoặc các hoạt động
Các tác động liên quan
gây ô nhiễm biển
1. Khí CO2
Thay đổi khí hậu, làm thay đổi nhiệt độ,
thay đổi mực nước biển.
2. Các kim loại nặng
Tác động độc hại tiềm tàng
3. Vi sinh vật

Tác hại tới sức khỏe cộng đồng

4. Đổ chất thải phóng xạ

Tác hại tới sức khỏe cộng đồng

5. Các hóa chất mới

Độc hại cho con người và sinh vật


6. Sản xuất năng lượng

Thay đổi hoặc làm xáo trộn môi trường
sống
Làm tăng độ đục, xáo trộn đáy biển.

7. Khai khoáng

4.2.1

Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền
Các hoạt động của con người được thực hiện phần lớn trên đất liền nhưng biển cả
mới là bãi rác khổng lồ mà con người đã quen trút bỏ. Năm 1972, vấn đề ô nhiễm có
nguồn gốc từ đất liền được đưa vào chương trình hành động của Hội nghị về Môi
trường – Con người ở Xtốckhôm. Nhưng chỉ khi Công ước 1982 của Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển xác định ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền là nguồn ô nhiễm biển
lớn nhất thì nhận thức của nhân loại mới thay đổi đáng kể và đã có ngày càng nhiều
các văn kiện chính thức của quốc tế cũng như các quốc gia xem xét khả năng hợp tác
để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự hình thức ô nhiễm này.
Theo Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, điều 207, ô nhiễm môi
trường biển có nguồn gốc từ đất liền bao gồm cả các ô nhiễm xuất phát từ các sông,
ngòi, cửa sông, ống dẫn và thiết bị thải đổ. Công ước có một điều khoản riêng qui định
về ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài
phán quốc gia gây ra hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị thuộc
quyền tài phán quốc gia (Điều 208)
Theo Chương trình hành động 21 của Hội nghị Rio de Janeiro về Môi trường và
Phát triển nhận xét: “Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền chiếm 70% ô nhiễm biển, trong
khi các hoạt động giao thông vận tải biển và nhận chìm ở biển đóng góp 10% từng loại.”
17



Do định nghĩa về đất liền khác nhau nên cách tính ô nhiểm biển có nguồn gốc từ
đất liền cũng rất khác nhau. Theo báo cáo của GESAMP 1990 thì ô nhiễm biển xuất
phát từ đất liền chiếm 44%. Mặc dù các con số chưa thống nhất nhưng không ai phủ
nhận ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền đóng góp phần lớn trong các tác nhân gây ô
nhiễm cho môi trường biển.
Việc xác định các nguồn gây ô nhiễm trên đất liền cũng không phải đơn giản.
Nguồn ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền rất đa dạng, xuất phát từ rất nhiều hoạt động
khác nhau. Vì vậy, nguồn gây

ô nhiễm có thể chia làm hai loại : nguồn xác định và

nguồn không xác định. Nguồn xác định là nguồn mà vị trí đổ thải vào môi trường
biển được xác định chính xác và có thể phân loại các chất ô nhiễm theo kim loại, chất
hữu cơ, chất nguy hại…Các nhà máy xử lý chất thải thành thị chiếm đến 25% tổng các
nguồn xác định đổ vào các vùng nước ven bờ. Các nguồn không xác định là các
nguồn phân tán, xâm nhập vào môi trường biển bằng các con đường gián tiếp như
thông qua khí quyển, theo nước mưa chảy vào sông ra biển. Các chất này có thể là
thuốc trừ sâu, muối, dầu, các chất nhiễm bẩn từ đường sá, cầu cống, các chất thải từ
gia súc…các nguồn không xác định này có thể chia thành 4 loại liên quan đến thành
thị, nông thôn, công nghiệp và xây dựng phát triển.
4.2.1.1 Ô nhiễm từ các hoạt động liên quan đến đáy biển

Các hoạt động liên quan đến đáy biển có thể bao gồm:
 Các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí;
 Các hoạt động thăm dò và khai thác khoáng sản, quặng đa kim;
 Các hoạt động khoan, đào, nổ nhằm mục đích xây dựng đường hầm, đặt cáp, ống

dẫn…
Khai thác dầu khí ngoài biển được bắt đầu vào năm 1923, ngoài khơi Vênêxuêla.

Từ đó đến nay việc thăm dò và khai thác dầu khí đã phát triển mạnh mẽ, không chỉ
giới hạn ở các vùng biển gần bờ mà đã ra đến cả các vùng sâu hàng nghìn mét. Các
cuộc khảo sát địa chấn, các chất thải, dung dịch khoan, tàu thuyền qua lại, việc lắp
đặt các công trình thiết bị, giàn khoan, cũng như việc đổ thải và rò rỉ hoặc các sự cố
trong quá trình thăm dò, khai thác dầu khí như các vụ nổ giàn hoặc đâm và, tràn dầu
khi tàu thuyền neo đậu tại giàn đều có ảnh hưởng đến chất lượng môi trường biển.
Các đánh giá ban đầu cho thấy hàng năm có khoảng 0,08 triệu tấn dầu được đưa
vào môi trường biển từ hoạt động khai thác ngoài khơi trong đó có 0,06 triệu tấn là do
18


các sự cố (theo Lucchini & Voelckel, Paris, 1981). Theo nghiên cứu các hoạt động
khoan đưa tới 98-99% các chất không phải dầu vào môi trường biển. Ngoài ra nguồn
gây ô nhiễm còn là nước thải sinh hoạt của con người cũng như các loại vật liệu
dạng bột dùng trong sản xuất (ximăng, barit, betonit…). Qua thực nghiệm cho thấy
với nồng độ dung dịch khoan vào khoảng 0,5-1,0 g/l, nước biển đã có tác động xấu
đối với cá con. Với nồng độ từ 5-7g/l thì các loài cá con đều chết và các động vật
không xương sống sẽ bị hủy diệt.[36]
Các công trình, thiết bị thăm dò và khai thác ngoài khơi còn là các vật cản trở
giao thông và thường được nối với các đường ống dễ bị đứt gãy, sẽ làm tăng khả năng
tác động xấu đến sinh vật biển. Ngoài ra các hoạt động khoan, đào, nổ việc đặt dây cáp
và ống dẫn ngầm cũng gây ảnh hưởng ô nhiễm đến môi trường biển.
4.2.2

Ô nhiễm do nhận chìm các chất nguy hại và các chất khác
Các hóa chất và các chất nguy hại có chứa hóa chất thường tác động lên môi
trường căn cứ vào độ độc hại và thời gian cũng như mức độ tập trung của chúng trong
nước biển. Các chất thải phóng xạ được nhận chìm ngoài khơi có thể tác động xấu đến
các sinh vật biển đặc biệt là các sinh vật biển còn nhỏ đang trong thời kì trưởng thành
làm biến đổi gen, đột biến phát triển các gen xấu.

Theo số liệu thống kê, hàng năm Châu Âu thường chuyển 120.000 tấn chất thải
nguy hại đến vùng biển các nước thuộc thế giới thứ ba (Theo Mostafa K.Tolba, Cứu
lấy hành tinh của chúng ta – Cơ hội và thách thức). Việc chuyên chở chất thải nguy
hại, phế phẩm công nghiệp, nông nghiệp, thiết bị máy móc, tàu thuyền đã qua sử
dụng, hóa chất…xuyên biên giới cũng đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia.
Theo chương trình hành động 21 của Hội nghị Rio de Janeiro về Môi trường và
Phát triển nhận xét hàng năm có tới 200.000 m3 các chất thải nồng độ phóng xạ
thấp và trung bình và khoảng

100.1

3
m chất thải có nồng độ phóng xạ cao được sản sinh từ các hoạt động sản xuất năng
lượng
hạt nhân. Khối lượng này ngày càng tăng đặc biệt chất thải có nồng độ phóng xạ
chứa tới 99% là lượng phóng xạ và đó là một nguồn nguy hiểm phóng xạ tiềm tàng.

4.2.3

Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra
Ô nhiễm do tàu thuyền chiếm 12% ô nhiễm môi trường biển. Theo Egard Gold, ô
19


nhiễm biển từ tàu có thể chia làm 5 nhóm sau :
 Các hoạt động chất thải đổ từ tàu dầu khi rửa tàu.
 Các hoạt động xả đáy từ tất cả các loại tàu.
 Tràn dầu, chất độc nguy hại… do các sự cố trên biển như đâm va, chìm đắm, nổ,

cháy…

 Tràn dầu, chất độc nguy hại…trong quá trình sắp xếp, dỡ, vận chuyển và đưa vào

kho.
 Cố ý đổ thải các chất rác, nước thải sinh hoạt.

Bảng 1.3. Tác động đến môi trường từ tàu thuyền
THỂ LOẠI Ô NHIỄM

CÁC CHẤT TỪ TÀU THUYỀN

Ô nhiễm từ các hoạt động Dầu
bình thường

Các chất lỏng độc hại Nước thải
Rác
Các chất rắn chuyên chở rời Ô nhiễm không khí
Các chất sơn chống gỉ Các sinh vật lạ
Tiếng ồn
Dầu

Ô nhiễm do tai nạn

Các chất lỏng độc hại
Các chất nguy hại đóng gói

Tổn hại vật lý

Các chất rắn chuyên chở rời
Chìm đắm và phá hoại môi trường sống
Suy thoái môi trường sống




Ô nhiễm biển do các chất không phải dầu.
Các chất không phải dầu thường được thải vào biển là chất thải rắn và lỏng, rác
và nước dằn tàu, các chất nguy hại, các chất phóng xạ và nước thải sinh hoạt.



Ô nhiễm môi trường biển do dầu
Nguy cơ và tác hại lớn nhất từ các nguồn ô nhiễm từ tàu thuyền vẫn là dầu. Theo
đánh giá chung, hàng năm dầu được thải vào môi trường biển do các hoạt động bình
thường của tàu thuyền, các tai nạn và sự đổ thải cố ý của các tàu thuyền. Dầu tràn có
thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho các hoạt động ven biển và cho những người sử
20


dụng biển. vì theo đánh giá, 1 lít dầu tràn có thể tạo váng 10.000 m2 trên biển. Sinh
vật biển còn bị ảnh hưởng nặng nề không chỉ bởi sự nhiễm bẩn cơ học mà còn do các
thành phần độc tố trong dầu. Dầu xâm nhập vào bờ biển tạo thành các váng biển và
lưu đọng trên các bãi biển, làm hỏng các bãi tắm, các vùng sản xuất muối, sản xuất
công nghiệp, du lịch…Dầu có thể gây tổn hại trực tiếp đến các tàu thuyền, ghe lưới
đánh cá, các hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng như gián tiếp làm giảm năng suất
đánh bắt và nuôi trồng tại vùng ven biển.
4.2.4

Ô nhiễm từ khí quyển
Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đánh giá nguồn ô nhiễm có
nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển (ô nhiễm từ khí quyển) là nguồn ô
nhiễm biển riêng biệt.

Báo cáo của GESAMP năm 1990 nhận xét: “Khí quyển chứa đựng các vật chất
từ nhiều nguồn khác nhau, tự nhiên và nhân tạo. Nguồn tự nhiên bao gồm các bụi từ
nhiều vùng, từ đất, từ

núi lửa, thực vật, các đám cháy rừng cũng như từ các vòi rồng

trên biển. Trong số các nguồn nhân tạo có các khí thải từ các ngành công nghiệp,
sản xuất và sử dụng năng lượng, đốt rác thải và các hoạt động nông nghiệp…các
thành phần này có thể được đưa vào bầu khí quyển ngay phía trên các vùng đất. Từ đó
chúng được xáo trộn theo chiều thẳng đứng và có thể được chuyển đi hàng ngàn km
vượt qua các đường biên giới quốc gia và lan truyền đến các hệ sinh thái lớn của biển
cả. Các chất nhiễm bẩn này có thể rơi trực tiếp xuống biển thông qua các hình thức
mưa và tuyết rơi”.
Đánh giá chính xác về lượng các chất nhiễm bẩn được đưa vào bầu khí quyển
cho đến nay vẫn là điều không thể. Theo các đánh giá sơ bộ trên phạm vi toàn cầu,
lượng chì được đưa vào biển cả có tới 98% là nguồn gốc từ khí quyển. Khí quyển còn
cung cấp cả các chất đồng, sắt, kẽm, niken, chất hóa học… vào biển nhiều hơn là từ
các dòng sông. Các vụ thử hạt nhân cũng đưa những chất phóng xạ vào biển, vào khí
quyển thông qua những cơn mưa.

21


PHẦN V: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI TP.HCM
5.1. Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Tp. Hồ Chí Minh
5.1.1. Vị trí địa lý

0
0 ’

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10 10’ – 10 38 vĩ độ
bắc và 106022’ – 106054’ kinh độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc
giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà
Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần 1730km đường bộ, nằm ở ngã
tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, là tâm
điểm của khu vực Đông Nam Á. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km
đường chim bay. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và là cửa
ngõ quốc tế. Với hệ thống cảng và sân bay lớn nhất cả nước, cảng Sài Gòn với năng
lực hoạt động 10 triệu tấn /năm. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất với hàng chục đường
bay chỉ cách trung tâm thành phố 7 km.
5.1.2. Điều kiện tự nhiên
5.1.1.1. Địa hình

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam bộ
và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống
Nam và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia thành 4 tiểu vùng địa hình:
 Dạng đất gò cao lượn sóng, độ cao thay đổi từ 4 đến 32m, trong đó từ 4 - 10m chiếm

khoảng 19% tổng diện tích. Phần cao trên 10m chiếm khoảng 11%, phân bố phần lớn
ở các huyện Củ Chi, Hóc Môn, một phần ở Thủ Đức, Bình Chánh.
 Dạng đất bằng thấp, độ cao xấp xỉ 2 đến 4m, điều kiện tiêu thoát nước tương đối

thuận lợi, phân bố ở nội thành, phần đất của Thủ Đức và Hóc Môn nằm dọc theo sông
Sài Gòn và Nam Bình Chánh chiếm khoảng 15% diện tích.
 Dạng trũng thấp, đầm lầy phía Tây Nam, độ cao phổ biến từ 1 đến 2m, phân bố dọc

theo kênh An Hạ, Lê Minh Xuân, Tân Nhựt, Tam Tân, Thái Mỹ kéo dài từ các huyện
Bình Chánh đến Củ Chi, khu vực trung tâm huyện Nhà Bè, Bưng Sáu Xã của Thủ Đức
và Bắc Cần Giờ, ước tính chiếm khoảng 34% diện tích.

22


Dạng trũng thấp mới hình thành ven biển, độ cao phổ biến khoảng 0 đến 1m,
nhiều nơi dưới 0m, đa số chịu ảnh hưởng của thủy triều hàng ngày, ước tính chiếm
khoảng 21% diện tích.
Ngoài các dạng nói trên là hệ thống sông rạch chằng chịt với tổng chiều dài
7.955 km. Tổng diện tích mặt nước ước chiếm khoảng 16% tổng diện tích TP. Mật độ
2
dòng chảy trung bình 3,80 km/km . Như vậy, phần diện tích thấp, trũng, có độ cao
dưới 2 m và mặt nước chiếm đến 61% diện tích tự nhiên, lại nằm ở vùng cửa sông với
nhiều công trình điều tiết lớn ở thượng nguồn nên nguy cơ ngập, úng rất lớn.
5.1.1.2. Khí hậu

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Cũng
như các tỉnh ở Nam bộ, đặc điểm chung của khí hậu-thời tiết TP.HCM là nhiệt độ cao
đều trong năm và có hai mùa mưa - khô rõ ràng làm tác động chi phối môi trường cảnh
quan sâu sắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau. Theo tài liệu quan trắc nhiều năm của trạm Tân Sơn Nhất, qua các yếu tố
khí tượng chủ yếu; cho thấy những đặc trưng khí hậu Thành Phố Hồ Chí Minh như
sau:
Bảng 2.1. Khí hậu bình quân của TP.HCM

Khí hậu bình quân của Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng

1

2


3

4

Trung bình 32
33
34
34
cao
(90) (91) (93) (93)
°C (°F)
Trung bình 21
22
23
24
thấp
(70) (72) (73) (75)
°C
(°F)
Lượng mưa 14
4
12
42
mm (inch) (0.6) (0.2) (0.5) (1.7)

5

6

7


8

9

10

11

12

33
(91)

32
(90)

31
(88)

32
(90)

31
(88)

31
(88)

30

(86)

31
(88)

25
(77)

24
(75)

25
(77)

24
(75)

23
(73)

23
(73)

22
(72)

22
(72)

220 331 313 267 334 268 115

56
(8.7) (13) (12.3) (10.5) (13.1) (10.6) (4.5) (2.2)

Nguồn: Trung tâm Khí tượng Thủy văn TP.HCM
5.1.1.3. Thủy văn

Về nguồn nước, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, thành
phố Hồ Chí minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất phát triển.
Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Langbiang (Ðà Lạt) và hợp lưu bởi
2
nhiều sông khác, như sông La Ngà, sông Bé, nên có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km .
23


Nó có lưu lượng bình quân 20-500 m 3/s và lưu lượng cao nhất trong mùa lũ lên tới
3
10.000 m3/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m nước và là nguồn nước ngọt chính của
thành phố Hồ Chí Minh.
Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến thành
phố với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Hệ thống
các chi lưu của sông

Sài Gòn rất nhiều và có lưu lượng trung bình vào khoảng 54

3
m /s. Bề rộng của sông Sài Gòn tại Thành phố thay đổi từ 225m đến 370m và độ sâu
tới 20m. Sông Ðồng Nai nối thông qua sông Sài Gòn ở phần nội thành mở rộng, bởi
hệ thống kênh Rạch Chiếc. Sông Nhà Bè hình thành từ chỗ hợp lưu của sông Ðồng
Nai và sông Sài Gòn, các trung tâm thành phố khoảng 5km về phía Ðông Nam. Nó
chảy ra biển Ðông bằng hai ngả chính : ngả Soài Rạp dài 59km, bề rộng trung bình

2km, lòng sông cạn, tốc độ dòng chảy chậm; ngả Lòng Tàu đổ ra vịnh Gành Rái, dài
56km, bề rộng trung bình 0,5km, lòng sông sâu, là đường thủy chính cho tàu bè ra
vào bến cảng Sài Gòn.
Ngoài trục các sông chính kể trên ra, thành phố còn có mạng lưới kênh rạch
chằng chịt, như ở hệ thống sông Sài Gòn có các rạch Láng The, Bàu Nông, rạch Tra,
Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm,
Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi và ở phần phía Nam Thành phố thuộc địa bàn các huyện
Nhà Bè, Cần Giờ mật độ kênh rạch dày đặc; cùng với hệ thống kênh cấp 3-4 của kênh
Ðông-Củ Chi và các kênh đào An Hạ, kênh Xáng, Bình Chánh đã giúp cho việc tưới
tiêu kết quả, giao lưu thuận lợi và đang dần dần từng bước thực hiện các dự án giải
tỏa, nạo vét kênh rạch, chỉnh trang ven bờ, tô điểm vẻ đẹp cảnh quan sông nước,
phát huy lợi thế hiếm có đối với một đô thị lớn.
5.1.1.4. Chế độ thủy triều, nguồn nước và xâm nhập mặn:

 Chế độ thủy triều:

Về thủy văn, hầu hết các sông rạch Thành phố Hồ Chí Minh đều chịu ảnh hưởng
dao động triều bán nhật của biển Ðông. Mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó
thủy triều thâm nhập sâu vào các kênh rạch trong thành phố, gây nên tác động không
nhỏ đối với sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội
thành.
Mực nước triều bình quân cao nhất là 1,10m. Tháng có mực nước cao nhất là
24


tháng 10-11, thấp nhất là các tháng 6-7. Phân tích biên độ dao động thủy triều tại các
trạm: Bến Lức, Gò Dầu Hạ (trên sông Vàm Cỏ Đông), các trạm Nhà Bè, Phú An, Thủ
Dầu Một (trên sông Sài Gòn) cho thấy biên độ dao động triều dọc sông Sài Gòn thay
đổi và giảm dần từ cửa sông đến Dầu Tiếng và biên độ dao động triều trên sông Vàm
Cỏ Đông nhỏ hơn trên sông Sài Gòn rất nhiều.

Với chế độ dòng triều như vậy cho nên hầu như ảnh hưởng và sự trao đổi dòng
chảy giữa hai sông Sài Gòn và Vàm Cỏ Đông rất yếu và đó cũng là nguyên nhân tạo
ra các giáp nước trên sông Bến Lức và kênh Thầy Cai. Đặc điểm này cũng đã được
nghiên cứu kỹ khi lập các phương án tiêu nước cho dự án Hóc Môn - Bắc Bình Chánh,
có nghĩa là hướng tiêu có hiệu quả và tốt nhất là

ở các vùng dọc sông Sài Gòn và

theo hướng rạch Cây Khô, sông Cần Giuộc là những nơi có biên

độ triều lớn, khả

năng tiêu thoát cao.
 Xâm nhập mặn:

Quá trình xâm nhập mặn trên các sông Đồng Nai - Sài Gòn liên tục được cải
thiện nhờ sự vận hành và khai thác các bậc thang ở thượng nguồn điều tiết dòng
chảy và tăng lượng xả trong các tháng mùa khô lên gấp 4 - 5 lần dòng chảy tự nhiên,
đặc biệt là trong các tháng 3, 4, 5. Có thể tóm tắt diễn biến mặn trên các sông như sau:
Trên sông Đồng Nai: trước khi có hồ chứa Trị An mặn 4‰ lên đến Long Đại đôi
khi lên tới Long Sơn, từ năm 1989 đến nay bị đẩy xuống tận Cát Lái nhưng các tháng
3, 4 độ mặn vẫn chưa được cải thiện nhiều vẫn còn trên 4‰. Việc ngọt hóa sông Đồng
Nai ở vùng Thủ Đức đã góp phần cải thiện không những vùng Bưng Sáu Xã mà còn
góp phần cải thiện và làm giảm độ mặn trên sông Sài Gòn từ cửa Rạch Chiếc trở lên.
Trên sông Sài Gòn: trước khi có hồ Dầu Tiếng mặn 4‰ đến quá Lái Thiêu, có
năm lên đến Thủ Dầu Một nay bị đẩy lùi xuống phía cửa Rạch Chiếc (trước khi có các
công trình, độ mặn thường xuyên trong các tháng 2, 3, 4, 5 là 5 - 9‰, có lúc lên tới
11‰). Phía Tây TP sau khi hoàn thành cống An Hạ trên kênh An Hạ mặn bị đẩy lùi
xuống dưới cầu Xáng và toàn bộ kênh Thầy Cai, Rạch Tra đều đã được ngọt hóa.
 Chế độ thủy lực:


Sông Đồng Nai từ Biên Hòa ra tới cửa biển có độ dốc không lớn, lòng sông mở
rộng dần ra tới cửa biển. Từ Biên Hòa lòng sông rộng 400 m, sâu 12 - 15 m tới ngã ba
Nhà Bè 800 - 1.200 m

độ sâu 15 - 22 m. Tại đây sông chia làm hai nhánh lớn - Soài

Rạp và Lòng Tàu.
25


×