Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Nghiên cứu đặc điểm hình thái phần trên cơ thể học sinh nam hà nội từ 15 17 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 130 trang )

 

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

NGUYỄN GIA LINH

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI PHẦN TRÊN CƠ THỂ HỌC
SINH NAM HÀ NỘI 15 – 17 TUỔI
Chuyên ngành : CÔNG NGHỆ VẬT LIỆU DỆT MAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ VẬT LIỆU DỆT MAY

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN BÍCH HOÀN

Hà Nội - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

NGUYỄN GIA LINH

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI PHẦN TRÊN
CƠ THỂ HỌC SINH NAM HÀ NỘI 15 – 17 TUỔI

Chuyên ngành : CÔNG NGHỆ VẬT LIỆU DỆT MAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ VẬT LIỆU DỆT MAY

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN BÍCH HOÀN

Hà Nội - 2011


Mẫu 2

LÝ LỊCH KHOA HỌC
(Dùng cho học viên cao học)

I. Sơ lược lý lịch:
Họ và tên: Nguyễn Gia Linh
Giới tính: Nam
ảnh 4x6
Sinh ngày: 23 tháng 04 năm 1983
Nơi sinh(Tỉnh mới): Quân Y viện 105 – Sơn Tây – Hà Nội
Quê quán: Đại Mỗ - Từ Liêm – Hà Nội
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Chỗ ở riêng hoặc địa chỉ liên lạc: Thôn Chợ xã Đại Mỗ huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội
Điện thoại CQ:
Điện thoại NR: 0438392295 Điện thoại di động: 0906230483
II. Quá trình đào tạo:
1. Đại học:
- Hệ đào tạo(Chính quy,tại chức, chuyên tu) : Tại Chức Thời gian đào tạo: từ năm 2006 đến năm 2008

- Trường đào tạo: Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Hưng Yên.
- Ngành học: Công nghệ May và Thời trang
Bằng tốt nghiệp đạt loại: Khá
2. Thạc sĩ:
- Hệ đào tạo: Chính quy Thời gian đào tạo: từ năm 2009 đến năm 2011
- Chuyên ngành học: Công nghệ Vật liệu Dệt may
- Tên luận văn: Nghiên cứu đặc điểm hình thái phần trên cơ thể học sinh nam Hà Nội từ

15-17 tuổi.
- Người hướng dẫn Khoa học: PGS.TS. Trần Bích Hoàn
4. Trình độ ngoại ngữ (Biết ngoại ngữ gì, mức độ nào): Tiếng Anh, TOEFL.ITP (537)
III. Quá trình công tác chuyên môn kể từ khi tốt nghiệp đại học:
Thời gian
Nơi công tác
Công việc đảm nhận
2008-2011 Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Giáo viên
IV. Các công trình khoa học đã công bố:
Tôi cam đoan những nội dung viết trên đây là đúng sự thật.
Ngày 06 tháng 09 năm 2011
NGƯỜI KHAI KÝ TÊN

NGUYỄN GIA LINH


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ kết quả nghiên cứu được trình bày trong Luận văn
là do tôi nghiên cứu, do tôi tự trình bày, không sao chép từ các Luận văn khác. Tôi
xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về những nội dung, hình ảnh cũng như các kết quả
nghiên cứu trong Luận văn.
Hà Nội, ngày 16 tháng 09 năm 2011
Người thực hiện

Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy giáo, Cô giáo
khoa Công nghệ Dệt may và thời trang trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Cảm ơn
các Thầy, Cô đã dạy dỗ, truyền đạt cho em những kiến thức khoa học để em có thể
hoàn thành khóa học và hoàn thành luận văn này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo Trần Bích Hoàn. Em cảm ơn cô rất
nhiều vì cô đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn cho em hoàn thành luận văn của mình.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Phổ thông trung học Đoàn kết,
Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Kim Liên, Việt Đức và Trường Phổ thông cơ sở Phú
Thị, Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc thu thập số liệu nhân trắc của các
em nam học sinh 15 – 17 tuổi tại trường.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, các đồng nghiệp, bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn và chúc Thầy Cô, bạn bè đồng nghiệp luôn hạnh

phúc, thành đạt.
Hà nội, Ngày 16 tháng 09 năm 2011

Nguyễn Gia Linh

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

2

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

MỞ ĐẦU
Con người sống không thể thiếu những nhu cầu mà cơ bản nhất là nhu cầu
ăn, mặc, ở. Ngày nay, khi đã “đủ ăn”, “đủ ở” thì “đủ mặc” trở thành nhu cầu bức
thiết. Trang phục giúp con người hòa hợp với thiên nhiên, tô điểm cho cuộc sống,
thể hiện cái tôi, khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Đây là nền tảng cốt yếu cho
ngành công nghiệp thời trang phát triển
Ngày nay do sự thay đổi về điều kiện sống cũng như thay đổi về môi trường
học tập, làm việc và vui chơi giải trí khiến cho con người phát triển các kích thước
cơ thể. Tuy nhiên sự phát triển đó không đồng đều. Có những kích thước phát triển
nhanh và có những kích thước phát triển chậm hơn hoặc không mấy phát triển. Do
vậy ngành may mặc cần phải nghiên cứu và cập nhật thường xuyên tình hình phát
triển hình thái cơ thể mới để có thể đưa ra những điều chỉnh kịp thời đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của con người.

Nhận thấy nghiên cứu phân loại đặc điểm hình thái cơ thể người là phần
không thể thiếu trong nghiên cứu Nhân trắc học bởi vì việc nghiên cứu này là yếu tố
quyết định đến việc phân chia đám đông thành các nhóm nhất định có đặc điểm
chung. Còn trong may mặc việc phân tích nắm bắt đặc điểm cơ thể là rất quan
trọng, bởi vì đây là yếu tố góp phần định hình chủng loại, thiết kế kiểu dáng sản
phẩm phù hợp cho từng nhóm người. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên
cứu từ hình thái chung nhất đến cụ thể từng bộ phận như bàn tay, chân, phần
đầu…Nhưng ở Việt Nam hiện nay việc nghiên cứu phân loại đặc điểm hình thái cơ
thể người vẫn còn hạn chế nhất là ở phần trên cơ thể nơi luôn luôn được con người
chăm sóc, chú ý nhiều nhất. Trong các giai đoạn phát triển hình thái cơ thể người thì
giai đoạn thiếu niên cuối dậy thì có hình thể đã phát triển ổn định và gần như sẽ là
khung cơ sở cho các sự phát triển về sau nên càng phải được nghiên cứu một cách
chặt chẽ, kỹ lưỡng. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
đặc điểm hình thái phần trên cơ thể học sinh nam Hà Nội từ 15 – 17 tuổi”. Nhằm
góp phần đánh giá sự phát triển đặc điểm của các em đồng thời góp phần xây dựng
hệ thống cỡ số, phục vụ thiết kế trang phục học sinh trung học trên địa bàn thành
phố Hà Nội.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

3

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học


CHƯƠNG I: NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược sự phát triển của nhân trắc học trên thế giới và Việt Nam.
Nhân trắc học (anthroponietria) là một môn khoa học dùng các phương pháp đo
trên cơ thể người và sử dụng toán học, phương pháp thống kê để phân tích những
kết quả đo được nhằm tìm hiểu các qui luật về sự phát triển hình thái cơ thể người,
đồng thời vận dụng các qui luật đó vào vịệc giải quyết những yêu cầu thực tiễn của
khoa học, kỹ thuật, sản xuất và đời sống (trích theo Atlat nhân trắc học người Việt
Nam trong lứa tuổi lao động). [12]
Nhân trắc học đã hình thàmh từ rất lâu. Có thể nói rằng, ngay từ khi con người biết
đo chiều cao của mình, biết mình cân nặng bao nhiêu, là đã bắt đầu làm nhân trắc.
Tuy vậy trong nhiều năm dài lịch sử tiếp theo đó, con người mới chỉ làm nhân trắc
một cách ngẫu nhiên (tùy hứng) hay nói cách khác nhân trắc đương thời chưa trở
thành một môn khoa học. Cho đến đầu thế kỷ XX, từ khi Fisher, một trong những
người sáng lập môn di truyền học quần thể, đã xây dựng được môn thống kê toán
học ứng dụng vào y học thì nhân trắc học mới thực sự trở thành môn khoa học với
đầy đủ ý nghĩa và tính chính xác của nó.
Qua thời gian dài mấy chục năm, nhân trắc học đã có những bước tiến đáng kể
nhờ được áp dụng những kỹ thuật hiện đại của các ngành khoa học phát triển khác
với số người chuyên nghiên cứu vấn đề này trên thế giới ngày càng tăng. Vào đầu
của thế kỷ XX, Rudilf Martin, nhà nhân học đi tiên phong của người Đức đã đề xuất
một hệ thống và dụng cụ để đo đạc kích thước cơ thể người và ông đã cho ra đời
cuốn sách “Giáo trình về nhân học” vào năm 1919, đó là cuốn sách đầu tiên trình
bày một cách đầy đủ các phương pháp nghiên cứu nhân trắc học. Điểm nổi bậc của
cuốn sách này là việc ứng dụng toán học, đặc biệt là thống kê sinh học đã được đưa
vào ứng dụng cho lĩnh vực nhân trắc học. Tiếp sau đó, năm 1924 ông tiếp tục cho ra
đời cuốn “Chỉ nam đo đạc cơ thể và xử lý thống kê”. Đây là cuốn sách được xem là
kim chỉ nam cho môn khoa học này. Và ông được coi là người đặt nên móng đầu
tiên cho nhân trắc học hiện đại. Các trường phái Nhân trắc học tiếp theo đó đều dựa
trên cơ sở phương pháp R.Martin mà bổ sung và hoàn thiện về lý thuyết và thực tiễn
theo truyền thống khoa học của từng nước cũng như theo các mục tiêu ứng dụng

khác nhau và từ đó đến nay trên thế đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về lãnh
vực này, các tài liệu nhân trắc học đã liên tiếp được xuất bản.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

4

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

- Năm 1960 nhà nhân trắc học người Pháp Olivier với kinh nghiệm nhiều năm
nghiên cứu về nhân trắc ở một số nước ở Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương đã
cho ra đời cuốn “Thực hành nhân trắc”. Trong cuốn sách này, ông đã phân tích và
đưa ra những phương pháp nghiên cứu nhân trắc một cách khá đầy đủ và được các
nhà nhân trắc trên thế giới ứng dụng rộng rãi [5].
- Năm 1961, Nold và Volsuski đã nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý đến sự tăng
trưởng chiều cao cơ thể và chứng minh rõ những yếu tố ảnh hưởng đó là có thật.
Cũng trong thời gian này, Graef và Cone đã thu thập được nhiều số liệu chứng minh
tình trạng dinh dưỡng và bệnh tật ảnh hưởng rõ rệt đến sự gia tăng của các kích
thước cơ thể, đặc biệt chiều cao và cân nặng.
- Năm 1962 cuốn “Học thuyết về sự phát triển thể lực con người” của tác giả
Baskirop bàn luận về các quy luật phát triển cơ thể người dưới ảnh hưởng của
những điều kiện sống.
- Năm 1964 F. Vandervael, một thầy thuốc người Bỉ đã viết cuốn sách giáo khoa
về Nhân trắc học, Ông đưa ra những nhận xét toàn diện về các qui luật phát triển

thể lực theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và xây dựng các thang phân lọai thể lực
theo các chỉ số đánh giá thể lực với các đặc trưng thống kê trung bình cộng ( x ) và
độ lệch chuẩn (б) [18].
Đặc biệt việc ứng dụng phương pháp nhân trắc học vào nghiên cứu lứa tuổi trẻ
em đến trường học đã được thế giới quan tâm và tiến hành sớm hơn vào cuối thế kỷ
19. Mặc dù trong thời kỳ này các công trình nghiên cứu còn hạn chế về số lượng và
kích thước đo đạc, phương pháp nghiên cứu cũng chưa hoàn toàn thống nhất và các
tính toán thống kê còn đơn giản. Cũng trong những năm 70-80 của thế kỷ 19 các
công trình về sinh trưởng của trẻ em cũng đã được giới thiệu đầy đủ như ở
Humburg năm 1977 (Theo Lenz Ort, 1959), ở Boxton và Aivakutu từ năm 18771880 (theo Meredith, Kortt, 1962; Cone, 1965), ở Vacxava năm 1880 (theo
Wolanski, 1973), ở Xtôckhôm năm 1883 (theo Ljungetal, 1974). [4]
Bước vào thế kỷ 20, nhân trắc học ngày một phát triển cùng với các môn khoa
học khác có liên quan như: di truyền học, sinh lý, sinh hóa, toán thống kê,….
Những hội, ban, ngành, viện nghiên cứu về nhân học được thành lập và cho ra đời
nhiều công trình nghiên cứu nhân trắc có giá trị thực tiễn cao như chỉ tính ở Liên
Xô cũ trong vòng 50 năm đã có hàng trăm công trình. Ở Đức, Hunggari, Tiệp Khắc,

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

5

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

Ba Lan, Pháp, Anh, Mỹ, Bỉ, Nhật, vv… số lượng và chất lượng các công trình

nghiên cứu đều vượt bậc xa thế kỷ trước và nội dung của các công trình này đã đề
cập đến một số vấn đề sau:
Sự tăng trưởng các kích thước tổng thể và phát triển cơ thể học sinh không giống
nhau ở các lứa tuổi, mạnh nhất ở lứa tuổi dậy thì do ảnh hưởng sự họat động của
các cơ quan nội tiết trong thời kỳ chín sinh dục. Tốc độ tăng trưởng và sự kéo dài
thời gian tăng trưởng phụ thuộc vào vào các điều kiện kinh tế xã hội, ví dụ như theo
Bunac (1941) sự tăng trưởng chiều cao ở nam giới phải tới 25 tuổi mới kết thúc,
nhưng theo Uruxon A.M (1962) thì lại là 17-18 tuổi đối với nữ và 19 tuổi đối với
nam. Điều kiện kinh tế ảnh hưởng lớn đến sự phát triển cơ thể của trẻ em. Những
trẻ em có thân hình gầy ốm, thể lực phát triển kém, đa số là con của các gia đình
nghèo có thu nhập thấp. Điều kiện xã hội, môi trường sinh thái cũng tác động mạnh
đến sự tăng trưởng; như trẻ em sống ở thành phố cơ thể phát triển tốt hơn trẻ em
vùng nông thôn. Sự chín sinh dục cũng như vậy những trẻ em nữ sống ở thành phố
hoặc ở các gia đình khá giả hoặc sống ở vùng khí hậu ôn hòa sẽ dậy thì sớm hơn so
với trẻ em nữ sống ở vùng nông thôn hoặc ở các gia đình nghèo khó hoặc sống ở
vùng cận xích đạo và xích đạo. Sự chín sinh dục có liên hệ với sự tăng trưởng các
kích thước hình thái. Soloviev V.S (1964) nhận thấy nam 14 tuổi đã chín sinh dục
cả về kích thước, về hình thái và chức năng sinh lý [4].
Trong khoảng 100-150 năm gần đây người ta thấy có hiện tượng tăng nhanh về
sự phát triển cơ thể và trưởng thành sinh lý của trẻ em và thiếu niên; ở các nước
phát triển nhanh như ở các nước Anh, Pháp, Mỹ, … hiện tượng này được thể hiện
rõ rệt nhất. Tập hợp nhiều tài liệu về sự phát triển cơ thể học sinh phổ thông người
ta ghi nhận được rằng sự tăng nhanh chiều cao đứng, trọng lượng cơ thể cũng như
các kích thước từng phần (các đoạn thân thể, chi, mô mỡ, ..) trong vòng 100 năm
gần đây (chẳng hạn chiều cao đứng đã tăng lên 10 đến 15 cm). Thời kỳ chín sinh
dục của thiếu niên cũng sớm hơn 2 năm so với 100 năm trước. Tuổi có kinh nguyệt
lần đầu còn sớm hơn nữa, ví dụ như vào đầu thế kỷ trước tuổi có kinh trung bình ở
các nước Châu Âu phát triển là 16.5 – 17.5 thì ngày nay ở các thành phố công
nghiệp chỉ còn là 12.5 -13 tuổi [4].
Trước đây sự phát triển cơ thể được coi như là chỉ số đánh giá về tình trạng

sức khỏe con người nói chung và trẻ em nói riêng.Trong đó, các chỉ tiêu như chiều

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

6

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

cao, cân nặng, hay vòng ngực,…được coi là các chỉ tiêu quan trọng nhất. Mối quan
hệ giữa các chỉ số phát triển cơ thể và sức khỏe là rất phức tạp. Do đó người ta đã
dùng các chỉ số thể lực để biểu thị mối quan hệ giữa các đặc điểm đặc trưng nhất
trong sự phát triển cơ thể. Các chỉ số về thể lực chính là sự tổng hợp các tương quan
của nhiều dấu hiệu hình thái cơ thể dưới dạng công thức toán học. Lọai chỉ số thể
lực đơn giản nhất thể hiện mối tương quan giữa hai kích thước cao đứng và cân
nặng là chỉ số BMI và còn có những chỉ số phức tạp hơn thể hiện mối tương quan
của của 3 – 4 kích thước. Ban đầu phương pháp dùng chỉ số được áp dụng rộng rãi
vì dễ tính toán, dễ hiểu; nhưng về sau đã bộc lộ nhiều nhược điểm như không chính
xác, hoặc vì lệ thuộc vào các lứa tuổi (nhất là trẻ em và thanh thiếu niên) nên cùng
một trị số nhưng tùy theo lứa tuổi mà chỉ số có ý nghĩa khác nhau. Đến năm 1925
phương pháp Martin được ra đời đã loại trừ phương pháp chỉ số. Với quan niệm sự
phát triển cơ thể mỗi người phải so sánh với sự phát triển cơ thể của một nhóm
người mà người đó là thành viên, Martin đã lập bảng chuẩn nhiều đặc điểm cơ bản
của cơ thể trong đó mỗi đặc điểm lại được chia ra làm nhiều lọai căn cứ vào giá trị
của độ lệch chuẩn. Phương pháp này về sau đã được nhiều tác giả khác bổ sung (ví

dụ như Stepheo) nhưng cũng có nhược điểm là coi chiều cao đứng, cân nặng và
vòng ngực là 3 đặc điểm biến đổi độc lập, trong khi thực tế chỉ có chiều cao đứng
biến đổi độc lập còn cân nặng và vòng ngực biến đổi phụ thuộc vào chiều cao đứng.
Vì vậy, người ta đã dùng phương pháp tương quan (chuẩn hồi qui), với quan niệm
cao đứng là đặc điểm biến đổi độc lập, vòng ngực biến đổi phụ thuộc vào chiều cao
đứng và cân nặng biến đổi phụ thuộc vào chiều cao đứng và vòng ngực. Mặc dù đã
có nhiều phương pháp đánh giá sự phát triển cơ thể trẻ em và thiếu niên nhưng các
nhà nghiên cứu vẫn nỗ lực tìm tòi những phương pháp mới nhằm đánh giá sát thực
hơn lứa tuổi đang lớn. Gần đây, các tác giả người Pháp M.Sempe, G .Peldron và
M.P.Rog-Pernot đã xuất bản cuốn sách “Tăng trưởng phương pháp và sự nối tiếp”
đề cập đến các phương pháp nghiên cứu về sự phát triển và tăng trưởng của cơ thể,
đặc biệt là nghiên cứu thể lực của trẻ em. Cuốn sách này là một trong những cuốn
sách hoàn chỉnh nhất và thời sự nhất trong lĩnh vực nghiên cứu nhân trắc học [4].
Kho tàng lịch sử phát triển nhân trắc học là rất rộng, nhưng vì không có điều kiện
để trích dẫn đầy đủ toàn bộ những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
về lĩnh vực này, nên tôi chỉ giới thiệu được những tác giả tiêu biểu.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

7

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

1.1.2. Nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam.

Ở Việt Nam nhân trắc học đã được bắt đầu chú ý tù những năm 30 của thế kỉ
trước bằng một số công trình lẻ tẻ về đo đạc một số kích thước như: Chiều cao, cân
nặng và vòng ngực của học sinh ở Hà Nội. Trong thời kì này, hầu hết các công trình
nghiên cứu đều do một số bác sĩ người Pháp và bác sĩ người Việt Nam thực hiện tại
ban nhân trắc học thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ (École d’Extreme Orient) và tại
viện Giải phẫu học thuộc trường Đại học Y khoa Hà Nội.
Cuốn “Hình thái học cơ thể người và giải phẫu mỹ thuật” là một trong những
tác phẩm đầu tiên của Giáo sư bác sĩ Đỗ Xuân Hợp – Nhà nhân trắc học đầu tiên
của Việt Nam, cộng tác với giáo sư P.Huard xuất bản năm 1942, đã tạp hợp được
nhiều công trình nghiên cứu về nhân trắc học trên người Việt Nam. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu lúc đó cho kết quả rất hạn chế do chưa hệ thống các kỹ thuật
và phương pháp nghiên cứu còn đơn sơ, xử lý thống kê toán học chưa triệt để và
còn thiếu chính xác.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc (19451954), giáo sư Đỗ Xuân Hợp đã cùng một số bác sĩ và sinh viên tiến hành những
công trình nghiên cứu nhân trắc học trên thanh niên để phục vụ cho việc tuyển quân
và may quân trang, mũ, giầy cho bộ đội.
Sau khi đất nước giải phóng từ năm 1954 tới nay, các bộ môn nhân trắc học
dần dần được thành lập ở một số viện nghiên cứu khoa học (Viện KHKT Bảo hộ lao
động, Viện khoa học lao động, Viện vệ sinh dịch tễ học, Viện đo lường tiêu chuẩn,
Viện khảo sát học, Viện bảo tang lịch sử ….) và trường đại học (Đại học tổng hợp
Hà nội, Đại học sư phạm, Đại học mỹ thuật, Đại học văn hoá, Đại học thể dục thể
thao….) để làm nhiệm vụ nghiên cứu và giảng dạy. Nhiều đối tượng người ở hầu
hết các lứa tuổi của hầu hết các thành phần đã được điều tra nghiên cứu. Số kích
thước và thông số đo đạc cho mỗi đối tượng lên tới hàng trăm, các chỉ số thể lực và
các thông số sinh học dần dần được thiết lập. Toán thống kê cũng được vận dụng tối
ưu để nhận định và đánh giá kết quả một cách chính xác hơn.
Có thể nói các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này khá phong phú. Tuy
nhiên, những nghiên cứu tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu cùa việc nghiên cứu mà
mỗi nghiên cứu sẽ đi sâu vào một đề tài, vấn đề khác nhau. Có thể tạm khái quát các
kết quả nghiên cứu nhân trắc theo các hướng chính sau đây:


GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

8

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

Các kết quả đi theo hướng tìm hiểu đặc trưng hình thái, chủng tộc của các
cộng đồng người Việt Nam. Trong hướng nghiên cứu này, tác phẩm “nhân trắc học
và sự ứng dụng nghiên cứu trên người Việt Nam” với nội dung bổ ích mang tính
ứng dụng cao, giới thiệu các bước tiến hành nghiên cứu, các mốc đo nhân trắc thông
dụng trên cơ thể người, trên xương; các dụng cụ đo đạc và những nét chính về toán
thống kê ứng dụng trong nghiên cứu nhân trắc, được xem là một tài liệu quan trọng
hướng dẫn cho nhiều nhà nghiên cứu trẻ sau này đi vào lĩnh vực nhân trắc học Việt
Nam.
Các nghiên cứu nhằm khảo sát đánh giá thể lực, sự tăng trưởng, phát triển về
hình thái cơ thể được phát triển hơn cả với khá nhiều tác giả tham gia. Các nhà
nghiên cứu nhằm tìm hiểu sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em, thiếu niên, thanh
niên mà đại diện là Lê Thị Hợp, Đinh Kỷ, Nguyễn Công Khanh, Lê Nam Trà, Hàn
Nguyệt Kim Chi, Đào Huy Khuê…..
Liên tục trong các năm 1972, 1973 Đinh Kỷ và cộng sự đã công bố kết quả
nghiên cứu của mình về một số kích thước hình thái và thể lực của học sinh phổ
thông của Thái Bình từ 7 đến 18 tuổi. Trong công trình này, tác giả đã bàn về sự
phát triển cơ thể của học sinh và so sánh với các nhận định của Đỗ Xuân Hợp và

Nguyễn Quang Quyền tiến hành nghiên cứu đối với học sinh Hà Nội cùng lứa tuổi
từ năm 1959.
Năm 1991, đề tài nghiên cứu đặc điểm và hình thái kích thước, sự tăng
trưởng và phát triển cơ thể của trẻ em của Đào Huy Khuê đã khảo sát tới 50 chỉ tiêu
nhân trắc trên 1478 em học sinh từ 7 đến 18 tuổi. Đây là công trình nghiên cứu khá
công phu tỉ mỉ để đánh giá sức lớn của trẻ em Việt Nam cả về mặt sinh lý và hình
thái.
Năm 1992, đề tài “Đặc điểm hình thái và thể lực học sinh một trường phổ
thông cơ sở ở Hà Nội” của Thẩm Thị Hoàng Điệp đã mang lại cho lĩnh vực nghiên
cứu nhân trắc học ở Việt Nam một bứt phá mới khi lựa chọn phương pháp theo dõi
dọc (Longgitudial Study) để tiến hành theo dõi một nhóm học sinh trong 10 năm
liên tục từ năm 1981 – 1992, từ đó đưa ra quy luật phát triển của trẻ em thông qua
các quy luật phát triển như: quy luật phát triển về chiều cao, quy luật phát triển về
cân nặng, quy luật phát triển của các kích thước vòng…. Đề tài này được tác giả
bảo vệ thành công nhận học vị Phó Tiến sĩ khoa học. Từ đó cho đến nay phương
pháp này cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và áp dụng.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

9

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

Các công trình nghiên cứu ứng dụng cho ergonomics (nghiên cứu về lao động) là

một hướng mới trong nghiên cứu nhân trắc. Từ những năm 1970 hướng nhân trắc
ergonomic được hình thành do yêu cầu của thực tiễn sản xuất và tổ chức lao động
khoa học. Nhân trắc ergonomics đã được ứng dụng ở Việt Nam trong các công trình
nghiên cứu, đánh giá về mức độ phù hợp của các loại máy móc, thiết bị (đa phần
được nhập ngoại) với người lao động Việt Nam. Những kiến nghị, đề xuất thay đổi
kích thước máy, chỗ làm việc trên cơ sở kết quả các dẫn liệu nhân trắc đã được đưa
ra.
Cho đến những năm đầu thập kỉ 80, các công trình nghiên cứu nhân trắc ở Việt
Nam có từ trước, một mặt còn dẫn liệu về nhân trắc ergonomics, mặt khác đối
tượng, phạm vi khảo sát còn hẹp chưa đủ đại diện cho các lứa tuổi và các vùng dân
cư khác nhau. Các công trình mang tính ergonomics đã được thực hiện đều phải bắt
đầu bằng việc đo đạc, khảo sát các chỉ tiêu nhân trắc của các nhóm đối tượng
nghiên cứu. Thêm nữa, có một số tiêu chí không kèm theo các quy định về kỹ thuật
đo lường và xác định rõ các điểm mốc đo.
Để tạo tiền đề cho việc nghiên cứu ergonomics, nhiệm vụ đề ra trước tiên là
phải xây dựng các dẫn liệu nhân trắc ergonomic theo quy định thống nhất trên một
số đối tượng đủ lớn đại diện được cho các lớp người lao động, các lứa tuổi và các
vùng dân cư khác nhau. Viện nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ Lao động dưới
sự chỉ đạo của PGS.TS Nguyễn An Lương và sự phối hợp nghiên cứu của nhiều cán
bộ khoa học thuộc nhiều trường đại học, nhiều cơ quan khoa học đã nghiên cứu xây
dựng ba tập Atlas nhân trăc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động trong
khuân khổ các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và cấp Nhà nước.
Tập “Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động” (1986) do
PGS.TS Võ Hưng làm chủ biên là kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước “Nghiên cứu ứng dụng ergonomics vào bảo hộ lao động và áp dụng các dữ
kiện nhân trắc vào việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân” (mã số:
58:01:03:01) thuộc chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà
nước về bảo hộ lao động trong giai đoạn từ 1982-1985. Atlas đã trình bày 138 dấu
hiệu nhân trắc học tĩnh được đo đạc trên 13.223 người đang trực tiếp lao động sản
xuất trong nhiều ngành nghề khác nhau trên cả nước Việt Nam. Công trình đã

nghiên cứu tiến hành theo các phương pháp và dụng cụ đo theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đó là công trình nhân trắc học đầu tiên của Việt Nam được xử lý thống kê bằng

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

10

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

máy tính điện tử thời điểm đó. Tất cả 138 dấu hiệu trong Atlas được tính theo các
giá trị ngưỡng 1%, 5%, 95% và 99%.
Trong giai đoạn 1986 – 1990, tập Atlas thứ 2 “Atlas nhân trắc học người
Việt Nam trong lứa tuổi lao động – Dấu hiệu nhân trắc động về tầm hoạt động của
tay” ra đời. Đây cũng là kết quả của đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu
xây dựng các chỉ tiêu nhân trắc học người lao động Việt Nam (phần dấu hiệu động)
và sự chỉ dẫn phương pháp đánh giá ergonomic chỗ làm việc, phòng ngừa tai nạn,
sự cố do sai lầm của người điều khiển những hệ thống kỹ thuật phức tạp” (mã số:
58A:01:02). Cuốn sách trình bày các số liệu thống kê về tầm hoạt động của tay
trong không gian theo 9 mặt phẳng ngang của 1075 lao động nam nữ từ 17 – 50 tuổi
trong một số ngành công nghiệp phổ biến như: Cơ khí, dệt may, chế biến lương
thực, thực phẩm… ở một số địa phương của miền Bắc và miền Nam Việt Nam theo
phương pháp của Kennedy (USA) và Eva Nowak (Ba Lan). Kết quả công trình
nghiên cứu khoa học của đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu tầm hoạt động của khớp và giới
hạn thị trường bình thường của người lao động Việt Nam” (mã số: 93-19/TLĐ) đã

cho ra đời tập Atlas thứ 3 “Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao
động – Dấu hiệu nhân trắc động khớp và giới hạn thị giác” 1997. Nội dung chủ yếu
của cuốn Atlas nhân trắc này là trình bày các thông số thống kê của 50 dấu hiệu
hoạt động khớp đo trên 2267 nam nữ lao động tuổi từ 17 – 59 ở hai miền Bắc, Nam
Việt Nam cùng với sự phân tích nhận định tổng quát về tầm hoạt động khớp theo
giới tính, lứa tuổi và vùng lãnh thổ.Nhân trắc học được ứng dụng vào nhiều mục
tiêu khác nhau, đặc biệt là cả trong may mặc.Ngành nhân trắc học Việt Nam đã và
đang từng bước phát triển.
Trên đây, mới chỉ là sơ lược lịch sử nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam với
những điểm mốc quan trọng, vì trong khuôn khổ giới hạn của đề tài tác giả không
thể liệt kê đầy đủ bề dày lịch sử hình thành và phát triển nhân trắc học cho đến ngày
hôm nay
1.1.3. Một số ứng dụng nghiên cứu nhân trắc học vào ngành May tại Việt Nam
Việc ứng dụng thực tế nhân trắc học không chỉ dừng lại ở mức công trình
nghiên cứu thể lực, các hình thái đồ thị, các ứng dụng trong y tế học đường, thể dục
thể thao và nghề nghiệp…v..v.. như đã trình bày trên mà đối với ngành may mặc
việc ứng dụng các nghiên cứu nhân trắc học cho một số công tác trong ngành may
mặc cũng chiếm một vị trí ý nghĩa quan trọng nhất định trong sự phát triển ngành
GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

11

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học


may trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Nhìn chung các công trình
nghiên cứu khoa học ứng dụng nhân trắc theo vào ngành may còn nhiều hạn chế.
Ngoài các công trình nghiên cứu ứng dụng nhân trắc theo hướng ergonomic cho các
lứa tuổi lao động trong ngành Dệt May thì hầu hết nhân trắc học được áp để xây
dựng hệ thống cỡ số trang phục cho từng quốc gia. Ở các nước trên thế giới Ý, Nhật
Bản, Pháp, Mỹ, Úc, Liên Xô cũ, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Hồng Kông ….đã sớm áp
dụng phương pháp nhân trắc học vào nghiên cứu xây dựng cỡ số trang phục (quần
áo, giầy dép, mũ nón, găng tay…) cho từng nước, do ngành May công nghiệp của
các nước này phát triển sớm hơn hẳn Việt Nam.
Riêng nước ta, một nước trải qua thời kì đô hộ, thuộc địa dài lâu, chiến tranh
với giặc ngoại xâm liên miên cho đến 30-4-1975 mới hoàn toàn giải phóng thống
nhất 2 miền Nam Bắc, nền kinh tế phát triển chậm, nhu cầu “ăn no” còn cần thiết
hơn “mặc đẹp” dẫn đến ngành May công nghiệp cũng phát triển chậm. Trong cuộc
kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945-1954) GS. Đỗ Xuân Hợp đã cùng với một
số bác sĩ và sinh viên tiến hành những công trình nghiên cứu nhân trắc học trên
thanh niên để phục vụ cho việc tuyển quân và may quân trang cho bộ đội. Mặc dù
phương pháp nghiên cứu nhân trắc học lúc đó cho kết quả còn hạn chế do hệ thống
còn chưa triệt để và chính xác nhưng có thể nói đây là những công trình nghiên cứu
ứng dụng nhân trắc học đầu tiên của Việt Nam vào nghiên cứu xây dựng hệ thống
cỡ số quân trang phục vụ ngành May.
Khoảng 20 năm trở lại đây, khi nền kinh tế bắt đầu phát triển nhu cầu làm
đẹp tăng lên, các công ty may, cơ sở May công nghiệp nở rộ, hàng quần áo may sẵn
đa dạng phong phú với nhiều chủng loại phục vụ cho mọi đối tượng tràn gập thị
trường. Vấn đề cấp thiết là xây dựng một hệ thống cỡ số thiết kế quần áo phục vụ đa
số sự phát triển của những dạng người khác nhau ở Việt Nam được đặt ra. Năm
1994, Tiêu chuẩn Việt Nam – 5781 về “Phương pháp đo cơ thể người”, Tiêu chuẩn
Việt Nam – 5782 về “Hệ thống cỡ số tiêu chuẩn quần áo” ban hành, cũng chính là
kết quả của các công trình ứng dụng phương pháp nhân trắc học phục vụ cho ngành
May đem lại.
Cho đến nay, Việt Nam đang là một trong những nước có tốc độ phát triển

kinh tế khá cao, ngành công nghiệp May mặc trong lĩnh vực xuất khẩu nói chung và
thị trường nội địa nói riêng cũng đang phát triển mạnh mẽ. Hệ thống cỡ số quần áo
của nước ta xây dựng năm 1994 đã quá lỗi thời để đáp ứng nhu cầu phục vụ người
tiêu dùng trong nước, mặt khác từ khi gia nhập WTO sự cạnh tranh ngày càng khốc
GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

12

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

liệt, một trong những tồn tại lớn nhất của ngành May Việt Nam là vẫn chưa xây
dựng mới hệ thống cỡ số trang phục cho người Việt Nam. Hầu hết các công ty May
lớn cho đến các cơ sở sản xuất may sẵn nhỏ lẻ thiết kế quần áo, hoặc dựa trên hệ
thống cỡ số riêng của công ty được xây dựng từ kinh nghiệm sản xuất hoặc chỉnh
sửa từ các thông số của một số nước để phù hợp với người Việt Nam.
Năm 2001, trong đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống cỡ số quân trang
theo phương pháp nhân trắc học” TS. Nguyễn Thị Hà Châu cùng các cộng sự đã
tiến hành xây dựng thành công hệ thống cỡ số quân trang và được ứng dụng may
quân trang trong cả nước. Đây là một công trình thể hiện sự hữu ích của phương
pháp nhân trắc học khi áp dụng cho ngành may ở Việt nam. Ngoài ra, đề tài này
cũng cho kết quả triệt để và chính xác do áp dụng hệ thống các kĩ thuật và phương
pháp nghiên cứu hiện đại, xử lý thống kê toán học bằng phần mềm chuyên dụng
đánh dấu một bước chuyển bậc của việc ứng dụng phương pháp nghiên cứu nhân
trắc học phục vụ ngành may tại Việt Nam.

Cùng trong năm 2001, KS. Trần Thị Hường và PGS.TS Nguyễn Văn Lân
cũng ứng dụng phương pháp nhân trắc học vào đề tài cấp cơ sở “Thống kê cỡ số và
thiết kế cơ bản trang phục nữ Việt Nam”. Đề tài này cũng đã xây dựng được hệ
thống cỡ số của phụ nữ chưa sinh con và phụ nữ đã sinh con thông qua việc kiểm
định các giả thuyết trong quá trình xây dựng hệ thống cỡ số bằng cơ sở thống kê
sinh học. Sau đó, kết quả nghiên cứu đã được đưa vào kiểm nghiệm trong thực tiễn
thời trang Hạnh. Đề tài này đã đóng góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành May
công nghiệp đối với thị trường nội địa sản xuất hàng công nghiệp thời trang của nữ
giới trong cả nước, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, ở các nước
phát triển trên thế giới, việc ứng dụng nhân trắc để xây dựng hệ thống cỡ số càng có
bước tiến vượt bậc và cho kết quả rất chính xác. Nguyên nhân là do nhờ vào sự hỗ
trợ của thiết bị đo cơ thể người 3D, ứng dụng công nghiệp chụp hình toàn bộ cơ thể
người bằng tia hồng ngoại hiện đại thực hiện tính toán xử lý số liệu cac kích thước
bằng máy tính trong một chu trình khép kín cho kết quả rất chính xác. Đây còn gọi
là phương pháp đo cơ thể người gián tiếp.
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của học
sinh lứa tuổi 15-17
1.2.1. Đặc điểm tâm lý học sinh lứa tuổi 15-17

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

13

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học


Theo qui luật tự nhiên, mọi sinh vật không ngừng phát triển và thay đổi. Con
người cũng vậy. Kể từ khi chào đời, cơ thể bạn ngày ngày lớn lên, trí tuệ bạn ngày
càng thêm sâu sắc. Có một khoảng thời gian đặc biệt mà bạn có những bước phát
triển nhảy vọt về cả thể chất lẫn tâm hồn, giai đoạn này kéo dài trong vài năm, biến
các cô bé, cậu bé trở thành những cô gái, chàng trai. Đây là giai đoạn rất quan trọng
đánh dấu sự hình thành giới tính và nhân cách của mỗi con người. Lứa tuổi học sinh
15-17 là lứa tuổi nằm trong giai đoạn cuối của sự phát triển dạy thì. Lứa tuổi có
nhiều sự thay đổi về tâm lý, sinh lý và sự phát triển hình thể.
Song song với quá trình phát triển sinh lý thì tâm lý của lứa tuổi thanh thiếu
niên phát triển vô cùng nhanh, nhận thức, nắm bắt cái mới ngay khi nó xuất hiện.
Một đặc tính chung ở tuổi dậy thì là “ham muốn trở thành một người lớn”. Các em
không còn cư xử như một đứa trẻ nữa. Các em muốn được độc lập trong suy nghĩ
và hành động, muốn thử sức và khám phá những điều mới để khẳng định mình là
người lớn.
Trong quá trình hình thành và phát triển tâm lý ở lứa tuổi 15 - 17 điều kiện
kinh tế xã hội có tác động rất lớn đến tâm sinh lý. Vào những năm 80 của thế kỷ
trước nước ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, mọi mặt đều bị thiệt hại nặng nề,
đây cũng là thời kỳ “cả nước suy dinh dưỡng” cho nên lứa tuổi thanh thiếu niên
chưa phát triển về chiều cao, cân nặng,… Bên cạnh đó tư tưởng xã hội hoàn toàn
thống nhất theo tư tưởng chủ nghĩa xã hội nên tuổi thanh thiếu niên cũng có tâm lý
theo tâm lý chung.
Vào những năm 90 của thế kỉ trước, nước ta có sự chuyển mình quan trọng,
xóa bỏ bao cấp, xác định con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế có những bước phát triển nhất định, đã không còn cảnh đói
ăn, tư tưởng của toàn xã hội tự do hơn. Khi đó cơ thể trẻ em độ tuổi thanh thiếu niên
đã phát triển hơn thời kỳ trước, các em có ý thức về hình dáng cơ thể mình, tâm lý
nhận thức cũng phát triển mạnh hơn.
Từ những năm 2000 trở đi, kinh tế phát triển mạnh mẽ, có những kết quả ban
đầu tốt đẹp từ quá trình đổi mới kinh tế. Xã hội ngày càng trở nên giầu có, không

còn lo đến từng bữa ăn, các điều kiện thông tin giải trí, làm đẹp,… phát triển rầm rộ.
GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

14

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

Lứa tuổi 15 - 17 cũng phát triển sớm hơn, cơ thể các em đã gần hoàn thiện ở độ tuổi
này, đã có những đường cong đẹp,… Các em có ý thức về cơ thể mình nhiều hơn,
định hình tâm lý cũng nhanh và rất khác thế hệ trước. Như ta thấy thời kỳ này là
thời kỳ bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông, các chương trình giải
trí…Ở trên đó các em có một thư viện khổng lồ muôn vàn thông tin cả xấu cả tốt, cả
đúng cả sai không có rào cản, không bị kiểm soát nên các em dễ bị ảnh hưởng, hình
thành những nhân cách xấu nếu các em không đi đúng hướng. Ở thời điểm này cần
nhất là sự hướng dẫn, định hướng đúng đắn của gia đình, nhà trường, xã hội.
Bước sang tuổi này, các chức năng tâm lý có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong
lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy
rằng hoạt động tư duy của thanh thiếu niên rất tích cực và có tính độc lập, có khả
năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên
quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả năng khái quát mà ở tuổi này có thể
tự mình phát hiện ra những cái mới. Với các em điều quan trọng là cách thức giải
quyết các vấn đề được đặt ra chứ không phải là loại vấn đề nào được giải quyết.
Các em ở lứa tuổi này cảm nhận được các rung động của bản thân và hiểu
rằng đó là trạng thái "cái tôi" của mình. Các em ý thức được các mối quan hệ giữa

các thuộc tính tâm lý và các phẩm chất nhân cách, có khả năng tạo được một hình
ảnh “cái tôi" trọn vẹn và đầy đủ hơn để từ đó xây dựng các mối quan hệ với người
khác và với chính mình. Cái Tôi trong giai đoạn đầu của lứa tuổi 15 - 17 thường
chưa thật rõ nét nên khi tự đánh giá về bản thân không ổn định và mâu thuẫn. Nhu
cầu giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè đồng lứa phát triển mạnh ở lứa tuổi
này đã thực hiện một chức năng quan trọng là giúp các em dần hiểu mình rõ hơn,
đánh giá bản thân chính xác hơn thông qua những cuộc trao đổi thông tin, trao đổi
các đánh giá về các hiện tượng mà các em quan tâm. Các em hay so sánh mình với
người khác qua các đặc điểm bên ngoài. Một hiện tượng rất thường gặp là học sinh
cấp II, III là hay bắt chước thầy cô giáo mà họ yêu quý hay một hình mẫu lý tưởng
nào đó mà họ chọn cho mình, từ cách ăn mặc, cử chỉ, dáng đi. Do đó nếu biết giáo
dục đúng cách các em sẽ có tâm lý ổn định, hình thành một nhân cách tốt. Còn

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

15

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

không giáo dục đúng các em sẽ dễ bị phát triển một cách lệch lạc, dẫn đến kết quả
xấu như: học đòi hút thuốc lá, cáu kỉnh hỗn láo, sống bất cần và dễ mắc phải các tệ
nạn xã hội. Các em thích nổi bật, cá tính nên thường chọn những màu sặc sỡ, những
gam màu nóng, những mẫu thời trang trẻ trung, năng động, các phụ kiện đi kèm độc
đáo.

Tâm lý các em phát triển nhanh như vậy nhưng nếu cách giáo dục lại quá
chậm, không theo kịp cách suy nghĩ, hành động của các em. Để gải quyết vấn đề
này cần cái Tâm của toàn xã hội, trước hết là gia đình biết cách tôn trọng, trao đổi
thẳng thắn với các em. Các thầy cô giáo cần định hướng tư tưởng, không né tránh
các câu hỏi khó của các em. Xã hội cần có sự giáo dục, kiểm soát các yếu tố ảnh
hưởng lớn tới các em như internet, điện thoại, các phương tiện truyền thông…
Riêng đối với lĩnh vực Dệt May, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trang
phục góp phần hình thành, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, văn hóa. Về khía cạnh
nhân cách, trang phục giúp các em tự tin, hòa đồng, thể hiện mình trong xã hội.
Thông qua trang phục sự giao tiếp trở nên dễ dàng hơn bởi nó thể hiện vị trí của
người đối diện như thế nào so với mình. Về mặt thẩm mỹ, trang phục đẹp cũng như
một tác phẩm nghệ thuật, làm đẹp hơn cái nhìn của các em. Thời trang là hiện đại,
kết hợp hài hòa tính thẩm mỹ và sử dụng, có sự học hỏi các nét tinh hoa của thời
trang thế giới nhưng không được phép hòa tan trong đó mà phải thể hiện được bản
sắc riêng của người Việt, của nước Việt. Khi đó trang phục mới thể hiện được hết
vai trò giáo dục thẩm mỹ, tình cảm cho lứa tuổi 15 - 17. Do đó để giáo dục văn hóa
mặc cho các em ngành May mặc cần đưa ra những kiểu trang phục hợp thời trang,
gây hứng thú với sự nhanh nhậy của các em, góp phần hình thành xu hướng, phong
cách thời trang riêng, không bị ảnh hưởng, pha trộn các yếu tố không hay của thời
trang các nước khác.
1.2.2. Đặc điểm sinh lý và tăng trưởng của học sinh lứa 15-17 tuổi
Các em ở lứa tuổi 15-17 là tuổi qua thời kỳ trẻ em để trở thành người lớn. Đó là
giai đoạn biến đổi đặc biệt nhất, thay đổi cơ quan sinh dục, thay đổi kích thước cũng
như hình dáng cơ thể. Cơ quan sinh sản phát triển, các em sẽ cao hơn, hình dáng

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

16

Học viên : Nguyễn Gia Linh



Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

thay đổi từ ngực, da, lông, tóc, giọng nói…cùng rất nhiều những thay đổi của đặc
điểm sinh lý khác.
Giai đoạn15-17 tuổi là giai đoạn cuối dậy thì. Đặc điểm thời kỳ này là sức
lớn về chiều cao vọt lên trong khi cân nặng tăng lên không nhiều. Chiều cao tăng
chủ yếu do chi dưới phát triển dài ra rất nhanh trong khi đó thân như bé và ngắn lại
làm cho các em có dáng rất gầy, mảnh khảnh, vụng về. Trong giai đoạn này các em
trai còn thấy những thay đổi khác bao gồm: núm vú sưng, đau; có lông mọc ở trên
mặt và trên người; nổi yết hầu và vỡ giọng.
Việc tăng thể tích tinh hoàn là dấu hiệu đầu tiên báo hiệu dậy thì, kế đến là
dương vật phát triển, lông mu, lông nách, lông mặt, thân cũng phát triển kèm theo
giọng nói trầm, mụn trứng cá, tăng khối cơ, phát triển tuyến tiền liệt, quầng vú.
Cuối cùng là sự xuất tinh là dấu hiệu quan trọng nhất đánh dấu tuổi dậy thì của các
em nam.
Mọi sự tăng trưởng phát triển đều có sự ảnh hưởng của các cơ quan thuộc
các hệ trong cơ thể như: hệ vận động, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp...
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển học sinh lứa 15-17 tuổi
Tuổi 15-17 chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bởi đây là lứa tuổi vẫn
còn nằm trong độ tuổi dậy thì. Ảnh hưởng đến dậy thì bao gồm cả các yếu tố bên
ngoài và các yếu tố bên trong.
Các yếu tố bên ngoài gồm:
+ Môi trường, khí hậu: trẻ ở vùng cao dậy thì xuất hiện muộn hơn vì giai
đoạn phát triển dậy thì kéo dài hơn.
+ Điều kiện sống, đặc biệt là điều kiện kinh tế, điều kiện dinh dưỡng (ăn

uống đầy đủ chất, đầy đủ protein và vitamin).. Các em gái thuộc tầng lớp gia đình
khá giả thì thời điểm xuất hiện kinh nguyệt sớm hơn so với các em gái có thuộc
tầng lớp có mức sống thấp, nhà nghèo, đông con.
+ Môi trường học tập: Ở lứa tuổi này các em phải dành thời gian cho học tập,
học cả thứ 7, chủ Nhật, học nhiều môn hơn những cấp học trước. Do vậy hầu như
các em không có thời gian hoạt động thể thao rèn luyện thể chất, vui chơi, giải trí...

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

17

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

+ Yếu tố chiến tranh: Những năm có chiến tranh hiện tượng xuất tinh của em
trai xuất hiện muộn hơn
+ Các Stress: những trẻ ở các gia đình ly dị hoặc có mâu thuẫn thì kinh
nguyệt lại xuất hiện sớm hơn những trẻ ở gia đình bình thường.
Tóm lại lứa tuổi 15-17 là lứa tuổi quá độ cũng là giai đoạn phát triển sinh
động, các em phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt, toàn bộ nhân cách đang trên
con đường “rẽ” vì vậy cá tính của các em có nhiều cái chưa bền vững và mong
muốn thử sức mình theo các phương hướng khác nhau nên nhân cách của các em
phức tạp hơn, nhiều mâu thuẫn hơn lứa tuổi trước đó. Do vậy phải thường xuyên
quan tâm, giáo dục cho phù hợp trên cơ sở dựa vào tính tích cực, phát huy sự sáng
tạo, biết điều chỉnh và tổ chức hoạt động tạo điều kiện phát triển tốt khả năng của

các em.
Các yếu tố bên trong gồm:
+ Yếu tố giới tính. Các em nam có thời điểm dậy thì xuất hiện chậm hơn so
với các em gái. Một số nghiên cứu đã cho thấy. Nữ dậy thì sớm hơn nam khoảng 2
tuổi.
+ Yếu tố di truyền: Yếu tố di truyền có vai trò quan trọng trong việc khởi
động tuổi dậy thì (điều này thấy rõ ở những người cùng chủng tộc), tuổi xuất hiện
kinh nguyệt lần đầu thường giống nhau. Ở Mỹ, các đặc tính sinh dục phụ, của các
em gái da trắng xuất hiện muộn hơn so với các em da đen.
+ Gia đình: tuổi dậy thì trong cùng một gia đình không hoàn toàn giống
nhau, chỉ giống nhau hoàn toàn khi sinh đôi cùng trứng.
+ Yếu tố chủng tộc: Yếu tố này ảnh hưởng đến tuổi dậy thì ít hơn so với yếu
tố dinh dưỡng. Ở các em gái thuộc vùng bắc và nam châu Âu, thời điểm xuất hiện
kinh nguyệt khác nhau, các em gái ở Đức xuất hiện kinh nguyệt muộn hơn so với
các em ở Rumani muộn hơn một năm.
1.3. Đặc điểm chung các bộ phận phần trên cơ thể nam
Ở cơ thể người, các bộ phận như hình cổ, vai, ngực, lưng, mông, bụng, tay...
giữ vai trò quan trọng trong việc định hình cụ thể dáng vóc của một người

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

18

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học


Hình 1

Hình 2

Hình 1 và hình 2: Dáng người nam,tư thế nhìn thảng và nhìn nghiêng
+ Khi nhìn thẳng từ mặt trước và mặt sau độ nhô ra của các điểm phần trên cơ thể
người được thể hiện như sau :
Kết quả hình vẽ phía trước của cơ thể cho thấy rõ các điểm uốn cong của cơ
thể ở sườn eo đến mông và độ xuôi vai (hình 1).
- Cổ: có kích thước ngắn được nối từ phần đầu với phần vai và vị trí hõm ức.
- Vai: thể hiện rõ độ xuôi vai nhiều hay ít và vai ngang hay không tùy thuộc
vào dáng người.
- Ngực: Hơi nhô ra phía trước. Khi quan sat theo cách nhìn thẳng thì độ nhô
cao hay thấp
GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

19

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

- Bụng: quan sát theo cách này kết quả như sau: bụng trên phẳng và nhìn
thấy vị trí rốn. Bụng dưới đối với người gầy thì phẳng và lép như bụng trên còn đối
với người béo thì hơi nhô ra về phía trước.

- Tay được nối từ vai và bao gồm cánh tay, cẳng tay và bàn tay. Quan sát từ
phía trước sẽ thấy độ lõm vào rõ rệt giữa phần cánh tay và cẳng tay.
Qua quan sát ta thấy đặc điểm các phần như sau:
- Cổ: so với mặt trước có hõm ức thì mặt sau đốt sống cổ thứ 7 nhô ra ta dễ
dàng quan sát được.
- Vai: phần bắp vai dày và phần nhô ra của xương bả vai tạo nên dáng vai.
Đối với người gày phần cơ vai ít phát triển và nhin rõ xương bả vai hơn những
người béo. Để rõ hơn tôi đưa ra bảng so sánh kích thước rộng vai nam và nữ tuổi
17-19 của ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam năm 1986.
Bảng 1. Kích thước Rộng vai của nam và nữ tuổi 17-19 ba miền Bắc, Trung, Nam
của Việt Nam năm 1986
Kích thước

Rộng vai

Nam
Bắc
1986
36,3

Trung
1986
36,6

Nữ
Nam
1986
36,7

Bắc

1986
34,3

Trung
1986
33,8

Nam
1986
34,7

- Lưng: tương quan với phần ngực ở mặt trước thì mặt sau cơ thể người là
phần lưng. Lưng quan sát thấy giống hình thang có xu hướng nhỏ dần khi gần tới
bụng. Các cơ phần nầy rất phát triển và săn trắc. Người gầy hay béo sẽ cho các dáng
lưng khác nhau.
- Tay quan sát từ phía sau sẽ nhìn thấy phần mấu khuỷu tay nhô ra phân định
giữa phần cánh tay và cẳng tay.
+ Khi nhìn từ mặt nghiêng độ nhô ra của các điểm phần trên cơ thể nam như sau:
- Đường viền phía trước cơ thể: rõ ràng nhất là độ nhô ra của ngực, bụng
dưới và bụng trên.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

20

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang


Luận văn cao học

- Đường viền phía sau cơ thể: độ nhô ra cao nhất của mông sau đó đến lưng.
Đồng thời độ võng vào của lưng trên và dưới eo.
Độ nhô ra hay võng vào của hai đường viền trước và sau cơ thể nam tạo ra
những đường cong khác nhau tùy theo dáng người của các em.
Đồng thời dựa vào mặt nghiêng của cơ thể cho thấy rõ các điểm uốn cong lồi
lõm của cơ thể ở các vị trí chủ đạo như: ngực - mông - bụng - lưng, giúp cho việc
phân loại của chính cơ thể nam cũng dễ dàng hơn.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

21

Học viên : Nguyễn Gia Linh


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khoa Dệt may và Thời trang

Luận văn cao học

CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Với đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm hình thái phần trên cơ thể học sinh nam Hà
Nội từ 15- 17 tuổi”. Tôi tiến hành cuộc khảo sát nhân trắc học, học sinh nam lứa
tuổi 15-17 trên địa bàn thành phố Hà Nội, để có được số liệu phù hợp, chính xác
cho việc nghiên cứu phân loại đặc điểm hình thái phần trên cơ thể học sinh nam

của trẻ em từ đó đưa ra những nhận xét về sự phát triển đặc điểm của các em đồng
thời góp phần xây dựng hệ thống cỡ số để phục vụ thiết kế trang phục học sinh
trung học phổ thông tại địa bàn thành phố Hà Nội.
Nội dung nghiên cứu:
1- Nghiên cứu đối tượng đo
2- Xây dựng chương trình nghiên cứu phân loại đặc điểm hình thái phần trên
cơ thể học sinh nam lứa tuổi 15-17 tại các trường THPT Hà Nội.
3- Tiến hành đo nhân trắc theo phương pháp gián tiếp.
4- Xây dựng phương pháp xử lý số liệu theo toán thống kê.
5- Nghiên cứu đặc điểm hình thái phần trên cơ thể nam
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đặc điểm cấu tạo hình thái phần trên cơ thể học
sinh nam Hà Nội từ 15-17 tuổi. Để đảm bảo được tính tương đối thuần nhất của
đối tượng nghiên cứu, chọn lựa đối tượng nghiên :
Là học sinh nam ở lứa tuổi 15 -17, đang học giao giữa THCS và THPT:
THCS Phú Thị, THPT Đoàn kết, THPT Trần Nhân Tông, THPT Ngyễn Trãi,
THPT Kim Liên và THPT Việt Đức thuộc Thành phố Hà Nội. Lứa tuổi 15 hiện
đang học lớp 9, lứa tuổi 16 đang học lớp 10 và lứa tuổi 17 đang học lớp 11.

GVHD: PGS.TS Trần Bích Hoàn

22

Học viên : Nguyễn Gia Linh


×