Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Các hình thức sở hữu ruộng đất ở trung quốc thời kì nhà minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.86 KB, 56 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TRUNG QUỐC
THỜI KÌ NHÀ MINH (1368 - 1644)

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới cổ trung

Sơn La, tháng 05 năm 2017


TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TRUNG QUỐC
THỜI KÌ NHÀ MINH (1368 - 1644)

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới cổ trung

Sinh viên thực hiện: Đào Thị Nhung

Nam, Nữ: Nữ

Lành Thị Cúc
Lò Văn Thách

Dân tộc: Tày

Nam, Nữ: Nữ


Nam, Nữ: Nam

Phùng Văn Sơn

Dân tộc: Thái
Dân tộc: Thái

Nam, Nữ: Nam

Lớp: K55 ĐHSP Lịch sử - Khoa: Sử - Địa
Năm thứ: 3/Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Lịch sử
Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Đào Thị Nhung
Người hướng dẫn: ThS. Điêu Thị Vân Anh

Sơn La, tháng 05 năm 2017

Dân tộc: Thái


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm tòi với sự cố gắng của nhóm chúng tôi
cùng sự giúp đỡ của thầy, cô giáo trong khoa, nhóm đề tài chúng tôi đã hoàn
thành đề tài: “Các hình thức sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc thời kì nhà Minh
(1368-1644)”
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của cô giáo
ThS. Điêu Thị Vân Anh và các thầy, cô giáo trong khoa lịch sử, Xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Sử - Địa trường Đại học
Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện đề tài của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài do khó khăn về thời gian và

năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô và các
bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2017
Nhóm sinh viên thực hiện:
Đào Thị Nhung
Lành Thị Cúc
Lò Văn Thách
Phùng Văn Sơn


LỤC MỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nhiên cứu, đóng góp của đề tài ........................ 4
4. Cở sở tài liệu và phương pháp nhiên cứu ........................................................ 4
5. Bố cục đề tài ................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT TRONG
LỊCH SỬ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC ..................................................... 6
1.1. Lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc .............................................. 6
1.2. Các hình thức sở hữu ruộng đất phổ biến trong lịch sử chế độ phong kiến
Trung Quốc ...................................................................................................... 10
1.2.1. Ruộng đất của nhà nước ......................................................................... 10
1.2.2. Ruộng đất của tư nhân ............................................................................ 14
1.3. Tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất trong đời sống kinh tế chính trị dưới
chế độ phong kiến Trung Quốc ........................................................................ 19
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 22

CHƢƠNG 2. CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TRUNG
QUỐC THỜI KÌ NHÀ MINH (1368 – 1644) ................................................ 23
2.1. Vị trí, đặc điểm triều Minh trong lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc ........ 23
2.2. Các hình thức sở hữu ruộng đất thời kì nhà Minh ...................................... 26
2.2.1. Ruộng đất sở hữu của nhà nước .............................................................. 26
2.2.2. Ruộng đất sở hữu của tư nhân................................................................. 33
2.3. Tác động các hình thức sở hữu ruộng đất ở thời Minh tới tình hình Trung
Quốc ................................................................................................................ 40
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 47
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 51


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử lâu đời, lịch sử chế độ phong kiến
Trung Quốc bắt đầu từ năm 221 TCN và kết thúc vào đầu thế kỉ XX, trải qua
nhiều triều đại kế tiếp nhau. Là một quốc gia phong kiến phương Đông điển
hình với nền kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, nên việc nghiên cứu các hình thức
sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc phong kiến lại càng quan trọng hơn nếu muốn
tìm hiểu về đất nước này.
Cuối thế kỉ XIV, Chu Nguyên Chương lãnh đạo thắng lợi cuộc khởi nghĩa
nông dân lật đổ nhà Nguyên, lên ngôi hoàng đế, lập nên nhà Minh. Do phải tiếp
nhận những hậu qủa của chính sách cai trị triều Nguyên và hơn 10 năm chiến
tranh nên sau khi lên ngôi, Minh Thái Tổ đã thực hiện nhiều chính sách nhằm
phục hồi và phát triển kinh tế, trong đó có những chính sách về ruộng đất.
Trong lúc triều Minh đang cai trị ở Trung Quốc thì trên thế giới có rất
nhiều biến động. Các cuộc cách mạng tư sản bùng nổ ở Nederland và Anh đã
làm xuất hiện mầm mống chủ nghĩa tư bản điều đó đã tác động không nhỏ đến
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Trung Quốc, trong đó có vấn đề ruộng đất.

Nằm ở phía Nam Trung Quốc, Việt Nam là một quốc gia phát triển với
nền tảng của nền kinh tế nông nghiệp, trong thời kì phong kiến có sự tiếp xúc,
giao lưu với Trung Quốc, chịu ảnh hưởng của Trung Quốc rất nhiều. Chính vì
vậy, đề tài này không những giúp chúng ta hiểu rõ hơn các hình thức sở hữu
ruộng đất của thời kì nhà Minh ở Trung Quốc mà còn là cơ sở để tìm hiểu thêm
về vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, các nước trong khu vực thời kì này.
Do kinh tế nông nghiệp là nền kinh tế chủ đạo trong lịch sử phong kiến
Trung Quốc nên vấn đề các hình thức sở hữu ruộng đất là hết sức quan trọng. Mặc
dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề ruộng đất ở Trung
Quốc nhưng vấn đề ruộng đất ở thời nhà Minh thì chưa có công trình nào đề cập cụ
thể, rõ ràng. Vì vậy việc lựa chọn đề tài “Các hình thức sở hữu ruộng đất ở Trung
Quốc thời kì nhà Minh (1368-1644)” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:

1


Về khoa học:
Góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về chế độ ruộng đất ở
Trung Quốc thời kì phong kiến
Làm rõ thực trạng, đặc điểm, nguyên nhân, tác dụng của từng hình thức
sở hữu, sự kế thừa và biến thiên so với các triều đại trước.
Chỉ ra tác động của chế độ ruộng đất thời kì nhà Minh tới tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội Trung quốc trong thế kỉ XV.
Góp phần làm sáng tỏ sự phân hóa giai cấp trong xã hội trên cơ sở sự
phân chia quyền lợi trong sở hữu ruộng đất.
Chỉ ra nguyên nhân sâu xa của các cuộc khởi nghĩa nông dân thời kì
phong kiến trong lịch sử Trung Quốc đều xuất phát từ vấn đề ruộng đất. Đây là
vấn đề cốt lõi đối với sự tồn tại và phát triển của một nhà nước phong kiến.
Về thực tiễn:
Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập học

phần Lịch sử thế giới cổ - trung đại.
Làm tài liệu để, sinh viên, học sinh có cơ sở tìm hiểu chuyên sâu về vấn
đề ruộng đất, phong trào nông dân trong lịch sử Trung Quốc thời trung đại.
Với những lí do trên chúng em đã chọn đề tài: „„Các hình thức sở hữu
ruộng đất ở Trung Quốc thời kì nhà Minh (1368 – 1644)” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ruộng đất của Trung Quốc thời kì phong kiến đã có nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến, tuy nhiên các nhà nghiên cứu mới chỉ khái quát về các
hình thức sở hữu chung, phổ biến trong tất cả các triều đại hoặc nghiên cứu theo
hướng để làm nổi bật các vấn đề nghiên cứu khác như: thu thuế, chính sách cai
trị, các chính sách cải cách hay sự phát triển nông nghiệp mà chưa đi vào tìm
hiểu những hình thức cụ thể, những điểm khác biệt của từng triều đại, đồng thời
cũng chưa đánh giá được những tác động của các hình thức sở hữu ruộng đất đó
đối với lịch sử phong kiến Trung Quốc.

2


Ở Việt Nam cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Trung
Quốc như: Cuốn “Sơ lược lịch sử Trung Quốc”, của tác giả Đổng Tập Minh,
NXB Ngoại văn Bắc Kinh xuất bản năm 1963, đã sơ lược về lịch sử Trung Quốc
nhưng chưa làm rõ vấn đề ruộng đất của xã hội phong kiếnTrung Quốc cũng
như vấn đề hình thức sở hữu ruộng đất nhà Minh.
Tác giả Hầu Ngoại Lư, “Vấn đề hình thức chế độ sở hữu ruộng đất xã hội
phong kiến Trung Quốc”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử Trung Quốc xuất bản năm
1954 do Lê Cựu Lộc dịch đã khái quát về các hình thức, chế độ sở hữu ruộng đất
của xã hội phong kiến Trung Quốc nhưng chưa làm nổi bật các hình thức sở hữu
ruộng đất dưới thời nhà Minh.
Trong tác phẩm “Quan hệ chiếm hữu ruộng đất thời Minh Thanh và sự

diễn biến của chế độ thu thuế trong hai thời đó”, của tác giả Lại Gia Độ, Lịch
sử giáo học Trung Quốc, tài liệu thư viện Quân đội dịch năm 1955. Tác phẩm
đã làm rõ quan hệ chiếm hữu ruộng đất thời Minh Thanh và những diễn biến
của chế độ thu thuế, tuy nhiên chưa đi vào chi tiết của hình thức sở hữu ruộng
đất thời nhà Minh.
Cuốn “Các triều đại Trung Hoa” của tác giả Vương Hiểu Minh, do NXB
Thanh niên ấn hành năm 1999 đã khái quát hóa được tình hình kinh tế, văn hóa,
xã hội của các triều đại phong kiến Trung Hoa cũng như sự hưng thịnh hay suy
vong của các triều đại tuy nhiên tác phẩm chưa đi sâu vào nghiên cứu các hình
thức sở hữu ruộng đất ở các triều đại phong kiến Trung Hoa.
Tác phẩm “Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập
III nhà Minh, nhà Thanh” của tác giả Cát Kiếm Hùng được báo Thanh Niên
xuất bản năm 2000 do Phong Đảo dịch đã khái quát về các bước thịnh suy của 2
triều đại Minh, Thanh. Tuy nhiên, tác phẩm chưa làm rõ tác động các hình thức
sở hữu ruộng đất tới sự suy vong của 2 triều đại này.
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí
khoa học đề cập đến vấn đề các hình thức sở hữu ruộng đất. Tuy nhiên
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cụ thể các hình thức sở hữu
ruộng đất thời nhà Minh. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Các hình thức
sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc thời kì nhà Minh (1368 – 1644) làm đề tài
nghiên cứu của chúng tôi.
3


3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nhiên cứu, đóng góp của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ chế độ sở hữu ruộng đất trong lịch sử
phong kiến Trung Quốc và các hình thức sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc dưới
thời nhà Minh từ năm 1368 đến năm 1644.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Tìm hiểu khái quát chế độ sở hữu ruộng đất trong lịch sử phong kiến
Trung Quốc.
Tìm hiểu các hình thức sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh
3.3. Phạm vi nghiên cứu.
Về thời gian: Đề tài giới hạn quãng thời gian nhiên cứu từ 1368 – 1644,
đây là quãng thời gian tồn tại của thời Minh.
Về không gian: Đề tài nhiên cứu trên phạm vi Trung Quốc dưới triều Minh.
3.4. Đóng góp của đề tài.
Đề tài hoàn thành sẽ có đóng góp sau:
Làm sáng tỏ chế độ sở hữu ruộng đất trong lịch sử phong kiến Trung
Quốc
Làm sáng tỏ các hình thức sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc dưới thời kì
nhà Minh.
Là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học và nhiên cứu lịch sử thế
giới cổ trung đại cho học sinh và sinh viên.
4. Cở sở tài liệu và phƣơng pháp nhiên cứu
4.1 Cơ sở tài liệu
Đề tài sử dụng nhiều nguồn tư liệu chủ yếu là tư liệu thành văn phục vụ
việc nghiên cứu như: các tác phẩm sử học của sử gia phong kiến, các công trình
nghiên cứu của sử học liên quan đến đề tài, giáo trình, luận án, luận văn thạc sĩ,
tạp chí...
4.2 Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài “Các hình thức sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc thời kì nhà
Minh (1368-1644)” nhóm nghiên cứu sử dụng Phương pháp lịch sử để tái hiện
4


lại quá trình hình thành, tồn tại và phát triển và suy vong của Nhà Minh ở Trung
Quốc. Phương pháp so sánh để làm rõ một số điểm giống và khác nhau trong
chế độ sở hữu ruộng đất của nhà Minh với 1 số triều đại trong lịch sử phong

kiến Trung Quốc. Phương pháp Logic để đánh giá, phân tích đặc điểm, nguyên
nhân của các hình thức sở hữu ruộng đất thời nhà Minh. Ngoài ra, để hoàn thành
đề tài nghiên cứu này nhóm tác giả còn sử dụng các phương pháp: tổng hợp,
thống kê, phân loại trong công tác sưu tầm và xử lý tư liệu để đảm bảo tính khoa
học của đề tài.
5. Bố cục đề tài
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài bao gồm:
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤt
TRONG LỊCH SỬ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
CHƢƠNG 2. CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TRUNG
QUỐC THỜI KÌ NHÀ MINH (1368-1644)

5


CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT
TRONG LỊCH SỬ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
1.1 . Lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những cái nôi của lịch sử văn minh nhân loại.
Từ xa xưa, trên lãnh thổ Trung Quốc ngày nay đã có người vượn cư trú (người
vượn Nguyên mưu có niên đại cách ngày nay 1.700.000 năm). Trên lưu vực hai
con sông Hoàng Hà và Trường Giang màu mỡ tươi tốt, họ đã cần cù lao động,
đấu tranh với thiên nhiên, trải qua thời kì mông muội, thành lập quốc gia đầu
tiên đó là triều Hạ (khoảng thế kỷ XXI – XVI TCN). Từ Hạ, Thương, Tây Chu
đến Xuân Thu – Chiến Quốc, nước này đã bước thêm một bước nữa đẩy thời kì
cổ đại về quá khứ và bước sang thời kì mới.
Năm (221 TCN) nước Tần đã tiến hành thành công cuộc thống nhất đầu
tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều đại này vì thế được coi là triều đại mở đầu
của chế độ phong kiến Trung Quốc. Từ đó trở đi các triều đại thay nhau trị vì
thống trị Trung Quốc, lúc thì tập quyền thống nhất, lúc thì chia năm xẻ bảy, lúc

thì phong kiến nội tộc cai trị, lúc bị ngoại tộc thống trị.
Trải qua Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc triều, Tùy đến Đường, Tống chế
độ phong kiến Trung Quốc bước vào thời kì thịnh đạt (206 TCN – 1279).
Chế độ phong kiến là một chế độ quân chủ chuyên chế đứng đầu là vua
người nắm giữ mọi quyền hành, đặc trưng của nó là: thâu tóm mọi quyền lực
của đất nước, luôn kìm hãm sự phát triển trong mọi tư tưởng tiến bộ của nhân
dân, luôn đặt mọi quyền lợi của mình lên cao, xã hội thường phân chia ra nhiều
giai cấp thống trị khác nhau, là nơi không có sự công bằng về công lí.
Chế độ quân chủ gọi là vương triều, cả nước có một ông vua trị vì, truyền
ngôi theo nguyên tắc cha truyền con nối, những người giúp vua trị nước thì gọi
là Quan, Lại, thủ đô thì gọi là kinh đô, chính phủ thì gọi là triều đình, luật lệ thì
gọi là vương pháp, nhân dân thì gọi là bách tính.
Chế độ phong kiến là chế độ mà Vua là người trị vì cao nhất, người tự
phong là thay trời hành đạo. Hành đạo theo chế độ phong kiến là đặc trưng khác
biệt so với các chế độ khác:
6


Hành xử vua tôi thì trung quân – ái quốc: quân xử thần tử thần bất tử
bất trung.
Hành xử gia đình đối với người phụ nữ thì tam tòng tứ đức: tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Công, dung, ngôn, hạnh...
Hình thái xã hội – kinh tế xuất hiện sau chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó
giai cấp địa chủ, quý tộc chiếm hữu đất đai, bóc lột địa tô, chính quyền tập trung
trong tay vua chúa địa chủ.
Nhà nước phong kiến xây dựng dựa trên quan hệ tư hữu về ruộng đất, lực
lượng sản xuất chính là nông dân.
Đất nước Trung Quốc thời Đường, Tống là những kho thóc đầy ắp từ Lạc
Dương đến Trường Giang, những sản phẩm thủ công nổi tiếng, những thành phố
sầm uất và bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, quy củ

thống nhất từ trung ương đến địa phương. Từ cuối triều Minh đến cuối triều
Thanh, chế độ phong kiến Trung Quốc trên con đường đi xuống và hoàn toàn
chấm dứt sự tồn tại của nó với cách mạng Tân Hợi (1911).
Trong suốt quá trình tồn tại đó của chế độ phong kiến ở Trung Quốc, sự
thành lập, hưng thịnh, suy vong của mỗi triều đại diễn ra như một chu kì, quy
luật và gắn liền với nó là nền kinh tế nông nghiệp được khôi phục, phát triển, đi
xuống và bộ phận ruộng đất của nhà nước càng về cuối các triều đại càng thu
hẹp, cùng với sự phát triển của ruộng đất tư hữu.
Bên cạnh nông nghiệp luôn luôn là nền kinh tế chủ đạo, thì thủ công
nghiệp và thương nghiệp vốn phát triển từ sớm cũng ngày càng được mở rộng
và có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, về sau nhà nước không quan tâm chú
trọng với quan điểm “trọng nông khinh thương” nên thủ công nghiệp và thương
nghiệp bị hạn chế rất nhiều.
Mặt dù vậy thủ công nghiệp và thương nghiệp đã làm cho nền kinh tế
hàng hóa phát triển và xâm nhập vào các lĩnh vực trong nông nghiệp, trong đó
đặc biệt là vấn đề ruộng đất.
Trên nền tảng kinh tế đó, với bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập
quyền cao độ và điển hình, vua có quyền lực tối cao, với chính sách đối ngoại
7


bành trướng và với hệ tư tưởng Nho giáo làm nền tảng, trong suốt quá trình tồn
tại của mình, Trung Quốc là một đế quốc phong kiến hùng mạnh.
Do đặc điểm của nền kinh tế và chế độ ruộng đất, cơ cấu ruộng đất thời
trung đại ở Trung Quốc tương đối phức tạp. Ngoài hai giai cấp chủ yếu là địa
chủ và nông dân còn có tầng lớp thợ thủ công, tầng lớp buôn bán và nô tì.
Giai cấp địa chủ là giai cấp chiếm hữu nhiều ruộng đất và bóc lột nông
dân bằng địa tô. Ở Trung Quốc, bao gồm hai tầng lớp là địa chủ quan lại và địa
chủ bình dân.
Trong tầng lớp đại chủ quan lại có một bộ phận rất giàu sang và có thế lực

rất lớn, đó là địa chủ quý tộc phong kiến. Loại này bao gồm các vương hầu, tôn
thất, công thần và các quan lại lớn trong triều đình.Về chính trị, họ đời đời giữ
những chức vụ lớn và được quan niệm là thanh cao trong triều đình.
Dựa trên sự giàu sang quyền quý, các địa chủ quý tộc có cuộc sống hết
sức xa hoa trụy lạc và tàn ác. Cuộc sống xa hoa, trụy lạc đó làm cho tầng lớp sĩ
tộc không còn thiết gì đến học hành và luyện tập võ nghệ nên thường văn dốt võ
nhát, cơ thể ốm yếu, xa rời thực tế.
Địa chủ quý tộc là một tầng lớp tồn tại suốt chiều dài của chế độ
phong kiến, nhưng do sự thay đổi triều đại, các dòng họ quý tộc cũng luôn
luôn thay đổi.
Địa chủ bình dân là tầng lớp không giữ chức vụ gì trong bộ máy nhà
nước. Tuy vậy, bằng biện pháp chiếm đoạt ruộng đất, bóc lột nhân dân, có kẻ
còn kiêm việc buôn bán, nên một số cung rất giàu có, do đó cũng có thế lực
lớn về chính trị.
Giai cấp nông dân từ khi chế độ tịch điền tan rã, giai cấp nông dân thời cổ
đại phân hóa thành hai loại: một số vẫn giữ được phần đất của mình và biến
thành nông dân tự canh, một số khác bị mất ruộng đất và trở thành nông dân
lĩnh canh ruộng đất của địa chủ. Sau đó, tuy ruộng đất và thân phận của nông
dân luôn luôn xáo động, nhưng hai loại nông dân ấy vẫn tồn tại lâu dài trong xã
hội phong kiến Trung Quốc.

8


Nhưng do sự áp bức bóc lột của nhà nước phong kiến và giai cấp địa chủ,
trong điều kiện sức sản xuất còn thấp, thiên tai thường xuyên xảy ra, nên đời
sống của họ hết sức cực khổ.
Nông dân lĩnh canh là người không có hoặc có rất ít ruộng đất nên phải
trở thành tá điền của địa chủ. Họ có nghĩa vụ phải nộp tô thuế cho chủ ruộng.
Tuy địa vị kinh tế của nông dân lĩnh canh trước sau không thay đổi, nhưng với

thân phận có khác nhau theo từng thời kì.
Trong hai loại nông dân nói trên, nông dân tự canh là đối tượng bóc lột và
là nguồn lao dịch chủ yếu của nhà nước, còn nông dân tá điền là dối tượng bóc
lột chủ yếu của giai cấp địa chủ.
Như vậy, nông dân là giai cấp bị nhà nước phong kiến và giai cấp địa chủ
áp bức bóc lột nặng nề nên giàu tính đấu tranh.
Tầng lớp công thương do sự phát triển sớm của nền thủ công nghiệp và
hình thức sản xuất cá thể đã sớm tạo nên tầng lớp thợ thủ công tự do ở Trung
Quốc. Do chính sách coi thường nghề buôn, một số nhà buôn giàu có sau khi
phát tài thường mua ruộng đất, trở thành đại thương gia kiêm đại địa chủ. Tình
hình ấy đã ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hàng hóa
và sự nảy sinh quan hệ sản xuất mới.
Tầng lớp nô lệ đến thời trung đại còn gọi là tầng lớp nô tì. Nguồn nô lệ
chính là tù binh, những người phạm tội và những người quá nghèo khổ phải bán
thân hoặc vợ con làm nô tì. Số lượng nô tì trong xã hội Trung Quốc thời trung
đại vẫn còn tương đối nhiều. Trong gia đình các quý tộc, quan lại, địa chủ
thường có hàng trăm hàng ngàn nô tì.
Cũng như nô lệ thời cổ đại, nô tì vẫn bị coi là một loại hàng hóa để
mua bán hoặc để trao tặng. Đời Hán giá một nữ tì là 20.000 tiền, bằng giá 5
con ngựa. [12, tr 195]
Sức lao động của nô tì tuy cũng bị sử dụng vào các ngành sản xuất như
nông nghiệp, thủ công nghiệp, chăn nuôi nhưng phần lớn là dùng vào việc hầu
hạ trong gia đình các quý tộc, địa chủ...

9


Sự tồn tại một tầng lớp nô tì đông đảo đã ảnh hưởng đến nguồn thuế khóa
và lao dịch của nhà nước phong kiến. Vì vậy, có một số quan lại như Sư Đan,
Đổng Trọng Thư, đời Hán đã nêu ra vấn đề phải hạn chế hoặc xóa bỏ quan hệ nô

lệ. Nhiều triều đại khi mới thành lập cũng tuyên bố giải phóng những người
trong thời gian chiến tranh phải bán thân làm nô tì được trở thành người tự do.
Tuy nhiên, do cuộc sống bần cùng của nhân dân lao động nên đến cuối xã hội
phong kiến, tầng lớp nô tì vẫn tiếp tục tồn tại.
Tóm lại, thời trung đại, cơ cấu giai cấp ở Trung Quốc tương đối phức tạp.
Hơn nữa, đối với từng cá nhân, thân phận giai cấp, đẳng cấp không cố định mà
có thể thay dổi, nhưng các giai cấp và các tầng lớp nói trên thì tồn tại lâu dài
trong lịch sử.
1.2. Các hình thức sở hữu ruộng đất phổ biến trong lịch sử chế độ phong
kiến Trung Quốc
Hình thức sở hữu ruộng đất dưới chế độ phong kiến “là một phạm trù kinh tế
trong sự phát triển của lịch sử, là một hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất nhất
định, nên hoàn toàn dựa vào một điều kiện kinh tế nhất định” [7, tr 2] và cho dù
“cùng một cơ sở kinh tế đó, nhưng do điền kiện khác nhau về mặt kinh nghiệm, do
những điều kiện tự nhiên, do quan hệ chủng tộc, do ảnh hưởng lịch sử từ bên ngoài
vào nên lại có biểu hiện ra dưới không biết bao nhiêu màu sắc” [7, tr 3].
Từ quan điểm đó ta thấy rằng, cũng như thời cổ đại, trong suốt thời trung
đại, quyền sở hữu ruộng đất ở Trung Quốc chủ yếu vẫn thuộc về nhà nước, bên
cạnh đó ruộng đất tư hữu cũng dần dần hình thành và phát triển không ngừng.
1.2.1. Ruộng đất của nhà nƣớc
Ruộng đất của nhà nước dưới chế độ phong kiến nói chung, Trung Quốc
nói riêng là bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý hoặc giao cho nông
dân sản xuất rồi thu thuế và chỉ nhà nước mới có quyền chuyển nhượng, mua
bán hay kế thừa, người nông dân không có quyền đó. Khi nghiên cứu về phương
Đông phong kiến Mác viết: “Như trường hợp đã xảy ra ở châu Á… nhà nước ở
đây là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất” [14, tr 68].

10



Các triều đại phong kiến Trung Quốc luôn quan niệm rằng “thổ thiên chi
hạ, mạc phi vương thổ” (dưới gầm trời này, không đâu không phải đất vua),
chính vì thế, sự tồn tại của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất có ý nghĩa đặc
biệt với Trung Quốc trung đại.
Sự tồn tại và thống trị của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất có một ý
klnghĩa đặc biệt đối với các nước phương Đông. Mác viết: “Nhà nước ở đây là sở
hữu tối cao của ruộng đất. Chủ quyền ở đây là chế độ sở hữu ruộng đất tập trung ở
quy mô cả nước và trái lại, trong trường hợp này không tồn tại một hình thức sở
hữu tư nhân nào về ruộng đất mặc dù tồn tại chế độ chiếm hữu và sử dụng ruộng
đất của tư nhân và công xã. Có thể nói, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất là cơ
sở tồn tại của nhà nước trung ương tập quyền, là nguồn thu nhập chủ yếu, đồng thời
là nhân tố chủ yếu chi phối mọi hoạt động của quần chúng” [14, tr 68].
Bộ phận ruộng đất thuộc quyền quản lí trực tiếp của nhà nước trong sử
sách Trung Quốc thường được gọi bằng các tên như Công điền, Vương điền,
Quân điền. Nguồn gốc của loại ruộng đất vốn do nhà nước quản lí còn có ruộng
đất vắng chủ sau những thời kì chiến tranh loạn lạc. Do vậy, thông thường trong
thời kì đầu, các triều đại phong kiến ở Trung Quốc nắm được rất nhiều ruộng
đất. Trên cơ sở ấy, các triều đại phong kiến Trung Quốc đem ruộng đất ấy ban
cấp cho quý tộc, quan lại làm bổng lộc, một bộ phận tổ chức thành đồn điền,
điền trang để sản xuất hoặc giao cho nông dân dưới hình thức quân điền để thu
thuế. Trong các chính sách xử lí ruộng đất công nêu trên, đáng chú ý nhất là chế
độ quân điền tồn tại từ thế kỉ V đến cuối thế kỉ VIII.
Vào thời Nam Bắc triều, ở miền Bắc Trung Quốc, do chiến tranh, đói
kém, địa chủ cũng như nông dân, nhiều người phải dời bỏ quê hương đi lưu lạc
đến các nơi khác, do đó ruộng đất bỏ hoang rất nhiều, việc sản xuất nông nghiệp
bị đình đốn.
Trước tình hình ấy, học tập kinh nghiệm thống trị của các triều đại phong
kiến Hán tộc, năm 485 vua Hiến Văn Đế của Bắc Ngụy (thuộc tộc Tiên Ti) đã
ban hành chế độ quân điền, nhằm khôi phục và sản xuất nông nghiệp, bảo đảm


11


nguồn thuế khóa cho nhà nước. Tiếp sau Bắc Ngụy, các triều đại Bắc Tề, Tùy,
Đường đều tiếp tục thi hành chính sách quân điền.
Tuy về quy định cụ thể, chính sách quân điền của các triều đại nói trên có
ít nhiều khác nhau, nhưng tinh thần chung là:
Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lí chia cho nông dân cày cấy.
Thời Bắc Ngụy, đàn ông từ 15 tuổi trở lên được cấp 40 mẫu ruộng trồng
lúa gọi là lộ điền và 20 mẫu ruộng trồng dâu; đàn bà được cấp 20 mẫu ruộng
trồng lúa; nô tì cũng được cấp như người tự do; bò cày được cấp mỗi con 30
mẫu. Nếu ruộng đất thuộc loại đất phải để nghỉ một hay hai năm thì được nhận
gấp đôi hoặc gấp ba. [12, tr 184]
Còn thời Đường thì quy định:
Đàn ông từ 18 tuổi trở lên được cấp 80 mẫu ruộng trồng lúa gọi là ruộng
khẩu phần và 20 mẫu ruộng trồng dâu gọi là ruộng vĩnh nghiệp; cụ già, người
tàn tật ốm yếu được cấp 40 mẫu ruộng khẩu phần; bà góa được cấp 30 mẫu
ruộng, nếu là chủ hộ thì được nửa suất của tráng đinh. [12, tr 184]
Các quan lại, tùy theo chức vụ cao thấp, được cấp ruộng đất làm bổng lộc.
Thời Bắc Ngụy, quan lại thấp nhất được cấp 6 khoảnh (một khoảnh bằng
100 mẫu), cao nhất được cấp 15 khoảnh.
Thời Đường, quý tộc, quan lại tùy theo địa vị, công lao, chức tước mà
được ban cấp ruộng vĩnh nghiệp, ruộng thưởng công và ruộng chức vụ.
Ruộng vĩnh nghiệp ban cho những quý tộc được phong tước và các quan
từ ngũ phẩm trở lên, ít nhất là 5 khoảnh, nhiều nhất là 100 khoảnh.
Ruộng thưởng công ban cho những người có chiến công, ít nhất được 60
mẫu, nhiều nhất được 30 khoảnh.
Ruộng chức vụ ban cho các quan lại làm lương bổng, ít nhất là 80 mẫu,
nhiều nhất là 12 khoảnh.
Ruộng trồng lúa đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước, còn ruộng trồng

dâu, ruộng vĩnh nghiệp được truyền cho con cháu. Ruộng chức vụ quan lại khi
thôi chức phải giao lại cho người kế nhiệm. Trừ ruộng ban thưởng cho quý tộc
và quan lại được tự do mua bán, còn nói chung ruộng cấp cho nông dân là không
12


được chuyển nhượng. Tuy vậy, trong một số trường hợp đặc biệt như nông dân
thiếu hoặc thừa ruộng trồng dâu hoặc gia đình có việc tang ma mà quá nghèo
túng thì có thể mua bán ruộng trồng dâu. Nếu nông dân dời chỗ ở từ nơi ít ruộng
đất đến nơi nhiều ruộng đất thì được bán cả ruộng khẩu phần. [12, tr 185]
Trên cơ sở được cấp ruộng đất theo tiêu chuẩn như nhau, nhà nước bắt
nông dân phải chịu nghĩa vụ ngang nhau về thuế khóa và lao dịch. Đến thời Tùy,
Đường, nghĩa vụ đó được quy định thành chế độ “tô, dung, điệu”.
Tô là đánh thuế vào ruộng khẩu phần, nông dân phải nộp bằng thóc lúa.
Dung là thuế hiện vật thay cho nghĩa vụ lao dịch.
Điệu là thuế đánh vào đất trồng dâu, nông dân phải nộp bằng tơ lụa hoặc
bông vải.
Thời Đường, các loại thuế được quy định như sau: mỗi tráng trinh mỗi
năm phải nộp “tô” hai thạch thóc, “điệu” 20 thước lụa và 3 lạng tơ, “dung” 60
thước lụa để thay cho 20 ngày lao dịch. Ở những nơi đất không trồng được dâu
thì có thể dùng bông vải để thay thế. [12, tr 185]
Như vậy, mục đích của chế độ quân điền là đảm bảo cho nông dân có
ruộng đất cày cấy, do đó sẽ đảm bảo nguồn thuế khóa cho nhà nước.
Sau khi thi hành chế độ quân điền, những nông dân không có hoặc ít
ruộng đất, những người đi lưu tán trở về quê hương đều được cấp ruộng đất. Họ
đã trở thành nông dân cày cấy ruộng đất công, thoát khỏi sự lệ thuộc vào địa
chủ. Hơn nữa, do việc giao đất cho nông dân, toàn bộ ruộng đất bỏ hoang vì
chiến tranh đã được canh tác trở lại nên nông nghiệp lại được phát triển. Vì vậy,
thu nhập của nhà nước được tăng lên, đời sống của nông dân được cải thiện.
Chế độ quân điền là chính sách chung của cả nước, nhưng thời Tùy,

Đường chế độ đó thực tế chỉ thi hành ở miền Bắc là nơi có nhiều ruộng đất vô
chủ. Hơn nữa, ngay ở miền Bắc, chế độ đó cũng không được thi hành triệt để.
Nhiều tài liệu thời Đường để lại cho biết rằng rất nhiều nông dân không được
nhận đủ số ruộng theo mức quy định.
Đến giữa thời Đường, do sự chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ, do
một số nông dân không chịu nổi nghĩa vụ thuế khóa phải rời bỏ quê hương đi tha
13


phương cầu thực, đặc biệt sự biến An – Sử (755 – 763) cũng gây ra sự xáo trộn
lớn về nhân khẩu nên chế độ quân điền bị phá hoại dần dần. Trong tình hình ấy,
nhà nước không thể tiếp tục thi hành chế độ “tô, dung, điệu‟‟ nữa, vì đó là chế độ
thuế khóa không thêm nhân khẩu trên cở sở ruộng đất được phân chia bằng nhau.
Năm 780, nhà Đường đặt ra một số chính sách thuế khóa mới, gọi là lưỡng thuế
pháp (phép thuế hai kì). Chính sách thuế mới này quy định: nhà nước chỉ căn cứ
theo số ruộng đất và tài sản thực có để đánh thuế, đồng thời thuế được thu làm 2
lần vào hai vụ thu hoạch (tháng 6 và tháng 11 âm lịch hàng năm). [12, tr 186]
Bỏ chế độ “tô, dung, điệu”, chỉ căn cứ theo tài sản thực có để đánh thuế,
chứng tỏ rằng đến đây, nhà Đường phải công khai thừa nhận sự phá sản hoàn
toàn của chế độ quân điền.
Từ đó cho đến cuối chế độ phong kiến, bộ phận ruộng đất của nhà nước
vẫn tiếp tục tồn tại nhưng ngày càng bị thu hẹp.
Với số ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí, các triều đại từ Tống về sau
chỉ đem ban cấp cho quan lại, một bộ phận thì thành lập thành đồn điền, điền trang
được gọi là “hoàng trang”, “tỉnh trang‟‟ chứ không có chính sách gì mới.
1.2.2. Ruộng đất của tƣ nhân
Ruộng đất tư nhân là bộ phận ruộng đất được quyền sử dụng, chuyển
nhượng mua bán, thừa kế của một cá nhân nào đó. Nguồn gốc ruộng đất tư nhân
trong xã hội phong kiến Trung Quốc là do nhà nước ban thưởng (theo tước vị,
theo chiến công,…) hoặc do mua bán có được, hoặc do chiếm đoạt ruộng đất

của nhân dân. Tuy nhiên, trong một chế độ xã hội mà quyền lực nhà vua là tối
thượng, là chủ của mọi đất đai của nhà nước thì quyền sở hữu tư nhân ở đây có
những hạn chế nhất định.
Chính do sự phức tạp của ruộng đất tư nhân dưới chế độ phong kiến
phương Đông nói chung và Trung Quốc phong kiến nói riêng mà cho đến nay
vấn đề này vẫn gây nhiều tranh luận trong giới sử học.
Gần đây trong việc đi sâu nghiên cứu lịch sử chế độ sở hữu ruộng đất ở
Trung Quốc, Ấn Độ,… Nhiều nhà sử học Mác xít đã nêu lên ý kiến cho rằng:

14


Trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, ở các nước phương Đông tồn tại chế độ tư
nhân về ruộng đất.
Để hiểu rõ những cách giải thích trên phải xuất phát từ toàn cảnh lịch sử
cụ thể của xã hội trung đại phương Đông. Với một bộ máy nhà nước trung ương
tập quyền bên trên, chế độ sở hữu tư nhân như Mác nói, còn nhiều “tạp chất” và
“bị bao bởi một cái màn che chính trị, xã hội” do đó phải chịu một số hạn chế
nhất định. Nhà nước quân chủ chuyên chế với tư cách người đại diện của cả
nước, có thể có một số quyền hạn nhất định đối với toàn bộ ruộng đất trong
nước nhất là khi mà tư tưởng pháp lý chưa phát triển. Nếu dựa vào thứ quyền
lực tối cao đó của các ông vua mà cho rằng dưới chế độ phong kiến không có
ruộng đất tư nhân là không đúng. Bởi vì kinh tế phong kiến khác với kinh tế
tư bản chủ nghĩa, quyền tư hữu phong kiến cũng phải khác quyền tư hữu tư bản
chủ nghĩa.
Trên thực tế, ở bên trên quyền sở hữu của mỗi người còn có quyền lực tối
cao của nhà vua, đó là đặc điểm kinh tế phong kiến khác với đặc trưng kinh tế tư
bản. Nếu như từ đặc điểm trên cho rằng ruộng đất tư nhân không được tính vào
thứ tài sản tư hữu tức là đã dùng quan niệm về tài sản tư hữu trong xã hội tư bản
để lý giải tài sản tư hữu trong xã hội phong kiến.

Xuất phát từ quan niệm đó, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa ý
kiến của các nhà sử học cho rằng chế độ tư hữu tư nhân về ruộng đất ở Trung
Quốc đã xuất hiện từ sớm và ngày càng mở rộng.
1.2.2.1. Ruộng đất của địa chủ
Bắt đầu từ thời Chiến Quốc, ruộng đất tư ở Trung Quốc xuất hiện ngày
một nhiều. Đến thời Tần, Hán, phần lớn ruộng đất trong nước đều tập trung vào
tay giai cấp địa chủ.
Cùng với sự tiến triển của lịch sử, giai cấp địa chủ ngày càng giàu, đồng
thời ngày càng xuất hiện nhiều địa chủ lớn chiếm hữu rất nhiều ruộng đất: Thời
Hán, các địa chủ thường có hàng trăm kkhoảnh ruộng. Ví dụ, Trương Vũ được
Hán Thành Đế (32 – 7 TCN) thưởng cho mấy chục triệu tiền, mua được 400
khoảnh ruộng [12, tr 187]. Lương Kí, một người bà con bên ngoại của Đông
15


Hán, đã chiếm đoạt một vùng đất chu vi gần 1000 dặm để làm khu vườn riêng.
Từ đời Đường về sau, việc ban cấp ruộng đất cho các thân vương, công thần lại
càng phóng tay hơn. Ví dụ: Một công thần tên là Lý Tịch được vua Đường ban
cho 1000 khoảnh ruộng. Ngoài số ruộng đất được ban thưởng, các địa chủ còn
chiếm đoạt ruộng đất của nông dân hoặc tìm cách biến ruộng công thành ruộng
đất riêng của mình, vì vậy trong xã hội xuất hiện một số đại địa chủ như Lý
Tùng Nguyện được người đương thời gọi là “Ông nhiều ruộng”, Lý Bành Niên
được gọi là “Kẻ nghiện đất” [12, tr 187].
Hiện tượng tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa chủ đời Nguyên lại
càng nghiêm trọng hơn vì các thân vương quý tộc Mông Cổ được vua ban cho
rất nhiều ruộng đất, ví như Bá Nhan được ban 2 vạn khoảnh. Ngoài ra, các đại
địa chủ còn tự mình chiếm đoạt ruộng đất của dân, có kẻ như An Tây Vương đã
chiếm đến hơn 10 vạn khoảnh. Nhân tình hình đó, các địa chủ Hán tộc cũng đua
nhau chiếm ruộng đất, có nơi như Phúc Kiến, 5/6 ruộng đất của một huyện thuộc
về địa chủ. [12, tr 187]

Đầu thời Minh, Chu Nguyên Chương có quy định ruộng đất ban cấp cho
các công thần, công hầu, thừa tướng nhiều nhất là 100 khoảnh, còn thân vương
được 1000 khoảnh. Nhưng đến cuối đời Minh các thân vương, công chúa, sủng
thần thường được ban cấp hàng nghìn, hàng vạn khoảnh, ví dụ như Phúc Vương
được ban 2 vạn khoảnh, quan hoạn Ngụy Trung Hiền được ban 1 vạn khoảnh.
Các phú hào ở địa phương cũng chiếm hàng triệu mẫu, do đó ở miền ven biển
Đông Nam có nơi cứ 10 người thì 9 người không có ruộng. [12, tr 187]
1.2.2.2. Ruộng đất điền trang
Trên cơ sở ruộng đất phần lớn bị tập trung vào tay các đại địa chủ, từ thời
Đông Hán, tổ chức điền trang đã ra đời và tồn tại lâu dài trong lịch sử.
Tương tự như trang viên phong kiến ở Tây Âu, điền trang là đơn vị tự cấp
tự túc. Trong các điền trang, không những chỉ trồng các loại cây lương thực mà
còn trồng các loại cây nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nghề thủ công như
dâu, đay v.v… ngoài ra, ở đây còn có vườn cây ăn quả, ao thả cá, bãi chăn nuôi.
Trong điền trang lại có các nghề thủ công như nuôi tằm dệt lụa, dệt vải, nhuộm
16


may, nấu rượu, làm tương, chế thuốc, làm công cụ, binh khí,… có thể cung cấp
đủ những nhu cầu hàng ngày cho chủ điền trang và trang dân. Một số điền trang
còn có nơi khai thác gỗ, quặng, sắt… Do đó, phạm vi tự túc ngày càng rộng. Với
tính chất khép kín như vậy trong một chính quyền từ trung ương đến địa phương
nên điền trang không phải là một đơn vị hành chính tư pháp.
Những người lao động trong các điền trang từ thời Đông Hán đến thời
Nam Bắc triều là những người nông dân lĩnh canh ruộng đất của điền trang và
có nghĩa vụ phải nộp địa tô cho chủ. Hình thức địa tô chủ yếu là tô sản phẩm
còn những người nông dân được luyện tập quân sự, ngày thường thì sản xuất
nông nghiệp khi có chiến sự thì trở thành lực lượng của điền trang. Cả hai loại
này đều là nông dân lệ thuộc vào chủ điền trang, song mức độ lệ thuộc ấy không
chặt chẽ như nông nô ở phương Tây. Họ không bị đời đời gắn chặt vào ruộng

đất của chủ mà có thể rời bỏ điền trang bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, nhiều triều
đại phong kiến ở Trung Quốc đã dùng nhiều chính sách mà quan trọng nhất là
chính sách quân điền để thu hút nông dân lệ thuộc vào địa chủ thành nhân dân
cày cấy ruộng đất của nhà nước.
Trong những thời kì chính quyền trung ương suy yếu, đất nước loạn
lạc, các điền trang đã trở thành cơ sở của các lực lượng phong kiến mang ít
nhiều tính chất độc lập. Mặc dù mang tính chất khép kín từ trung ương đến
địa phương nhưng điền trang ở Trung Quốc không phải là những đơn vị hành
chính và tư pháp.
Đến thời Đường, Tống, cùng với sự phát triển của chế độ ruộng đất tư
hữu, số điền trang trong nước càng nhiều hơn trước. Đồng thời, do sự phát triển
của kinh tế hàng hóa, tính chất của kinh tế điền trang có giảm bớt, một số điền
trang đã sản xuất rau, đốt than,… để đem ra bán ở thị trường. Mặt khác, thân
phận của lực lao động sản xuất chủ yếu trong các điền trang, nay gọi là trang
khách, thuần túy là những tá điền của địa chủ.
Đặc biệt đến đời Tống, chế độ điền trang chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền
kinh tế nông nghiệp. Nhà nước thực hiện biện pháp biến tất cả đất hoang thành
quan trang và còn tịch thu nhiều ruộng đất của dân để mở rộng quan trang.
17


Do không có sự đột biến về kinh tế xã hội, hình thức điền trang không tồn
tại lâu dài, nhưng những thay đổi nói trên trong tổ chức điền trang thời Đường,
Tống là những biểu hiện của sự tan rã dần của chế độ điền trang ở Trung Quốc.
1.2.2.3. Ruộng đất của chùa, quán
Bên cạnh địa chủ tư nhân, các chùa, quán Phật giáo và Đạo giáo cũng
chiếm hữu nhiều ruộng đất. Do sự phát triển mạnh mẽ của tầng lớp địa chủ nhà
chùa, giữa thế kỉ thứ IX, Đường Vũ Tông (841-846) đã ra lệnh “bỏ Phật”, tức là
hạn chế Phật giáo. Theo lệnh này, ở kinh đô và các châu quận chỉ được giữ lại
một số ít chùa chiền và một số tăng ni có hạn, còn các chùa khác phải bỏ, nhiều

sư sãi phải hoàn tục. Kết quả là nhà nước đã tịch thu được 10 triệu khoảnh
ruộng, qua đó có thể biết số ruộng đất của nhà chùa không phải ít. Tuy vậy, lệnh
“bỏ Phật” này chủ duy trì được dăm ba năm, sau Vũ Tông chết, thế lực của nhà
chùa lại khôi phục, thậm chí còn phát triển hơn trước.
Đến thời Nguyên, thế lực Phật giáo, nhất là giáo phái Lạt Ma và Đạo giáo
càng mạnh. Các vua Nguyên thường ban rất nhiều ruộng đất cho các chùa đạo
Lạt Ma. Trong đó, có chùa được ban đến 325.000 khoảnh. Ngoài ruộng đất được
vua ban, các nhà sư còn chiếm đoạt ruộng đất của dân, có kẻ đã chiếm đến
20.000 khoảnh.[12, tr 189]
Đạo giáo thời Đường, Tống được tôn làm quốc giáo nên thế lực cũng phát
triển nhanh chóng. Đặc biệt thời Nguyên, đạo sĩ Trương Tông Diễn được Hốt
Tất Liệt cho đời đời cầm đầu đạo giáo ở miền Nam Trung Quốc và được ban
cho nhiều ruộng đất, trở thành một địa chủ lớn.
Ngoài ruộng đất của địa chủ và các chùa quán, còn có ruộng đất của nông
dân tự canh. Bộ phân ruộng này tuy ít ỏi và quyền tư hữu ruộng đất của nông
dân rất bấp bênh nhưng vẫn tồn tại trong suốt thời trung đại ở Trung Quốc.
Về quan hệ sản xuất trong hình thức sở hữu ruộng đất này là quan hệ giữa
địa chủ - phát canh và tá điền - lĩnh canh và biểu hiện qua chế độ địa tô. So với
mức thuế của nhà nước thì địa tô khá nặng thường là 50% thu hoạch (từ thời
Chiến Quốc đã nêu ra tiền lệ này) đôi khi còn lên đến 70% - 80%.

18


Ngoài ra, còn hàng trăm các loại thuế khóa khác mà địa chủ trưng thu
hạch sách người tá điền.
Có ba hình thức địa tô tồn tại: tô hiện vật là số lượng lương thực và hoa màu
(lúa, lúa mì, ngô, đậu…) mà người nông dân lĩnh canh phải nộp tô cho địa chủ sau
khi thu hoạch mùa màng. Tô lao dịch là lao động cưỡng bức không công của
người nông nô lĩnh canh phải làm cho bọn địa chủ phong kiến. Sau này đến thời

Minh do kinh tế hàng hóa phát triển, hình thức tô bằng tiền bằng bạc mới xuất hiện.
Tô tiền là hình thức nộp tô bằng tiền cho địa chủ thay thế hiện vật và tô lao dịch.
Không chỉ thế, trong quan hệ cưỡng chế siêu kinh tế giữa nông dân - địa
chủ, dù không phụ thuộc chặt chẽ như người nông nô trong lãnh địa phong kiến
Tây Âu nhưng người tá điền cũng bị hạn chế rất nhiều quyền tự do của mình.
Chính vì thế, trong xã hội phong kiến Trung Quốc quan hệ sản xuất này là
nguồn gốc cơ bản gây ra mọi đau khổ bất công cho người nông dân. Tóm lại,
qua việc tìm hiểu một cách khái quát về những hình thức sở hữu ruộng đất của
xã hội phong kiến Trung Quốc cho thấy cái nhìn khái quát về hiện tượng ruộng
đất tư nhân ngày càng phát triển rộng và ruộng đất nhà nước ngày một thu hẹp
cho dù các triều đại phong kiến có những chính sách biện pháp để điều chỉnh
cũng như quan hệ sản xuất trong những hình thức sở hữu ruộng đất này. Và điều
quan trọng hơn là để khi nghiên cứu các hình thức sở hữu ruộng đất thời Minh
đặt trong hệ thống đó, tiến trình thời gian đó ta sẽ dễ dàng nhận thấy những nét
đặc trưng riêng của nó cũng như những đặc điểm đã kế thừa học tập của các bậc
tiền bối, đồng thời giải thích được một cách thỏa đáng.
1.3. Tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất trong đời sống kinh tế chính trị
dƣới chế độ phong kiến Trung Quốc
Từ thời cổ đại xa xưa cho đến ngày nay, đặc biệt trong thời kì phong kiến,
vấn đề ruộng đất, khai thác và phân phối ruộng đất vẫn là một vấn đề chủ yếu ở
Trung Quốc. Điều này thật dễ hiểu bởi Trung Quốc phong kiến là một quốc gia
điển hình của mô hình phong kiến phương Đông, với nền kinh tế nông nghiệp
luôn ở vị trí chủ đạo.

19


Rõ ràng là, tất cả đời sống của một xã hội nông nghiệp to lớn, nói cho
cùng phụ thuộc vào vấn đề ruộng đất, vì nó là nguồn sinh sống chủ yếu của gần
như hầu hết dân chúng trong xã hội.

Với nghề chính là nông nghiệp, cuộc đời và sự sinh tồn của người nông
dân dưới chế độ phong kiến gắn với những mảnh ruộng, nghèo khổ và giàu sang
tỉ lệ thuận với việc có ít ruộng, không có ruộng hay có rất nhiều ruộng. Đối
lập giữa cuộc sống cùng cực của người nông dân tá điền không mảnh đất đặt
chân, phải đi lĩnh canh với mức tô cao nhất là cuộc sống sung sướng của
những địa chủ với những cánh đồng rộng mênh mông. Và chính sự đối lập ấy
càng ngày càng làm cho mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, căng thẳng đất
nước suy yếu, xã hội bất ổn định và khủng hoảng. Những cuộc đấu tranh khởi
nghĩa bùng nổ khắp nơi.
Dưới triều Nguyên năm 1351 Hàn Sơn Đồng và đồ đệ là Lưu phúc Thông
phát động khởi nghĩa, được tin đó nhân dân nổi dậy hưởng ứng, trong đó những
nhóm tương đối lớn là lực lượng của Quách Tử Hưng ở An Huy và Từ Thọ Huy
ở Hồ Bắc. Ngoài ra, còn các cuộc khởi nghĩa của Phương Quốc Trân và Trương
Sĩ Thành ở phía nam Trường Giang.
Dưới thời Minh các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân diễn ra liên
tục như phong trào khởi nghĩa của Bạch Liên Giáo, những cuộc đấu tranh của
binh lính đào ngũ, của tá điền, nô tì v.v… Đến năm 1631, các nhóm khởi nghĩa
riêng lẻ tập hợp lại thành 36 doanh do các thủ lĩnh như Cao Nghênh Tường,
Trương Hiến Trung, Lí Tự Thành cầm đầu. Số người tham gia có hơn 20 vạn.
Quân khởi nghĩa vượt Hoàng - Hà đến hoạt động ở Hà - Nam, Hồ - Bắc, Quảng
-Tây, Tứ - Xuyên, thanh thế ngày một lớn, tuy nhiên về giai đoạn sau do mâu
thuẫn nội bộ nên phong trào bị thất bại.
Tuy các cuộc khởi nghĩa bất thành nhưng đã nói lên sự phản kháng mạnh
mẽ của nhân dân, một trong những căn nguyên dẫn đến sự suy yếu, sụp đổ của
triều Minh.
Như vậy, chúng ta có thể thấy vấn đề ruộng đất không những gắn liền với
cuộc sống nghèo khổ hay giàu sang phú quý của một người dân dưới chế độ
20



phong kiến Trung Quốc mà còn gắn liền với sự hưng thịnh, khủng hoảng, suy
vong của một triều đại. Các thể chế của một xã hội như vậy tất nhiên cũng gắn
liền chặt chẽ vào vấn đề ruộng đất và việc giải quyết vấn đề ruộng đất như một
nền tảng cơ sở cho sự khôi phục toàn bộ xã hội và số phận của các triều đại. Sự
gắn bó của chế độ ruộng đất và chế độ chính trị là một chân lý rất dễ hiểu của
lịch sử Trung Quốc. Chính vì thế các đời vua đầu mỗi triều đại bao giờ cũng đưa
ra những chính sách nhằm giải quyết xã hội.
Khi Tần Thủy Hoàng hoàn thành việc thống nhất Trung Quốc (221 TCN)
để đất nước được hùng mạnh, ông đã đẩy mạnh việc thực hiện cải cách của
Thương Ưởng đó là xóa bỏ chế độ tỉnh điền, thừa nhận ruộng đất tư hữu, cho
phép tự do mua bán ruộng đất, khuyến khích nhân dân khai hoang. Do tiến bộ và
phù hợp với những nội dung cải cách này mà nông nghiệp Tần có bước tiến rõ rệt.
Cùng với mong muốn đất nước phát triển giàu mạnh, xã hội ổn định Hán
Cao Tổ cũng đưa ra những chính sách về ruộng đất. Ông kêu gọi nhân dân trở về
làng xã đăng kí hộ khẩu và cấp ruộng cho họ khuyến khích khai hoang. Đặc biệt
do ý thức được vai trò của địa chủ quan lại trong việc làm chỗ dựa để thống trị
đất nước ông có những chính sách riêng về ruộng đất thể hiện sự ưu đãi của
mình. Chính do đó mà đến thời Hán Vũ Đế, kinh tế đất nước bắt đầu phồn thịnh,
nhà nước tích lũy được nhiều của cải “trong thành lương thực chất đầy kho hàng
năm thóc mới chồng lên thóc cũ, có lúc đến mục nát không thể ăn được” [12, tr
176]. Và cứ thế, từ Hán trải qua thời Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc triều, Tùy,
Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, các vị vua đầu tiên muốn đất nước phát
triển đều bắt đầu từ những chính sách ruộng đất. Tiêu biểu như chế độ công điền
của Vương Mãng, chế độ quân điền của Hiếu Văn Đế (171 - 499), cải cách
Vương An Thạch, những chính sách tiến bộ của Chu Nguyên Chương…
Tuy nhiên, đến các đời vua cuối mỗi triều đại, do nhà nước không quan
tâm đến nông nghiệp, quan lại địa chủ ra sức chiếm ruộng đất của người nông
dân, ruộng đất thuộc bộ phận sở hữu tư nhân ngày càng phát triển mở rộng song
song với ruộng đất ở bộ phận sở hữu nhà nước thu hẹp lại. Người nông dân còn
rất ít hoặc không còn ruộng đất, họ phải đi lĩnh canh cho địa chủ và phải trả một

mức tô 50% đến 80% sản phẩm thu hoạch khiến cuộc sống của họ trở nên nghèo
đói, khổ cực. Cuối cùng là, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt căng thẳng, đất nước
21


×