BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI THUYẾT TRÌNH
ĐỀ TÀI
KỸ THUẬT CROSS-DOCKING
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
1
2
3
4
5
6
7
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 6 NĂM 2017
CHƯƠNG 1
HIỂU BIẾT CHUNG VỀ CROSS – DOCKING
1. Định nghĩa Cross – docking.
Ý tưởng chính của kĩ thuật này là chuyển các lô hàng trực tiếp từ vị trí nhận hàng
đến vị trí chuyển hàng rồi ngay lập tức được xếp lên xe tải để chở đến nơi quy định – bỏ
qua quá trình lưu trữ trung gian. Các lô hàng thông thường chỉ mất khoảng một ngày ở
Cross dock và đôi khi chưa tới 1 giờ. Như vậy, sẽ tiết kiệm chi phí tồn kho và chi phí cho
nhân lực, diện tích, phương tiện khai thác, cũng như vấn đề hư hại và lỗi thời hàng hóa
phần nào được giảm thiểu.
Cross – docking bao gồm 2 hình thức cơ bản sau:
Cross – docking đơn giản. Hàng hóa được chuyển trực tiếp từ xe tải gửi hàng
sang xe tải chở hàng đi.
• Cross – docking chuyển qua ngay: Hàng hóa được vận chuyển đến kho với số
lượng lớn và sẽ được phân loại thành những lô hàng xác định để chuyển đến
từng khách hàng tương ứng. Các Cross dock là các cơ sở trung chuyển chủ
yếu tiếp nhận các xe chở hàng đã được phân loại và gom nhóm với các sản
phẩm khác và xếp chúng sang các xe tải đầu ra (outbound trucks). Các xe này
sẽ rời khỏi Cross dock đến một khu vực sản xuất, một cửa hàng bán lẻ hay
cross dock khác. Quá trình này diễn ra trong một ngày hoặc trong vài giờ đồng
hồ.
Cross – docking phát triển và phục vụ đắc lực cho hệ thống siêu thị mà các nhà bán lẻ.
Hàng hóa được chở đến Cross – docking, tại đây được phân loại, chuẩn bị (ví dụ như treo
lên mắc, xếp vào thùng,…) rồi chuyển thẳng đến cửa hàng.
•
Ví dụ: Laney & Duke là một công ty kho bãi của tập đoàn Hanes (bên thứ 3) chuyên kinh
doanh dịch vụ cross – docking cho tập đoàn Wal-mart. Hàng được đưa tới đây sẽ được
tách ra, sắp xếp lại, ghi kí mã hiệu, treo lên mắc hoặc đóng gói lại, rồi chở đến các cửa
hàng của Wal-mart theo yêu cầu để thay thế cho những hàng đã bán.
Hầu hết các kho đa năng được bố trí trong khoảng giữa các nhà sản xuất và nơi tiêu thụ.
Các công ty sử dụng loại kho này có thể tự tổ chức kho của mình hoặc thuê của các công
ty Logistics.
2. Cross – docking và kho hàng truyền thống.
Trong mô hình truyền thống, các kho duy trì lượng hàng cho đến khi có đơn hàng
của khách, sau đó các sản phẩm được chọn, đóng gói và chuyển đi. Khi các đơn hàng bổ
sung đến kho, chúng được lưu trữ cho đến khi khách hàng được xác định. Trong mô hình
Cross Docking, khách hàng được biết trước về sản phẩm đến kho và sản phẩm này không
có nhu cầu để lưu trữ.
Vậy điều đó có nghĩa rằng trong mô hình Cross Docking, khách hàng (một cửa
hàng bán lẻ chẳng hạn) phải đợi thêm thời gian cho việc vận chuyển hàng hóa đến kho?
Đúng, nhưng việc vận chuyển này phải tuân theo một lịch trình giao hàng chắc chắn và
nghiêm ngặt để bù đắp bất cứ sự không chắc chắn nào liên quan việc đến kéo dài lead
time (trong trường hợp này lead time là thời gian từ lúc khách đặt hàng hoặc từ lúc doanh
nghiệp triển khai đơn hàng cho đến khi giao hàng đến tay khách hàng). Trái lại, nếu Cross
Docking khi được thực hiện đúng sẽ cho phép các công ty loại bỏ chi phí tồn kho và giảm
chi phí vận chuyển đồng thời cùng một lúc.
3. Các loại cross – docking
Napolitano (2000) đã đề xuất phương án phân loại Cross Docking sau đây:
- Cross – Docking trong sản xuất: Thành phẩm sẽ được chuyển thẳng đến vị trí xuất hàng
thay vì được chuyển vào kho lưu trữ. Cũng có thể đặt vào một khu vực nào đó, chờ để
xuất, sau một vài tiếng đồng hồ, hay được áp dụng theo phương pháp là nguyên vật liệu
nhận vào sẽ được chuyển thẳng đến sản xuất thay vì nhập kho.
- Cross – Docking trong phân phối: Thành phẩm được chở trong xe tải đầy hàng, gồm
những kiện hàng lẻ khác nhau. Những kiện hàng lẻ sẽ được phân loại thông qua một hệ
thống phân loại băng tải, rồi chuyển đến cửa xuất hàng. Hàng hóa trong quá trình phân
loại có thể được chờ để chuyển đi như trong phương pháp Cross – Docking trong sản
xuất.
- Cross – Docking gom hàng: Một hoạt động phổ biến trong phương pháp này là dán nhãn
hàng hóa để tiện lợi khi gom hàng (dịch vụ này do nhiều logistics 3PL cung cấp, có tên là
Consolidation Service). Hàng hóa vận chuyển đến có thể kết hợp với một số hàng hóa có
ở trong kho hoặc có thể gom chung với hàng hóa vận chuyển đến từ nơi khác.
4. Yêu cầu khi thực hiện Cross – docking.
Nói chung, một sản phẩm là được xem phù hợp cho Cross Docking nếu nhu cầu
của nó đáp ứng hai tiêu chí: biến động đủ thấp và khối lượng đủ lớn. Nếu nhu cầu là
không chắc chắn Cross Docking rất khó để thực hiện vì khó khăn trong việc cân đối giữa
cung và cầu.
Bên cạnh có biến động thấp, nhu cầu cho sản phẩm phải đủ để đảm bảo các lô hàng được
giao thường xuyên vì nếu nhu cầu là quá thấp, việc giao hàng thường xuyên sẽ dẫn đến
gia tăng chi phí vận tải đầu vào, và các kho hàng sẽ phải lưu trữ tốt hơn.
Dưới đây là danh sách một số loại sản phẩm phù hợp với Cross Docking:
•
Các mặt hàng dễ hư hỏng đòi hỏi việc vận chuyển ngay lập tức.
•
Mặt hàng chất lượng cao mà không cần phải kiểm tra chất lượng trong quá trình
nhận hàng.
•
•
Sản phẩm đã được gắn thẻ (bar coded, RFID), dán nhãn và sẵn sàng để bán cho
khách hàng.
Mặt hàng quảng cáo và các mặt hàng đang được tung ra thị trường.
•
Các loại sản phẩm bán lẻ chủ chủ lực với một nhu cầu ổn định và biến động thấp.
•
Các đơn đặt hàng của khách hàng được chọn và đóng gói trước từ một nhà máy
sản xuất hoặc kho hàng.
5. Mối quan hệ giữa Cross docking và chuỗi cung ứng
Từ góc độ quản lý, Cross Docking là một hoạt động kinh doanh phức tạp, liên quan
đến sự phối hợp rộng rãi giữa các nhà phân phối và nhà cung cấp và khách hàng của
mình. Thực hiện một hoạt động Cross Docking có nghĩa là các đối tác trong kênh sẽ trải
qua việc tăng chi phí, hoặc một vài trở ngại trong suốt quá trình thực hiện. Hợp tác giữa
các thành viên là yêu cầu cần thiết đối với Cross Docking.Về phía cung, các nhà cung cấp
có thể được yêu cầu việc cung cấp các lô hàng nhỏ hơn và thường xuyên hơn, bên cạnh đó
còn phải dán
nhãn giá hoặc mã vạch (nếu cần thiết). Về phía cầu, khách hàng có thể được yêu cầu đặt
hàng vào một số ngày nhất định, hoặc cho phép lead time giao hàng nhiều hơn một vài
ngày. Tất cả các yêu cầu này dẫn đến việc gia tăng thêm một số chi phí và gia tăng sự
phối hợp giữa các đối tác kênh.
Ngoài ra còn có một số yêu cầu khác phát sinh như: Yêu cầu về gia tăng chất lượng
trong việc tiếp nhận (Bởi vì mục đích của Cross Docking là ngay lập tức chuyển sản
phẩm cho xe đầu ra nên không có thời gian để kiểm tra chất lượng). Yêu cầu về giao tiếp
ngày càng tăng giữa các đối tác trong kênh cũng là một trở ngại lớn. Cách phổ biến nhất
để giải quyết các cầu này là thông qua hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử (EDI).
CHƯƠNG 2
ỨNG DỤNG CROSS-DOCKING
TẠI WAL-MART
1. Qúa trình hình thành và phát triển
- Walmart (tên đầy đủ là Wal-Mart Store, Inc) Sáng lập bởi Sam Walton năm 1962 tại
Rogers bang Arkansas, Mỹ
- Hiện nay trụ sở chính của tập đoàn đặt tại Bentonville, Arkansas, Mỹ
Ngành nghề kinh doanh: bán lẻ, vận tải.
- Số lượng nhân viên: 2,2 triệu người
- Thị trường hoạt động: Walmart có hơn 11500 đơn vị bán lẻ trên toàn thế giới và hoạt động
tại 28 quốc gia. Thị trường chính là Mỹ, các thị trường quốc tế là Canada, Mexico, Anh,
Nhật Bản, Braxin, Trung Quốc, Châu Phi,…
- Doanh thu năm 2016 gần 486 tỷ USD, giá trị thị trường đạt 220 tỷ USD.
Walmart luôn tập trung vào chiến lược hàng hóa giá rẻ với Sologan “Save money, Live
better” công ty đã rất thành công với chiến lược này và trở thành biểu tượng của nước Mỹ
trong thế kỷ 20 và cho đến tận bây giờ.
2. Ứng dụng cross-docking trong vận tải:
Với bộ phận logistics lên tới 75.000 người, là 7.800 lái xe quản lý gần 7.000 xe tải
thuộc đội xe tư nhân của Wal-mart, đã tạo nền tảng để công ty phân phối hầu hết những
hàng hóa được bày bán tại các cửa hàng thông qua khoảng 114 trung tâm phân phối trải
rộng toàn nước Mỹ. Hàng hóa được vận chuyển từ kho của các nhà cung cấp bởi đội xe
của Wal-mart đến các trung tâm phân phối. Từ đây, hàng hóa được vận chuyển trực tiếp
đến các cửa hàng mà không cần lưu kho thêm. Những đội xe tải chuyên dụng cho phép
công ty vận chuyển hàng hoá từ những trung tâm phân phối đến cửa hàng chỉ trong hai
ngày và bổ sung cho các kệ hàng trong cửa hàng 2 lần/tuần.
Để quá trình phân phối và vận tải thêm hiệu quả thì Walmart đã ứng dụng kỹ thuật CrossDocking.
Trong hệ thống này, những sản phẩm hoàn thiện được vận chuyển trực tiếp từ nhà máy
sản xuất của nhà cung ứng đến những kho “cross docking” theo những lô hàng lớn, tại
đây lô hàng sẽ được tách ra, chuẩn bị theo những nhu cầu cần thiết của khách hàng, rồi
gửi đi cho
khách. Do đã được chuẩn bị đầy đủ, nên khi chở đến nơi hàng sẽ được đưa vào sử dụng
ngay mà không cần qua kho nữa.
Ngoài ra Wal-Mart cũng trang bị cho các tài xế vận chuyển hàng những thiết bị liên lạc vô
tuyến để họ thường xuyên báo cáo tính hình chuyến hàng cho trung tâm phân phối và các
cửa hàng. Khi giao hàng xong những tài xế này sẽ được giao nhiệm vụ là đến các nhà máy
ở gần đó để nhận hàng mang về trung tâm phân phối. Như vậy đã tránh được chuyến xe
về không và tiết kiệm được chi phí vận chuyển lẽ ra phải trả cho nhà cung ứng.
Nhờ có những cách quản lý đúng đắn mà hàng hóa của Wal-Mart luôn được
lấp đầy trong vòng 2 ngày và chi phí vận tải của Wal-Mart đã tiết giảm còn 3% trong
khi đó các đối thủ là 5%.
3. Ứng dụng trong hoạt động kho bãi
Hệ thống kho bãi của Wal-mart chính thức là các trung tâm phân phối trên khắp nước Mỹ.
+ Sau khi hàng hoá được nhập đến từ các nhà cung cấp, chúng có thể sẽ được chuyển đến
trung tâm phân phối, thực hiện phân loại, ghi nhãn, đóng bao,… Sau đó, thông qua hệ
thông xe tải những hàng hóa nay sẽ được chuyển đến các của hàng và siêu thị trong khu
vực.
+ Wal-mart có khoảng 114 trung tâm phân phối trên khắp nước Mỹ (2011), mỗi trung tâm
có kích thước lớn hơn 1 triệu mét vuông Anh. Các trung tâm này hoạt động 24/7 để hỗ trợ
liên tục cho các phương tiện vận tải.
+ Bên trong mỗi trung tâm, có các băng chuyền dài hơn 5 dặm, phục vụ hơn 9000 sản
phẩm khác nhau.
+ Các trung tâm được phân bổ khoa học, mỗi trung tâm hỗ trợ hoạt động cho 90 đến 100
cửa hàng trong vòng bán kính 200 dặm.
4. Công nghệ sử dụng trong cross-docking
Để áp dụng thành công kỹ thuật Cross-Docking, yếu tố quan trọng nhất phải đảm bảo
đó là thời gian, vấn đề trao đổi thông tin và sự chính xác của thông tin và quy trình khai
thác. Để đảm bảo được những điều này, Wal-mart đã xây dựng một hệ thống thông tin
hiện đại bậc nhất bao gồm các công nghệ sau:
- Công nghệ chuyển giao điện tử EDI (Electronic Data Interchange): công nghệ đảm bảo
được việc trao đổi thông tin giữa các đối tác (nhà sản xuất, nhà cung cấp, nhà phân phối,
cửa hảng).
Công nghệ trao đổi điện tử EDI giúp Wal-Mart thiết lập được hệ thống trao đổi thông
tin điện tử với hàng ngàn nhà cung cấp của mình. Hệ thống Retai link nền tảng là một
trình duyệt web, hoạt động trên mạng Internet, tích hợp với công nghệ EDI giúp các nhà
cung cấp trên toàn thế giới đều có thể truy cập dế dàng, trong khi chi phí duy trì hoạt động
của hệ thống lại thấp. Hệ thống này bao gồm 4 liên kết chính là: Cửa hàng Wal-Mart, trụ
sở công ty Wal-Mart, Trung tâm phân phối Wal-Mart và Nhà cung ứng
- Công nghệ RFID ( Radio Frequenly I Dentification)
RFID là một kỹ thuật nhận dạng sóng vô tuyến từ xa, cho phép đọc dữ liệu trên con
chíp điện tử nhờ sóng vô tuyến mà không cần tiếp xúc trực tiếp với nó ở khoảng cách từ
50 cm tới 10 mét. Bộ nhớ của con chíp có thể chứa tới 96 đến 512 bit giữ liệu, nhiều gấp
64 lần so với một mã vạch. Bên cạnh đó, thông tin lưu trữ trên con chip có thể được sửa
đổi nhờ vào một máy đọc. Dung lượng lưu trữ cao của những thẻ thông minh này cho
phép chúng cung cấp các thông tin đa dạng như: thời gian lưu trữ, ngày bán, giá, và thậm
chí cả nhiệt độ sản phẩm. Vì thế, các thẻ RFID có thể cung cấp chính xác sản phẩm là gì,
nó nằm ở đâu, khi nào hết hạn, hay bất cứ thông tin nào mà người dùng muốn lập trình
LỢI ÍCH CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ RFID:
Wal-Mart đã công bố yêu cầu các nhà cung cấp lắp đặt các thẻ RFID trên các chuyến
hàng để cải thiện việc quản trị chuỗi cung ứng. Công nghệ RFID cho phép Wal-mart kiểm
soát được hàng hóa khi chúng được chuyển từ trung tâm phân phối vào các xe tải để vận
chuyển đến các cửa hàng. Điều này sẽ làm tăng tính hiệu quả cho việc lưu kho hàng hóa,
đồng thời giảm thua lỗ do hết hàng, cũng như hạn chế các chi phí vì lưu kho quá nhiều.
Các máy đọc thẻ RFID được đặt ở một vài nơi trong nhà kho như: ở cửa nơi hàng hóa
được nhập kho, ở cửa nơi hàng hóa xuất kho. Với những vị trí này, các nhà quản lý kho sẽ
biết được các loại hàng nào và bao nhiêu hàng đang được lưu kho, cũng như loại hàng
nào, số lượng bao nhiêu đang được bày bán. Với Wal-mart, mục tiêu chủ yếu khi sử dụng
RFID là giảm thiểu sự thiếu hàng trong kho và bằng cách đó, nâng cao doanh thu. Ngoài
ra, RFID cũng giúp Wal-mart hạn chế những nhầm lẫn khi đơn hàng có nhiều chủng loại
sản phẩm, sự hỗn loạn trong kiểm kê ở các cửa hàng, và nâng cao khả năng hoạch định
sản lượng cho các nhà sản xuất. Hơn thế nữa, việc sử dụng RFID làm tăng khả năng kiểm
soát nguồn gốc, những thay đổi nhiệt độ và hạn sử dụng của sản phẩm. Việc tự động hóa
RFID đã giúp Wal-mart đẩy mạnh qua trình chu chuyển sản phẩm tới mọi trung tâm phân
phối: Mất 20 để điều khiển máy bằng tay đếm dữ liệu mã vạch trong một cách truyền
thống, trong khi chỉ với 5 giây với công nghệ RFID. Hơn thế nữa so với các đối thủ cạnh
tranh thì Wal- Mart đã tiết kiệm được 5-10% chi phí cho hàng hóa
- Giải pháp CPFR
Giải pháp CPFR là một kế hoạch, trong đó các nhà cung cấp và Wal-mart cộng tác
với nhau để dự báo nhu cầu khách hàng, nhằm tối ưu hóa hoạt độngcung ứng . CPFR
mang đến những lợi ích :
+ Cải thiện hoạt động dự báo cho tất cả các đối tác trong chuỗi cung ứng và thực hiện việc
chia sẻ các thông tin dự báo.
+ Sau đó Wal-Mart và các nhà cung ứng điều chỉnh các hoạt động logistic có liên quan.
KẾT LUẬN
Cross-docking đòi hỏi một sự phối hợp đồng bộ và chặc chẽ giữa nhà cung ứng,
kho chứa và các hệ thống cửa hàng bán lẻ Wal-mart. Hàng hóa chỉ có thể phân phối
nhanh chóng khi thông tin chính xác. Việc áp dụng thành công hệ thống cross docking đã
giúp cho quá trình phân phối và vận tải của Wal-mart thêm hiệu quả, giúp giảm chi phí
tồn kho và giảm số lượng lao động cunngx như chi phí làm hàng đó là một trong những lý
do dẫn đến sự thành công của Wal-mart như ngày nay.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG CROSS-DOCKING
TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng
Đối với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới, Cross – docking đã được triển
khai và phổ biến cho khá nhiều hoạt động khác nhau như sản xuất (gom linh kiện phụ
tùng từ những nhà cung cấp khác nhau như Toyota, Dell,…), phân phối (gom hàng từ các
nhà cung cấp để chuyển đến các cửa hàng bán lẻ như Wal-mart hay Meijer,…) hay vận tải
(gom nhiều lô hàng thành những xe tải đầy để tận dụng lợi thế theo quy mô, được các nhà
bán lẻ và các hãng vận chuyển bưu phẩm sử dụng).
Tại Việt Nam, do các đặc tính ngành kinh doanh và tính chất của các doanh nghiệp
chưa mở rộng mạng lưới toàn cầu nên hầu hết các doanh nghiệp không tự xây dựng trung
tâm phân phối chức năng Cross – docking mà chủ yếu cross – docking tại Việt Nam được
thực hiện bởi các 3PL nước ngoài khi gom hàng từ nhiều nhà máy tại Việt Nam và xuất
hàng đi cho khách hàng nước ngoài. Vì hiện nay các công ty Logistics Việt Nam mới chỉ
hoạt động trong phạm vi nội địa hay một vài nước trong khu vực, chủ yếu làm đại lý hoặc
đảm nhận từng công đoạn cho các doanh nghiệp logistics quốc tế; trong khi đó, có trên 25
công ty logistics đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam (chiếm tới 70 – 80% thị phần
cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam) nên hầu hết các 3PL khi gom hàng ở Cross –
docking được chọn chủ yếu từ các công ty nổi tiếng như APL Logistics, Maersk Logistics,
OOCL Logistics.
Các công ty logistics đều có cung cấp các dịch vụ kho bãi và vận chuyển hàng hóa
cho chủ hàng tuy nhiên dịch vụ kho bãi được cung cấp hiện nay vẫn theo mô hình truyền
thống tức là kho chủ yếu là dùng để lưu trữ hàng hóa. Kho theo mô hình cross docking
vẫn chưa được sử dụng một cách phổ biến và hiệu quả tại Việt Nam.
2. Đề xuất giải pháp
- Áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả kỹ thuật cross-docking.
- Đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ trong vận hành kỹ thuật này.
- Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu của đối tác.
- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các công ty nước ngoài đang chiếm lĩnh thị
trường thì việc liên kết lại để hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp trong nước là rất cần
thiết