Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Thuyết minh HOI AN VA LANG RAU TRA QUE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.89 KB, 53 trang )

KHÁI QUÁT VỀ HỘI AN:
Hội An được biết đến là một di sản văn hoá thế giới, thuộc khu vực cửa sông – ven biển tỉnh
Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam và thủ đô Hà Nội khoảng 835 km
về phía Bắc. Với tọa độ địa lý 15053’ vĩ Bắc, 108020’ kinh Đông, có phía Đông giáp biển Đông, phía
Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Tây và phía Bắc giáp huyện Điện Bàn. Các huyện này đều thuộc
tỉnh Quảng Nam. Tổng diện tích tự nhiên của thành phố Hội An là 6146,88 ha.
Phía Đông Hội An là biển Đông có Cửa Đại, cách Hội An khoảng 7 km về phía biển là Cù Lao
Chàm, địa điểm được xem là “người lính gác” che chắn cho cửa biển Hội An. Cù Lao Chàm còn là
điểm dừng chân để trao đổi hàng hoá, là điểm hoa tiêu cho các thương thuyền trên con đường hàng
hải buôn bán với Hội An. Nhờ vào vị trí này mà Hội An có điều kiện thông thương với các vùng của
xứ Quảng.
Hội An có một quá trình lịch sử văn hoá từng được biết đến trên trường quốc tế với nhiều tên
gọi khác nhau như Lâm Ấp, Faifo, Hoài Phố, Hội An,… Từ 2000 năm trước trên mảnh đất này đã tồn
tại một nền Văn hoá Sa Huỳnh muộn.
Từ trước thế kỷ thư II, các nhà khảo cổ học đã khai quật các di chỉ mộ táng ở An Bang, Hậu Xá
I, Hậu Xá II, Xuân Lâm và các di chỉ nơi cư trú ở Hậu Xá I, Tràng Sỏi, Thanh Chiếm,… tìm thấy
nhiều loại mộ chum, các công cụ sản xuất, dồ trang sức,… qua đó chứng minh cách đây khoảng 2000
năm, con người đã sinh sống ở đây. Đặc biệt, với việc phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời
Hán (Ngũ Thù và Vương Mảng), những hiện vật sắt kiểu Tây Hán, dáng dấp Ốc Eo, Đông Sơn, cùng
các đồ trang sức mã não, thuỷ tinh có nguồn gốc từ Nam Ấn Độ, Sirilanca, Trung Đông đã chứng tỏ
rằng ngay từ đầu công nguyên nơi đây đã bắt đầu có mối quan hệ giao lưu văn hoá trong nước cũng
như các hoạt động buôn bán với nước ngoài, lập nên một cảng thị sơ khai, là nền móng cho các cảng
thị sau này.
Từ thế kỷ II đến thế kỷ XV, Hội An thuộc đất Champa với tên gọi Lâm Ấp phố, là cảng thị phát
triển thu hút nhiều thương gia Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc đến buôn bán, trao đổi vật phẩm.
Những cái tên Chiêm Bất Lao ( Cù Lao Chàm), Đại Chiêm Hải Khẩu (Cửa Đại), cùng với những
tượng đá, giếng gạch,… đặc biệt là các di tích khảo cổ học với các hiện vật gốm sứ Champa, Ả Rập,
Trung Quốc,… đã xác nhận Cửa Đại xưa kia là hải cảng chính của nước Champa.
Tiếp nối thời Champa, từ thế kỷ XV, Hội An đã có cư dân Đại Việt tới sinh sống. Trong buổi
đầu, cùng với việc khai hoang, lập làng, người Việt còn sáng tạo ra một số ngành nghề phù hợp với
điều kiện tự nhiên và xã hội nơi đây. Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, có thêm nhiều người Nhật


và sau đó là người Hoa đến định cư, giúp thương nghiệp Hội An phát triển. Kết hợp với vị trí địa lý
phù hợp, Hội An nhanh chóng trở thành một thương cảng phồn thịnh trong nhiều thế kỷ.
Do những biến động của lịch sử, trong khoảng thời gian vài thế kỷ, nhịp độ phát triển của cảng
thị Hội An có phần chững lại và bị lãng quên sau những cuộc giao tranh. Song, nhờ có địa thế thuận
lợi, cộng với nhiều yếu tố nội, ngoại sinh khác, từ thế kỷ XVI – XIX đô thị thương cảng Hội An đã

1


hồi sinh và phát triển thịnh vượng, trở thành một thương cảng quốc tế sầm uất của cả nước và khu
vực Đông Nam Á thời đó.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, do đoạn sông Thu Bồn nối với biển bị bồi cạn dần, tàu bè ra vào khó
khăn, thương cảng quốc tế này suy thoái dần và mất hẳn. Hội An mất vai trò thương cảng để nhường
lại cho Đà Nẵng, cảng mới được người Pháp mở.
Lịch sử Việt Nam một trăm năm trở lại đây đã có hai cuộc chiến tranh khốc liệt, nhưng Hội An
là một đô thị may mắn tránh được sự huỷ diệt của chiến tranh. Người dân nơi đây đã có ý thức giữ
gìn những vốn quý của cha ông để lại từ bao đời nay để giữ lấy một từ “Cổ”. Đến nay, phố cổ Hội An
vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc cổ và một nền văn hoá phi vật thể đồ
sộ với những phong tục, tập quan, tín ngưỡng, lễ hội,… đang được bảo tồn và phát huy. Sự tồn tại
một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế gới. Đây được
xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị. Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần
thứ 23 cuối năm 1999, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã
công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí:
+ Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong
một thương cảng quốc tế.
+ Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách
hoàn hảo.
Hội An còn là mảnh đất có các làng nghề thủ công truyền thống được hình thành từ khá sớm
và sản phẩm của nghệ nhân các làng nghề Hội An đã góp phần không nhỏ cho sự phồn thịnh của cảng
thị Hội An trong những thế kỷ trước, như làng mộc Kim Bồng, làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà

Quế,…
Ngày nay, cư dân Hội An đang ra sức xây dựng quê hương trong thời kỳ mới để đóng góp
nhiều hơn nữa cho sự nghiệp của thành phố Hội An nói riêng, xứ Quảng và đất nước Việt Nam nói
chung.

Nhà gỗ Hội An là một chỉnh thể kiến trúc hợp lý về tổ chức không gian và công
năng sử dụng:
Thông thường, những ngôi nhà phố trong những đô thị được chuyển hóa, biến thể từ nhà ở dân
gian nông thôn, nhưng khi mặt bằng không gian bị hạn chế (đối với Hội An lại càng chật hẹp), nhà
phố đã tiến một bước cao hơn so với nhà trường truyền thống ở nông thôn về giải pháp bộ khung nhà
để tổ chức không gian theo chiều cao và chiều sâu. “ Cũng do hạn chế của không gian do công năng
kiến trúc đòi hỏi, nhà phố đã có nhiều chức năng hơn (ăn, ở, sinh hoạt, giao dịch, chứa hàng, …), vì
vậy xuất hiện những giải pháp phân chia không gian chặt chẽ và hợp lý” [79, 353]
Những ngôi nhà gỗ trong khu phố cổ Hội An được mở ra cả hai phía trước và sau trong một
không gian hình ống. THường thì những ngôi nhà đó có mặt tiền chỉ rộng chừng 5-7m nhưng kéo dài
về chiều sâu đến 40-50m, thậm chí đến hơn 70m, nghĩa là chiều rộng có thể chỉ bằng 10% chiều dài.

2


Vì sâu như vậy nên mỗi ngôi nhà hình ống thường có từ hai đến ba nếp nhà cahcs nhau bằng những
khoảng sân rộng hẹp tùy theo diện tích cho phép.
Ngôi nhà gỗ điển hình của phố Hội An bao giờ cũng có bố cục mặt bằng như sau: Nếp nhà
trước tiếp xác với mặt phố được bài trí như một cửa hàng, là nơi để buôn bán, giao dịch thường được
tạo nên bởi một nếp nhà kép (2 bộ vì kèo nhưng chỉ được che bởi một hệ mái). Ngoài công năng chủ
yếu là nơi giao dịch – kinh doanh, nếp nhà
này còn được dùng làm nơi tiếp khách, thờ tự tổ tiên, là chỗ ngủ của người đàn ông chủ hộ, của khách
và là nơi cất giữu của cải của một gia đình.
Tiếp theo là khoảng sân trời – khoảng không gian thiên nhiên có nhiều tác dụng: Cung cấp ánh
sáng, điều hòa nhiệt độ, tạo sự thông thoáng, thoát nước tự nhiên, đồng thời là không gian để các

thành viên trong gia đình có thể hóng mát, tiêu khiển. Trong khoảng sân trời, các chủ nhà thường làm
một giếng nước để cung cấp nước sinh hoạt cho cả gia đình hoặc xây bể cá có hòn non bộ để tạo một
tiểu cảnh thiên nhiên nhân tạo.
Đối diện với giếng nước hoặc bể cá là một nếp nhà cầu – nếp nhà hẹp, vuông gcos về mái và
nối liền kết cấu kiến trúc giữa nếp nhà trước và nếp nhà sau. Nhà cầu không chỉ là nhịp cầu trung
chuyển giữa hai nếp nàh trước – sau mà còn là chỗ ngủ, chỗ chứa hàng , chỗ sinh hoạt văn hóa,…tùy
theo ý thích của từng gia chủ.
Nếp nhà sau luôn luôn là “không gian đối nội” của mỗi gia đình. Nơi đây, thường được bố trí
làm chỗ ăn, chỗ ngủ, chỗ sinh hoạt nội bộ, chỗ tích chứa hàng hóa…Sau đoa là một khoảng sân sau,
nơi dành để xây dựng các công trình phụ như bếp, giếng nước (nếu không bố trí ở khoảng sân trời),
khu vệ sinh…và được thông ra mặt sau bằng một cửa phụ. Có trường hợp nếu diện tích cho phép, thì
kết thúc không gian mặt bằng của một ngôi nhà hình ống là một nếp nhà nữa, nhỏ hơn nhưng đảm
trách nhiệm vụ giải quyết “đầu vào” (mua hàng) cho một gia đình thương nhân và thường tiếp giáp
với bờ sông.
Từ đầu thế kỷ XIX, những ngôi nhà hình ống này thường có mặt trước mở ra đường phố, mặt
sau thông với bờ sông. Đến giữa thế kỷ XIX trở đi, khi bờ sông được bồi đắp, các đường phố mới
hình thành thì những ngôi nhà trong giai ddaonj này thường thông với cả hai đường phố. Có thể chỉ
ra khá nhiều ví dụ những ngôi nhà có mặt trước ở dãy Nam đường Trần Phú, mặt sau ở dãy Bắc
đường Nguyễn Thái Học hoặc những ngôi nàh khác có mặt tiền ở dãy Nam đường Nguyễn Thái Học
và mặt hậu nằm ở dãy Bắc đường Bạch Đằng.
Sau này, do nhiều nguyên nhân, có thể do ssos thành viên trong gia đình quá đông đúc buộc
phải bố trí ở riêng, có thể do chủ nhà bán đi một phần hoặc do Nhà
Nước sở hữu và phân cho các hộ gia đình công nhân viên chức thuê ở,…nên phần lớn
những ngôi nhà hình ống đã bị ngăn đôi thành hai ngôi nhà độc lập, vì vậy tổ chức không gian truyền
thông trong ngôi nhà đã ít nhiều thay đổi.
Nhìn chung những ngôi nhà ở đây đều được lợp bằng ngói âm dương hoặc ngói ống. Đây là
loại ngói ấm về mùa đông và mát về mùa hè.
3



Nhà cổ Hội An luôn có 2 tầng hoặc ít nhất là có một tầng và một gác lững, ở trên luôn có lỗ
thoát nước-thường đặt ở hiên trên, lý do là vì nơi đây xưa kia thường xuyên bị lũ lụt.
Ở bất cứ ngôi nhà nào cũng đều có mắt cửa, ban đầu là chốt cửa về sau người ta khắc họa với
đủ hình ảnh khác nhau: hình bát bửu, bông cúc, lục giác, thậm chí cả hình bát quái,... dần dần dần
người ta đã gắn cho nó ý nghĩa về mặt tâm linh, và trở thành vị thần cai quản ngôi nhà và những
người trong gia đình.
Nhà cổ Hội An mặc dù là nhà phố những vẫn không thoát khỏi khuôn khổ của nhà truyền
thống Việt Nam (ba gian hai chái hoặc năm gian hai chái, vì kèo chồng rường giả thủ,...), do đó nhà ở
đây dù bề ngang hẹp đến đâu người ta cũng đều cố gắng làm cho nó có 3 gian và đa số là sử dụng vì
kèo chồng rường giả thủ..

Bảo tàng gốm sứ mậu dịch Hội An:
Địa chỉ: Số 80 Trần Phú, Hội An, được xây dựng từ năm 1995, bảo tàng trưng bày trên 430
hiện vật gốm sứ có niên đại từ thắ kỷ VIII-IX đến thế kỷ XVII-XVIII, hầu hết là đồ gốm sứ mậu dịch
có nguồn gốc từ Trung Cận Ðông , Ấn Ðộ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam... Chứng
minh chứng cho vai trò quan trọng của thương cảng Hội An trong mạng lưới mậu dịch gốm sứ trên
biển ở khu vực và quốc tế vào các thế kỷ trước đây cũng như quan hệ giao lưu, tiếp xúc văn hóa, kinh
tế từng diễn ra mạnh mẽ ở Hội An.
Cuộc khai quật ở con tàu đắm Cù Lao Chàm (Hội An) đã trục vớt được 340 nghìn cổ vật,
trong đó có 250 nghìn còn nguyên vẹn với trên 40 loại hình khác nhau, chủ yếu là gốm sứ Chu Đậu.
Gốm Chu Đậu rất phong phú về loại hình: bát chân cao, bát chân thấp, đĩa lớn nhỏ các loại, chén,
bình, nậm, lọ, hũ, tước, bình vôi, nghiên mực, bình tỳ bà, tượng người và một số loài động vật…
Gốm Chu Đậu có nhiều loại men như men trắng hoa lam, men nâu, men tam thái (3 màu), ngũ thái (5
màu)… Đề tài trang trí trên gốm từ phong cảnh đến người; các loại động vật như chim, cá, vịt, dê,
long, lân, quy, phụng, long mã; các hoa văn hình học, mây nước, cánh sen… Hai trong số hàng chục
loại gốm Chu Đậu gây ấn tượng, trở thành sản phẩm nổi tiếng, được ưa chuộng nhất với người sành
đồ cổ là bình gốm hoa lam (còn gọi là bình củ tỏi) và bình tỳ bà.
Có một thời, gốm Chu Đậu trở thành một thứ hàng hiệu cao cấp được các thương gia và người
tiêu dùng trên thế giới đều muốn được sở hữu. Thông qua con đường buôn bán, sản phẩm của làng
gốm Chu Đậu có mặt khắp nơi trên thế giới, từ Ai Cập, Trung Cận Đông đến Đông Nam Á và rất

nhiều ở Nhật Bản. Đến nay đã có 46 bảo tàng của các nước trên thế giới trưng bày hiện vật gốm Chu
Đậu. Riêng tại Nhật Bản có 20 bảo tàng sưu tập đồ gốm Việt Nam, những món đồ quý nhất phần lớn
thuộc về Bảo tàng Mỹ thuật Fukuoka và Bảo tàng Gốm sứ Kyushu. Tại các bảo tàng này có các cổ
vật thuộc các dòng gốm Việt Nam thời Bắc thuộc, tiêu biểu là gốm xanh trắng và gốm màu Chu Đậu.
Phần lớn những hiện vật ở đây đều tuyệt hảo và toàn bích, do các bảo tàng này mua được trong
những cuộc bán đấu giá cổ vật ở Nhật Bản, châu Âu và châu Mỹ, hoặc do các nhà sưu tập hảo tâm
hiến tặng. Cần lưu ý rằng vào thời điểm này, con tàu đắm Cù Lao Chàm chưa được khai quật, đồ

4


gốm Chu Đậu chưa được biết đến nhiều như sau này. Vì thế, điều mà các bảo tàng ở Nhật Bản có
được món đồ Chu Đậu toàn bích từ dáng kiểu đến men màu thể hiện tầm nhìn đáng khâm phục của
các nhà sưu tầm đồ cổ và các nhà bảo tàng học ở xứ Phù Tang.

Chùa cầu:
+ Kính thưa quý khách, trước mắt quý khách là Chùa Cầu - cây cầu đã được xây dựng cách
đây khoảng chừng 400 năm nhưng cho đến nay vẫn còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn. Cầu này
được gọi là Chùa Cầu bởi vì ngay trên cầu có một ngôi chùa do người Hoa xây dựng sau khi cầu hoàn
thành 50 năm. Cây cầu này ra đời vào năm nào, cho đến nay niên đại xây dựng cầu còn chưa được
xác định rõ ràng. Tuy nhiên trong thư tịch cổ của nước ta, tên gọi của nó là Nhật Bản kiều được tìm
thấy vào năm 1617, có nghĩa cầu có thể ra đời trước niên đại đó và kể từ đó đến nay, cầu cũng trải
qua nhiều lần trùng tu. Kính thưa quý khách, chiếc cầu trông nhỏ bé là vậy nhưng lại mang trên mình
nó nhiều chức năng khác nhau. Đầu tiên là làm cho giao thông thuận tiện. Các thương nhân người
Nhật Bản đã xây dựng cây cầu này nhằm nối liền phố Nhật ở phía Đông và phố Khách ở phía Tây
của cảng thị Hội An. Trước năm 1640 ở phía bắc cầu là nơi ghành cho người Hoa ở còn người Nhật ở
phía Nam cầu. Nhưng sau năm 1640 Sau khi Nhật Hoàng buộc người Nhật Bản phải trở về nước thì
lúc ấy toàn bộ hai bên cầu người Trung Quốc đều ở hết. Ngoài ra, theo như một văn bia đặt ở đầu cầu,
dựng vào thế kỷ 17 nên người ta còn biết được cầu còn là nơi dừng chân nghỉ ngơi ngắm cảnh của
khách bộ hành. Và thật ý nghĩa là mãi cho đến ngày nay, cầu vẫn giữ được chức năng như thế. Kính

thưa quý khách, điều đặc biệt hơn nữa là đây không chỉ đơn thuần là một cây cầu hay một ngôi chùa
mà nó còn là nơi bày bán hàng trong những ngày hội chợ và là nơi hội họp của xóm làng ngày trước,
với ước mơ về một cuộc sống giao hòa tương thân tương ái của cộng đồng.
+ Cầu Nhật Bản không chỉ là một công trình giao thông mà còn là một kiến trúc tín ngưỡng
của người Nhật Bản nữa. Điều này thể hiện qua một truyền thuyết chung của ba cộng đồng người
Việt, người Nhật, người Hoa khi họ cùng sinh sống tại cảng thị Hội An xưa. Truyền thuyết kể rằng,
xưa kia ở ngoài đại dương có một loài thuỷ quái mà người Việt gọi là Con Cù, người Nhật gọi là
Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long. Đầu của nó ở Nhật Bản, đuôi của nó ở Ấn Độ và lưng của nó
vắt qua khe ở Hội An. Mỗi khi con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An
không được yên ổn để người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm ăn buôn bán.Vì vậy, để
yểm con thuỷ quái đó, người Nhật đã thờ hai tượng thần Khỉ và thần Chó, đặt ở hai đầu cầu mà lát
nữa khi lên cầu tôi sẽ chỉ cho quý khách thấy cũng như giải thích tại sao lại thờ hai tượng khỉ và chó
mà không phải là con vật khác.
+ Kính thưa quý khách, có thể nói Chùa Cầu là một công trình kiến trúc đặc biệt của Hội An
nói riêng và Việt Nam nói chung. Cầu rộng 3 thước, dài 18 thước. Hai gian đầu hợp với 7 gian giữa
tạo chữ "Công". Cầu được làm theo kiểu "Thượng gia hạ kiều", có nghĩa là trên là nhà, dưới là cầu.
Ở Việt Nam, loại hình kiến trúc này còn thấy ở nhiều nơi tại phía Bắc như ở các tỉnh Hà Tây, Hải
Hưng, Hà Nam với các cầu có mái như cầu Khúc Thoại, Phú Khê.... và tại miền Trung như ở tỉnh
Thừa Thiên Huế với cầu Thanh Toàn. Nếu có dịp xin mời quý khách đến để chiêm ngưỡng. .
5


+ Xin mời quý khách nhìn lên mái cây cầu này ạ!
+ Mái cầu lợp ngói âm dương, bờ nóc đắp nổi hình "Lưỡng long tranh châu" cách điệu. Hai
bên tường của cổng ra vào ở phía tây và phía đông cầu Nhật Bản ban đầu có hai câu đối chữ Hán đắp
nổi, nhưng qua năm tháng bị mờ dần để sau cùng bị mất hẳn và người Minh Hương đã thay vào đó
bằng hoa văn đắp nổi hình quả phật thủ rất sinh động. Dọc hai bên lối đi có bệ gỗ nhỏ và dài, ngày
xưa làm nơi bày bán hàng trong những ngày hội chợ.
Bây giờ xin mời quý khách lên cầu ạ! Kính thưa quý khách, chúng ta đang đứng giữa cầu.
Nhìn về hai bên đầu cầu , quý khách có thể thấy đều có các tượng thú bằng gỗ đang đứng chầu. Đó

chính là tượng khỉ và chó mà tôi đã nhắc đến đấy ạ!
+ Đầu cầu bên này thờ đôi khỉ và cuối cầu thờ đôi chó. Tư thế đứng chầu của chúng không chỉ
cho thấy đây là những công trình tạo hình giàu tính nghệ thuật mà còn thấy được bàn tay tài hoa và
khối óc sáng tạo của các nghệ nhân Việt Nam làng mộc Kim Bồng từ những thế kỷ trước. Kính thưa
quý khách, xung quanh việc thờ hai con vật này, cũng có nhiều giả thuyết được đưa ra. Có người cho
rằng chó Linh và Khỉ Gia Nhân vốn được coi như là các vị thần do Thái Dương Thần Nữ – vị nữ thần
hộ mệnh của người Nhật phái xuống làm thần hộ mệnh cho người qua cầu. Ngoài ra, khỉ và chó,
trong tâm thức dân gian của người Hội An thì chúng là những con vật thần giúp trừ tà và đem lại bình
an cho mọi người. Với niềm tin đó mà mới ra đời những câu ca dao dân gian cổ mang đạm chất thi ca
như:
Hội An có bốn nàng tiên,
Hai nàng tuổi Tuất hai nàng tuổi Thân...
- Còn đối với người Nhật, sỡ dĩ người Nhật thờ Thần khỉ và thần chó ở hai đầu cầu vì trong tín
ngưỡng của đất nước này chúng là những con vật tổ linh thiêng và người Nhật tin rằng chúng có đủ
quyền lực để yểm trừ loài thuỷ quái. Ngoài ra, có thể có một sự trùng hợp nào chăng trong thời gian
xây dựng cầu mà một số người đã cho rằng việc người Nhật dựng tượng đôi chó và đôi khỉ trên cầu
là để ghi nhớ năm khởi công và năm hoàn thành của cầu vào năm Thân và năm Tuất. Hiện nay ở đây
vẫn còn lưu giữ bốn tấm bia lớn và trên mỗi tấm bia có ghi lại những lần tu sửa cầu
+ Chùa Cầu là sự kết hợp phong cách kiến trúc của ba nước Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc.
Nếu nhìn từ bên ngoài, quý khách có thể thấy cầu mang dáng dấp phong cách kiến trúc Nhật Bản thể
hiện nổi bật ở hệ thống mái uốn cong mềm mại với độ dốc nhỏ gần như nằm ngang thì đứng tại đây,
quý khách cũng có thể nhận ra sắc thái kiến trúc của đất nước mặt trời mọc này thông qua những tấm
ván được lát hình vòng cung ở mặt cầu. Vậy thì sắc thái kiến trúc Việt nó nằm ở đâu trên cây cầu
này? Xin mời quý khách hướng mắt nhìn lên trên ạ! Vâng, kính thưa quý khách, bộ vì kèo của cầu
chính là nơi chứa đựng những nét độc đáo của kiến trúc thuần Việt được thiết kế theo kiểu vì chồng
dấu con sơn với sự biến thể thành vì cỏ cua trông rất ngoạn mục ở hai gian đầu cầu. Rường nhà được
thiết kế theo loại vì “chồng rường giả thủ”vì trông các rường chồng lên nhau và úp xuống như hình
bàn tay nên được gọi là như vậy.

6



+ Cầu và chùa tuy là hai cá thể riêng biệt nhưng đã được gắn vào nhau thành một phức hợp
thống nhất hình chữ "Đinh" và cũng từ đó ra đời cái tên gọi mới "Chùa Cầu" thân thiết đối với cư dân
cảng thị Hội An. Vào đầu thế kỷ 17, Mạc Phủ đã ra chiếu chỉ buộc những công dân Nhật Bản đang ở
nước ngoài phải hồi hương. Trước tình hình đó, cộng đồng người Việt và người Minh Hương - người
Hoa tự nguyện gia nhập quốc tịch Việt Nam - ở Hội An đã tiếp quản cầu Nhật Bản. Và sau đó chừng
nửa thế kỷ, vào khoảng năm 1653, người Minh Hương đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi chùa
nhỏ bên cạnh cầu và người Việt Nam đã thiết kế và thi công công trình tín ngưỡng này. Cho nên có
thể nói, cho đến thời điểm bấy giờ, ngoài kiến trúc của Nhật Bản và Việt Nam, cầu đã có thêm sắc
thái kiến trúc của Trung Quốc. Một cây cầu mang 3 nền văn hoá.
+ Chùa và Cầu được phân ranh giới bởi những vách gỗ và bộ cửa "thượng song hạ bản", tạo
nên hai không gian kiến trúc riêng biệt: bên ngoài, cầu là đường giao thông công cộng, bên trong,
chùa là nơi thờ tự thâm nghiêm, chỉ mở cửa vào những ngày tế lễ nhất định.
Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu nhân chuyến tuần du tại thương cảng Hội An biết rằng cầu
do những người Nhật Bản xây dựng nên đã đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là
"cầu của những người phương xa xây dựng”. Và đó là lý do có bức hoành phi sơn son thếp vàng
chạm nổi ba chữ vàng lộng lẫy "Lai Viễn Kiều" với dấu ấn của Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu phía
bên trái được treo phía trên cửa chùa như quý khách thấy đây ạ! Dưới bức hoành phi là đôi "mắt cửa"
tròn sơn đỏ được tạo hình bốn bông cúc bao quanh bởi các xoáy lưỡng nghi truyền thống Việt Nam.
Không có gì chủ quan khi khẳng định rằng mắt cửa là hình tượng đặc thù và duy nhất của phố cổ Hội
An. Mắt cửa vừa là vật trang trí, vừa là vật “canh giữ” cho ngôi nhà.
+ Theo niềm tin của người dân địa phương thì mắt cửa mang ý nghĩa tâm linh nhiều hơn ý
nghĩa về mặt kiến trúc. Với hình bông cúc, hình bát quái, hình mặt trời… mắt cửa trong tâm nguyện
của người dân là tìm kiếm sự may mắn, an lạc, xua đuổi những điều càn quấy, xấu xa. Đôi mắt cửa
được ví như hồn của ngôi nhà, có thể nhìn được người ngay cũng như kẻ gian. Một yếu tố khác đó là
đôi mắt cửa được treo trước cửa ngôi nhà như để chào mừng, hoan nghênh khách đến nhà. Ngoài cặp
mắt cửa chúng ta còn thấy hai tấm vải điều. Trước đây vào những ngày lễ Tết thì những tấm vải này
mới được treo lên nhưng sau khi Hội An được công nhận là Di sản văn hóa thế giới thì hầu như ngày
nào cũng có khách ghé thăm vì vậy hai tấm vải điều được treo thường xuyên. Trên hai cánh cửa của

chùa còn có hai họa tiết chạm nổi hình con sư tử và chiếc quạt mang phong cách nghệ thuật Nhật
Bản.
+ Xin mời quý khách vào bên trong chùa và tôi xin được giới thiệu về ngôi chùa này. Bộ vì
kèo của chùa được thiết kế theo mẫu kiến trúc thuần Việt với bộ vì "cột trốn kẻ suốt" mà mộng của nó
ăn liền với bộ vì kèo của cầu một cách hài hòa, điêu luyện. Trong chùa thờ một vị thần có nguồn gốc
Trung Hoa là Bắc Đế Trấn Võ hay còn gọi là Huyền Thiên Đại Đế - là vị thần chủ về phương Bắc.
Theo thuyết Ngũ hành, phương bắc ứng với hành thủy, nước, nên vị thần này có uy lực trị thủy, diệt
trừ thủy quái. Tín ngưỡng này khởi nguyên từ Trung Hoa. Ông còn là vị thần bảo hộ xứ sở, mang
may mắn đến cho mọi người. Ngoài ra, ông được thờ ở đây còn với mục đích chính là khống chế con
7


Câu Long gây ra địa chấn để mang lại sự bình yên cho cộng đồng người Hoa, người Việt, người Nhật
sinh sống và làm ăn trên cảng thị Hội An. Trên bệ thờ xây giữa chùa là bức tượng của vị thần đang
đứng với tư thế oai nghiêm, một chân đạp lên lưng một con rùa và một tay đang nắm chặt lấy thân
một con bò sát đang quằn quại, tượng trưng cho con Câu Long. Trên khám thờ có khắc đôi câu đối
chữ Hán ca ngợi uy danh của vị thần.
Hiển hách oai thần nơi khuyết Bắc
Rỡ ràng đức đế chốn trời Nam.
- Kính thưa quý khách, Cầu và Chùa tuy là hai đơn vị kiến trúc đã được xây dựng cách nhau
khoảng nửa thế kỷ, nhưng khó mà phân biệt được những sai khác trong từng cấu kiện kiến trúc giữa
chúng trong một tổng thể di tích. Sự phức hợp kiến trúc này là một đặc điểm độc đáo của kho tàng
kiến trúc Việt Nam, duy nhất có mặt tại đô thị cổ Hội An, một chứng minh hùng hồn cho sức sáng tạo
của phong cách kiến trúc Hội An, do các nghệ nhân Kim Bồng đã tạo ra trong những thế kỷ trước
đây. Có thể nói rằng Chùa Cầu không những là một tích văn hóa lịch sử mà nó còn là kết quả của sự
giao thoa của nhiều dòng văn hóa của dân tộc Đông Nam Châu Á và Viễn Đông, cửa sự thẩm thấu và
hòa điệu của nhiều phong cách nghệ thuật của Việt Nam, Trung Hoa và Nhật Bản bởi nó là cây cầu
mang âm hưởng kiến trúc của 3 nền văn hóa đã. Đây là một nhịp cầu nối liền tình hữu nghị giữa ba
dân tộc Việt Nam - Nhật Bản - Trung Hoa không chỉ trong những thế kỷ 16 – 17 mà mãi mãi về sau
nó vẫn là biểu tượng của tình hữu nghị cao quý đó.

- Tôi hy vọng rằng chùa cầu Hội An sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng quý khách giống
như ấn tượng mà cây cầu này đã đem lại cho tác giả của đoạn thơ mà bất cứ người Hội An nào cũng
biết đến . Đó là:
Ai đi phố Hội Chùa Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu sầu.
- Quý khách có 15 phút để chụp ảnh, tham quan, thắp hương. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục đi
thăm hội quán Quảng Đông.

Hội Quán Phước Kiến
- Tên gọi của Hội Quán
Trong cộng đồng cư dân người Hoa (trước đây gọi là Hoa Kiều, khác với người Minh Hương)
có một dạng kiến trúc cộng đồng riêng biệt, độc đáo, đó là Hội Quán (會 會) – sản phẩm của sinh hoạt
cộng đồng trên cơ sở những người cùng quê. Gồm có các Hội Quán: Phước Kiến (會 會), Quảng Đông
(會 會), Triều Châu (會 會), Hải Nam (會 會) và một Hội Quán chung là Trung Hoa Hội Quán (會 會 會 會).
Hội (會) là hội họp, gặp gỡ. Quán (會) là nhà khách trọ, nhà ở, chỗ dạy học trò, tên quan thự
ngày xưa. Hội Quán (會 會) có nghĩa là chỗ quán xá để cho một đoàn thể hội họp lại [12, 6].

8


Hội Quán của người Hoa ở hội An còn được gọi với một cái tên khác là “Chùa Tàu”. Tên gọi
“Chùa Tàu” là cách gọi của người Việt, chủ yếu là những người dân thường, gọi “Chùa Tàu” xuất
phát từ các nguyên nhân sau: Một là, người dân thấy trong Hội Quán người Hoa dùng làm nơi thờ
phượng, nơi diễn ra các sinh hoạt văn hoá theo tín ngưỡng, tôn giáo của người Tàu nên họ nghĩ rằng
đó là cái chùa. Hai là, do trong số các Hội Quán, thì có Hội Quán Phước Kiến vốn có tiền thân là một
ngôi chùa lợp tranh – “Kim Sơn Tự” và hiện nay Hội Quán Phước Kiến vẫn bao gồm cả chùa “Kim
Sơn Tự”. Còn Hội Quán Dương Thương thì xưa kia nền của nó vốn là Chùa Bà. Chính vì thế, người
dân cứ theo đó mà gọi là “Chùa Tàu” ở tất cả các hội quán”.

- Mục đích xây dựng Hội Quán
Trước hết, Hội Quán của người Hoa được xây dựng với mục đích kinh tế, nhằm giúp đỡ nhau
trên thương trường – buôn bán và quan hệ giao dịch với chính quyền cấp trên, cũng như sở tại.
Hai là, sự ra đời của Hội Quán người Hoa còn nhằm duy trì các sinh hoạt tôn giáo, tín
ngưỡng, các hoạt động văn hoá của cộng đồng. Tại đây, cộng đồng người Hoa đã thờ các vị thần linh,
các bậc tiền hiền. Đồng thời, ở đây người ta tổ chức các sinh hoạt văn hoá cộng đồng nhằm giữ gìn
bản sắc văn hoá của họ. Hàng năm, vào các ngày lễ lớn, tại các Hội Quán hương khói nghi ngút
chẳng khác gì những ngôi chùa hay đình, miếu của người Việt.
Ba là, Hội Quán của người Hoa ra đời còn nhằm quản lý bộ phận cư dân Hoa Kiều như là một
tổ chức xã hội.
- Lịch sử hình thành Hội Quán
Khác với cộng đồng người Hoa sinh hoạt trong “Minh Hương Xã”, cộng đồng nhóm người
Hoa không nhập quốc tịch Việt Nam (Hoa Kiều) lại có hình thức tổ chức tự quản riêng – Hội Quán
(會 會). Những Hội Quán của người Hoa ở Hội An đều được thành lập vào khoảng thế kỷ XVIII.
Ban đầu, những người Hoa đến lập nghiệp, buôn bán ở Hội An không nhập vào làng Minh
Hương thì họ đều sinh hoạt tại Dương Thương Hội Quán. Dương Thương Hội Quán còn gọi là Trung
Hoa Hội Quán, được thành lập vào năm 1741. Đây là hội quán chung cho cả 5 Bang người Hoa (vì
của 5 Bang nên về sau được gọi là “Hội Quán Ngũ Bang”).
Hội Quán Phước Kiến, còn có tên là Chùa Kim Sơn. Ban đầu, trên mảnh đất này – người Việt
ở Hội An đã dựng lên một ngôi chùa lợp tranh để thờ Phật (vào khoảng năm Khang Hy 1697) và đặt
tên là “Kim Sơn Tự” (Chùa Kim Sơn). Việc xây dựng chùa này còn gắn với một truyền thuyết dân
gian. Vào thời kỳ xa xưa đó, khi khu vực dựng chùa này ở ven sông Sài Thị Giang (tên sông Hội An
thời đó) còn rậm rạp cây cối thì một hôm cư dân địa phương phát hiện ra một pho tượng Phật nhỏ có
khắc chữ “Kim Sơn Tự” trôi dạt vào bờ. Bên trên pho tượng có một lớp vàng. Nhân dân địa phương
cho đó là một điềm lành, liền dựng một ngôi chùa từ số vàng tìm thấy để thờ Phật. Qua tháng năm,
ngôi chùa tranh bị hư hỏng nhưng người Việt không đủ sức sửa chữa, trong khi đó người Hoa buôn
bán ở phố cảng Hội An ngày càng giàu lên. Những thương nhân người Phước Kiến đã bỏ tiền ra mua
lại Chùa Kim Sơn vào năm 1757. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, kiến trúc mới này được đổi tên, gọi
là Hội Quán Phước Kiến, trong đó bao gồm cả Chùa Kim Sơn. Từ khi thành lập, Hội Quán Phước
9



Kiến đã được trùng tu 5 lần: Lần trùng tu thứ nhất vào năm 1757, Hội Quán được xây thành ngôi
chùa lợp bằng ngói thay cho chùa lợp tranh tre trước đó và đổi tên gọi thành “Mân Thương Hội
Quán”, tức hội quán buôn bán của người Mân (người Phước Kiến còn gọi là người Mân); Lần trùng
tu thứ hai vào năm 1849, lần này Hội Quán trùng tu mở rộng để thờ Lục Tánh Vương Gia; Lần thứ
ba vào năm 1895 – 1900, lần này đổi tên Hội Quán thành “Phước Kiến Hội Quán”; Trùng tu lần thứ
tư vào năm 1971 – 1974, xây dựng tiền môn và trùng tu cổng tam quan; Lần trùng tu cuối cùng vào
năm 1993, về lần trùng tu này, trên Xà Cò thứ hai của chính điện có ghi: “Công nguyên, nhất cửu cửu
tam niên, tuế thứ Quý Dậu, trọng thu, cát đán. Phước Kiến đồng nhân trùng tu” (Công nguyên năm
1993 – Quý Dậu, tháng tám, ngày tốt. Người Phước Kiến tu sửa lại). Hội Quán Phước Kiến đã được
vua Khải Định sắc tứ công nhận vào năm 1918. Bộ Văn hoá nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cấp bằng di tích lịch sử văn hoá vào ngày 17/02/1990.
Hội Quán Triều Châu, còn có một cái tên khác là chùa Ông Bổn (hay Âm Bổn). Sở dĩ gọi là
chùa Ông Bổn vì Hội Quán thờ Phục Ba và Ông có tước Bổn Đầu công. Nhưng nhân dân lại gọi là
Âm Bổn vì nơi đây hai bên bàn thờ Phục Ba là bàn thờ Tài thần và Phước thần và người dân ban đêm
đến đây để thề thốt vay mượn rất hiệu quả nên Ông Bổn biến thành Âm Bổn [59, 60]. Hội Quán
Triều Châu do Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1752 (theo văn bia tại Hội Quán Triều
Châu ghi lại). Tuy nhiên, một số tài liệu lại cho rằng Hội Quán Triều Châu được xây dựng vào năm
1845. Theo ông Lâm Hữu Sơn – người Hoa – đại diện Ban trị sự Hội Quán Triều Châu, 81 tuổi, ở
phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, hiện là người tiếp đón khách tham quan tại Hội Quán Triều
Châu cho biết: “Hội Quán Triều Châu được trùng tu vào năm 1887 và một lần sau đó, lần cuối vào
năm 1970. Mới đây, vào năm 2003, Hội Quán Triều Châu tiếp tục có một lần trùng tu nữa. Lần này,
Hội Quán được thay ngói, thay rui và quét sơn lại”.
Hội Quán Quảng Đông, còn gọi là Quảng Triệu Hội Quán do người Hoa Kiều bang Quảng
Đông xây dựng vào năm 1885, nhưng những người trong Ban trị sự Hội Quán lại tin rằng Hội Quán
được thành lập vào khoảng những năm cuối của thế kỷ XVII, có lẽ lần trùng tu lớn nhất vào năm
1885.
Hải Nam Hội Quán, còn có một cái tên khác là Quỳnh Phủ Hội Quán do người Hải Nam và
Gia Ứng chung tiền xây dựng vào năm 1891.

Riêng người Gia Ứng, tuy cũng lập thành một bang riêng, nhưng do quá ít người nên không
xây dựng hội quán mà cùng sinh hoạt tại Hải Nam Hội Quán.
- Phong cách kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc:
* Kiến trúc
Hội Quán của người Hoa là một loại hình kiến trúc đặc biệt ở phố cổ Hội An, góp phần làm
tăng thêm sự đa dạng, phong phú cho quần thể kiến trúc nơi đây. Khi xây dựng Hội Quán nói riêng,
các công trình tôn giáo – tín ngưỡng, cũng như dân dụng nói chung, người Hoa đặc biệt chú trọng
đến việc chọn thế đất và các yếu tố liên quan đến thuật phong thuỷ. Các công trình đều được xây
dựng tại những vị trí cao ráo, nơi gặp gỡ của các đầu mối giao thông thuỷ hoặc bộ, mặt thường quay
10


ra sông để đón gió mát và dễ dàng cho ghe thuyền cập bến. Ngày nay, như chúng ta đã thấy, các Hội
Quán của người Hoa (Hội Quán Hải Nam, Phước Kiến, Trung Hoa, Quảng Đông) đều có hướng quay
về phía sông Hội An. Riêng Hội Quán Triều Châu nằm trên con đường Nguyễn Duy Hiệu, trước đây
khuôn viên của nó bao gồm cả một hồ sen rộng lớn trước cổng. Theo ông Lâm Hữu Sơn cho biết thì:
“Trước khi xây dựng các công trình Hội Quán, người Hoa đã tiến hành chọn thế đất rất kĩ lưỡng,
sau đó mời thầy địa lý về coi rồi mới thiết kế công trình. Các công trình Hội Quán ở đây đều được
thiết kế từ bên Trung Quốc, sau đó mới mang qua Hội An – Việt Nam để xây dựng”.
Việc người Hoa chú trọng đến thế đất, cũng như các yếu tố liên quan đến thuật phong thủy khi
xây dựng các công trình Hội Quán là do xuất phát từ ước mơ nhằm tạo được sự ổn định bền vững của
công trình, đảm bảo thuận tiện về giao thông và sự hài hoà giữa công trình với cảnh quan môi trường.
Thuỷ triều lên xuống, nguồn nước luân lưu gắn với ý nghĩa hanh thông, vượng phát về tài nguyên,
tiền của. Lưng công trình thường tựa vào gò cao hoặc dãi cát lớn để làm thế gối đầu. Gò đất, dãi cát
với gợn sóng nhấp nhô, cây cối khoe sắc tượng trưng cho vẻ đẹp gấm vóc của văn chương. Bên phải
và trái thường có các hình thể tự nhiên hoặc nhân tạo để làm thành tay ngai bao bọc, che chắn hai
bên, tạo thế vững bền. Tiền của dồi dào, văn hoá phát triển, cuộc sống ổn định, bền vững, đó là
những ước mơ mà các thế hệ cư dân người Hoa đã gửi gắm thông qua việc lựa chọn thế đất để xây
dựng các công trình Hội Quán.
Hội Quán người Hoa xét về mặt kiến trúc có hình chữ Quốc ( 會), có quy mô khá lớn, gồm

cổng lớn phía trước, tiếp đến là một khoảng sân rộng trang trí cây cảnh, non bộ, hai nhà phục hai bên
quay mặt vào sân, thờ Tả thần và Hữu thần. Đền Phương đình – nơi diễn ra các nghi lễ khi hội, họp,
chính tẩm đặt tại điểm cuối trên trục dọc mặt bằng kiến trúc, đây chính là kiến trúc lớn nhất, quan
trọng nhất của tổng thể Hội Quán.
Chất liệu xây dựng Hội Quán của người Hoa chủ yếu là các loại vật liệu đất, đá, gạch, ngói,
tre, gỗ,… Trong đó, một số vật liệu xây dựng Hội Quán như: cột đá, ngói ống men xanh, sứ men
trắng vẽ lam… được chở từ Trung Quốc sang. Hiện nay, một số Hội Quán vẫn tàng giữ đồ sứ làm
bên Trung Quốc trên đó ghi địa chỉ Hội An, chẳng hạn, bát hương ở Hội Quán Triều Châu là sản
phẩm của Cảnh Đức Trần thế kỷ XIX, quanh vành miệng viết dòng chữ Hán - Triều Châu Hội Quán.
Kết cấu khung gỗ cũng như bộ mái Hội Quán thay đổi theo thời gian, tường gạch và ngói lợp
ít thay đổi hơn do tính chất bền vững của chất liệu. Trong kết cấu khung gỗ, các bộ vì kèo (tiếng địa
phương gọi là vài) đóng vai trò quan trọng bậc nhất, vì chỉ cần ghép bốn bộ vì kèo lại với nhau, ta đã
có một công trình kiến trúc khá hoàn chỉnh. Đối với các công trình kiến trúc cổ Hội An nói chung,
như: nhà ở, nhà thờ tộc, đình, chùa, miếu, lăng,… thường có các kiểu vì kèo cơ bản, đó là: “vì luôn”,
“vì chồng”, “vì vỏ cua”, còn với kết cấu khung gỗ Hội Quán người Hoa thường tồn tại kiểu “Vì
trính chồng - trụ đội”.
“Vì trính chồng - trụ đội” (vì chồng rường) là bộ vì gồm hai loại cấu kiện chính, liên kết với
nhau vuông góc theo phương tung – hoành. Đó là những thanh gỗ ngang gọi là trính/rường có độ dài
không bằng nhau, đặt song song, cách đều nhau theo trật tự ngắn dần về phía nóc. Chúng được liên
11


kết với nhau bằng những thanh gỗ đứng (trụ đội/giả thủ) có kích thước như nhau: Chân trụ ăn mộng
vào lưng trính dài phía dưới, thân trụ ăn mộng với đầu trính ngắn phía trên và đầu trụ trực tiếp đỡ lấy
đòn tay (xà) trên mái. Như vậy, với kiểu vì này đòn tay sẽ đặt cố định trên mỗi đầu trụ đội và trọng
lực của đòn tay chỉ tác động theo phương thẳng đứng (hoàn toàn khác với kiểu vì luôn và vì chồng
trong các công trình kiến trúc gỗ ở Hội An, đòn tay đặt tương đối cơ động trên những thanh kèo xiên
theo chiều mái, trọng lực của đòn tay vừa theo phương thẳng đứng vừa theo phương xiên).
Mỗi bộ vì trính chồng – trụ đội thường có 3 trính và 5 trụ đội, chúng đều được tạo dáng mềm
mại, chạm trổ trang trí tỉ mỉ, công phu. Hai bên thân trính có bông trính (tai câu đầu) thường được

trang trí nhiều hoạ tiết như hoa lá, bát bửu. Trính được làm đẹp bởi những đường cong thanh thoát,
chạy dọc thân những đường cong này có tác dụng làm giảm đi cảm giác nặng nề. Còn trụ đội, là một
thanh gỗ liền khối, tạo dáng tròn, đầu to, phía dưới gối lên thân trính, phần nhỏ vươn đỡ đòn tay. Ở
trên một số trụ đội phần dưới được tạo hình trái bí ngô, nên gọi trụ trái bí. Nhiều chỗ nơi trụ đội đỡ
đòn tay lại gắn thêm “nạnh” (con sơn) vươn dọc đòn tay. Nạnh vừa tạo cho kết cấu chắc vừa gây cảm
giác đẹp. Kết cấu kiến trúc Hội Quán Triều Châu ở hai bên trụ đội người thợ còn vẩy ra những tai gỗ
hình đám mây xoắn được gọi là “mũ quan âm”. Điều này cho thấy nạnh không phải sinh ra làm chức
năng chịu lực, nó trở thành vật trang trí gây cảm giác đỡ nặng nề cho đầu trụ. Ưu điểm của loại vì
này là rất giàu thẩm mỹ nghệ thuật nhưng yếu điểm của nó là khả năng chịu lực không lớn.
Ngoài vì “trính chồng – trụ đội”, ở một số Hội Quán của người Hoa ở Hội An người ta còn
dùng kiểu “vì vỏ cua” (như ở Hội Quán Phước Kiến, bên cạnh vì trính chồng – trụ đội, người ta còn
dùng vì vỏ của ở chính điện). Vì vỏ cua là một cấu kiện được làm bằng một tấm gỗ nguyên khối khá
nặng nề để đỡ vòm mái, nhưng dưới bàn tay của các người thợ, nó biến thành những tác phẩm điêu
khắc tuyệt mỹ. Vì vỏ cua dựng Hội Quán chủ yếu ở bộ vì tả vu, hữu vu với tư cách bộ vì độc lập. Ở
đây, vì vỏ cua sử dụng trính nối hai cột cái lại. Trên trính gác trụ (thường 3 trụ), các trụ liên kết nhau
bằng nạnh. Trụ và nạnh tạo dựng vỏ cua này về cơ bản đồng dạng với trụ và nạnh sử dụng trong mỗi
Hội Quán.
Nhìn chung, kiến trúc tại Hội Quán của người Hoa ở Hội An không dùng đơn thuần chỉ một
loại vì này hay vì kia đơn nhất mà được kết hợp các vì với nhau trên cùng một kiến trúc. Sự kết hợp
các vì một cách thuần thục, hợp lý trong cùng kết cấu kiến trúc phần nào khẳng định tài khéo của các
nghệ nhân nơi đây.
Nói đến kết cấu bộ khung gỗ tại các Hội Quán không thể không nói đến hệ thống đòn tay.
Khoảng cách giữa các đòn tay rất được chú ý, nhất là khoảng cách đòn tay ở mái trước. Người ta tính
khoảng số đòn tay cho kiến trúc theo 4 chữ: sinh, lão, bệnh, tử. Bắt đầu đòn nóc ứng với chữ sinh,
các đòn tiếp theo ứng theo trật tự các chữ còn lại và trở về từ chữ sinh. Sao cho đòn tay cuối cùng đỡ
mái ứng được vào chữ sinh hoặc tốt nhất là chữ lão, kiêng nhất đòn ấy ứng vào chữ bệnh hoặc tử.
Cùng với vì kèo, đòn tay, hệ thống cột cũng đóng vai trò khá quan trọng đối với các công trình
kiến trúc Hội Quán. Cột thường có kích thước lớn, ngoài cột tròn còn có cột vuông. Cột tròn tại các
Hội Quán luôn được bố trí bên trong nội thất, còn cột vuông bao giờ cũng được đặt tại không gian
12



tiếp giáp giữa nội thất với bên ngoài, đó là những hàng cột hiên, kể cả hiên sau lẫn hiên trước. Chân
cột không chôn xuống đất mà được đặt trên đá tán có trang trí nghệ thuật; tương ứng với cột tròn có
đá tán hình tròn, với cột vuông có đá tán hình vuông. Trong một số công trình đá tán được tạo dáng
khá cầu kỳ, được chồng lên nhau từ hai đến ba lớp đá với kiểu dáng hoa văn trang trí khác nhau.
Về kết cấu mái, do được xây dựng trong môi trường khí hậu khắc nghiệt của miền Trung với
gió, mưa, bảo, lốc diễn ra đều đều vì vậy các công trình kiến trúc ở Hội An nói chung, các công trình
Hội Quán nói riêng phải tạo nên kết cấu mái hợp lý mới hạn chế được những tác động bất lợi của
thiên nhiên. Trong kết cấu mái, bộ khung mái là hệ thống liên kết chủ yếu của đòn tay, đòn đông
chồng lên trên, vuông góc với các bộ vì theo một số lượng và khoảng cách quy định. Bên trên hệ
thống đòn đặt song song đó, người ta đặt những thanh rui dẹp khác nhau, chạy dọc hết chiều dốc của
mái, tạo nên một bộ sườn mái hoàn chỉnh. Mái được lợp bằng loại ngói ống bằng xi măng tô màu từ
mái xuống. Đầu ống ngói trang trí riềm màu bằng dãy ngói men xanh (loại vật liệu nhập từ bên Trung
Quốc).
* Điêu khắc
Nghiên cứu về Hội Quán của người Hoa ở Hội An không thể bỏ qua nghệ thuật điêu khắc của
các nghệ nhân xưa.
Trước hết là nghệ thuật trang trí trên các bờ hồi. Bằng bàn tay tài hoa của mình, những người
thợ đã làm cho những bờ hồi thô cứng thành những đường cong mềm mại, tạo nên sự uốn lượn, bay
bổng. Chủ yếu cũng chỉ dùng những đường thẳng và đường cong nhưng sự bố trí, sắp đặt chúng theo
một trật tự nào đó, hoặc chỉ cần thay đổi độ dài ngắn của đường thẳng, độ cong của đường cong là có
thể tạo nên rất nhiều kiểu trang trí bờ hồi. Hội Quán người Hoa ở Hội An có các kiểu trang trí bờ hồi
cơ bản như: trang trí cong, kiểu này bắt đầu tạo đường cong nhưng chỉ là đường cong liền. Người ta
làm cho đỉnh nóc của hai bờ mái không tạo bằng một góc thẳng mà là tạo dáng cong cong trước khi
chạy thẳng xuống diềm. Kiểu trang trí này nhìn chung vẫn còn đơn giản (tiêu biểu là ở bờ hồi Hội
Quán Hải Nam). Kiểu trang trí thứ hai tương đối phức tạp, cũng trên cơ sở của kiểu thứ nhất nhưng là
những đường cong kép, nghĩa là trang trí cong có nhiều bậc, tạo cho bờ hồi uốn lượn giàu nhịp điệu,
kiểu trang trí này có ở bờ Hồi của Hội Quán Quảng Đông. Kiểu trang trí phức tạp nhất là trang trí
giật cấp do kết hợp cả đường thẳng và đường cong. Kiểu trang trí này làm cho bờ hồi của công trình

có những biến tấu sinh động và giàu thẩm mỹ. Điển hình của kiểu trang trí này là trang trí bờ hồi ở
Hội Quán Phước Kiến và Hội Quán Triều Châu. Bờ hồi trong các Hội Quán thực sự là một trong
những đặc trưng nổi bật của di sản kiến trúc này.
Tuy nhiên, nổi bật nhất, đặc sắc nhất trong nghệ thuật điêu khắc tại các công trình Hội Quán
của người Hoa ở Hội An phải kể đến nghệ thuật trang trí trên gỗ. Chúng ta biết rằng, Hội Quán là
những công trình kiến trúc đồ sộ, không chỉ ở quy mô mà ở cả cấu kiện kiến trúc, nên người thợ xưa
cổ đã tìm giải pháp làm giảm bớt cảm giác nặng nề của kiến trúc bằng cách tỉa gọt, chạm trổ những
hoa văn, họa tiết thật tinh sảo và tuyệt mĩ.

13


Các đề tài trang trí ở các bộ phận của cấu kiện kiến trúc gỗ Hội Quán, nhất là trên các bộ vì,
khung cửa, tai cột,… thường lấy từ thiên nhiên và sinh hoạt đời thường với những hoa văn, họa tiết,
môtíp như: hoa lá, chim muông, giao long, tứ linh, cá chép hóa rồng, mặt trời âm dương, mây cuộn,
bát bửu, chữ thọ, tứ dân, con dơi, con cua,… được chạm bằng các thủ pháp chạm chìm, chạm nổi,
chạm ghép,… qua đó làm cho các kết cấu kiến trúc được cách điệu, khiến chúng không còn là các bộ
phận chịu lực nữa mà chỉ còn là những chi tiết trang trí kiến trúc nhẹ nhõm, đầy sức hấp dẫn, khiến
người xem có thể cảm nhận từ kiến trúc một bức tranh liên hoàn sinh động, trang nghiêm, hoành
tráng.
Đối với những họa tiết trang trí trên các bức tường, được đắp nổi và chạm ghép sành sứ nhiều
màu sắc. Còn đối với các cột đá, được tỉa gọt cho tròn trĩnh, hai đầu thon nhỏ hình búp. Cột đặt trên
những viên đá tảng hình vuông, chạm khắc hoa văn hình học hoặc hình trái bí, các đầu dư cũng được
chạm trổ thành hình cá hóa rồng hoặc chim phượng rất sinh động (như ở trường hợp Chùa Âm Bổn –
Hội Quán Triều Châu).
Bộ vì trính chồng – trụ đội còn được trang trí nhiều đề tài hơn trên cả những thanh trính
chồng và trụ đội. Theo anh Tống Quốc Hưng cho biết thì: “Các bộ vì trính chồng – trụ đội ở các Hội
Quán người Hoa tại Hội An có nét đặc biệt hơn so với các bội vì trính chồng – trụ đội ở nơi khác
(như ở Huế, Hà Nội, Nam Định,…) ở chỗ nó được chạm trổ nhiều hoa văn và với mức độ tinh xảo
hơn, cầu kỳ hơn”.

Vì vỏ cua cũng có thể trở thành trung tâm trang trí kiến trúc trong Hội Quán của người Hoa.
Mỗi vì như một tác phẩm trang trí nghệ thuật khá độc đáo. Vì lộ ra hình con dơi có ý nghĩa chúc
phúc; vì chạm hình giao long gợi lên sự hoá rồng và quyền lực; vì tạc hình chim phượng biểu hiện sự
vận hành của vũ trụ, … Tuy nhiên, khác với các công trình kiến trúc gỗ ở Hội An, vì vỏ cua ở Hội
Quán của người Hoa không phải là vì chính, mà nó chỉ góp phần tạo thêm tính đa dạng, thẩm mỹ cho
công trình. Chính vì vậy, nghệ thuật trang trí ở đây cũng không được cầu kỳ như ở các công trình
kiến trúc nhà gỗ khác ở Hội An.
Bên cạnh các bộ vì trính chồng – trụ đội và vì vỏ cua thì tay kèo cũng được người thợ xưa để
tâm trau chuốt, thể hiện tài năng. Kèo được bào xoi kẻ chỉ tạo hình thông qua những đường cong, đặc
biệt là kèo giao. Kèo giao thể hiện hình cong giao long với nghệ thuật chạm khắc chi tiết, tinh tế hình
đuôi giao ở đầu trên của kèo, thân giao hình thành thân kèo với đường cong hình thân giao, đầu giao
ở dưới kèo với những hình hoa lá cách điệu bao lấy đầu giao. Có thể nói, cái đẹp của các họa tiết điêu
khắc ở đây không chỉ được biểu hiện trong các hình thức thể hiện sắc sảo mà còn cả trong sự hàm
chứa các nội dung triết lý nhân sinh sâu sắc.
Mái ở các Hội Quán cũng là nơi mà người thợ xưa tập trung thể hiện tài năng. Mái thường có
nhiều tầng, phía trên trang trí hình rồng chạy dọc triền mái. Ở Hội Quán Phước Kiến, trên cao, dưới
hai tầng mái trên cùng là tấm biển màu trắng ghi ba chữ Hán màu đỏ “Kim Sơn Tự” (會 會 會). Phía
dưới mái là mô hình tam quan nhỏ, ở dưới cửa giữa là hình đầu rồng đắp nổi rất cầu kỳ màu lục đang
cúi xuống ngậm một quả cầu đỏ rực. Ở các cửa hai bên, nhỏ hơn, có tượng “Thần Mặt Trời” tay cầm
14


biển ghi chữ “Nhật” và “Thần Mặt Trăng” tay cầm biển ghi chữ “Nguyệt”. Dưới tầng mái thứ ba
nổi bật một biển đá màu xám với bốn chữ Hán lớn màu đỏ viết theo lối chữ triện vuông vắn “Hội
Quán Phước Kiến” (會 會 會 會). Ở Hội Quán Quảng Triệu, trên mái cũng được trang trí các hình nổi
rồng nghê, hoa chanh. Các cột đỡ mái bằng đá chạm khắc nhiều loại hoa văn trang nhã,…
Nói đến trang trí gỗ ở Hội Quán, chúng ta không thể bỏ qua một đặc trưng hết sức thú vị và
độc đáo nữa, đó là trang trí mắt cửa. Cũng như các công trình kiến trúc cổ khác ở Hội An, trên các bộ
cửa chính ở Hội Quán (thường là ở chính điện Hội Quán) bao giờ người ta cũng gắn vào đó một đôi
mắt cửa.

Về cấu tạo, mắt cửa là một khoanh gỗ dài chừng 30 – 35 cm, được chia làm hai phần: Phần
thân to, thường tròn có đường kính từ 15 – 20 cm, dày từ 5 – 8 cm, phần chuôi như chốt có mặt cắt
hình chữ nhật, dài chừng 25 – 27 cm. Có lẽ ban đầu, đây chỉ là hai chốt cửa có công năng kiến trúc là
chính, vì hai chốt này xuyên qua hai thanh gỗ đà thượng của bộ cửa đi và khóa chặt chúng lại để hai
cánh cửa bản có chỗ gắn bản lề. Từ công năng chủ yếu như vậy, dần dần người ta tạo hình, tạo dáng
rồi chạm trổ trang trí các đề tài phù hợp và cuối cùng là khoác lên mình chúng những ý nghĩa tâm
linh. Ý nghĩa tâm linh đó chính là nhãn quan, là tầm nhìn, là sự định hướng phát triển đi lên cho một
công trình, đồng thời, đó còn được xem như một cơ quan giám sát vô hình, có thể thấu hiểu, thấu
nhìn mọi suy nghĩ và hành vi của các thành viên gia đình trong quan hệ nội bộ. Về hình dáng, mắt
cửa thường có dạng hình tròn, hình tròn có cắt khấc, hình bát giác, hình lục giác, hình vuông, hình
bán cầu,… Thường người ta hay chọn mắt cửa hình tròn, cắt khấc thành 6 hoặc 8 đầu cánh hoa xoáy
tròn. Có mắt cửa được khắc chữ “thọ” với 5 con dơi bao quanh nhằm cầu mong “ngũ phúc viên thọ”.
Có mắt cửa lại được xem như những bông hoa cúc mãn khai,…
Điều đặc biệt là trong các công trình kiến trúc Hội Quán đã có sự giao thoa giữa các nền văn
hoá, đó là sự tổng hoà của quá trình hội nhập, thẩm thấu, một sự giao lưu và hỗn dung giữa các nền
văn hoá. Ta dễ dàng thấy trong nghệ thuật trang trí ở các công trình Hội Quán người Hoa có sự đóng
góp bởi bàn tay khéo léo của người thợ làng kim Bồng và quan trọng hơn là kết cấu kiến trúc và
những họa tiết hoa văn trang trí đã có sự hòa quện giữa hai yếu tố văn hóa Việt – Hoa. Trong kiến
trúc Hội Quán của người Hoa đã có sự tiếp thu kiểu vì vỏ cua – là kiểu vì đặc trưng của kiến trúc gỗ
ở Hội An – Việt Nam. Các hoa văn trang trí tại các Hội Quán thì bên cạnh những dề tài bát bửu, song
kiếm còn có các đề tài chim chóc, hoa lá,… vốn là những đề tài phổ biến trong kiến trúc cổ Vệt Nam.
Tóm lại, Hội Quán người Hoa đã hội tụ được các yếu tố nghệ thuật, qua đó làm giàu thêm giá trị của
các công trình.

- Cách bài trí của Hội Quán:
Hội Quán của người Hoa có hình thức gồm: 1 cổng lớn cũng chính là nhà tiền đình; tiếp đến là
khoảng sân rộng có cây cảnh, hai bên có nhà Đông – nhà Tây; rồi đến phương đình (sảnh đón) đi liền
với chánh điện; ngoài ra còn có một số công trình nhà phụ xung quanh 2 bên và phía sau, nhưng tất
15



cả gắn liền với nhau thành một khuôn viên hình chữ “Quốc” ( 會) khép kín. Sau này, các Hội Quán
đều xây dựng thêm một cổng tam quan tường rào ở phía trước nằm sát ra đường Trần Phú, Nguyễn
Duy Hiệu như hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ theo tín ngưỡng của Hội Quán các Bang mà cách bài trí ở các
Hội Quán có những nét đặc trưng riêng.
* Hội Quán Phước Kiến (會 會 會 會)
Tam quan của Hội Quán Phước Kiến không phải là một kiến trúc cổ xưa mà mới được xây
dựng trong lần trùng tu lớn vào những năm 1970 – 1974. Tam quan có một hệ mái ngoạn mục gồm
bảy mái lợp bằng ngói ống men xanh uốn lượn, xếp gối nhau, xen nhau ở những độ cao thấp khác
nhau và trải dần ra hai phía. Các bức tường ở hai bên tam quan ngăn cách sân ngoài với sân trong của
di tích này.
Sân ngoài, có hồ nước nhỏ hình hoa mai năm cánh và tượng cá chép hoá long đang phun
nước; phía sau ở trên bức tường là hình vẽ mặt trời màu vàng với những cuộn mây trắng… Sau hồ và
ở giữa sân ngoài là chiếc lư hương lớn bằng xi măng màu đen với hình đắp nổi đầu kỳ lân. Ở hai bên
sân và phía trước cổng tam quan là đôi tượng lớn kỳ lân đang quỳ. Trên cao, dưới hai tầng mái trên
cùng là tấm biển màu trắng ghi ba chữ Hán màu đỏ “Kim Sơn Tự” (會 會 會). Phía dưới mái là mô hình
tam quan nhỏ, ở dưới cửa giữa là hình đầu rồng đắp nổi rất cầu kỳ màu lục đang cúi xuống ngậm một
quả cầu đỏ rực. Ở các cửa hai bên, nhỏ hơn, có tượng “Thần Mặt Trời” tay cầm biển ghi chữ “Nhật”
và “Thần Mặt Trăng” tay cầm biển ghi chữ “Nguyệt”. Dưới tầng mái thứ ba nổi bật một biển đá màu
xám với bốn chữ Hán lớn màu đỏ viết theo lối chữ triện vuông vắn “Hội Quán Phước Kiến” (會 會 會
會).
Sân trong Hội Quán khá rộng, dọc theo hai bên sân, hai dãy chậu kiểng xếp thẳng hàng khoe
những bông hoa sứ màu hồng, những chùm hoa giấy màu tím, đỏ,…
Tiền điện, ở mặt trên cao của tiền điện gắn một biển lớn màu đỏ ghi ba chữ Hán lớn theo lối
chữ triện màu đen “Kim Sơn Tự” (會 會 會). Dưới mái chùa treo hai chiếc đèn lồng có hình quả bí. Ở
trên mặt ngoài của tiền điện nổi bật hai bức phù điêu màu hồng do các nghệ nhân Kim Bồng tạo nên,
trông khá sinh động: bên phải là hình con tuấn mã đang chồm lên, miệng hí trên một mỏm đá cheo
leo bên bờ vực thẳm và ở bên trái là hình con đại bàng tung cánh trên vách đá nằm sát đại dương
cuộn sóng. Hai bên cửa lớn dẫn vào tiền sảnh có hai câu đối màu đỏ:
Hàng hải thê sơn Nam Việt độc thành đô hội,

Chú khôn đào khảm Đông mi cọng mộc ân ba
Các câu đối đó có nghĩa là bức tượng Phật trên đó có khắc ba chữ “Kim Sơn Tự” (會 會 會), đã
vượt biển để đến Việt Nam, đến Hội An là nơi đô hội, phố xá đông đúc và chiếc tượng được đúc bằng
đất, nhưng các nước ven biển Đông đều chịu nhiều ân lớn [45, 229]. Trên hai cánh cửa lớn vào tiền
điện của Hội Quán đề bốn chữ Hán lớn “Quốc Thái Dân An” có nghĩa là đất nước thái bình, nhân
dân yên ổn. Trên các bức tường của hai bên tiền điện có hai bức phù điêu màu lớn. Bên trái, bức phù
điêu mô tả cảnh Thiên Hậu Thánh Mẫu đi cứu hộ thuyền bị đắm. Cận cảnh là chiếc thuyền gỗ ngả

16


nghiêng trong cơn bão tố và một ngọn sóng lớn bạc đầu sắp ập xuống để nuốt chửng con thuyền, và ở
cảnh nền, về góc trái trên cao, là Thiên Hậu Thánh Mẫu xuất hiện trên mây, đang bay tới địa điểm
thuyền gặp nạn cùng với một thị nữ tay cầm chiếc đèn lồng để soi đường.
Bên phải là bức phù điêu khắc hoạ lại cảnh Lục Tánh Vương Gia đang chiến đấu chống kẻ
thù: Trên cảnh nền là rặng núi màu chàm với những áng mây tầng bồng bềnh vắt ngang bầu trời trong
xanh và dãy trường thành bằng đá xám; ở cận cảnh nổi bật các vị dũng tướng đang xung trận, ngồi
trên lưng các con tuấn mã đang tung vó, các tà áo chiến bào tung bay trong gió, tay đang vung cao vũ
khí và dưới chân ngựa của họ một kẻ chiến bại đang cuối đầu buông vũ khí đầu hàng. Đó là cảnh mô
tả chiến công của những người Phước Kiến dũng cảm phục vụ nhà Minh trong cuộc nội chiến chống
lại nhà Thanh thế kỷ XVII.
Tiếp sau tiền điện là sân trời. Ở đây, sân trời được che bởi một mái lợp ngói và một trần rộng
được trang trí bằng những hình vẽ chim phượng đang tung bay giữa những chiếc lá xanh. Chạy dọc
hai bên sân trời là nhà Đông và nhà Tây. Ở ngay giữa bức tường của các nhà đó, sau bàn thờ có hình
đắp nổi hai chữ Hán lớn “Phúc” và “Thọ” sơn màu đỏ son.
Chính điện, trên các hàng cột của chính điện màu đỏ son treo những đôi liễn gỗ dài màu đen
bóng với những dãy chữ Hán màu vàng lấp lánh, có nội dung ca ngợi Thiên Hậu Thánh Mẫu. Các
chữ Hán này đều viết theo lối cổ tự, vì vậy mà đến nay, người ta chưa giải mã được nội dung của các
câu đó. Bước lên bực tam cấp của chính điện, người ta thấy “vì vỏ cua” rộng lớn che phủ một phần
mái chính điện. Ở phía dưới là hương án rộng, phía trước đặt lư hương đồ sộ bằng đồng chạm rồng

và phía sau là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nhỏ đang ngồi thiền đặt trong một lồng kính. Bên trái
hương án là bệ thờ Thiên Lý Nhãn nhìn xa được ngàn dặm. Ông buộc phải giải điều trên tóc, một tay
đang giơ ngang tầm mắt như chăm chú quan sát các vật ở xa. Bên phải hương án là bức tượng Thần
Thuận Phong Nhĩ nghe xa được ngàn dặm. Ông cũng buộc một giải điều trên tóc, một tay đang đưa
ngón trỏ lên gần tai như lắng nghe tiếng động từ xa vọng tới. Các bức tượng với những nét tạc điêu
luyện của các nghệ nhân làng Kim Bồng thời xưa đã làm thể hiện tính cách và khả năng kì diệu của
các vị thần, gây được cảm giác sùng bái cho những khách đến viếng thăm Hội Quán. Đây là hai vị
thần trợ tá cho Thiên Hậu Thánh Mẫu. Cuối chính điện là nơi thờ Thiên Hậu.
Dưới Long môn là tượng lớn của Nữ thần ngồi đường bệ: Thiên Hậu Thánh Mẫu khoác chiếc
áo cẩm bào màu vàng rực rỡ với nét mặt đầy đặn, hồng hào, mắt phượng, mày ngài, tai Phật, làm toát
lên vẻ đôn hậu, đôi môi khép kín nghiêm nghị. Vị nữ thần ngồi, hai tay chắp trước ngực cầu mong
cho mưa thuận gió hoà đối với những người vượt biển. Ở hai bên là hai thị nữ tay đang cầm những
chiếc quạt lông.
Ở phía trước và bên trái long môn là một chiếc thuyền buồm bằng gỗ thu nhỏ được đặt trên
giá, có chiều dài một mét, mũi thuyền và đuôi thuyền đều cao. Phần trước của thuyền có hai cánh
buồm hình tam giác bằng vải, trên đỉnh buồm chính có treo một lá cờ và dụng cụ báo hướng gió hình
cá chép. Ở đuôi thuyền có vọng lâu được trang trí các cờ đuôi nheo nhiều màu sắc. Trên vỏ thuyền có

17


khắc dòng chữ Hán – “Thái Hợp Vĩnh Hiệu Kính Tống”. Đây là tặng vật của công ty tàu thuyền Thái
Hợp của Trung Hoa biếu Chùa Kim Sơn mà người ta cho có niên đại 1875.
Hậu điện là phần cuối cùng của Hội Quán. Trên sân nhỏ của hậu điện, gần sát với bức tường,
phía sau của chính điện có một hồ nước nhỏ hình thuẫn nuôi cá cảnh mà bờ hồ được xếp bằng những
viên đá xám. Phủ lên mặt hồ là một con rồng lớn, uốn khúc với bốn chân vươn ra phía trước, được
tạo dáng bằng xi măng cốt thép, đặc biệt trên mình và đầu của con vật được ghép những mảnh men
sứ xanh và thuỷ tinh nhiều màu sắc một cách cầu kỳ và sinh động. Trên bức tường phía sau của chính
điện đắp nổi hình con lân như đang đùa giỡn với con rồng trên hồ, tạo nên một tác phâm tạo hình
“vũ khúc long lân” hay “long lân kỳ duyên” rất ngoạn mục. Trên chính hậu điện này, trước đây, ngôi

Chùa Kim Sơn bằng tranh đã được dựng lên. Phần chính giữa hậu điện là nơi thờ Lục Tánh Vương
Gia – sáu vị tướng nhà Minh, người ở tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc: Trên bàn thờ có 6 bức tượng
nhỏ bằng gỗ chạm khắc tinh vi, lột tả được tính cách của từng nhân vật, không ai giống ai. Ở bên trái
hậu điện là bàn thờ những vị nữ thần phát triển nòi giống: Kim Hoa Nương Nương, Sanh Thai Nhị
Chúa cùng Sanh Thai Thập Nhị Tiên Nương với những nét mặt sinh động. Ở bên phải hậu điện là bàn
thờ Thần tài, vị thần mang lại sự giàu có và đời sống phong lưu cho các thương nhân Phước Kiến ở
cảng thị Hội An. Phần phụ của hậu điện thờ những người đã có công lao đóng góp tiền của trước đây
để xây dựng Hội Quán Phước Kiến và Chùa Kim Sơn. Các bức tường của nếp nhà này được trang trí
bằng những bức phù điêu cây và thú, đại diện cho bốn mùa với màu sắc sống động.
- Sinh hoạt văn hóa của người Hoa ở Hội Quán
Hàng năm, cứ vào những ngày lễ, tết,… bà con các bang người Hoa ở Hội An lại đổ về sinh
hoạt tại các Hội Quán, không chỉ có con cháu ở gần như: Hội An, Huế, Nha Trang,… mà cả những
người ở ngoại quốc cũng về họp mặt. Chính bởi sự có mặt đông đủ của những người con xa xứ, nơi
đây càng trở nên linh thiêng và ấm áp.
Vào những ngày này, bên cạnh các đồ cúng theo nghi thức của từng lễ lệ, người Hoa các bang
thường làm các món ăn mang đặc trưng văn hóa Trung Hoa, và nhất là các món ăn đặc trưng của
bang mình. Những món ăn này, trước là để cúng, sau là để con cháu cùng thưởng thức để nhớ lại
hương vị đậm đà của quê hương. Điểm qua một số món có trong thực đơn của các Hội Quán vào
những ngày lễ, tết gồm: cơm Dương Châu, canh bát bửu, cà tím chiên xù, món khổ nhục, bánh hộp,
bánh xốp thành giá, xôi ngũ sắc, bánh trôi nước, v.v… Ở mỗi Hội Quán lại có thêm những món ăn
truyền thống của quê hương mình.
Món ăn đặc trưng mà Hội Quán Phước Kiến thường làm vào các ngày lễ, tết đó là món cơm
Dương Châu, món xôi ngũ sắc, món bánh khô Phước Kiến, bún xào Phước Kiến, vịt tiềm bát bửu,
…”.
Hội Quán là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hóa theo tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa, vì
vậy vào những ngay lễ, tết người ta thường có quy định mặc trang phục truyền thống của người Hoa.
Phụ nữ thường mặc áo cổ viền cao, cài khuy một bên, xẻ tà cao hoặc một chiếc áo "sườn xám" may
dài, ôm ngang hông, xẻ tà dưới phần đùi. Màu sắc trang phục của họ, nhất là các thiếu nữ thích màu
18



hồng hoặc màu đỏ, cùng với các sắc màu đậm. Ðàn ông mặc áo màu đen hay xanh đậm, cài khuy vải
một bên, vai liền cổ đứng, xẻ tà hoặc kiểu áo tứ thân, xẻ giữa, cổ đứng, vai liền, có túi. Tuy nhiên,
theo anh Tống Quốc Hưng thì: “Trang phục truyền thống ở Hội Quán người Hoa trong những ngày
tết, ngày lễ thường chỉ thấy ở những người lớn tuổi hay ở những người trong Ban trị sự. Hiện nay, ở
nhiều Hội Quán người ta không bắt buộc phải mặc những trang phục này mà thay vào đó là những
trang phục có tính hiện đại hơn. Đàn ông thì mặc vét, còn phụ nữ thì mặc áo dài”.
- Tín ngưỡng – lễ vía (lễ hội)
Hội Quán người Hoa ở Hội An với chức năng trước hết thờ cúng vị thần linh phù hộ cho cộng
đồng mình theo tín ngưỡng của từng Bang, thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền sáng lập, phát triển Bang ở
trên quê hương/vùng đất mới. Và, đây còn là điểm sinh hoạt của bà con trong cộng đồng Bang nhằm
động viên, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, nhất là lúc ban đầu mới nhập cư tại Hội An. Đối tượng
được thờ tự ở các Hội Quán cụ thể như sau:
Hội Quán Phước Kiến: Hội Quán được thiết lập bởi Bang người Phước Kiến, thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu (một nữ thần phù hộ cho người đi biển); thờ Lục Tánh Vương Gia – tức 6 ông tiền hiền
của bang Phước Kiến (có thuyết cho rằng đây là lục vị/6 vị thần y của Trung Quốc); thờ 3 bà Chúa
Sanh thai và 12 Bà mụ; thờ Phúc Đức Chánh Thần.
Có thể nói, Hội Quán người Hoa ở Hôi An là nơi “hội tụ” khá đầy đủ các hình thái tín
ngưỡng, đáp ứng được nhu cầu đa dạng về văn hóa tâm linh của con người. Đến Hội Quán, người ta
có thể cầu an, cầu sức khỏe, cầu công lý (tín ngưỡng thờ Quan Công); cầu tài, cầu lộc (tín ngưỡng
thờ Thần Tài); cầu bình yên buôn bán trên biển (tín ngưỡng thờ Thiên Hậu, thờ Phục Ba); cầu con,
cầu tự (tín ngưỡng thờ Sinh Thai Tiên Nương), … Điều này lý giải vì sao Hội Quán của người Hoa ở
Hội An lại thu hút đông đảo khách thập phương từ nhiều nơi đến cầu khấn (không chỉ có người Hoa
mà cả người Việt, người ngoại quốc) và trong Hội Quán người ta thắp rất nhiều các vòng hương.
Theo anh Tống Quốc Hưng cho biết: “Đây là những vòng hương do khách thập phương hoặc những
người con trong, ngoài bang đến dâng cúng cho Hội Quán và nhờ thắp hương. Trên mỗi vòng hương
có treo bùa cầu an, cầu lộc, cầu tài,… Trên bùa có ghi tên, tuổi, quê quán và lời cầu khấn của người
dâng hương”).
Tương ứng với các hình thái tín ngưỡng, thờ tự, hàng năm cứ đến ngày vía, ở Hội Quán người
ta lại tổ chức cúng tế linh đình và đó thực sự là ngày hội lớn của Hội Quán người Hoa ở Hội An. Do

giới hạn của đề tài, ở đây chúng tôi xin được trình bày một số tín ngưỡng – lễ hội tiêu biểu mang đậm
nét đặc trưng của văn hóa Trung Hoa.
* Tín ngưỡng – lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu
Tín ngưỡng này xuất phát từ việc những thương nhân người Hoa đi thuyền trên biển để buôn
bán, gặp không ít những thiên tai, sóng gió, nhưng mỗi khi gặp phải tai ương trên biển thì họ thường
được một vị nữ thần cứu vớt, đó là Thiên Hậu Thánh Mẫu, nên tàu bè thoát nạn, thuận buồm xuôi
gió.

19


Tương truyền: Bà là người huyện Bồ Điền, tỉnh Mân (tỉnh Phước Kiến bây giờ). Bà họ Lâm,
tên Mặc Nương. Nhà họ Lâm nhiều đời làm quan, đến đời cha là Duy ý Công cưới bà Vương Thị đã
lâu mà không có con. Sau nhiều lần cầu đảo, mẹ bà thọ thai và sinh bà vào ngày 23/3 đầu năm Kiến
Long nhà Tống (960). Lên 13 tuổi bà được một đạo sĩ truyền cho “Nguyên Trưng Bí Pháp”, năm 16
tuổi được diệu bùa và cảm phép linh thông biến hoá, từ đó bà hay đuổi tà giúp dân nên quần chúng
đều tôn bà là “Linh Hiền Thông Nữ”. Thêm 13 năm sau, vào tiết trùng cửu (9/9 âm lịch), bà lên núi ở
đảo My Châu, giữa ban ngày phi thẳng lên trời. Kể từ đó, bà thường hiển linh cứu dân giúp nước, đặc
biệt là cứu vớt những tàu thuyền gặp nạn trên biển. Ngoài ra, bà còn thu nạp được hai vị thần là Thần
nhìn xa (Thiên Lý Nhãn) và Thần nghe xa (Vạn Lý Nhĩ hay Thuận Phong Nhĩ), hai vị này thường
xuyên nghe nhìn để bẩm báo với bà kịp thời cứu nạn. Để tưởng nhớ công đức của bà, các triều đại
Trung Quốc đều ban sắc phong thờ cúng. Lần sắc phong đầu tiên vào năm Tuyên Hoà thứ 4 đời nhà
Tống (1122) phong là Thuận Tế Phu Nhân, lần cuối vào năm Đạo Quang thứ 19 đời nhà Thanh
(1839) gia phong mỹ tự Hộ Quốc Tý Dân Diệu Linh Chiêu Ứng Hoằng Nhân Phổ Tế Thiên Thượng
Thánh Mẫu. Ở Việt Nam cũng nhiều lần ban sắc cho bà. Minh Mạng năm thứ 7 (1826) phong là
Hồng Từ Bác Nghĩa An Tế Thượng Đẳng Thần, Tự Đức năm thứ 3 (1850) gia phong mỹ tự Hồng Từ
Bác Nghĩa An Tế Phổ Trạch Gia Trang Thiên Phi Thượng Đẳng Thần [40, 155-156].
Về nguồn gốc Thiên Hậu Thánh Mẫu còn có các huyền thoại như sau: Một là, Thiên Hậu
Thánh Mẫu tên thật là Mi Châu, sinh ngày 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), người Phước Kiến,
Trung Quốc. Cha là Lâm Tích Khánh. Tương truyền, cha và hai anh ruột đi thuyền chở muối đến

Giang Tây gặp bão lớn. Lúc đó Bà đang dệt vải cùng mẹ nhưng xuất thần để đi cứu cha và anh. Bà đã
cứu được hai anh nhưng không cứu được cha. Từ đó, mỗi khi thuyền trên biển gặp nạn, người ta đều
cầu khẩn danh hiệu của Bà. Năm Canh Dần (1110), vua Đại Quan nhà Tống sắc phong Bà là: “Thiên
Hậu Thánh Mẫu”. Hai là, Thiên Hậu Thánh Mẫu sinh vào thời Tống Kiến Long (tức Triệu Khuông
Dận) năm thứ nhất 960 (Canh Dần). Bà là con gái của Lâm Nguyên Đô, giữ chức Tuần Kiểm huyện
Bồ Điền, phủ Hưng Hoá, tỉnh Phước Kiến. Khi mới sinh, Bà trang điểm xong thì có một đoàn tiên nữ
xuống rước Bà đi [12, 35-36].
Vào cuối thế kỷ XI, đã bắt đầu xuất hiện tín ngưỡng thờ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu. Bà trở
thành nữ thần hộ mệnh trrên biển khơi khi gặp gian nan nguy hiểm. Khi người Hoa sang Hội An
buôn bán rồi định cư vĩnh viễn tại đây, họ xây dựng Hội Quán để làm nơi sinh hoạt chung của cộng
đồng, đồng thời cũng là nơi thờ những vị thần hiển linh trợ giúp họ trong đó có bà Thiên Hậu Thánh
Mẫu. Bà được thờ ở hầu hết các Hội Quán của người Hoa ở Hội An (Phước Kiến, Trung Hoa, Quảng
Đông).
Hàng năm, cứ đến ngày đản sinh, tại các Hội Quán của người Hoa (chủ yếu ở 2 Hội Quán
Trung Hoa và Phước Kiến) người ta lại tổ chức lễ hội lễ vía linh đình. Lễ vía Thiên Hậu thường được
tổ chức trong hai ngày 22 và 23 tháng 4 âm lịch.

20


* Tín ngưỡng – lễ vía Lục Tánh Vương Gia
Lục Tánh Vương Gia là 6 vị tướng người Phước Kiến trung thành của nhà Minh, đã có công
trong việc chống nhà Thanh gồm: Khâm Vương, Trương Vương, Thuấn Vương, Chu Vương, Hoàng
Vương và Thập Tam Vương. Hồi thế kỷ XVII, triều Minh suy vi, Mãn Thanh đánh chiếm Trung
Nguyên, 6 ông không chịu thuần phục nổi dậy phản Thanh phục Minh và đã bị tử trận. Tưởng nhớ
lòng trung thành nghĩa khí của 6 ông, người ta tạc tượng xây điện thờ cúng. Lục Tánh gốc người
Mân (nay là tỉnh Phước Kiến) nên được người Phước Kiến thờ cúng [45, 153]. Tại Hội Quán Phước
Kiến, trên bức tường bên phải của tiền điện, người ta khắc hoạ một bức phù điêu mô tả cảnh Lục
Tánh đang chiến đấu chống kẻ thù. Tượng của 6 ông được thờ ở phần chính giữa của hậu điện.
Tuy nhiên, ở đây cần hiểu rằng: “Lục Tánh mà người Phước Kiến thờ hoàn toàn khác với Lục

Tánh mà người Minh Hương thờ ở Tuỵ Tiên Đường Hội An, là 6 vị tiền hiền và hậu hiền của cộng
đồng này, mang các họ khác là Nguỵ, Trang, Ngô, Hứa, Thiệu và Ngũ đã có công lao trong việc
thành lập làng Minh Hương ở Hội An vào giữa thế kỷ XVII”.
Thường niên, cứ đến ngày vía, người ta lại tổ chức cúng tế linh đình. Lễ vía Lục Tánh Vương
Gia (Lục Tánh Vương Gia Công bửu đản) là một lễ lệ lớn trong năm của kiều dân bang Phước Kiến
ở Hội An, được tổ chức vào ngày 16/2 âm lịch hàng năm. Lễ hội này thu hút đông đảo quần chúng
tham gia, không những người địa phương mà cả người dân ở nhiều nơi khác như Đà Nẵng, Tam Kỳ,
Huế,…
* Tín ngưỡng – lễ vía Quan Công
Trung Quốc (220 – 280) là thời kỳ phân tranh giữa ba tập đoàn phong kiến Ngụy – Thục –
Ngô, gọi là thời kỳ Tam Quốc. Trong đó, Nhà Ngụy do Tào Tháo cầm đầu, Nhà Thục do Lưu Bị cầm
đầu, còn Nhà Ngô do Tôn Quyền cầm đầu. Nhà Thục có vua Lưu Bị dòng dõi nhà Hán – trên dưới
một lòng vì sự nghiệp khôi phục nhà Hán mà biểu tượng là ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Công,
Trương Phi. Họ vừa là anh em, vừa là vua tôi thề sống chết bên nhau. Nổi bật nhất về trung, tín,
nghĩa, dũng là Quan Công.
Quan Công (160 – 219), người huyện Giải, quận Hà Đông. Lúc nhỏ là con nuôi vợ chồng
người thợ đá họ Thường. Được cha mẹ nuôi thương yêu nên đặt tên là Thường Sinh với mong muốn
luôn đạt điều tốt lành. Lớn lên tướng mạo phi phàm, sức khỏe hơn người, võ nghệ cao cường. Vì
bênh vực bạn mình là Lý Sinh, Thường Sinh bị cha con thái thú Hùng Hổ ức hiếp, truy đuổi nên nổi
giận giết chết thái thú và quân lính. Trong lúc chạy trốn đến cửa thành Bồ Châu, chợt có tên lính gác
hỏi họ tên. Lúc ấy bầu trời có nhiều đám mây trôi nhẹ, một đàn chim yến bay qua rơi một chiếc lông
vũ xuống đất. Thường Sinh liền trả lời: “Tôi tên Quan Vũ, hiệu Vân Trường”. Tên hiệu có từ đấy.
Trong dân gian còn gọi là Quan Công. Quan Công là nhân vật lịch sử, được người đương thời kính
phục. Theo quan điểm tín ngưỡng dân gian, Quan Công chết, hiển thánh và được mọi người tôn thờ
như bậc thánh đế. Quan Công cũng là nhân vật văn học điển hình, được hư cấu nghệ thuật trong tác
phẩm văn học cổ điển chương hồi Trung Quốc nổi tiếng “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung
(1330 – 1400). Sau khi Bàng Thống chết, Gia Cát Lượng đem quân từ Kinh Châu tiếp viện cho Lưu
21



Bị. Việc chủ quản Kinh Châu giao cho Quan Công. Tướng nhà Đông Ngô là Lã Mông lừa Quan
Công, lấy được Kinh Châu. Quan Công bị bắt sống ở phía bắc Mạch Thành (phía đông nam Đương
Dương, Hồ Bắc ngày nay). Tôn Quyền dụ hàng không được, nên đã giết Quan Công lúc ông 58 tuổi
[11, 6-7].
Quan Công là một danh tướng bậc nhất đã có nhiều công lao lớn, phò Hán dẹp Ngô diệt Nguỵ,
nổi tiếng là người trung nghĩa tiết liệt và đức độ nên được người đời tán tụng “Tam Quốc anh hùng
vô đối thủ, nhất trường trung liệt hữu hoàn nhân” (Người anh hùng thời Tam Quốc không ai là đối
thủ, Ngài là người trung liệt, hoàn hảo thuỷ chung). Sau khi mất, Ngài hiển thánh tại Lâm Thư, núi
Ngọc Tuyền. Sau đó, ngài hay hiển linh trừ ma, đuổi tà, giúp nước, cứu đời nên được sắc phong
“Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Chấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân” và được lập
miếu thờ ở nhiều nơi. Ở Việt Nam, vào đầu thời Nguyễn cũng cho dựng miếu Quan Công ở các tỉnh
và ban Sắc phong để thờ cúng. Thần hiệu cao nhất của Quan Thánh được Sắc phong là “Quan Thánh
Đế Quân Hộ Quốc Tí Dân Hiển Hữu Công Đức Dực Bảo Trung Hưng Đại Vương Tôn Thần” [40,
148].
Dân gian thờ Quan Công, chính là thờ triết lý sống nghĩa khí, trung tín, học tập khí chất cao
thượng vì nghĩa quên mình của thánh nhân. Việc tôn thờ một danh tướng hiển thánh của Trung Quốc
trên quê hương Hội An là một sinh hoạt tâm linh mong muốn giáo dục lòng trung nghĩa trong cộng
đồng người Việt, người Hoa, làm phong phú đời sống tinh thần. Hội An từng là thương cảng, nơi
thường xuyên diễn ra các việc hợp đồng buôn bán. Để làm tin trong giao dịch nợ nần vay mượn cần
có nơi thề nguyền, cam kết, Quan Thánh Đế Quân ở Hội An được nhân dân sùng bái chính là bậc
Thánh biểu tượng của Trung – Tín – Nghĩa – Khí, Trừ ma diệt ác, là đỉnh cao của đạo làm người. Vì
thế, tại những nơi thờ Quan Thánh luôn được các thương nhân dùng làm nơi giao dịch để Ngài chứng
giám với ý nghĩa “trọng tài – toà án kinh tế”, đồng thời trừng phạt tráo trở.
Hàng năm, vào ngày 24/6 âm lịch, tại Hội Quán Quảng Đông của người Hoa người ta lại tổ
chức lễ vía Quan Thánh Đế Quân và đây là một trong những lễ hội lớn được tổ chức tại Hội Quán,
thu hút sự tham gia của không chỉ bang chúng trong Bang mà còn cả đông đảo bà con các bang khác
cũng như cư dân địa phương và khách thập phương.
 Nhà cổ Phùng Hưng:
+ Ngôi nhà toạ lạc tại số 4 đường Nguyễn Thị Minh Khai, chỉ cách chùa cầu vài chục mét,
được xây dựng cách đây khoảng 220 năm khi Hội An còn là một thương cảng phồn thịnh bậc nhất

vào thế kỷ thứ 19. Đây là một trong những ngôi nhà tiêu biểu cho kiểu nhà của các thương gia trong
khu đô thị Việt Nam những trong những năm giữa thế kỷ 19.
+ Được công nhận là Di Tích Lịch Sử Văn Hoá cấp quốc gia năm 1993, ngôi nhà đã lưu giữ
được rất nhiều tư liệu quý giá về kiến trúc, văn hoá, nghệ thuật cũng như lối sống của cư dân Hội An
trong thời thịnh vượng.
+ Nhà cổ Phùng Hưng là một minh chứng cho phong cách nhà ở cổ truyền Hội An thế kỷ thứ
19. Nhà có hình ống với một mặt tiền thoáng đãng, rộng rãi. Nhà không dài như những ngôi nhà khác
22


thuộc phong cách cổ hơn. Vật liệu chính vẫn là gỗ, được xây 2 tầng 4 mái. Tầng trệt trước đây là cửa
hàng của gia chủ chuyên buôn bán các mặt hàng như trầm, quế, muối,đồ sứ ký kiểu Trung Quốc...,
nay được dùng làm phòng khách với những tủ gỗ cổ kính chứa đựng rất nhiều hiện vật quý hiếm.
+ Nhà có tổng cộng 80 cột gỗ quý. Mỗi cột được dựng trên nền đá hình hoa sen nhằm mục
đích chống ẩm và mối mọt. Mái hiên nhà hay tiền đàn được dựng những cây cột hình vuông và lợp
ngói. Tầng hai có hệ thống hành lang rộng bằng gỗ bao quanh. ở giữa mặt nền là 1 lỗ hổng hình
vuông dùng để đưa các vật dụng trong gia đình lên tầng trên khi lũ lụt kéo đến. Tầng này hiện nay
còn được dùng để thờ cúng ông bà tổ tiên của chủ nhà cũng như thờ cúng bà Thiên Hậu Thánh Mẫu.
Phía trước khu vự thờ cúng là một chiếc bàn rất đặc biệt. Trên bàn luôn luôn có 1 cái bát và 7 hột súc
sắc làm bằng đá cẩm thạch. Đây là những vật dụng của vị chủ nhà khi ông muốn chọn ngày lành
tháng tốt đế xuất hành cho những chuyến buôn hàng xa.
+ Kiến trúc của ngôi nhà này đại diện cho sự kết hợp hài hoà giữa 3 trường phái kiến trúc của
Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Hầu hết các hình tượng chàm trổ trên các cột gỗ cũng như các
đố bản, vì kèo của ngôi nhà đều là các tuyệt tác của những nghệ nhân làng môck Kim Bồng nổi tiếng.
 Nhà cổ Tấn Kí:
+ Mỗi ngôi nhà cổ ở Hội An là một cá thể nổi bật trong quần thể kiến trúc khu phố cổ nên rất
dễ dàng ấn tượng rằng mỗi hạt nhân cỏ bản của quần thể ấy là một bảo tàng sống bởi tự bao đời nay
thị dân Hội An vẫn sống cuộc sống đời thường ngay trong lòng khu phố cổ, họ gắn bó máu thịt với
từng công trình kiến trúc với lối sống đặc trưng của vùng đất mình. Nhà cổ TK, công trình kiến trúc
tiêu biểu mang những nét tinh hoa của đời sống người Hội An xưa với một mặt hướng song một mặt

hướng chợ theo quan niệm nhất cận thị, nhị cận sông. Mặt tiền là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt
sau thông với sông để làm nơi xuất nhập hàng hoá. Vật liệu trang trí nội thất chủ yếu của công trình là
những loại gỗ quý được trạm trổ tinh vi hình rồng hình hoa quả vv thể hiện sự sung túc của chủ nhà.
Nhà cổ TK chứng kiến sự ra đời và sinh sống của 7 thế hệ gia đình và theo niên đại của gia đình nhà
cổ Tk là một trong những ngôi nhà còn lại nguyên vẹn và đẹp nhất Vn hiện nay. Căn nhà được dựng
nên bởi các nét kiến trúc đa quốc gia: Việt, Hoa, Nhật. Ở đây ta có thể thấy các chhi tiết của kiến trúc
NB thể hiện qua kiến trúc chồng rường giả thủ, kiến trúc THoa đan xen với hình ảnh thanh kiếm vắt
chéo dải lụa, kiến trúc VN cũng khônh thể thiếu trong căn nhà thể hiện qua những nét kiến trúc trên
tầng hai với mái ngói âm dương.
+ Nhà cổ TK với hệ thống cửa thượng song hạ bản, dễ dàng di chuyển trong nhà có thể mát
vào mùa hè, ấm vào mùa đông, cánh cửa có thể tháo rời ra được. Với bậc cửa mà khi khách nhìn
xuống thể hiện sự tôn kính của khách đối với gia chủ. Ở ngay bên trên cửa ra vào, ngay trên mặt
đường của mỗi ngôi nhà cổ ta thường thấy hai khoang gỗ tròn giống như đôi mắt của ngôi nhà được
gọi là mắt cửa. Mắt cửa có đường kính khoảng 20 cm, bề dày khoảng 10cm thường được chạm khắc
hình tròn lưỡng cực âm dương với các vạch bát quái xung quanh là các hoạ tiết mềm như tám cánh
của hoa cúc. Người HA quan niệm rằng: con người con vật đều cần có mắt để nhìn đời, nhìn vào sâu
thẳm lòng mình thì những vật gắn liền với vận mạng của con người cũng cần có mắt. Đôi mắt là thần
23


thái của ngôi nhà, là linh hồn của mỗi ngôi nhà cổ, phản ánh ước mơ mãi phát đạt, cuộc sống gia đình
đầm ấm.
+ Thưa quý khách một điều dễ thấy là tất cả những ngôi nhà cổ ở HA đều có hình ống lấy bộ
sườn nhà làm cơ sở chịu lực. Bộ sườn ấy được cấu thành bằng việc liên kết các vì kèo. Việc liên kết
ấy được thực hiện bởi các con dầm dọc gọi là những con kèo, nhữnh thanh dầm ngắn nằm ngang gọi
là những con rường. NCTK gồm nhiều nếp nối với nhau, nếp thứ nhất gồm 6 hàng cột tạo thành 3
gian, 2 gian hai bên và gian giữa. Xuất xứ của những tảng đá nằm dưới chân cột kia được chở về từ
Thanh Hoá, chỉ có loại đá chắc khoẻ này giúp cho các thanh cột tránh được mục ruỗng. Nóc nhà chia
thành 2 phấn: phần sát hiên kiến trúc theo kiểu cột trốn kẻ chuyền, các cột trốn bằng cách mọc lên từ
những thanh xà ngang, gồm 3 hàng cột và hàng cột hiên. Tiếp theo hàng cột 4,5 kiến trúc theo kiểu

chồng rường giả thủ, giữa hàng cột 5 và 6 là trần vỏ cua.
+ Và đây là gian đọc sách, là nét mới của nhà cổ TK mà những nhà cổ khác ở HA không có
được. Như chúng ta đã biết việc trao đổi buôn bán hàng hoá đóng vai trò quan trọng trong đời sống
người HA xưa nhưng ở đây ta thấy thể hiện một cái nhìn xa xôi, tầm nhìn thay đổi nghề nghiệp. Chủ
nhân của NCTK đã hướng con cái mình vào sự nghiệp học hành. Nhà cổ này có hành lang dài, đến
thế hệ thứ 4 sinh sống ở đây đã xây dựng cầu thang đứng. Gian thờ tổ tiên bức phù điêu trên 3 đẳng
cấp: tùng, cúc, trúc, mai thể hiện tính cách của người quân tử, mây là biểu tượng của quan lại, rồng là
biểu tượng của hoàng tộc. Nhà cổ TK còn lưu lại rất nhiều đồ vật mang kiến trúc tiêu biểu của người
HA xưa: bàn ghế cổ, tranh tứ bình, đồ sứ niên đại tk 17, 18. Đến đây tham quan du khách sẽ đựoc
chiêm ngưỡng chén Khổng Tử, một loại chén với bề ngoài trang trí đơn giản theo kiểu Trung Hoa
nhưng lại là một loại chén đặc biệt. Khi rót nước gần đầy thì phải dừng lại vì quá 80% nước sẽ tự tiêu
hết. Theo Khổng Tử, chén cũng là đạo lí, muốn con người kiềm chế hành vi và giữ cho ý nghĩ luôn ở
trạng thái trung hoà. Khổng Tử muốn dạy học trò của mình rằng cái gì cũng phải vừa phải, không nên
cầu toàn, cái gì cũng có ranh giới và giới hạn của nó. Đôi liễn trên có chạm khắc 100 nét sổ là 100
con chim Khổng Tước, nửa như muốn, nửa như không muốn nâng cánh lên bầu trời và còn giữ
nguyên được đôi câu trên bức hoành phi:
Bích xình thuỳ dương thiên lí vũ
Thập phân minh nguyệt nhất lầu thư
Và tạm dịch là:
Hàng dương chỉ dài trăm thước mà đón được mưa rơi từ ngàn dặm
Một vầng trăng chỉ rộng mười phân mà rọi sang cả lầu thơ
+ Nếp thứ 4 chạy dọc sân trời, những ngôi nhà hình ống ở HA thường chung tường với nhau
và ít cửa sổ vì vậy để thông thoáng cũng như tuân theo quy luật tam tài của người phương Đông:
thiên thời, địa lợi, nhân hoà, chủ nhân của NCTK để một gian chính giữa để đón lấy bầu trời, được
gọi là sân trời gồm hai tầng kết cấu cũng theo lối chồng rường giả thủ nhưng nhỏ hơn. 2 cột vuông
trên hai tảng đá vuông với các tai cột chạm khắc hình con sóc, hòm thư, quả lựu, quả phật thủ, con
dơi. Có thể nói them rằng các hình chạm khắc này đều có ý nghĩa biểu trưng của nó: con dơi là biểu
24



tượng của hạnh phúc, hòm thư là biểu tượng của học hành, quả lựu là biểu tượng của thật nhiều con
cái, phật thủ tượng trưng cho ngũ quả: cầu, xung, dừa, đủ, xoài. Đi hết nếp thứ2, nếp thứ 3 lại xoay
ngang gồm 4 hàng cột ăn thông lên mái. Bây giờ là thời gian tự do tham quan, chúc quý khách có một
khoảng thời gian tham quan bổ ích và lí thú.
 Bảo tàng văn hóa dân gian :
Vị trí bảo tàng Văn hóa Dân gian Hội An nằm tại số 33 Nguyễn Thái Học. Bảo tàng được triển
khai tại 33 - Nguyễn Thái Học, là ngôi nhà cổ lớn nhất trong Đô thị cổ có chiều dài 57 mét, chiều
ngang 9 mét, hai tầng sàn bằng gỗ thông 2 mặt phố Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng
Bảo tàng Văn hoá Dân gian Hội An được bắt đầu mở cửa đón
khách vào ngày 24/3/2005. Nguyên đây là ngôi nhà cổ điển hình
trong Đô thị cổ, có chiều dài 57m, chiều ngang 09m, gồm hai tầng,
sàn bằng gỗ, thông hai mặt phố Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng.
Ở tầng 2, Bảo tàng trưng bày 490 hiện vật, giới thiệu về bốn
chủ đề chính: Nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật diễn xướng
dân gian, ngành nghề truyền thống và sinh hoạt dân gian. Ở tầng 1,
gồm các hoạt động trình diễn khá sống động minh hoạ cho những giá trị Văn hoá Dân gian Hội An.
Bảo tàng được coi là thiết chế văn hoá đặc biệt và hiếm hoi trong khu vực. Bằng những hình ảnh,
hiện vật gốc và các hoạt động trình diễn Bảo tàng Văn hoá Dân gian đã thể hiện các giá trị thuộc văn
hoá phi vật thể, giới thiêụ về bề dày truyền thống văn hoá, sự sáng tạo, những đóng góp của các thế
hệ cư dân địa phương trong quá trình xây dựng phát triển vùng đất Hội An.
Hằng năm Bảo tàng đã đón trên mười nghìn lượt khách trong nước và quốc tế.Bảo tàng mở
cửa tất cả các ngày trong tuần, riêng ngày 20 hàng tháng đóng cửa để thực hiện công tác chuyên môn
nghiệp vụ.
 Xưởng thủ công mỹ nghệ Hội An :
(Số 9, Nguyễn Thái Học, Thị xã Hội An, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam)
Xưởng quy tụ hầu hết các ngành nghề thủ công truyền thống của Hội An và Quảng Nam như
dệt chiếu, dệt vải, gốm, sơn mài… Xưởng toạ lạc tại ngôi nhà cổ có tuổi đời trên 200 năm. Nơi đây
trước kia vốn là nơi buôn bán thổ sản nổi tiếng khắp miền Trung. Vào thăm xưởng, du khách sẽ hình
dung về khung cảnh thanh bình êm ả của một làng quê Việt Nam, được tận mắt chứng kiến đôi bàn
tay khéo léo và kỹ năng tuyệt vời của các nghệ nhân trong việc tạo nên những sản phẩm mỹ nghệ tinh

xảo, đặc sắc đồng thời sẽ còn có cơ hội xem chương trình biểu diễn nghệ thuật dân gian của Quảng
Nam và các tỉnh miền Trung.
Từ những năm của thế kỷ 15 –16, theo chân những đoàn lưu dân nền văn minh sông Hồng,
sông Mã mở đất về phương Nam, nhiều nghề thủ công truyền thống đã ra đời và phát triển mạnh mẻ
trên đất Hội An. Cha truyền con nối trải qua hàng trăm năm, sản phẩm của những nghệ nhân các làng
nghề Hội An không dừng ở phạm vi phục vụ nhu cầu cuộc sống thường nhật, mà sự sáng tạo của họ

25


×