Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BAO TANG DIEU KHAC CHAMPA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.11 MB, 25 trang )

2/ Bão tàng điêu khắc Chămpa:

 Vài nét khái quát về vương quốc Chăm pa:


- Trước khi vào tham quan bảo tàng, tôi sẽ giới thiệu vài nét khái quát về lịch sử và văn hóa Chăm
pa cho đoàn chúng ta hiểu được phần nào về Chăm pa. Như vậy, khi tham quan chúng ta sẽ dễ dàng tiếp
cận hơn với các hiện vật trong bảo tàng.
- Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính: Các di tích còn lại
bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công
trình chạm khắc đá; các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các công
trình bằng đá; các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn bản khác
liên quan còn lại.
- Trên dải đất Việt Nam ngày nay vào thời xưa đã từng tồn tại ba quốc gia. Về đại thể thì miền bắc
là lãnh thổ Đại Việt, miền trung là địa bàn của vương quốc Chămpa và miền nam là một phần lãnh thổ
của vương quốc Phù Nam. Các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học, dân tộc học, sử học… ngày càng
chứng minh rõ ràng hơn về cội nguồn của ba quốc gia cổ đại ấy. Có thể nói một cách khái quát là văn
minh Đại Việt bắt nguồn từ văn hóa Đông Sơn, văn minh Chămpa phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh, văn
minh Phù Nam mà một phần quan trọng là văn hóa Óc Eo.
- Vào thời ấy lãnh thổ, biên giới giữa các quốc gia cổ đại luôn là vấn đề không bao giờ rành mạch
rõ ràng. Tuy vậy nếu theo phân bố hành chánh ngày nay thì có thể coi các tỉnh ven biển miền Trung – từ
Quảng Bình đến Bình Thuận – và các tỉnh khu vực Tây Nguyên là thuộc địa bàn của vương quốc
Chămpa cổ xưa.
- Lịch sử Chăm Pa độc lập được khởi đầu khoảng cuối thế kỷ thứ 2 và kết thúc vào khoảng cuối thế
kỷ 17. Trước thế kỷ 2, vùng đất của người Chăm đã được nhắc đến trong sử sách với tên Hồ Tôn Tinh,
rồi tên Tượng Lâm khi nằm dưới sự thống trị của Trung Hoa. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền
Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18, Chăm Pa
nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn cho đến lúc Chăm pa trở thành một bộ phận của Việt Nam.
- Năm 192, một số bộ tộc sống ở khu vực thuộc Huế ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Khu Liên ( tức
Sri Mara) nổi dậy lật đổ sự đô hộ của Trung Hoa, xây dựng Vương quốc Chăm Pa, lúc bấy giờ gọi là
Lâm Ấp. Thủ đô của Lâm Ấp nằm ở vùng Trà Kiệu bây giờ. Người Chăm Pa, hay người Chàm, là


những người đã đến từ các đảo của Malaysia và Polynesia; ngôn ngữ của họ, tiếng Chàm, thuộc nhóm
Malaysia-Polynesia của hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Sau khi thành lập, Vuơng quốc Chăm Pa tìm cách mở
rộng biên giới bằng vũ lực, phía Bắc lấn chiếm đất của người Việt, phía Nam đô hộ những vương quốc
theo Ấn Độ giáo.
- Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9, Chăm Pa trở thành một quốc gia hùng mạnh, lãnh thổ kéo dài từ
Hoành Sơn ở phía Bắc đến sông Đồng Nai ở phía Nam, được sử sách Trung Hoa ghi nhận với tên gọi
Hoàn Vương Quốc.
- Cuối thế kỷ thứ 9, Chăm Pa dời thủ đô từ Panduranga ở miền Nam đến Indrapura ở miền Bắc.
- Từ đây cho đến thế kỷ 15 về tổ chức xã hội, hệ thống chính quyền, lễ nghi Chăm Pa ảnh hưởng
văn minh Phạn Ngữ, Bà La Môn. Trong thời kỳ này các vua Chăm Pa cũng cho xây dựng nhiều đền đài
Bà La Môn Giáo ở Mỹ Sơn.


- Trước quá trình Nam tiến mãnh mẽ của Đại Việt thì lãnh thổ của Chăm pa đã dần dần gia nhập
vào Đại Việt. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đã đánh thắng quân Chiêm và thu được phần lớn đất đai
của Chăm pa. Đến lúc này thì xem như vương quốc Chăm pa đã chấm dứt sự tồn tại của mình như một
quốc gia độc lập. Từ lúc này trở đi, Chăm pa phải tiếp tục lùi dần, lùi dần để rồi chấm dứt hẳn sự tồn tại
của mình như một nước chư hầu vào năm 1832.
- Theo sự nghiên cứu của các học giả thì cho rằng Chăm pa không phải là một quốc gia thống nhất
mà đây là một quốc gia được tạo nên bởi nhiều tiểu quốc ( gọi là thiết chế mandala) trên nền tảng văn
hóa và ngôn ngữ chung. Vương quốc này bao gồm 5 tiểu vương quốc là: Indrapura (vùng Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay), Amaravati (vùng Quảng Nam ngày nay), Vijaya (vùng Bình
Định ngày nay), Kauthara (vùng Phú Yên, Nha Trang ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và
Bình Thuận ngày nay).
- Người Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa và
Cau. Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai
bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp
thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải
quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân
- Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ của vương

quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông Nam Á. Tín
ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay.
- Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ theo Ấn Độ
giáo, quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc. Tôn giáo chính của người
Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể là Brahma – Visnu – Siva. Tuy
nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả. Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ
Sơn đã tôn Siva là Chúa tể của muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng
mẫu tượng sinh thực khí nam giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng
Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn giáo Ấn Độ,
người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra
đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền, các quốc vương Chămpa thường được đồng
nhất với thần Siva.
- Qua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa chủ yếu dựa
vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại.
- Qua các thông tin mà tôi vừa cung cấp đó, có lẽ phần nào cũng đã giúp cho quý khách hình dung
những nét khái quát nhất về vương quốc Chăm pa. Nhìn chung, Chăm pa thực sự là một quốc gia đã có
được sự phát triển nhất định về các mặt chính trị., kinh tế, văn hóa trong một thời kì lịch sử nhất định.
Đến bây giờ thì người Chăm hiện đại vẫn còn giữ lại được những sinh hoạt kinh tế, văn hóa truyền
thống của cha ông mình. Và một điều mà chúng ta dễ nhận thấy nhất trong số các di sản mà người Chăm
để lại cho chúng ta ngày nay thì nổi bật nhất, đặc sắc nhất, độc đáo nhất là kiến trúc và điêu khắc. Chính
kiến trúc và điêu khắc đã đem lại sự “nổi tiếng” cho dân tộc Chăm, mang dân tộc Chăm đến với cả thế


giới. Trên khu vực miền Trung này thì có rất nhiều tháp Chăm vần còn tồn tại và chúng ta có thể chiêm
ngưỡng chúng ở Quảng Nam, Bình Định, Nha Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận. Còn về các tác phẩm
điêu khắc thì chúng đã được đưa về trưng bày rải rác ở các bảo tàng ở Việt Nam. Tuy nhiên không có
bảo tàng nào là độc đáo và đặc sắc như Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Đây là bảo tàng có những
bộ sưu tập vô cùng độc đáo của nền điêu khắc Chăm. Và trước khi chúng ta chiêm ngưỡng những kiệt
tác điêu khắc Chăm thì chúng ta sẽ tìm hiểu đôi nét về lịch sử hình thành bảo tàng điêu khắc Chăm Đà
Nẵng.


Lịch sử bảo tàng Chăm:
- Bảo tàng điêu khắc Chăm là nơi lưu giữ một bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc Chăm phong phú
nhất. Bảo tàng được ông Henry Parmentier – kiến trúc sư trưởng và là trưởng khoa khảo cổ học của
trường Viễn Đông Bác Cổ - E’cole Francaise d’extreme Orient ( EFEO) xây dựng nên.
- Người có công đầu trong việc sưu tầm những tác phẩm điêu khắc Chămpa để tập trung trưng bày
tại Lejardin de Tourane ( Vườn hoa thành phố Tourane – tên gọi cũ của Đà Nẵng) là Charle Lemire _
công sứ tỉnh Quảng Nam năm 1892. Trước đó, vào năm 1885 lúc còn là công sứ tỉnh Bình Định , ông
được mời tham gia một cuộc sưu tầm những tác phẩm điêu khắc Chăm pa để cùng với những tác phẩm
nghệ thuật khác được tìm thấy ở Đông Dương, mang về trưng bày tại Pháp theo chỉ thị của Bộ giáo dục
và mỹ nghệ Pháp thời thuộc địa.
- Công việc thu thập và chuyên chở những hiện vật ở Trà Kiệu-Duy Xuyên và Khương Mỹ - Núi
Thành của tỉnh Quảng Nam về trưng bày tại Lejardin de Tourane được thực hiện vào những năm 1891 –
1892, tập trung trên một ngọn đồi nhỏ bên cạnh bên cạnh chùa Long Thủ ( nay là chùa An Long nằm
phía sau bảo tàng Chăm thuộc quận Hải Châu - Đà Nẵng), là nơi mà sau này bảo tàng được xây dựng.
Sau đó thì ông Camille de Paris đã cho sưu tầm thêm một số hiện vật phát hiện trong tỉnh Quảng Nam,
nâng số hiện vật trưng bày tại Lejardin de Tourane lên đến gần 100 tác phẩm.
- Năm 1902, chỉ hai năm sau khi thành lập trường Viễn Đông Bác Cổ - E’cole Francaise d’extreme
Orient ( EFEO) tại Hà Nội, các nhà chuyên môn đã nảy ra ý định xây dựng một bảo tàng trưng bày
những tác phẩm điêu khắc Chămpa tại Tourane, dưới hình thức một kho bảo quản trực thuộc đội khảo cổ
của trường. Nhưng ý định này vấp phải vô vàn trở ngại bởi ý kiến bác bỏ của những viên khâm sứ và
toàn quyền đương thời.
- Năm 1912, toàn quyền Sarraut ra quyết định chuyển tất cả hiện vật trưng bày tại Lejardin de
Tourane về bảo tàng mới thành lập của EFEO tại Hà Nội. Quyết định này đã gặp phải sự phản đối quyết
liệt của Hội đồng thành phố Tourane. Dựa vào sự phản đối này, hội đồng khảo cổ học của EFEO bày tỏ
ý muốn tập trung trưng bày những tác phẩm điêu khắc ở Đà Nẵng chứ không ở Hà Nội. Cuối cùng đơn
xin của ông giám đốc EFEO vào tháng 7/ 1915 đã được chính phủ thuộc địa chấp thuận giải quyết.
- Thuở ban đầu, bảo tàng chỉ là một kiến trúc hình chữ nhật với diện tích khiêm tốn tương ứng với
phòng Trà Kiệu ngày nay và những hành lang bao quanh phòng này được hoàn tất vào tháng 5/ 1916 .
Việc trưng bày nội dung mãi đến đầu năm 1918 mới xúc tiến và được hoàn tất vào tháng 2/ 1919 . Xét ra

đây là kết quả của một quá trình cố gắng liên tục trong gần 17 năm ròng của trường Viễn Đông Bác Cổ.


- Kiến trúc của bảo tàng được thiết kế bởi hai kiến trúc sư Delaval và Auclair, là một sáng tạo dựa
trên những mô típ phổ biến, đặc trưng trong kiến trúc Chăm (như những đường gờ chạy quanh chân
tường và các cột trụ, kiểu mái nhà) và dựa trên các nguyên tắc truyền thống của kiến trúc Pháp vào đầu
thế kỉ XX , tuy đơn giản nhưng độc đáo. Ngày nay, nó được đánh giá là một trong những bảo tàng có
kiến trúc độc đáo nhất Đông Nam Á .
- Bảo tàng được xây dựng theo hướng mở, đó là điều khác biệt với các bảo tàn khác (các bảo tàng
thường được xây dựng theo hướng khép kín). Đó là do các tác phẩm điêu khác Chăm pa phần lớn đều
được đăti ở các công trình đền tháp, đã có một thời gian hàng trăm năm ở ngoài trời, vì thế việc xây
dựng theo hướng mở là để các tác phẩm có thể hút được ánh nắng mặt trời và dần dần thích nghi được
với môi trường trong nhà.
- Thời kì đầu, bảo tàng mang tên nhà khảo cổ học Henry Parmentier _ là người đã thiết kế và trưng
bày nội dung cho bảo tàng. Ông cũng là nhà khoa học đã cống hiến nhiều công trình giá trị về nghệ
thuật Chăm pa. Bấy giờ bảo tàng trưng bày những tác phẩm tập trung tại Lejardin de Tourane được sưu
tầm bởi Charle Lemire và Camille de Paris từ Trà Kiệu, Khương Mỹ, Phong Lệ…cùng với những tác
phẩm được khai quật bởi EFEO tại Mỹ Sơn, Đồng Dương, Chánh Lộ, La Nghi.
- Trong những năm 1920 – 1930 các cuộc khai quật tại Trà Kiệu, Bình Định của ông Jean Yues
Claeys _ một kiến trúc sư làm việc tại sở Công chánh Đông Dương, thành viên tạm thời của L’EFEO đã
làm tăng thêm rất nhiều các tác phẩm điêu khắc được gởi đến Đà Nẵng. Bảo tàng vốn đã chật hẹp nay
lại càng thêm nhỏ bé hơn với số lượng mới. Tương lai của bảo tàng trở nên không ổn định vì thế chính
quyền thành phố lúc bấy giờ đã tìm mọi cách để đảm bảo cho bảo tàng không bị giải thể và bộ sưu tập
không bị chuyển đến một bảo tàng mới đang được L’EFEO xây dựng tại Hà Nội ( nay là bảo tàng lịch
sử Việt Nam). Một cuộc trưng cầu ý kiến diễn ra quyết liệt giữa các bên là Chính quyền thành phố,
trường Viễn Đông Bác Cổ, Chính quyền An Nam và toàn quyền Đông Dương. May mắn thay, kết luận
cuối cùng là vẫn giữ lại bộ sư tập tại bảo tàng Đà Nẵng và được mở rộng thêm bảo tàng
- Đến 1935, bảo tàng được nới rộng thêm hai cánh hai bên để trưng bày thêm một số lớn tác phẩm
mới được khai quật bởi nhà khảo cổ J.K.Claeys tại Trà Kiệu năm 1927 – 1928 và tại Tháp Mẫm ( trong
thành Chà Bàn – Bình Định ) năm 1934. Ngày 31/3/1936 bảo tàng mới được khánh thành rất hoành

tráng với tên gọi “ Bảo tàng Henry Parmentier” với sự tham gia của vua Bảo Đại, Toàn quyền Đông
Dương và giám đốc L’EFEO. Bảo tàng lúc này trưng bày các hiện vật được tìm thấy ở các di tích như:
Mỹ Sơn, Đồng Dương, Trà Kiệu, Tháp Mẫm, quảng Nam, Bình Định, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng
Bình, Kon Tum. Bảo tàng có thêm một kho bảo quản hiện vật và một thư viện
- Năm 1963, bảo tàng được đổi tên thành “ Bảo tàng Đà Nẵng”. Từ năm 1975, bảo tàng đã thay đổi
tên gọi và thuộc sự quản lí của ngành Văn hóa – Thông tin địa phương. Tên gọi hiện nay của bảo tàng là
“ Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng”. Năm 2000, nhằm tạo điều kiện cho bảo tàng trưng bày giới thiệu
một số lượng lớn các tác phẩm điêu khác được tìm thấy từ sau 1975 và để có thêm diện tích xây dựng
phục vụ cho các hoạt động của bảo tàng , UBND thành phố Đà Nẵng quyết định cho mở rộng thêm hơn
2000 m2 tại phía sau của tòa nhà bảo tàng. Phần xây dựng mới này đã hoàn thành vào cuối năm 2002,


được thiết kế dựa theo phong cách kiến trúc mà Henry Parmentier đã thể hiện trên bảo tàng cũ trước
đây.
- Hiện nay, bảo tàng đang trưng bày khoảng hơn 400 tác phẩm điêu khắc chủ yếu bằng chất liệu sa
thạch, ngoài ra còn có một số tác phẩm bằng đất nung và một tác phẩm bằng đồng – chúng đại diện cho
hầu hết các phong cách tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc Chăm cổ từ VII - XV

Bố cục trưng bày của bảo tàng điêu khắc Chăm:
- Hiện nay các tác phẩm điêu khắc tại bảo tàng được bố trí trưng bày tại hai tòa nhà lớn:
+ Tòa nhà phía trước: bao gồm các phòng trưng bày và các hành lang mang địa danh đã sưu tầm
được các tác phẩm từ những năm đầu thế kỉ XIX đến trước 1975 gồm:
- Phòng Trà Kiệu
- Phòng Mỹ Sơn
- Phòng Đồng Dương
- Phòng Tháp Mẫm
- Hành lang Quảng Nam
- Hành lang Quảng Ngãi
- Hành lang Quảng Bình
- Hành lang Bình Định

+ Tòa nhà phía sau: bao gồm 2 phần trưng bày:
- Phía dưới là phần trưng bày các tác phẩm điêu khắc thuộc nhiều thể loại được sắp xếp theo các bộ
sưu tập mang địa danh đã có tác phẩm được đưa về bảo tàng như: Sưu tập Quảng Trị, sưu tập Bình Định
– Tháp Mẫm, sưu tập Chiên Đàn, sưu tập Quá Giáng – Khuê Trung, sưu tập Trà Kiệu, sưu tập An Mỹ,
sưu tập Phú Hưng, sưu tập Quảng Nam.
- Phía trên là phần trưng bày bộ sưu tập ảnh, y phục, nhạc cụ, lễ hội Ka tê của người Chăm ở Ninh
Thuận.

Phòng Trà Kiệu:
Trà Kiệu thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng 50 km
về hướng tây nam. Trà Kiệu được xác định là kinh đô của vương quốc Champa ở thời sơ kỳ. Theo sử liệu
ghi lại, đây là kinh đô đầu tiên và cổ nhất của Champa, được xây dựng vào cuối thế kỉ IV dưới triều vua
Bhadresvara với tên gọi Sinhapura, nghĩa là Thành phố Sư Tử.
Năm 1927-1928, J.Y.Claeys đã tiến hành khai quật khu di tích này. Hiện tại có 43 tác phẩm, phần
lớn có niên đại thế kỉ VII-VIII và XI-XII đang được trưng bày tại phòng Trà
Kiệu của bảo tàng Điêu Khắc Chăm.
1. Đài thờ Linga-Yoni.
Niên đại : Thế kỉ VII - VIII.
Chất liệu : Đá sa thạch .
Kí hiệu :[2.2].
Xuất xứ: Trà Kiệu.
Đài thờ gồm phần cột hình trụ bên trên, chia làm ba phần gọi là Linga, và phần bệ hình vuông có
rãnh dẫn nước nằm bên dưới gọi là Yoni. Linga theo tiếng Phạn cổ thường được hiểu là một hòn đá dựng
lên tượng trưng cho dương vật. Thần Siva có mười hai biểu tượng, trong đó Linga là biểu tượng nổi tiếng
nhất, tượng trưng cho năng lực sáng tạo siêu việt của thần. Yoni cũng có nguồn ngốc từ tiếng Phạn,
nguyên nghĩa là “ Bầu vú, nguồn gốc”.


Trong những đài thờ kết hợp Linga và Yoni, Linga tượng trưng cho nguyên lí dương và Yoni
tượng trưng cho nguyên lí âm. Sự giao hoà âm – dương là nguồn gốc của sự sinh sôi nảy nở của vạn vật

trong vũ trụ và cũng là một nét đặc trưng trong tập tục thờ cúng của các cư dân nông nghiệp.
Vào ngày lễ, tại thánh địa người ta thường lấy “nước thánh” tưới lên đầu linga nước chảy xuống
joni và qua đường rãnh chảy xuống đất thể hiện sự sinh sôi nảy nở của muôn loài.
2. Đài thờ Trà Kiệu.
Niên đại : Thế kỉ VII - VIII.
Chất liệu : Đá sa thạch.
Kí hiệu : [22.2].
Xuất xứ: Trà Kiệu.
- Nét khác biệt lớn nhất của nền điêu khắc Chămpa so với các thể loại
điêu khắc ở khu vực Đông Nam Á đó là ở đây có các đài thờ, xung quanh có các chim thần.
- Kết cấu hiện tại của đài thờ gồm hai phần:
- Phần bên trên gồm hai thớt tròn, được trang trí với những cánh hoa sen cách điệu trên và dưới đối
xứng nhau. Thớt phía trên thể hiện Yoni, với rãnh và vòi dẫn nước, ôm lấy một linga.
- Phần bên dưới là một đế thờ hình vuông gồm bốn mặt với vô số hình người được chạm khắc tinh
xảo.
Hiện có nhiều ý kiến xoay quanh ý nghĩa của đài thờ này. Năm 1930, Przyluski cho rằng những
trang trí trên bốn mặt của đài thờ minh hoạ truyền thuyết việc thành lập nước Phù Nam. Một năm sau đó,
Coedes đã bác bỏ giả thuyết này, và cho rằng các cảnh của đài thờ thể hiện những giai đoạn khác nhau
của cuộc đời thần Krishna như được kể trong Bhagavata Puruna. Cũng có nhiều ý kiến khác cho rằng đài
thờ kể chuyện một trích đoạn trường ca Ramayana, chủ đề là lễ cưới của nàng Sita với hoàng tử Rama.
Từ những hình tượng nhân vật đuợc điêu khắc chạm trổ rất trau chuốt ,
đều đặn đặc biệt là hình ảnh mười một vũ nữ Apsara nhảy múa vô cùng
mềm mại, uyển chuyển, gợi cảm đến những kiểu trang phục, trang sức,
kiểu tóc được thể hiện rất tỉ mỉ, tác phẩm hoàn toàn xứng đáng là một
trong những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc Chăm. Đài thờ được đưa về bảo
tàng năm 1901.
3. Phù điêu Vishnu.
Niên đại : thế kỉ XI - XII.
Chất liệu : đá sa thạch.
Kí hiệu: [18.4].

Xuất xứ: Trà Kiệu.
Thần Vishnu theo Ấn độ giáo là vị thần bảo tồn, canh giữ
không trung. Trong thần thoại Ấn Độ, vị thần này có rất nhiều kiếp hóa thân khác nhau.
Phù điêu có hình lá đề, được gọi là tấm tympan với viền khung xung quanh hình lá đề, bên trong
thể hiện thần Vishnu ngồi xếp bằng theo kiểu Ấn Độ trên thân mình cuộn thành chín khúc của rắn Naga


(Ngoài kiểu ngồi Ấn Độ, các tác phẩm trong điêu khắc Chăm pa còn có 2 kiểu ngồi nữa là ngồi Châu Âu
và ngồi Java, hai kiểu ngồi này đến phòng Đồn Dương quý khách sẽ được xem kỹ hơn).
Phía sau lưng thần, rắn Naga mọc lên mười ba đầu tạo thành một tán che cho thần. Bốn tay của
thần cầm bốn vật tượng trưng gồm: chiếc gậy Kaumodaki, chiếc tù và bằng ốc biển Shankha, chiếc đĩa
rỗng đáy Sudarsana và đoá hoa sen ( đã gãy ). Đề tài về thần Vishnu xuất hiện không nhiều trong điêu
khắc Champa vì thế tác phẩm này rất quí hiếm và có giá trị trong việc tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc và
tôn giáo của Champa.
(Thần Visnu có 2 vật cưỡi là Rắn Naga và chim thần Garuđa)
Phù điêu này thường được đặt làm vật trang trí trên các đỉnh của tháp Chăm.
Đây là tác phẩm phù điêu hướng tròn (Trong điêu khắc Chăm pa thì có 3 loại tượng: tượng tròn –
nhìn được toàn thân bức tượng; phù điêu – dạng khắc một mặt, chỉ nhìn được mặt; và dạng phù điêu
hướng tròn – nhìn thấy gần hết chỉ trừ lại mặt lưng)
4. Thần hộ pháp ( Siva ? )
Niên đại : Thế kỉ VII - VIII.
Chất liệu : đá sa thạch.
Kí hiệu : [3.2].
Xuất xứ: Trà Kiệu.
Theo Henri Parmentier, tác phẩm thể hiện thần Siva; nhưng căn cứ vào
đồ trang sức thể hiện trên tóc và dây rắn Naga quấn quanh mình thần, và một
số yếu tố khác, Boisselier kết luận tác phẩm kí hiệu [3.1] kết hợp với tác phẩm đối xứng [3.2], tạo thành
một cặp thần hộ pháp.
Thần đứng trong tư thế tribhanga, thân mình hơi nghiêng sang phải, vẻ mặt điềm tĩnh, mái tóc
được tết thành nhiều lọn trang trí tạo thành một búi cao như chiếc mũ miện Kirita mukuta. Dù bị hư hại

nhiều, tác phẩm vẫn là một trong số những hiện vật đẹp của nghệ thuật điêu khắc Chăm.
5. Đài thờ Vũ nữ Trà Kiệu.
Niên đại : Thế kỉ VII-VIII.
Chất liệu : đá sa thạch.
Kí hiệu : [22.5].
Xuất xứ: Trà Kiệu.
Hai mặt của đài thờ thể hiện vũ nữ Apsara trong tư thế múa tribhanga
với thân mình uốn cong mềm mại, uyển chuyển cùng nhạc công với vẻ
mặt tươi tắn chơi đàn Vina- một loại nhạc cụ truyền thống xuất xứ từ Ấn
Độ. Các Apsara mặc một loại váy bằng voan mỏng, bó sát người , có thể
nhận biết được thông qua chiếc nơ lớn được thắt lại ở cạnh hông sau
lưng. Cổ, tay, vòng eo và bên ngoài chiếc sampot là những chuỗi hạt
ngọc. Phía sau nhạc công và vũ nữ là những cánh hoa sen được cách
điệu tạo thành những đường kỷ hà sắc nét làm tôn thêm vẻ quyến rũ của
các vũ nữ. Đài thờ còn lại hiện nay chỉ là 1/16 của đài thờ xưa kia.


Apsara được xem là những vũ nữ thiên tiên. Họ được sinh ra từ đại dương khi các thần khuấy biển
sữa.
6. Hình sư tử xung quanh phòng Trà Kiệu:
Xung quanh phòng Trà Kiệu quý khách thấy rất nhiều hình sư tử, đó là vì Trà Kiệu còn chính là
Kinh đô Shinhapura – thành phố sư thử. Ngoài ra, còn có rất nhiều voi – tượng trưng cho sự thông thái.

Phòng Tháp Mẫm - Bình Định
Nằm cách Đà Nẵng 300km về hướng Nam, Bình Định ngày nay còn khá nhiều di tích Chăm, tiêu
biểu là hệ thống đền tháp đồ sộ được xây dựng liên tục trong thời gian từ thế kỉ XI đến XV khi trung tâm
chính trị của Champa đặt tại đây. Trong đợt khai quật năm 1934 và 1935 tại gò đồi Tháp Mẫm - Bình
Định, J.Y Clayes đã phát hiện được rất nhiều hiện vật đẹp như rồng, voi-sư tử, chim thần Garuda, tượng
và phù điêu các nam thần, nữ thần, vũ nữ...tiêu biểu cho Phong cách Tháp Mẫm. Hiện tại phòng Tháp
Mẫm – Bình Định trưng bày 67 hiện vật, niên đại từ thế kỉ XII – XV.

1. Thần Brahma.
Niên đại : thế kỉ XIII - XV
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [19.8]
Xuất xứ: Tháp Mẫm
Brahma là thần sáng tạo, một trong ba vị thần quan trọng nhất của Ấn
Độ giáo. Đôi khi Brahma còn được xem là thần của sự thông thái. Có nhiều
giai thoại thú vị về sự ra đời của Brahma. Theo Puranas, Brahma được sinh ra từ một đoá hoa sen mọc từ
rốn của thần Vishnu vào buổi bình minh của vũ trụ. Một giai thoại khác lại cho rằng Brahma sinh ra từ
một quả trứng vàng có tên là Hiranyagarbha. Khi quả trứng tách ra làm hai nửa, Brahma sinh ra và các
phần còn lại của quả trứng ngay lập tức hoá thành núi non, sông ngoài vạn vật, mọi sự sống trong vũ trụ
bắt đầu từ đó.
Nghệ thuật truyền thống thể hiện Brahma ở dạng phù điêu với bốn đầu, bốn tay cầm bốn vật
tượng trưng. Mỗi cái đầu của thần được xem như tượng trưng cho một pho kinh Veda. Vật cưỡi của thần
là chú ngỗng Hamsa. Mặc dù là một trong ba vị thần tối cao, ở Ấn Độ Brahma ít được thờ cúng hơn so
với hai vị thần còn lại là Vishnu và Shiva.
Thần cưỡi trên lưng ngỗng Hamsa là vật cưỡi của thần. Brahma thường được được thể hiện dưới
dạng 3-4 đầu (mỗi cái đầu thường được tượng trưng cho một kinh Vê đa), 4 tay cầm 4 vật tượng trưng
2. Thần Siva.
Niên đại : thế kỉ XIII - XIV
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [3.17]
Xuất xứ: Tháp Mẫm
Trong số các vị thần Ấn Độ giáo, Shiva là vị thần phức tạp nhất, và
đồng thời có nhiều quyền năng nhất. Thông thường người ta biết đến Shiva
như là vị thần huỷ diệt, đồng thời cũng là thần sáng tạo. Ngoài ra, theo thần


thoại Ấn Độ, Shiva còn là vị thần của những vũ điệu ( dõng chúa ), thần sơn cước, thần chết. Shiva được
thờ cúng rộng rãi duới hình dạng một linga.

Trong nghệ thuật điêu khắc Chăm, tượng và phù điêu Shiva chiếm số lượng tương đối lớn, được
thể hiện ở nhiều phong cách nghệ thuật, nhiều tư thế khác nhau. Trong tập tục của người Chăm xưa, các
vị vua có công trạng sau chết thường được phong thần , và thờ thần Shiva cũng chính là thờ vua. Các
vua Chăm tự nhận mình là các hoá thân của thần Siva, được tái sinh trên cõi đời này để cứu giúp thần
dân của họ vì vậy các vua thường kết hợp tên mình với tên gọi của thần Siva.
Tác phẩm kí hiệu [3.17] thể hiện Siva trong tư thế ngồi xếp bằng, trên mình có sợi dây rắn Naga
quấn qua vai. Mặc dù phần đầu, hai cánh tay phụ, một phần tay phải trước và những vật cầm tay đã bị
gãy vỡ, tác phẩm vẫn còn rõ những chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo thể hiện qua các đồ trang sức trên
cổ, tay và trang phục. Tác phẩm mang phong cách Tháp Mẫm, tuy nhiên motif chuỗi ngọc trai gợi nhắc
đến phong cách Mỹ Sơn A1, một ví dụ điển hình cho khuynh hướng kế thừa những chi tiết của các
phong cách nghệ thuật đi trước của các tác phẩm điêu khắc Chăm.
- Thần Siva đang cầm trên tay một chiếc đinh ba – đây là một trong 3 nét đặc trưng nhất để phân
biệt thần Siva, đó là: đinh ba, con mắt thứ ba và hình mặt trăng trên mũ đội đầu.
3. Gajasimha.
Niên đại: Thế kỉ XIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [38.7]
Xuất xứ: Tháp Mẫm
Gajasimha, hay còn gọi là voi-sư tử, là con vật thần thoại Ấn Độ. Thông
thường, đầu voi tượng trưng cho sự thông thái của các thần và mình sư tử thể
hiện uy quyền của các vua. Tác phẩm thể hiện Gajasimha kích thước to lớn, trong tư thế đứng, cổ đeo lục
lạc, vòi vươn lên cao vừa trang nghiêm vừa ngộ nghĩnh.
Gajasimha thường được đặt trước cổng đền tháp như là vị thần bảo hộ canh giữ tháp Chăm.
4. Thủy quái Makara.
Niên đại : thế kỉ XIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [42.49]
Xuất xứ: Tháp Mẫm
Tác phẩm là một tượng tròn, ở tư thế nằm, được cách điệu với sự pha trộn
nhiều chi tiết của nhiều con vật khác nhau, hai chân trước cùng đầu vươn cao,

lòng bàn chân mở ra phía trước tạo nên tư thế vừa ngộ nghĩnh vừa hung dữ.
Theo thần thoại Ấn Độ, thủy quái Makara là vật cưỡi của thần đại dương Varuna. Trong điêu khắc
Chăm, Makara còn được gọi là rồng, thường hay được thể hiện thành một cặp đôi đối xứng nhau, đặt ở
lối vào các ngôi đền, giữ gìn sự yên tĩnh, tôn nghiêm cho nơi thờ cúng, trú ngụ của các vị thần linh.


5. Rồng.
Niên đại : thế kỉ XIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [42.48]
Xuất xứ: Tháp Mẫm
Đây là sự kết hợp: đầu rồng, mình sư tử, da và đuôi là của rắn, trong đó
quý khách nhìn kỹ sẽ thấy miệng rồng có ngậm một viên ngọc – đây là sự giao lưu tiếp biến với văn hóa
Đại Việt.
Rồng được thể hiện ở dạng tượng tròn, tư thế nằm, hai chân trước đặt hướng về trước, hai chân
sau đưa ngược lên về sau tạo nên dáng vẻ rất ngộ nghĩnh. Chiếc vòng lục lạc đeo ở cổ khắc họa thêm nét
sinh động, vui tươi. Đầu rồng có vẻ chưa tương xứng với toàn bộ bố cục tác phẩm. Các chi tiết tinh xảo
trên mình, đầu và đuôi rồng là sự kết hợp của nhiều con vật khác nhau. Toàn bộ tác phẩm thể hiện sự
khéo léo, óc sáng tạo và tính hài hước của các nghệ sĩ Chăm.
Thông thường, rồng được thể hiện thành một cặp đôi, đặt song song trước lối ra vào của tháp
Chăm. Hiện vật còn lại cùng cặp với hiện vật này đang được trưng bày tại bảo tàng Guimet ở Paris.
6. Chim thần Garuda.
Niên đại: thế kỉ XIII
Chất liệu: đá sa thạch
Kí hiệu: [41.29]
Xuất xứ: Bình Định
Garuda có mình người, mỏ và cánh của chim nhưng đầu và chân lại
giống sư tử. Chim đứng xòe cánh, tay phải cầm một con rắn hai đầu, miệng
ngậm đuôi rắn, chân phải đạp lên một đầu rắn khác.
Garuda là vật cưỡi của thần Vishnu và nữ thần Laksmi. Thần thoại Ấn giáo cho rằng Garuada và

Naga luôn bất hoà với nhau và mối bất hoà này bắt nguồn từ việc mẹ của Garuada bị mẹ của loài rắn phỉ
nhục. Các nghệ sĩ Chăm đã dành nhiều tác phẩm thể hiện chim thần Garuda ở dạng phù điêu hoặc tượng
tròn.
Hiện thì ở đây chưa thấy bức tượng nào thể hiện thần Visnu cưỡi chim thần Garuda, chỉ mới thấy
một tác phẩm duy nhất ở bảo tàng Pari – Pháp.
7. Đài thờ.
Niên đại : thế kỉ XII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [ 22.56]
Xuất xứ: Bình Định)
Đài thờ là một thớt tròn, xung quanh được trang trí với 23 bầu vú
phụ nữ đầy đặn, căng tròn, đường kính mỗi bầu là 11cm. Phía trên và dưới của vòng tròn vú là các đường


xoắn chập hai đầu dây rất tỉ mỉ, theo phương thẳng đứng. Đây là những kiểu thức trang trí rất phổ biến
trong điêu khắc Chăm vào thế kỉ XII – XIV.
Đài thờ xứng đáng là một kiệt tác của điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn
thực và xã hội mẫu hệ.

Phòng Mỹ Sơn:
Mỹ Sơn từng là một trung tâm tín ngưỡng quan trọng của vương quốc Chămpa, thuộc địa phận tỉnh
Quảng Nam ngày nay, cách di tích Trà Kiệu (Simhapura - kinh đô của Chămpa cho đến năm 1000)
khoảng 30 km về phía tây. Trong không gian thâm nghiêm của một thung lũng bao bọc bởi những ngọn
núi nhỏ, tại đây có hơn 70 ngôi tháp, phần lớn được xây dựng để thờ thần Siva.
Qua các đợt khai quật và nghiên cứu đầu tiên vào những năm 1903 – 1904, Henri Parmentier và
Charles Carpeaux đã phân định các ngôi tháp ở Mỹ Sơn thành các nhóm, dùng chữ cái đặt tên cho các
nhóm tháp và chữ số đặt tên cho từng ngôi tháp trong nhóm, ví dụ ngôi tháp trung tâm của nhóm tháp
chính được gọi tên là tháp A1.
Theo văn bia, tại Mỹ Sơn có thể đã có những ngôi tháp đầu tiên xây dựng từ khoảng thế kỷ IV
hoặc V, nhưng đến nay chỉ còn lại các công trình kiến trúc có niên đại sớm nhất là khoảng thế kỷ VII

(như nhóm tháp E). Đa số các công trình được bảo tồn tốt nhất có niên đại từ thế kỷ X đến XI (các nhóm
A, B, C, D). Những ngôi tháp được xây dựng muộn nhất tại Mỹ Sơn là vào khoảng thế kỷ XII, XIII
(nhóm G và tháp trung tâm của nhóm B).
Các đền tháp tại khu di tích Mỹ Sơn được xây dựng lần lượt trong một thời gian dài gần 10 thế kỷ.
Các kiến trúc còn lại tại Mỹ Sơn ngày nay và các hiện vật điêu khắc sưu tầm
được từ di tích này phản ánh các phong cách kiến trúc và điêu khắc khác nhau
trong quá trình phát triển nghệ thuật của vương quốc Champa.
Tại phòng Mỹ Sơn của Bảo tàng Điêu khắc Chăm hiện đang trưng bày
18 hiện vật, gồm 3 nhóm hiện vật: nhóm hiện vật trong các tháp chính, nhóm
hiện vật ở các tháp phụ và nhóm các hiện vật trang trí trên trán cửa hoặc trên
tường tháp nói chung. Ngoài ra tại đây cũng đang trưng bày một tấm bia chữ Sanskrit và chữ Chăm cổ
(ký hiệu 1.1).
+ Nhóm các hiện vật trong các tháp chính gồm:
- Đài thờ Mỹ Sơn E1, ký hiệu 22.4
- Tượng thần Ganesa đứng, ký hiệu 5.1;
- Tượng thần Ganesa ngồi, ký hiệu 5.2
- Tượng thần Siva đứng, ký hiệu 3.3
- Nhóm 7 linga, ký hiệu 2.4
- Tượng thần Skanda, ký hiệu 8.1
+ Nhóm các hiện vật trong các tháp phụ chung quanh tháp chính, gồm tượng các vị thần phương
hướng:
- Thần Varuna 9.1
- Thần Vayu 9.2, 9.3


- Thần Agni 10.1, 42.8
- Thần Isana 10.2
- Thần Kubera 10.3
+ Nhóm các hiện vật trang trí trên tường tháp gồm có:
- Bức trán cửa (tympan) Đản sinh Brahma 17.8

- Bức dầm cửa (linteau) Vũ nhạc triều đình 45.8
- Bức trán cửa Thần Durga (hay Uma) 16.2
- Bức trang trí Chiến sĩ bay 44.10
1.
Đài thờ Mỹ Sơn E 1:
Đây được xem là bảo vật quốc gia (ở bảo tàng Chăm có 2 bảo vật quốc gia:
Đài thờ Mỹ Sơn E1 và tượng Bồ tát Tara)
Ở giữa của mặt trước đài thờ là một bậc cấp nhỏ. Thành của bậc cấp là một bức
chạm tả cảnh ba người trong điệu múa khăn. Người giữa trong tư thế uốn mình hai
chân xoãi gần sát đất, hai tay dang rộng nâng một dãi lụa với nét mặt ngẩng nhìn
lên. Hai bên là hai vũ công, chân trái khép lại, chân phải xoãi bật ra, hai tay cong
lên nâng dãi lụa. Tất cả toát lên một vẻ say sưa, thành kính trong nghi lễ dâng cúng thần linh.
Hai bên bậc cấp là hai phiến đá chạm khắc hai vòm cuốn, mô phỏng
theo hình dáng các vòm cuốn trên các cửa tháp. Dưới hai vòm cuốn là hình
ảnh hai nhạc công, một người đang chơi đàn và một người thổi sáo. Bên
hông phải của bậc cấp đài thờ là cảnh một đạo sĩ ngồi trầm ngâm trước một
quyển kinh, bên trái đạo sĩ là một chú két ló đầu ra từ một lùm cây, bên
phải là một chú sóc duỗi cái đuôi xù chạy xuống từ một thân cây to có tán
lá toả ngang đầu đạo sĩ.
Các ô khác của đài thờ miêu tả cảnh một
tu sĩ nằm tĩnh tâm, lần chuỗi hạt dưới một bóng cây, cảnh biểu diễn âm nhạc
với người thổi sáo và người vỗ trống baranưng, cảnh tu sĩ đang giảng đạo cho
tín đồ, cảnh đạo sĩ đang luyện thuốc và chữa bệnh. Trong các cảnh này còn có
chạm khắc những con hổ, con heo rừng làm cho khung cảnh sinh hoạt trong
rừng của các đạo sĩ càng thêm sống động.
Thường được chạm khắc chung quanh các đài thờ là hình ảnh hoặc chuyện kể về các vị thần.
Riêng ở đài thờ Mỹ Sơn E1 ta bắt gặp các bức chạm miêu tả nhiều cảnh sinh hoạt hàng ngày trong rừng
của các tu sĩ Ấn Độ Giáo một cách sống động, đầy tính nghệ thuật.

2. Mi cửa tháp Mỹ Sơn E1: Đản sinh Brahma:



Đây là bức chạm khắc trang trên vòm cửa (được gọi là mi cửa, trán cửa hay tympan) của tháp Mỹ
Sơn E1, thể hiện một chủ đề quen thuộc trong thần thoại Ấn Độ, đó là cảnh thần Vishnu sinh ra thần
Brahma từ cuống rốn của mình. Thần Vishnu nằm trên biển vũ trụ, được nâng đỡ bởi rắn thần Shesha 7
đầu, tay phải đỡ dưới đầu, tay trái giữ chặt cuống sen mọc ra từ rốn. Trên đài sen ở đỉnh bức phù điêu là
hình ảnh thần Brahma ngồi chễm chệ. Thần Brahma có bốn đầu nhìn về bốn hướng, đầu quay về phía sau
không thể hiện được trên phù điêu. Ở phía chân thần Vishnu là hình ảnh một vị đạo sĩ đang chúc phúc
cho cuộc đản sinh. Hai đầu của bức phù điêu là hai chim thần Garuđa có thân hình người, hai tay cầm
hay con rắn như đang thành kính canh giữ cho cuộc đản sinh. Trên đường viền của bức phù điêu được
chạm khắc hình bông hoa 4 cánh đơn giản theo mô típ giống như các cánh hoa trang trí trên đài thờ Mỹ
Sơn
E1.
Đường nét mềm mại, đơn giản nhưng sống động của các tác phẩm điêu khắc trên đài thờ Mỹ Sơn
E1 và bức mi cửa này đã được xem là tiêu biểu cho một phong cách nghệ thuật sớm của điêu khắc
Chămpa, xuất hiện trong khoảng thế kỷ VIII - IX.
3. Tượng Ganesa đứng 5.1
Pho tượng này được tìm thấy tại tháp E 5 . Thần có bốn cánh tay, một tay cầm chén có cắm cái vòi
của thần, một tay cầm chuỗi hạt, hai tay khác đã gãy mất. Thần mang nhiều đồ trang sức, ở cổ là một
chiếc vòng nặng có hình những cánh hoa kết xoắn xít. Thần mặc một chiếc sampot có thân buông xuống
phía trước, thắt lưng được buộc lại bằng một loại khoá chạm khắc thành hình hoa trước bụng. Choàng
qua vai thần là một sợi dây hình rắn, một dấu hiệu thường thấy ở các tượng thần
Siva.
Với thân hình tròn trĩnh, mập mạp, tượng thần Ganesa đứng trông rất vững
chãi, bệ vệ và thân thiện với mọi người. (Theo các nhà nghiên cứu, cho đến nay chỉ
mới tìm thấy 2 tượng Ganesa ở dạng đứng, một tại miền nam Ấn Độ và một tại Mỹ
Sơn). (Kể truyền thuyết về đầu voi)
4. Tượng Siva đứng 3.3
Tượng đươc tìm thấy ở tháp Mỹ Sơn C 1. Đây là bức tượng theo bút
pháp tả thực với chiều cao gần như người thật, khuôn mặt bộc lộ những nét

nhân chủng của người Chăm. Đôi mắt hơi xếch, mở lớn, cánh mũi to và đôi
môi dày. Đôi vai ngang và dáng đứng thẳng toát lên một sức mạnh cường
tráng.
5. Vũ nhạc triều đình 45.6
Đây là phiến đá gác ngang phía trên cửa đi để xây tiếp lên phần vòm
cửa (được gọi là mi cửa, dầm cửa hay lanh-tô), được tìm thấy tại tháp Mỹ
Sơn E 4.
Phiến đá được chạm khắc cảnh múa hát trong triều đình. Nhà vua trên
một chiếc ngai ở giữa bức chạm, tay phải cầm một thanh kiếm dài, tay trái
giơ cao như đang ra lệnh


. Hai bên là hai người hầu cầm lọng; cạnh hai người hầu bên phải là một người đứng cầm phất trần và
bên trái là một người ngồi gập hai chân lại, tay dâng một vật có miệng cong, rộng có đế cao, được phỏng
đoán là một chiếc cơi đựng trầu. Tiếp thep hai bên là hai nhóm nhạc công gồm năm người, đánh trống
ginăng, xập xoã và thổi kèn sarinai, những nhạc cụ này vẫn còn phổ biến trong dàn nhạc của người Chăm
hiện nay.
6. Tượng Skanda 6.1 (Ảnh 6.1)
Tác phẩm miêu tả thần Skanda đứng trên lưng một con công. Các chi
tiết trên thân hình và đuôi con công được chạm trỗ tinh tế, hoàn mỹ theo bút
pháp tả thực. Rất tiếc đầu con công đã bị gãy mất, nhưng toàn bộ thân hình
và dáng đứng của con công vẫn toát lên vẻ trang trọng vững chãi, tôn vinh vẻ
đẹp của thần Skanda, một vị thần tượng trung cho sự trẻ trung và nhiều tài
năng trong thần thoại Ấn Độ.
7. Các vị thần phương hướng
Đây là các vị thần được tìm thấy ở nhóm tháp B, ở
khu vực các tháp B7 đến B13 , được coi là các tháp phụ
nằm xung quanh tháp thờ chính, là tháp B1. Các vị thần
thờ ở các tháp phụ là các vị thần có vai trò trấn giữ các
phương hướng (dikpalaka). Đó là thần Sấm sét Indra,

cưỡi con voi, trông nom hướng đông; thần Lửa Agni, cưỡi con tê giác, trông coi
hướng đông - nam; thần Chết Yama, cưỡi con trâu, trông coi hướng nam; thần Gió
Vayu, cưỡi con ngựa, coi hướng tây bắc; thần Isana (một tên khác của thần Siva),
cưỡi con bò đực, coi hướng đông bắc; thần Brahma, cưỡi con ngỗng và thần Tài Lộc
Kubera,
không

vật
cưỡi,
trông
coi
hướng
bắc.
Các vị thần này được tạc ở dạng ngồi, trên một cái bệ vuông, phía trước bệ có chạm con vật cưỡi
của thần.
Tại nhóm tháp A của Mỹ Sơn cũng tìm thấy năm tượng thần phương hướng tương tự như ở nhóm
tháp B, đó là thần Brahma với con ngỗng, thần Agni với con tên giác, thần Vayu với con ngựa, thần Indra
với con voi và thần Niriti với một yaska (?). Khác với các tượng ở nhóm tháp B, các tượng ở nhóm tháp
A không ngồi trên bệ vuông mà ngồi tựa lưng vào một tấm bia, phía trên có hình chóp nhọn và hào
quang hình trái tim.
Các nhà nghiên cứu xếp nhóm các tương thần phương hướng này vào phong cách Mỹ Sơn A1, có
niên đại khoảng giữa thế kỷ X.
(Kể các giả thuyết về bức tượng mất đầu)
8. Văn bia: Là minh chứng chứng minh người Chăm là dân tộc đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á
có chữ viết.



Giới thiệu về phòng trưng bày Đồng Dương:



- Phòng trưng bày Đồng Dương hiện đang trưng bày theo như bố cục của khu di tích Đồng Dương,
trưng bày theo một trục Đông – Tây. Và để dễ hiểu hơn về bố cục trưng bày của phòng thì trước tiên
chúng ta sẽ tìm hiểu sơ qua về di tich này.
- Phật viện Đồng Dương nay thuộc làng Đồng Dương huyện Thăng Bình tỉnh Qủang Nam. Về
phần địa chí khi viết đến vùng Quảng Nam sách Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn đã mô tả sơ qua
khu di tích với các tháp, các nền của đền thờ cổ hoang lổ theo thời gian không kèm theo lời bình luận gì
thêm về khu di tích này.
- Phật viện học Đồng Dương chỉ thật sự biết đến nhiều cho đến lúc các nhà khoa học đã công bố
nhiều đề tài nghiên cứu chúng ta mới thấy tầm vóc qui mô của nó. Nhất là nhà nghiên cứu L.Finot trong
đề tài nghiên cứu của mình về vấn đề di tích Đồng Dương, ông đã giới thiệu 229 hiện vật đã được phát
hiện, nổi bật nhất là bức tượng Phật bằng đồng. Bức tượng Phật này đứng cao hơn 1m là đề tài nghiên
cứu khá lý thú cho các nhà khoa học đưa ra đoán định vì bởi theo nhận định chung bức tượng này được
xem như là nghệ thuật hoàn hảo và đẹp vào loại bậc nhất của khu vực Đông Nam Á. Hiện nay thì tượng
Phật đó đang được trưng bày tại bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài sự chú ý về bức tượng
nói trên, công trình khai quật khu trung tâm Phật viện Đồng Dương của nhà nghiên cứu H.Parmentier
cũng cho chúng ta khái quát rõ nét hơn về mô hình xây dựng và diện tích xa xưa của Phật viện. Sự
hoành tráng hết sức hùng vĩ của một quần thể kiến trúc điêu khắc đã làm cho Đồng Dương trở thành
Phật viện lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
- Căn cứ vào một tấm bia được tìm thấy ở Đồng Dương, Phật viện này được hình thành do vua
Indravarman II chính thức sáng lập vào năm 875. Đây cũng là khu trung tâm của kinh đô Indrapura một
dòng họ, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là sự thấm đượm tinh thần Phật giáo. Một
dòng họ có truyền thống về Phật giáo khi chính thức lên nắm quyền đã khởi xướng phong trào phát triển
các Phật viện, tu viện trong khắp vương quốc của mình kể cả trung tâm Vijaya, Kauthara, Panduranga.
Từ khi thành lập cùng song song tồn tại với kinh đô Indrapura, Đồng Dương bắt đầu phát triển và đi vào
hoạt động truyền bá tư tưởng Phật giáo Đại thừa một cách mạnh mẽ và trở nên một địa điểm đào tạo
tăng tài nổi tiếng.
- Nền Phật giáo Đại thừa đã thật sự được nghiên cứu và truyền bá từ đây, sử liệu ghi lại về việc vua
Lê Đại Hành bình Chiêm đã đưa về nước vị sư người Ấn Độ đang hành đạo tại Chămpa. Năm 1069
thiền sư Thảo Đường cũng được vua Lý Thái Tôn đưa về Đại Việt khi ông từ Trung Hoa sang Chămpa

học đạo. Sự hiện diện của sư tổ Trúc Lâm Yên tử cùng với tăng sĩ Đại Việt ghé thăm trung tâm Phật giáo
Đồng Dương và thắng cảnh của vương quốc Chămpa năm 1301 và được ông vua Phật tử tài hoa Jaya
Simhavarman III (Chế Mân) tiếp đón một cách nồng hậu, tất cả dường như nói lên tầm vóc quan trọng
của trung tâm Phật Viện Đồng Dương như thế nào đối với đạo Phật của các nước trong khu vực.Tầm
quan trọng đó đã khiến cho Đồng Dương tồn tại gần như 600 năm dù rằng trong dòng biến suy của lịch
sử biết bao cuộc chiến tranh tương tàn đã xảy ra.
- Phật viện Đồng Dương hiện nay đã không còn gì nguyên vẹn cho chúng ta nghiên cứu và chiêm
ngưỡng. Sự xâm thực của thời gian, thiên nhiên và bàn tay con người nhất là giai đoạn gây hấn chiến


tranh với Mỹ – Nguỵ cùng những trận bom oanh tạc không thương tiếc đã đưa Phật viện chỉ còn lại
những di tích hiếm hoi nay lại đi vào trạng thái hoang tàn thật sự.
- Phòng trưng bày Đồng Dương mà chúng đang đứng tham quan đây là một trong 2 phòng trưng
bày mới của bảo tàng nhờ vào sự giúp đỡ của chính phủ và các nhà khoa học Pháp. Phòng được trưng
bày theo phong cách hiện đại nhờ vào các hiệu ứng về không gian, ánh sáng. Như đã nói ở trước thì
phòng được trưng bày theo một trục như ở khu di tích Đồng Dương. Theo khảo tả của H.Parmentier, thì
toàn bộ khu vực kiến trúc kế tục kéo nhau dài xuyên suốt hơn 1330m bắt nguồn từ hướng Tây và chấm
dứt ở hướng Đông. Riêng khu vực chánh điện thờ Phật lại là một vành đai hình chữ nhật dài 326m có
chiều rộng 155m cùng hệ thống tường bao bọc kiên cố. Từ chánh điện mở ra một con đường rộng dài
hơn 763m hướng thẳng vào phía Đông đi vào một thung lũng hình chữ nhật có diện tích là 1080m2, đây
được xem như cụm liến trúc còn lại bảo lưu được phần đài thờ chính khá nguyên vẹn cùng các bức
tượng thờ bằng đá, đồng được phát hiện xung quanh. Ngoài phần chánh diện được phát hiện hệ thống
nền gạch của một khu tăng xá, giảng đường nối nhau trên một chu vi rộng lớn, những viên ngói dùng
lợp cho khu xây dựng cũng được phát hiện rải rác đâu đây của Phật viện cho phép ta liên tưởng đến một
cấu trúc xây dựng bao gồm phần chánh điện dùng nơi thờ tự lễ bái, khu tăng xá là nơi lưu trú cho các vị
tăng tu học và giảng đường dùng làm nơi diễn giảng. Một mô hình Phật điện khép kín rất lý thú cho
công cuộc đào tạo tăng tài.
- Nhóm trưng bày hướng Đông:
Trước tiên, chúng ta cùng tham quan các hiện vật trưng bày ở nhóm hướng Đông:
+ Ở khu di tích Đồng Dương hiện chỉ còn lại dấu vết nền móng của khu nhà dài mà các nhà nghiên

cứu cho là tu viện Phật giáo (Vihara). Ngôi nhà dài này có mặt bằng hình chữ nhật với hai hàng cột song
song theo trục Đông Tây, mỗi hàng có 8 cột xây bằng gạch, mái nhà có bộ khung gỗ và lợp ngói. Và
ngày nay, bảo tàng đang trưng bày các hiện vật mà đã thu thập được từ
khu vực hướng Đông này là gồm các hiện vật sau:
+ Trước mắt chúng ta là một đài lớn bằng sa thạch, được chạm trổ
nhiều hình người và hoa văn rất tinh tế. Đài thờ này được đưa về bảo
tàng năm 1935. Mảng đài thờ này gồm 4 khối đá cùng một đồ án ăn
khớp với nhau với những bức điêu khắc trang trí tinh xảo miêu tả hình
ảnh những con sư tử có dáng đứng thẳng hoặc đứng nghiêng khá ngộ
ngĩnh được chạm khắc giữa các cột, nổi bật trên phông chạm cánh sen khá mềm mại, miệng há rộng,
lưỡi thè ra và trên đầu có sừng phía trước. Bên cạnh những khung hình sư tử là những khung hình chữ
nhật đứng, mỗi khung chia làm 2 phần trên và dưới, trong đó có chạm trổ những hình ảnh diễn tả cảnh
sống khác nhau của đức Phật như: chi tiết về sự ra đời, chi tiết về sự thay đổi trang phục, chi tiết về một
cuộc đàm đạo, chi tiết về sự phong trần Tusita ( những người luôn tôn sùng và nghe theo lời dạy của
Phật), chi tiết về nữ thần đang ngủ, chi tiết về cuộc trò chuyện giữa hoàng tử và công chúa, … Phía trên
bệ thờ là một pho tượng Phật Thích Ca rất lớn, ngồi trên ghế, hai bàn tay để trên đầu gối, kiểu giống như
vua Champa ngồi trên ngai vàng, hai chân buông thòng xuống, mà theo như các nhà nghiên cứu thì đó là
kiểu ngồi châu Âu. Phật khoác áo cà sa có xếp nếp bên ngoài theo kiểu y phục của Bồ tát, phần vải áo


quấn chéo qua vai trái với những gấp nếp giống nhau, vai phải và cánh tay được quấn nhiều áo choàng
mà nhiều người nhận xét rằng nó ảnh hưởng từ Trung Quốc. Đầu của pho tượng Phật này đang trưng
bày tại Bảo tàng Guimet (Pháp).
+ Trong khu vực này còn tìm thấy một số tượng Dharmapala (những vị
thần bảo vệ giáo luật của đạo Phật) ở trên những bệ đá cạnh hai hàng cột gạch.
Hiện nay tại phòng Đồng Dương đang trưng bày nhóm 3 tượng gồm 2 pho
tượng ngồi theo kiểu Java và một pho tượng đứng theo kiểu lệch hông. Những
pho tượng này có gương mặt hơi nặng nề, lông mày giao nhau, cánh mũi lớn, bộ
ria mép rậm trên đôi môi dày, bộ râu quai nón được tỉa ngắn. Đầu đội Mukuta có
2 tầng, được trang trí 3 đóa hoa lớn hình lá đề, đeo đôi hoa tai lớn. Y phục là loại

sampot có thân lớn ở phía trước, được trang trí những hình hoa và sọc và xen kẻ.
Theo H.Parmentier thì đây là những tượng thần Siva bởi giữa trán những nhân vật này có con mắt thứ
ba hình thoi, nhưng theo J.Boisselier, đó là những Daharmapala với một urna (huệ nhãn) hình thoi trên
trán
- Nhóm trưng bày ở giữa:
Các hiện vật trưng bày theo nhóm giữa ở di tích Đồng Dương:
- Hiện nay chỉ còn lại dấu vết các chân tường, các bậc thềm của một ngôi nhà dài theo trục Đông
Tây. Ngôi nhà này có tường gạch không dày lắm, cửa ra vào nằm ở hai đầu hồi, trên 2 vách tường có
nhiều cửa sổ. Ngôi nhà này cũng được lợp ngói. Ở đây có 4 pho tượng Hộ pháp (Dvarapala) khá lớn,
cao khoảng 2m, các nhà nghiên cứu cho rằng đó là những tác phẩm gây ấn tượng mạnh trong nghệ thuật
điêu khắc Champa. Trong phòng Đồng Dương, tại khu vực ở giữa này đang trưng bày 2 pho tượng tròn
thần hộ pháp.
- Thần Hộ pháp, hiểu đơn thuần là thần bảo vệ đền đài, lăng tẩm, thần bảo vệ tôn giáo ... Trong
hình tượng điêu khắc Phật giáo còn được gọi là thần kim cương, có đặc tính kiên quyết, cứng rắn và
trong sáng. Trong điêu khắc Chămpa, thần Hộ pháp được gọi là Dvarapala được xây dựng trên cơ sở
“âm dương” luận.
- Nhìn nhận về hình tượng Hộ pháp trong điêu khắc nói chung, chúng ta dễ dàng nhận thấy các
động tác tay của tượng trong tư thế bao giờ cũng một cao một thấp, một động một tĩnh ... để biểu hiện sự
điều hòa của hai lực đối nhau, tạo thành một cưởng lực sung mãn trong các thế võ cầm chùy, dùi, dao
găm, gậy... vũ khí này đều gắng với việc khuyến thiện trừng ác, đó cũng chính là chức năng của vị thần
Hộ pháp. Biểu hiện trừng ác thì khuôn mặt diễn tả dạng ghồ ghề của các bộ phận, nhằm tạo sự kiên
quyết cứng rắn, sự phẫn nộ trước tội ác. Biểu hiện khuyến thiện thì có bộ mặt êm ả tròn đầy hơn nhiều,
nhưng nhìn chung biểu hiện hình khối vững chắc, đường chạm mạch lạc, dứt khoát, mạnh mẽ ... ở các
thần Hộ pháp đều lộ ra một cách thống nhất về sức mạnh “vũ trụ” của thần linh, kết hợp nhuần nhuyễn
với sức mạnh phàm trần .
- Thần Hộ pháp trong điêu khắc Chămpa thường được thể hiện ở hai
dạng chính: Loại hình phù điêu, thường được điêu khắc trực tiếp trên gạch


hoặc trên những phiến đá ở những cửa giả của các đền tháp; Loại thứ hai là loại hình tượng tròn thường

được thể hiện ttrên chất liệu đá .
- Hiện nay tại khu vực ở giữa phòng Đồng Dương đang trưng bày 2 pho
tượng tròn Hộ pháp mà chúng ta đang nhìn thấy đây. Mỗi tượng đều miêu tả hình
ảnh thần đứng giẫm lên một con vật ( tượng bên phải giẫm lên con tê giác, tượng
bên trái giẫm lên con trâu). Thần đứng giẫm mình lên con vật khiến nó phải nằm
bẹp xuống và miệng phun ra một người lính nhỏ, tính cách vừa hung tợn đe dọa
vừa oai hùng của thần như trong tư thế sẵn sàng tấn công. Tượng giẫm lên con
trâu thì tay phải nắm chặt đoản đao đưa lên ngang đầu và chĩa mũi nhọn ra trước
hăm dọa trong khi đó tay trái co vào dưới ngực và bàn tay cầm trọn đầu rắn với các ngón tay ở thế bắt
ấn. Còn tượng thần giẫm lên con tê giác thì cũng trong tư thế tương tự nhưng tay cầm đoản đao là tay
trái và tay cầm đầu rắn là tay phải. Hai pho tượng tạo nên thế đối xứng. Nếu chiếc Sam pot hộ pháp mặc
ngắn trên đầu gối và có 4 nếp xếp buông xéo xuống phía trước trông khá đơn giản thì đồ trang sức của
thần gồm mũ đội đầu, bông tai, vòng cánh tay, vòng thắt lưng và vòng cổ chân đều được chạm trổ tinh
xảo khắc với họa tiết hình hoa, hình sâu loăn xoăn, hình rắn Naga 3 đầu, một đầu quấn tròn lại. Tất cả
được thực hiện với tỉ lệ chạm khắc rất chính xác. Những nét cổ điển bắt nguồn từ nghệ thuật tạc tượng
Trung Quốc được thể hiện trên khuôn mặt hộ pháp như đôi mắt lồi to, miệng bạnh có hàm răng trên nhe
ra và ngậm chặt môi dưới, trên trán có các nếp nhăn, chân mày xếch ngược lên với vẻ đầy giận dữ.
- Nhóm trưng bày hướng Tây :
- Ở di tích Đồng Dương là gồm các đền thờ chính và các tháp phụ chung quanh, đền thờ này thuộc
loại tháp truyền thống của kiến trúc Champa; với mặt bằng hình tứ giác, cửa ra vào ở hướng Đông, phía
trước có tiền sảnh khá dài, quanh các mặt tường có trụ ốp tường được chạm những dải hoa văn cành lá
cách điệu rậm rịt và xoắn xít như dạng vết sâu bò, đó là loại hoa văn đặc trưng của phong cách Đồng
Dương. Quanh chân tháp trang trí những hình đầu voi và những hình tháp thu nhỏ nằm xen kẻ nhau.
- Tại phòng trưng bày chúng ta thấy cũng là một đài thờ lớn bằng sa thạch, chạm trổ những dải hoa
văn hình vết sâu bò, những cảnh sinh hoạt trong cung đình, một số cảnh trích đoạn về cuộc đời Đức Phật
Thích Ca. Những đường nét thể hiện trên các tượng người ở Đồng Dương được thể hiện cường điệu quá
mức, đàn ông có gương mặt gần như vuông, trán thấp, cung lông mày to rậm và giao nhau, mũi to,
miệng rộng, môi dày, ria mép rậm. Tượng phụ nữ có gương mặt hơi thô và bộ ngực quá lớn.
- Tượng Bồ tát Tara, Đây được xem là báu vật quốc gia (tuy nhiên đây chỉ là tác phẩm trưng bày
còn hiện vật gốc được cất giữ trong kho).

Năm 1978, nhân dân địa phương đã đào được một pho tượng Nữ thần
làm bằng đồng thau, cao 114 cm, ở gần khu đền thờ chính. Đây là tượng
bằng đồng lớn nhất của nghệ thuật Chăm, thể hiện hoá thân nữ của Bồ tát
Avalokitesvara dưới tên gọi Tara. Bồ tát được thể hiện đứng thẳng, hai tay
đưa ra phía trước, tay trái cầm tù và ốc, tay phải cầm hoa sen nở, bên trong
có gương sen.


- Tượng khoác sarong hai lớp, từ thắt lưng dài đến mắt cá chân. Lớp trong của sarong đơn giản, có
những kẻ sọc, bó sát thân mình, buông dài bằng lớp ngoài. Chính giữa sarong bên trong trang trí một
băng nổi trơn. Chiếc sarong ngoài khá đặc biệt, là một loại váy quấn nhiều vòng từ sau ra trước, đầu
mối giắt trước bụng. Nó được thể hiện như một loại vải mềm mại bởi những đường xếp tự nhiên khi vải
được vắt lên trên. Kỳ thực, váy gần giống với kiểu saree của phụ nữ Ấn Độ, chỉ khác là thay vì đầu mối
vải vắt ngược lên vai buông ra sau lưng thì ở đây đầu vải lại giấu ở trước bụng.
- Ngoài nét độc đáo của chiếc váy thì nét đẹp ngoại hình của nhân vật khiến cho tác phẩm này đạt
đến đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình. Đó là vẻ đẹp của người phụ nữ có ngoại hình cân đối. Tượng mình
trần, cổ cao có ba ngấn đẹp, đôi vai rộng càng làm nổi bật chiếc eo thon nhỏ nâng cặp vú tròn căng đầy
sức sống.
- Khuôn mặt và đồ trang sức của tượng càng được dày công tô điểm và hội tụ tất cả những đặc
điểm của phong cách Đồng Dương. Bồ tát có miệng rộng, môi dày có vành môi sắc nét, mũi cao, hai
cánh mũi rộng, đôi mắt lớn hình hạnh nhân bên trong có đồng tử được khảm bằng một loại đá quý.
Đầu tóc tượng Tara được tết làm nhiều tết tóc nhỏ búi cao trên đỉnh đầu, được chia làm hai tầng
bằng một tết tóc. Ở trước tầng trên là hình ảnh tượng phật A di đà ngồi xếp bàn, là chi tiết để nhận biết
những tác phẩm thể hiện Bồ tát.
- Tiểu kết: Nhìn chung, tại phòng trưng bày Đồng Dương đã cho ta hình dung được phần nào khu di
tích Phật viện ngày xưa của Chăm pa. Các bức tượng ở đây đã tạo nên cho nền điêu khắc Chăm pa một
phong cách nghệ thuật trong điêu khắc. Đó là phong cách nghệ thuật điêu khắc Đồng Dương với những
nét đặc trưng sau: hình vân lăn tăn xoắn xít hình sâu quyện lẫn với những hình hoa tròn nhiều cánh,
những cành lá lượn, những vòm cuốn phủ đầy trên những mảng trang trí và trên những đồ trang sức của
các nhân vật hoàn toàn mang đặc chủng Chăm. Phong cách Đồng Dương đã tạo nên một dấu ấn không

thể phai mờ trong lịch sử nghệ thuật Chăm. Từ tư duy, người nghệ sĩ Chăm đã thực hiện những bước đột
phá, nhằm loại bỏ dần những ảnh hưởng ngoại lai, tìm về với bản sắc dân tộc, khiến sức sống mạnh mẽ
nhất của nghệ thuật bản địa bùng lên rực rỡ, toả sáng các chủ đề nghệ thuật trong giai đoạn này.

Phòng Quảng Trị:
Phòng Quảng Trị hiện trưng bày 14 tác phẩm, hầu hết có niên đại thế kỉ VII-VIII, được khai quật từ
các địa danh ở tỉnh Quảng Trị như Nam Giáp, Hà Trung, Thạch An, Đa Nghi và đưa về Bảo Tàng từ
những năm 1918 và 1935.
1. Cưỡi ngựa đánh cầu:
Niên đại: thế kỉ VII – VIII.
Chất liệu: đá sa thạch.
Kí hiệu : [24.4].
Xuất xứ: Thạch An.
Tác phẩm vốn là thành bên trái của bậc thềm lên xuống cửa
tháp, chạm trổ tinh xảo cảnh cưỡi ngựa chơi cầu. Hai người chơi
cưỡi trên lưng hai con ngựa , tay cầm gậy. Đồ trang sức và trang


phục của người chơi lặp lại phong cách nghệ thuật Chăm truyền thống. Mũ trùm đầu và búi tóc có lọn
phía sau giống những nhân vật được thể hiện trên bệ thờ Trà Kiệu.
Cưỡi ngựa đánh cầu, hay còn gọi là chơi Polo, bắt nguồn từ đế chế Ba Tư ( Iran ngày nay ). Theo
sử liệu, những người Ba Tư cổ đại đã biết chơi cưỡi ngựa đánh cầu từ cách đây khoảng 2500 năm. Băng
qua những thảo nguyên Trung Á bao la, trò chơi được phổ biến đến các quốc gia Trung Hoa, Tibet, Ấn
Độ và Nhật Bản. Đây là tác phẩm điêu khắc Chăm duy nhất thể hiện đề tài về trò chơi này, do đó tác
phẩm gợi mở một ảnh hưởng từ Trung Hoa hoặc Ấn
Độ lên Champa vào thời kì bấy giờ.
2. Phần đài thờ:
Niên đại : thế kỉ VII – VIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu: [22.3]

Xuất xứ: Hà Trung
Đài thờ gồm ba mặt liên hoàn thể hiện những con voi và sư tử xen kẽ nhau, trong những tư thế
đứng ngồi hoàn toàn khác nhau, nhìn thẳng về phía trước. Tuy chỉ còn lại
một nửa nhưng đây là tác phẩm rất sinh động, đặc sắc của nghệ thuật điêu
khắc Chăm.
3. Trụ cửa:
Kí hiệu: [26.6].
Xuất xứ: Hà Trung .
Trụ cửa cao, được chạm trổ khá tinh xảo, được chia làm hai phần
nằm đối xứng nhau, phân cách bởi 3 đường gờ ở giữa. Trụ cửa kí hiệu
[26.6] này cùng với nhiều cột và trụ khác được tìm thấy tại Quảng Trị đánh dấu một thời kì phát triển
rực rỡ của Champa tại đây.

Hành lang Quảng Nam:
Hiện trưng bày 32 hiện vật, niên đại thế kỉ VII – VIII và IX – X, được khai quật từ nhiều địa
phương ở tỉnh Quảng Nam.
1. Siva múa
Niên đại : thế kỉ X
Chất liệu : Đá sa thạch
Kí hiệu : [15.3]
Xuất xứ: Phong Lệ
Tác phẩm thể hiện thần Siva đang múa trong tư thế hình chữ
S
mềm mại uyển chuyển. Từ hai cánh tay chính của thần mọc ra 14
cánh tay phụ, hai bên dưới thần là các nhạc công chơi đàn và những vị thần khác đang chiêm bái điệu
múa của thần. Thần Siva còn được xem là thần của những vũ điệu. Vũ điệu Tandava của thần ghi dấu
sự vận động vĩnh cữu của vũ trụ. Tác phẩm được tìm thấy tại Phong Lệ, tỉnh Quảng Nam năm 1890
và chuyển về Bảo tàng năm 1901.



2. Thần hộ pháp
Niên đại : thế kỉ VII - VIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [9.4]
Xuất xứ: Khương Mỹ
Thần hộ pháp hay còn gọi là Môn Thần là những người bảo vệ sự uy
nghiêm của đền tháp.
Tác phẩm thể hiện thần trong tư thế sẵn sàng chiến đấu với vẻ mặt hung
dữ, một tay đặt lên hông, một tay cầm vũ khí đưa lên cao và một sợi dây ,
hoặc đôi khi là con rắn, quấn ngang thân mình. Đây là nét đặc trưng của các
tác phẩm thể hiện những vị thần này đặc biệt kể từ phong cách Đồng Dương
trở về sau. Tác phẩm này cùng với tác phẩm kí hiệu [9.5] tạo thành một cặp đối xứng.
3. Phù điêu Krishna
Niên đại : thế kỉ VII-VIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [17.6]
Xuất xứ: Khương Mỹ
Krishna là vị thần đồng cỏ, hóa thân thứ tám của Vishnu. Đề tài
Krishna ít xuất hiện trong điêu khắc Chăm. Tác phẩm duy nhất được trưng bày tại hành lang Quảng Nam
của bảo tàng thể hiện cảnh thần đang nâng ngọn núi Govardhana chống lại cơn mưa kéo
dài bảy ngày bảy đêm của thần Indra, một đề tài trong thần thoại Ấn Độ.
4. Phù điêu Yaksa
Chất liệu : đá sa thạch
Niên đại : thế kỉ V
Kí hiệu : [20.2]
Xuất xứ: Trà Kiệu
Tác phẩm thể hiện thần Yaksa ngồi xếp bàn, hai chân dạng rộng, hai
cổ chân xếp lên nhau, bàn chân phải đặt lên trên bàn chân trái. Hai bên
đầu thần được trang trí bởi hai đồ án hoa văn mềm mại, uốn lượn mang
nét tương đồng với các tác phẩm điêu khắc Ấn Độ và Khmer thời kỳ sớm.

Tóc gồm nhiều lọn xoăn tròn, bao xung quanh mặt thần từ bên này sang bên kia.


Yaksa là vị thần rừng trong thần thoại Ấn Độ, người canh giữ các kho báu ẩn sâu trong lòng đất hay
dưới các rễ cây. Về bản tính, cácYaksa là những vị thần rất tốt, tuy nhiên đôi lúc cũng khá thâm hiểm; họ
xuất hiện dưới hình dạng giống người bình thường, nhưng cũng có lúc đội lốt của cây cối trong rừng sâu.


Hành lang Quảng Ngãi:

Hành lang Quảng Ngãi hiện trưng bày 14 hiện vật niên đại từ cuối thế kỉ X đến giữa thế kỉ XI, hầu hết
được khai quật và mang về từ Chánh Lộ và một số địa danh khác ở tỉnh Quảng Ngãi. Chánh Lộ cũng là
tên gọi mà Boisselier đã chọn để đặt tên cho phong cách nghệ thuật chuyển
tiếp giữa Mỹ Sơn A1 và Tháp Mẫm.
1. Tượng Uma.
Niên đại : thế kỉ X
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [4.1]
Xuất xứ: Đông Phúc
Tác phẩm là một tượng tròn, tư thế đứng thẳng. Mặc dù phần đầu và
hai tay đã bị mất, tác phẩm vẫn toát lên một vẻ đẹp đầy quyến rũ và duyên dáng, đặc biệt được thể hiện
hai bầu vú đầy đặn với ba nếp nhăn ước lệ bên dưới và trang phục là chiếc sarong gồm hai lớp với nhiều
chi tiết trang trí phong phú, dài từ thắt lưng xuống mắt cá chân.
Uma là vợ của thần Siva, được xem là vị nữ thần phức tạp nhất đồng thời có quyền năng mạnh
nhất trong sô các vị nữ thần. Nàng còn có nhiều tên gọi khác như : Parvati, Durga, Sati, Gauri,
Chamunda.
2. Phù điêu Sarasvati.
Niên đại : thế kỉ XII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [21.4]

Xuất xứ: Chánh Lộ
Sarasvati, nữ thần của kiến thức, âm nhạc và nghệ thuật, là vợ của thần
Brahma. Sarasvati thường hay xuất hiện trong nghệ thuật tranh, tượng và thần thoại như một vị nữ thần
duyên dáng, cưỡi trên lưng ngỗng Hamsa hay ngồi trên một đài sen, có bốn vật cầm tay gồm : quyển
sách - biểu tượng của học thuật và viết lách, đàn vina - sự am hiểu về nghệ thuật, chuỗi tràng hạt pha lê –
sức mạnh tinh thần và lọ nước thiêng – năng lực của sang tạo và thanh tẩy. Nguyên thuỷ Sarasvati còn là
nữ thần của sông ngoài, tượng trưng cho sự màu mỡ, tốt tươi và thịnh vượng.
Tác phẩm là một tấm lá nhỉ hình lá đề có chóp nhọn thể hiện nữ thần ở
trong tư thế múatribhanga, chân khuỳnh xuống, hông nhếch lên, ngực và bụng
ưỡn về phía trước rất mềm mại, uyển chuyển. Đồ đội là kirita ba tầng và trang
phục là một sampot ngắn, trang trí nhiều hoa.
3. Tượng Laksmi.
Niên đại : thế kỉ XI


Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu : [8.2]
Xuất xứ: Phú Nhàn
Tác phẩm thể hiện đề tài nữ thần Laksmi, nữ thần của vận may và hạnh phúc, vì thế người ta thờ
cúng nữ thần để mong có được nhiều của cải và giàu có. Laksmi đôi khi được gọi là Sri và là vợ của
Vishnu trong tất cả các kiếp hoá thân của nàng.
Trong nghệ thuật Ấn độ, Laksmi được thể hiện như một phụ nữ xinh đẹp, có hai hoặc bốn
tay, đứng hoặc ngồi trên một đoá hoa sen - biểu tượng của vẻ đẹp tinh thần thuấn tuý và tinh khiết. Tuy
nhiên trong nghệ thuật Chăm, vị nũ thần này đôi khi lại được thể hiện rất đơn giản, không có những vật
cầm tay hay những chi tiết kể trên.

Trưng bày mở rộng:
Phòng trưng bày mở rộng được chính thức khai trương từ ngày 28 tháng 4 năm 2004, trưng bày
gần 150 tác phẩm thuộc nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, chủ yếu được sưu tầm sau năm 1975 và
được chia thành các bộ sưu tập : Quảng Trị, Trà Kiệu, Quảng Nam, An Mỹ, Chiên Đàn, Bình Định –

Tháp Mẫm, Quá Giáng – Khuê Trung và Phú Hưng.
1. Nữ thần An Mỹ
Niên đại : thế kỉ VIII.
Chất liệu : đá sa thạch.
Kí hiệu: [ 802 / Đ43].
Xuất xứ: An Mỹ
Nữ thần được thể hiện với khuôn mặt hơi vuông, hai má bầu bĩnh. Phía sau đầu thần là một vòng
hào quang, đôi mắt mở rộng, có con ngươi, cánh mũi rộng, môi dày và trên miệng có thoáng một nụ cười
nhẹ. Tất cả những đặc điểm này tạo nên gương mặt thần một nét phúc hậu. Sợi dây trên cổ được trang trí
với những chuỗi hoa sinh động. Bộ ngực to, tròn nhưng nhìn chung chưa
hài hoà với bố cục của tác phẩm.
2. Tượng khỉ Hanuman
Niên đại : thế kỉ XI-XII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu: [ 927 / Đ69]
Xuất xứ: Phú Hưng
Hanuman là một trong những nhân vật chính của trường ca Ramayana, là vị tướng trung thành
giỏi giang của hoàng tử Rama mà người Ấn Độ rất sùng kính. Hanuman được tạc ở dạng tượng tròn, vẻ
mặt hồn nhiên ngộ nghĩnh, ngồi theo kiểu Java. Trang phục là 1 loại sampot ngắn đến đầu gối chân. Tay
phải của Hanuman đặt ngửa trên vế phải, lòng bàn tay cầm 1 vật hình bán
cầu. Tay trái cũng cầm vật tương tự áp vào ngực trái. Theo trường ca
Ramayana, hai nửa bán cầu này có thể là hai vật tượng trưng cho hai hòn đá
mà Hanuman dùng để tạo ra ngọn lửa đốt cháy vương quốc Sri Lanka của
quỷ vương Ravana sau khi khỉ cứu thoát công chúa Sita.


3. Voi.
Niên đại : thế kỉ XI-XII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu: [ 939 / Đ81]

Xuất xứ: Phú Hưng
Voi là một trong những đề tài phổ biến trong điêu khắc Chăm. Có lẽ do voi được sử dụng nhiều
trong chiến trận cũng như sinh hoạt đời thường, hình tượng voi trong điêu khắc Chăm được thể hiện rất
thật và rất gần gũi. Đôi khi voi được cách điệu với vài đoá hoa trên đầu khá dí
dỏm, vui tươi.
4. Trang trí kiến trúc.
Niên đại : thế kỉ XI-XII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu: [ 825 / Đ54]
Xuất xứ: Chiên Đàn
Tác phẩm là một chi tiết kiến trúc, thể hiện một makara miệng đang
nhả ra một vũ nữ nhỏ. Vũ nữ đang ở tư thế múa mềm mại, một chân quỳ, một chân đưa cao ra phía sau.
Toàn bộ tác phẩm toát lên vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Trang trí kiến trúc là đề tài nổi bật của bộ sưu tập
Chiên Đàn được phát hiện tại tháp Chiên Đàn, Tam Kỳ, Quảng Nam vào năm 1989.
5. Bia.
Niên đại : thế kỉ X.
Chất liệu : đá sa thạch.
Kí hiệu: [ĐN 183].
Xuất xứ: Khuê Trung.
Đây là một trong số hơn 120 tấm văn bia được tìm thấy tại miền trung Việt Nam, góp phần quan
trọng vào việc tìm hiểu lịch sử và nghệ thuật điêu khắc - kiến trúc Chăm. Các dòng chữ trên bốn mặt bia
được chạm khắc rất tỉ mỉ. Chữ Chăm cổ được phát triển dựa trên tiếng Phạn.
6. Bò thần Nandin.
Niên đại : thế kỉ VII - VIII
Chất liệu : đá sa thạch
Kí hiệu: [ 7.2 ]
Xuất xứ: Quảng Nam
Bò Nandin, hay còn gọi là Nandi, là con vật cưỡi trung thành của Siva.
Trong nhiều phù điêu, thần Siva thường được thể hiện đi cùng với con vật này. Đôi khi bò được chạm
trổ ở dạng tượng tròn, độc lập và được đặt ở trước các cổng ra vào đền. Ở tác phẩm này, bò đang nằm

vởi vẻ mặt hiền lành, trầm tư, cổ đeo lục lạc khá ngộ nnghĩnh.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×