1
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Qua con người trong văn học,
ta có thể hiểu cuộc sống của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Là
nhân vật chính trong văn học, nên qua con người trong văn học ta có thể hiểu
một thời đại hay một giai đoạn văn học cụ thể. Tìm hiểu vấn đề Con người
trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 có thể giúp nhận thức sâu sắc
thêm về văn học và xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.
Phóng sự là một thể loại giữa văn học và báo chí, có nguồn gốc Tây
phương, chính thức xuất hiện ở thế kỉ XIX. Là một thể loại khó viết nhưng
phóng sự nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn. Sau Tôi
kéo xe - đứa con tinh thần đầu tiên của Tam Lang là hàng loạt các thiên phóng
sự - kết quả của những cuộc điều tra, lăn lộn với hiện thực của những cây bút
tâm huyết như: Đĩa mứt gừng (1937), Lọng cụt cán (1939), Tập ảnh (1936),
Người …ngợm (1940) của Tam Lang, Thanh niên trụy lạc (1938), Từ ái tình
đến hôn nhân (1938), Ngoại ô (1941), Ngõ hẻm (1942) của Nguyễn Đình Lạp;
Hà Nội ban đêm (1933) Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam;
Làm no (1938), Tập án cái đình (1939), Lều chõng (1939), Việc làng (1940)
của Ngô Tất Tố; Một chuyến đi (1938), Ngọn đèn dầu lạc (1941), Tàn đèn dầu
lạc (1941) của Nguyễn Tuân; Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934),
Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), Một huyện ăn Tết (1938) của Vũ
Trọng Phụng, Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938) của Trọng Lang…
Khác với truyện ngắn và tiểu thuyết, phóng sự mang đến cho người đọc
những thông tin cụ thể, số liệu chính xác và thời sự về các vấn đề của cuộc sống,
xoay quanh một tâm điểm là con người. Nhà nghiên cứu, phê bình Vũ Ngọc
Phan cho rằng: “Phóng sự là ký sự, là có lời thẩm bình, phóng sự ghi những
điều mắt thấy tai nghe, có tính cách thời sự và có chỉ trích… Không có lối văn
nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã
3
hội học bằng các thiên phóng sự” [30; tr. 504,505]. Vì lẽ trên, nghiên cứu con
người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 chính là tìm hiểu những
mảng hiện thực đời sống muôn màu của xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945
- một giai đoạn lịch sử đầy biến động từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
Phóng sự không chỉ phản ánh hiện thực mà với tư cách “là một thể loại
đứng giữa văn học và báo chí” [3; tr. 83], phóng sự còn có “cái chất chủ quan
của chủ thể cầm bút…, ý thức xã hội - công dân chi phối mạnh mẽ đến từng sự
kiện, từng vấn đề của đời sống” [45; tr. 5,6]. Tác phẩm phóng sự thể hiện được
những quan điểm cá nhân, cách kiến giải hoặc những đề xuất giải pháp của tác
giả trước một vấn đề nóng hổi đang diễn ra trong hiện thực xã hội. Vấn đề con
người trong xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 đã được phản ánh sâu sắc
từ nhiều góc độ trong phóng sự giai đoạn này. Các tầng lớp con người, từ tầng
lớp trên như quan Ta, quan Tây, me Tây, cường hào, chức dịch làng xã đến
những tầng lớp dưới như nông dân, phu xe, gái bán dâm, vợ lẽ nàng hầu, thầy
lang, trộm cắp, cờ bạc bịp, thanh niên trụy lạc… đều được các nhà phóng sự
điều tra và đưa lên trang giấy. Ở mỗi tầng lớp, các nhà văn không chỉ đơn
thuần ghi lại những điều tai nghe mắt thấy mà còn tìm hiểu những góc khuất,
những căn nguyên của hiện tượng, đưa ra quan điểm riêng, thậm chí có những
kiến nghị, giải pháp cụ thể, có ý nghĩa lịch sử, xã hội nhất định.
Một số tác phẩm văn học thuộc giai đoạn 1930 – 1945 được đưa vào
chương trình sách giáo khoa phổ thông như Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ
người tử tù (Nguyễn Tuân), Hạnh phúc của một tang gia (Trích “Số đỏ” của
Vũ Trọng Phụng), Chí Phèo (Nam Cao), Đọc thêm Nghệ thuật băm thịt gà
(Trích “Việc làng” của Ngô Tất Tố). Do vậy, việc nghiên cứu “Con người
trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945” sẽ cung cấp những tư liệu
hữu ích về xã hội – con người giai đoạn này cho giáo viên và học sinh trong
việc tiếp cận các tác phẩm văn học.
4
Vì những lí do cấp thiết trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề Con người trong
phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về con người trong văn học.
Vấn đề con người trong văn học được rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Nxb Giáo
dục, 2008) GS. TS Trần Nho Thìn đã đề cập đến sự thể hiện con người trong
văn chương thời cổ. Tác giả đã chỉ ra con người trong văn học nhà nho gồm
con người được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học (trong các truyện thơ, khúc
ngâm) và con người không được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học (trong thơ
vịnh sử). Chuyên luận Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (Nxb
Giáo dục, 2010), nhóm tác giả Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang,
Trần Ngọc Vượng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân đã nghiên cứu con
người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Các tác giả đã chỉ ra hoàn cảnh lịch
sử, xã hội dẫn đến sự xuất hiện và đề cao con người cá nhân trong văn học,
những biểu hiện của con người cá nhân trong những tác phẩm tiêu biểu của
thời đại và ý nghĩa của bước tiến này trong dòng chảy phát triển của văn học.
Con người trong văn học hiện đại được đề cập đến trong nhiều công
trình nghiên cứu. Gần gũi với đề tài là bài viết Con người trong văn học Việt
Nam hiện đại (1987) của GS Trần Đình Sử, các luận văn, luận án: Quan niệm
về con người trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn qua ba tác giả Nhất Linh –
Khái Hưng – Hoàng Đạo (LATS, 1994, Lê Thị Dục Tú); Con người trong
truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 (bộ phận văn học cách mạng) (LATS, 1996,
Phùng Ngọc Kiếm); Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
(LATS, 2012, Nguyễn Thị Kim Tiến). Các tác giả đã lí giải quan niệm về con
người, biểu hiện của nó trong tư duy nghệ thuật và trong tác phẩm cụ thể. Tác
giả Lê Thị Dục Tú nghiên cứu hình tượng con người trong tiểu thuyết từ góc
5
nhìn bản chất xã hội và loại hình văn học. Tác giả Phùng Ngọc Kiếm chỉ ra con
người sử thi và con người cá nhân trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975. Tác giả Nguyễn Thị Kim Tiến lại triển khai theo hướng tìm hiểu con
người cá nhân, thế giới nội tâm và vẻ đẹp thể chất của con người trong tiểu
thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Các công trình trên đã nghiên cứu về con người
trong văn học theo các giai đoạn lịch sử văn học hoặc theo thể loại, có những
nhận định bao quát, sâu sắc về sự thể hiện con người trong văn học. Tuy vậy,
con người trong thể loại phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945 vẫn chưa được
các nhà nghiên cứu đề cập đến một cách toàn diện và sâu sắc.
Kế thừa và phát triển thành tựu của những người đi trước, chúng tôi triển
khai vấn đề con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 theo
hướng chỉ ra môi trường sống và làm việc, đời sống vật chất, đời sống tinh thần
của từng tầng lớp con người cụ thể được phản ánh trong phóng sự giai đoạn này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Con người trong phóng sự Việt Nam giai
đoạn 1932 – 1945
Vấn đề Con người trong phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 thực chất đã
được các nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình quan tâm từ khi thể loại
phóng sự Việt Nam chính thức ra đời (1932), bởi con người là tâm điểm của
văn học và thể loại phóng sự cũng không ngoại lệ. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 có thể chia thành
ba thời kì: Thời kì 1932 – 1945; thời kì 1945 – 1985; thời kì sau 1986.
a. Thời kì 1932 – 1945
Ở thời kì 1932 – 1945, con người trong phóng sự đã được một số nhà
phê bình đề cập đến. Năm 1932, Tôi kéo xe ra đời như một phát súng lệnh
khẳng định sự xuất hiện của thể loại phóng sự và vấn đề hiện thực đời sống,
quyền sống, quyền làm người của tầng lớp phu kéo xe mà Tam Lang đặt ra
trong thiên phóng sự này đã tìm được sự thấu hiểu, đồng tình của nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình. Trên tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy, số ra ngày 26/10/1935,
6
nhà nghiên cứu Hoài Thanh đã nhấn mạnh ý nghĩa của phóng sự Tôi kéo xe
trong việc đánh thức thái độ trân trọng đối với tầng lớp “dưới đáy” của xã hội
lúc bấy giờ:“Nếu trong bao nhiêu người xem thiên phóng sự này, mà có một
người nhân đó, mà để ý đến cái thế giới u ám của người kéo xe, biết động lòng
trắc ẩn vì người kéo xe, biết nới tay ra một tí trong lúc đi xe thì cái việc ông Tam
Lang đã làm là việc có ích rồi” [32; tr. 83]. Cũng vì đã phản ánh hiện thực cuộc
sống của những kiếp phu xe, mạnh dạn đưa ra những giải pháp để phu xe được
làm Người chứ không phải làm ngựa mà Tôi kéo xe của Tam Lang được nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (Nxb Tân Dân, năm
1942) đã khẳng định “Tôi kéo xe là một quyển phóng sự có giá trị” [30; tr. 562].
Không chỉ nhìn ra những vấn đề bức thiết về tầng lớp phu xe trong Tôi kéo xe,
Vũ Ngọc Phan còn nhấn mạnh đến giá trị hiện thực của Đêm sông Hương trong
việc phản ánh chân xác đời sống của những người hành nghề mãi dâm.
Vấn đề con người trong các thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng được
giới nghiên cứu phê bình đề cập đến trong nhiều bài báo, chuyên luận. Trong
lời tựa cuốn Kĩ nghệ lấy Tây, nhà phê bình Phùng Tất Đắc đã khẳng định tác phẩm
là một cuộc khảo cứu về một tầng lớp con người (me Tây) trong xã hội đương thời,
nên “có thể vạch phương hướng cho văn nghệ… giúp được tài liệu cho đời sau
khảo xét về buổi này” [37; tr. 132]. Tác giả Lê Thanh trên tờ Tin văn (in lại trên Hà
Nội báo số 34 ra ngày thứ tư 26/08/1936) thì cho rằng trong Kĩ nghệ lấy Tây, Vũ
Trọng Phụng đã phản ánh “một tấn bi kịch...hiện đang diễn ra ở xứ ta, do sự gặp
gỡ của hai làn sóng, của hai thế giới gây nên”[37; tr. 137]. Đó là bi kịch về sự xuất
hiện của tầng lớp me Tây – kết quả của sự gặp gỡ của hai làn sóng Tây và Ta trong
xã hội đương thời. Bằng cách khảo cứu chi tiết về cả nội dung và nghệ thuật các
phóng sự của Vũ Trọng Phụng, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận thấy mỗi
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng chính là một thiên điều tra giá trị về một tầng lớp
người trong xã hội đương thời. Cơm thầy cơm cô được nhà nghiên cứu nhận xét là
“tập hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi
7
ông tả những cảnh nghèo khổ”[30; tr. 577], còn Lục xì thì được đánh già “là một
thiên nghị luận về nghề mại dâm” [30; tr. 580].
Cũng trong giai đoạn này, một số nhà phê bình như Thái Phỉ, Nhất Chi
Mai lại phê phán Vũ Trọng Phụng khi ông viết về những me Tây, những phụ
nữ làm nghề mãi dâm, những tay cờ bạc bịp, những kẻ ăn cắp, “làm tiền” trong
xã hội đương thời, vì họ cho rằng Vũ Trọng Phụng đã “nhìn thế gian qua cặp
kính đen, có một bộ óc đen và một nguồn văn càng đen nữa”[37; tr. 139]. Vũ Trọng
Phụng đã miêu tả các tầng lớp con người là nạn nhân của đồng tiền, hoặc là “làm
tiền”, hoặc là “bán trôn nuôi miệng”, đến mức Nhất Chi Mai thấy rằng “Đọc xong,
ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và chung quanh toàn những kẻ
giết người, làm đĩ, ăn tục nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng”[37; tr. 139]. Đáp
trả lời phê bình của Thái Phỉ, Nhất Chi Mai, Vũ Trọng Phụng đã có hai bài bút
chiến để bày tỏ nhân sinh quan, quan niệm viết văn của mình. Họ Vũ đã không
ngần ngại khẳng định quan điểm: “Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi,
muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời” [4; tr. 919], coi mình không chỉ là một nhà văn
mà còn là một nhà báo nên có trách nhiệm miêu tả hiện thực xã hội với các tầng lớp
người, với những mặt trái để người đọc biết mà ghê tởm, mà tránh xa. Như vậy, khi
nói về con người trong phóng sự 1932 – 1945, các nhà phê bình giai đoạn này chủ
yếu đi sâu phân tích bút pháp tả chân, quan niệm nghệ thuật khi phản ánh hiện thực
của nhà văn. Những góc khuất trong cuộc sống của các tầng lớp con người cụ thể
chưa được phân tích sâu sắc. Bên cạnh Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, các phóng sự
của Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam… cũng được giới phê
bình quan tâm. Tuy nhiên, những vấn đề nhức nhối về hiện thực đời sống của
những con người “dưới đáy” trong xã hội đương thời chưa được nghiên cứu
một cách hệ thống và đánh giá một cách toàn diện.
Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 chính là một bức tranh toàn
cảnh về xã hội Việt Nam đương thời với đa dạng các tầng lớp được phản ánh
chân thực, sâu sắc. Những tư tưởng tiến bộ nhằm cải tạo xã hôi, nâng cao giá
8
trị và đời sống con người của các văn sĩ cũng được gửi gắm qua các thiên
phóng sự. Tuy nhiên, những vấn đề đó chưa được các nhà phê bình giai đoạn
1932 – 1945 quan tâm đích đáng.
b. Thời kì 1945 - 1985
Bước sang thời kì1945 – 1985, phóng sự vẫn là thể loại được giới nghiên
cứu quan tâm, tuy nhiên vấn đề con người trong phóng sự giai đoạn này chưa
được nghiên cứu xứng tầm quan trọng của nó. Đáng chú ý là ý kiến của Tố
Hữu về Vũ Trọng Phụng trong Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc năm
1949 khi ông cho rằng “Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực xấu xa thối nát
của xã hội ấy”(xã hội 1932 - 1945)[16; tr. 157]. Nhà văn Nguyên Hồng (trong
lời tựa cho tiểu thuyết Giông tố do nhà xuất bản Hà Nội tái bản năm 1956) đã
khẳng định phóng sự Cạm bẫy người là tác phẩm mở đầu của khuynh hướng
văn học hiện thực vì đã phơi bày thực trạng về một tầng lớp người (những tay
cờ bạc bịp), phản ánh chân xác đời sống xã hội đương thời – một xã hội điên
đảo trước sức mạnh của đồng tiền. Bằng cái nhìn xã hội học, Tố Hữu và
Nguyên Hồng đã đề cao giá trị hiện thực của phóng sự Vũ Trọng Phụng, tuy
chưa đi sâu vào phân tích những tầng lớp con người cụ thể. Những bài viết
trong tập san Vũ Trọng Phụng với chúng ta (do Minh Đức xuất bản) cũng đánh
giá cao chất hiện thực, giá trị nhân đạo trong tiểu thuyết, phóng sự của Vũ
Trọng Phụng. Trong đó, Phan Khôi coi phóng sự Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ
lấy Tây, Cạm bẫy người đều là những tác phẩm thông cảm và “tố khổ” cho
hạng người cùng khổ ở Việt Nam. Tác giả Nguyễn Trác trong công trình Giáo
trình lịch sử văn học Việt Nam tập V (1930-1945) đã đánh giá cao công phu,
tâm huyết của các nhà phóng sự trong việc phản ánh những bức tranh hiện thực
về đời sống các tầng lớp con người trong xã hội đương thời: “Họ đã đi vào
bóng tối của các thành phố lớn, đến các nhà chứa, nhà lục xì, tiệm hút… Họ
đã công phu theo dõi quá trình trụy lạc của bao nhiêu thanh niên, cuộc sống
9
của những gái đĩ me tây, cảnh sát phạt, lựa bịp nhau của những người sống
bằng nghề đỏ đen” [50; tr. 122].
Vấn đề hiện thực đời sống tầng lớp gái mãi dâm trong phóng sự của Vũ
Trọng Phụng một lần nữa bị nhiều nhà phê bình phê phán khi những người
đứng đầu nhóm Nhân văn – Giai phẩm đề cao Vũ Trọng Phụng nhằm thực hiện
mưu đồ chính trị. Với cái nhìn phiến diện, Hoàng Văn Hoan trong Một vài ý
kiến về vấn đề tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam đã cho rằng
trong Lục xì và ở các tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng “đâu chỉ là loã lồ,
dâm uế, mà còn là cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục”[36; tr.
282]. Những lời văn miêu tả, phân tích chân thực, khách quan về bi kịch cuộc
đời và cả những “mánh khóe làm nghề” của những người phụ nữ “bán trôn
nuôi miệng” – một tầng lớp hạ đẳng trong xã hội thành thị đương thời trong
phóng sự của Vũ Trọng Phụng bị Vũ Đức Phúc cho là “lối văn khiêu dâm”và
nó “còn tệ hại hơn gấp mấy lần văn chương lãng mạn”[37; tr. 294].
Cũng trong thời gian này, một số tác giả, tác phẩm phóng sự tiền chiến
cũng được ca ngợi ở miền Nam. Vấn đề con người trong phóng sự 1932 –
1945 được đề cập đến trong bài viết của nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ trong
cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III. Tác giả đã giới thiệu tóm
tắt bốn phóng sự của Vũ Trọng Phụng (Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm
thầy cơm cô, Lục xì) và khẳng định giá trị của phóng sự Vũ Trọng Phụng trong
việc phản ánh hiện thực đời sống xã hội đương thời với những tầng lớp con
người cụ thể, “moi móc những vết thương xã hội ấy ... và nói ra với một giọng
mỉa mai chua chát, đôi khi đượm vẻ căm hờn [28; tr. 513-514]. Trong Bảng
lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhìn thấy giá trị hiện thực sâu sắc trong
ngòi bút tả chân của Vũ Trong Phụng khi lột trần những hiện tượng giả dối,
xấu xa, tội lỗi ẩn giấu trong các tầng lớp người trong xã hội đương thời. Thanh
Lãng nhận xét: “Vũ Trọng Phụng trong “Cạm bẫy người” (1933) cho chúng ta
thấy cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã ca ngợi chỉ là một xã hội giả dối, tội lỗi,
10
xấu xa... còn gì sống động và cũng sượng sùng cho bằng những thiên điều tra
của Vũ Trọng Phụng trong “Cơm thầy cơm cô” hay “Lục xì”! Truyện như trốn
tránh kết cấu, chỉ còn là một sự diễn hành”[17; tr. 722-744]. Phạm Thế Ngũ và
Thanh Lãng đã nhìn những phóng sự của Vũ Trọng Phụng ở ý nghĩa xã hội,
thấy được giá trị phản ánh hiện thực trong tác phẩm của nhà văn này, cũng có
nghĩa đã quan tâm đến cuộc sống của những kiếp người được “ông vua phóng
sự đất Bắc” điều tra và đưa lên trang giấy.
Như vậy, ở thời kì 1945 – 1985, bút pháp tả chân, giá trị hiện thực của
phóng sự 1932 – 1945 vẫn là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của các nhà phê
bình. Các tầng lớp con người là nhân vật chính trong các thiên phóng sự tuy có
được đề cập đến nhưng chủ yếu là những nhận xét khái quát, chưa cụ thể, đôi
khi có tính chất phiến diện và chỉ tập trung vào một số tác phẩm của một vài
tác giả tiêu biểu.
c. Thời kì từ 1986 đến nay
Sau 1986, các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến phóng sự của Vũ Trọng
Phụng, nhấn mạnh ý nghĩa phản ánh hiện thực, khả năng phơi bày những ung
nhọt xã hội, những quẩn quanh bế tắc của những kiếp người trong xã hội 1932
– 1945 trong phóng sự của nhà văn này. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý đến
ý kiến của PGS Trần Hữu Tá trong cuốn Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Nxb Văn
học, 1987): “Đằng sau những nhân vật “Cạm bẫy người”…, người đọc phần
nào thấy được hình ảnh của xã hội thành thị trụy lạc hóa hồi những năm 30 và
tình trạng bần cùng, bế tắc, lưu manh hóa của loại tiểu tư sản lớp dưới và dân
nghèo thành thị lúc bấy giờ” [23; tr. 8]. PGS đã thực sự quan tâm đến những
vấn đề về hiện thực đời sống con người được phản ánh trong phóng sự của cây
bút thiên tài này. Đó là thực trạng một bộ phận tư sản lớp dưới và dân nghèo ở
thành thị bị bần cùng, bế tắc và tha hóa nhân cách.
Những năm đầu thế kỉ XXI, trên văn đàn cũng có một số bài viết đề cập
đến vấn đề con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 như
11
“Trọng Lang – cây bút phóng sự tiên phong” (2002) của Trần Thị Trâm; “Vũ
Trọng Phụng bàn về phóng sự và tiểu thuyết tả chân” (2002) của Nguyễn
Ngọc Thiện; “Thể loại phóng sự trong văn học thế kỉ XX” (2006) của Tôn
Thảo Miên. Tuy nhiên, vấn đề con người chỉ chiếm một dung lượng nhỏ trong
nội dung bài nghiên cứu và chỉ tập trung vào một vài tác giả tiêu biểu như
Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng.
Trong những năm gần đây, khi những tác phẩm phóng sự 1932 – 1945
được tuyển tập, giới thiệu, được các nhà nghiên cứu lão thành phân tích, bình
giá thì đã có một số luân án tiến sĩ (LATS) và luận văn thạc sỹ (LVThS) nghiên
cứu về phóng sự, trong đó có đề cập đến vấn đề con người trong phóng sự Việt
Nam giai đoạn 1932 – 1945. Trong LATS Phóng sự Việt Nam 1930 – 1945
(Qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố) (2009), tác giả Phạm Thị My đã
chỉ ra mục đích của phóng sự Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố là
phanh phui những “ung nhọt” xã hội. Đó là những tệ nạn xã hội như mãi dâm,
cờ bạc bịp, trộm cắp… Đó là tình trạng bần cùng hóa và tha hóa diễn ra trong
một số tầng lớp con người trong xã hội đương thời. Luận văn Phóng sự Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945 của Đỗ Chỉnh (1996) đã phân tích hiện thực đời
sống nhân dân ở đô thị và thôn quê được phản ánh trong phóng sự 1932 – 1945
để khẳng định giá trị của thể loại văn học này. Tác giả Nguyễn Thị Loan trong
luận văn Thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945
(2001) đã nhận thấy ý nghĩa hiện thực của phóng sự giai đoạn này khi phơi bày
cuộc sống đau thương của nhiều tầng lớp “dưới đáy” trong xã hội. Luận văn
Đề tài nông thôn trong phóng sự văn học Việt Nam 1930 – 1945 (2008) của
Nguyễn Thị Bích Hòa thì đi sâu phân tích các vấn đề về cuộc sống con người ở
nông thôn trong phóng sự 1932 – 1945. Luận văn Đặc trưng phóng sự Vũ
Trọng Phụng (2012) của Trần Thị Huyền đã chỉ ra những nét tiêu biểu về nội
dung và nghệ thuật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Các tầng lớp con người ở
đô thị như me Tây, gái mại dâm, cờ bạc bịp… cũng được tác giả phân tích để
chi ra tính chân thực trong phóng sự của nhà văn họ Vũ này.
12
Gần đây, công trình Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, đặc
điểm và quá trình phát triển (2013) của Tiến sỹ Vũ Thị Thanh Minh đã nhận
diện và nghiên cứu khá cụ thể về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của
phóng sự 1932-1945. Qua công trình nghiên cứu, hiện thực đời sống xã hội,
văn hóa ở đô thị và nông thôn được phản ánh trong các thiên phóng sự 1932 –
1945 được tìm hiểu sâu sắc. Bằng góc nhìn xã hội học, văn hóa học, tác giả đã
chỉ ra thực trạng phân hóa giai tầng, những tệ nạn xã hội ở đô thị, cảnh bùn lầy
nước đọng, cuộc sống khổ cực và phong tục, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa ở
thôn quê. Đây là một định hướng quan trọng cho chúng tôi triển khai đề tài
Con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945.
Trong mấy năm gần đây, vấn đề con người trong phóng sự 1932 – 1945
được đề cập đến ở một số bài báo. Tác giả Cát Đằng trong bài viết “Phu kéo xe
và nỗi tủi nhục một thời” đăng trên trang ngày
10/09/2014 đã phân tích nỗi khổ cực của phu kéo xe – một tầng lớp dân nghèo
thành thị được thể hiện trong phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang.
Năm 2015, tại buổi ra mắt cuốn sách Nguyễn Đình Lạp tuyển tập (Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2015), Đại tá, nhà văn Nguyễn Hồng Thái góp
thêm tiếng nói về con người trong phóng sự của Nguyễn Đình Lạp: “Ngòi bút
Nguyễn Đình Lạp hướng đến cuộc sống của những người có thân phận hèn
mọn, địa vị thấp kém, cảnh đời lầm than, bế tắc”.[44] Tiến sỹ Đỗ Hải Ninh
trong buổi ra mắt sách cũng cho rằng: “Tác giả (Nguyễn Đình Lạp) không chỉ
phản ánh hiện thực mà còn nghiền ngẫm những quan hệ nhân sinh, xã hội. Từ
đó đưa ra thông điệp về khát vọng đổi thay những bất công phi lý, khuyên
thanh niên sống có lý tưởng, lành mạnh” [44]. Các ý kiến đã đề cao giá trị hiện
thực của văn chương Nguyễn Đình Lạp, trong đó có các tác phẩm phóng sự những thiên điều tra về lối sống trụy lạc của thanh niên đô thị hay đời sống bần
cùng của dân nghèo ven đô.
13
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu vấn đề con người trong phóng sự Việt Nam
1932 – 1945, chúng tôi nhận thấy: Các nhà văn, nhà nghiên cứu, các học viên,
nghiên cứu sinh mới quan tâm làm rõ đặc điểm, quá trình hình thành và phát
triển của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, đóng góp của các cây bút phóng sự
giai đoạn này vào nền văn học dân tộc, đặc biệt chú ý đến bút pháp tả chân,
chứ chưa nghiên cứu chuyên sâu vấn đề con người trong phóng sự 1932 –
1945. Vấn đề này mới được đề cập đến như một phần nhỏ trong các công trình
nghiên cứu và bằng những nhận xét khái quát, ngắn gọn. Từng tầng lớp con
người với những éo le, những góc khuất vẫn chưa được tìm hiểu chi tiết. Kế
thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi định hướng
tìm hiểu vấn đề Con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945
trong luận văn này. Chúng tôi khảo sát và nghiên cứu chuyên sâu về các tầng
lớp con người được phản ánh trong phóng sự, nhận diện về môi trường sống
và làm việc, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của họ để thấy được bức
tranh hiện thực về con người Việt Nam trong xã hội đương thời. Chúng tôi tìm
hiểu cách tiếp cận, cách thể hiện, đánh giá con người của các tác giả phóng sự
để thấy được nhân sinh quan, thế giới quan của nhà văn và làm rõ quá trình
hình thành các nhân vật văn học mới trong giai đoạn văn học mới, làm rõ các
hình thức thể hiện mới về con người của văn học nói chung, của thể loại phóng
sự nói riêng. Đó là những vấn đề quan trọng, cần thiết, không chỉ để hiểu rõ
hơn về một thể loại có nhiều đóng góp cho văn học giai đoạn này mà còn để
hiểu về đời sống con người Việt Nam trước Cách mạng, từ đó có cái nhìn soi
chiếu về con người trong cuộc sống hôm nay.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi hướng đến đối tượng là Con người trong phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1932 – 1945, tập trung vào các tầng lớp con người được phản ánh
trong phóng sự của ba tác giả tiêu biểu là Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Đình Lạp.
14
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát và nghiên cứu nhsững tầng lớp con người được phản ánh trong các
thiên phóng sự giai đoạn 1932 – 1945 (qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Đình Lạp), nghiên cứu môi trường sống, công việc, đời sống vật chất
và đời sống tinh thần của họ để thấy được bức tranh hiện thực về con người
trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.
Nghiên cứu cách tiếp cận, cách thể hiện con người của các cây bút phóng sự
để thấy được cái nhìn hiện thực, lối văn tả chân xuất sắc của các tác giả.
Chỉ ra những đóng góp ý nghĩa của các nhà phóng sự 1932 – 1945 về vấn
đề con người cho các nhà xã hôi học, nhà quản lý đương thời và hiện nay
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát toàn diện, thống kê đầy đủ và phân tích sâu sắc về những tầng
lớp con người được thể hiện trong phóng sự của ba tác giả tiêu biểu: Tam
Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp. Đồng thời, chúng tôi tìm hiểu cách
tiếp cận, cách thể hiện con người của các cây bút phóng sự này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội
học, văn hóa học, tâm lí học, sinh lí học, phương pháp so sánh, tổng hợp
5. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát một số phóng sự của ba tác giả tiêu biểu giai đoạn 1932 –
1945: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp trong Tuyển tập Phóng
sự Việt Nam 1932 – 1945 (NxbVăn học, 2000) của nhóm tác giả Phan Trọng
Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn.
- Các phóng sự của Tam Lang: Tôi kéo xe, Đĩa mứt gừng, Lọng cụt cán, Tập ảnh.
15
- Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm
thầy cơm cô, Lục sì, Một huyện ăn Tết.
- Các phóng sự của Nguyễn Đình Lạp: Thanh niên trụy lạc, Ngoại ô, Ngõ hẻm.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương.
Chương 1: Điều kiện hình thành con người trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930-1945
Chương 2: Các tầng lớp con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945.
Chương 3: Các hình thức thể hiện con người trong phóng sự Việt Nam giai
đoạn 1932 - 1945
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định vai trò, vị trí của phóng sự
1932 – 1945 trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn tiến hành nghiên
cứu chuyên sâu về một vấn đề còn nhiều bỏ ngỏ, chưa được tìm hiểu toàn diện,
hệ thống – vấn đề “Con người trong phóng sự Việt Nam 1932 – 1945” làm tư
liệu cho các nhà nghiên cứu và những người yêu văn học.
16
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH CON NGƯỜI TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
1.1. Điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội hình thành con người trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Đầu thế kỉ XX, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế và chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có sự phân hóa
sâu sắc, đời sống của các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam đều vô cùng
cực khổ. Giai cấp nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất
trong xã hội, cũng là hai đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của tư
bản Pháp ở thuộc địa nên họ bị bần cùng hóa và bị đe dọa trực tiếp bởi nạn chết
đói, thất nghiệp. Có tới một phần ba số công nhân rơi vào tình trạng thất
nghiệp. Chỉ tính riêng ở miền Bắc đã có 25.000 công nhân bị sa thải, trong đó
có 12.000 công nhân ngành mỏ. Những công nhân có việc làm đều bị giảm
lương từ 30% đến 50%. Một nhà báo nữ người Pháp là Viôlít (Andree Viollis)
đã viết trong một dịp sang Đông Dương: “Lương công nhân không bao giờ
vượt quá từ 2 đến 2,5 phơrăng mỗi ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong các
xưởng dệt, ngày làm việc từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Đàn ông lương từ 1,75
phơrăng đến 2 phơrăng, đàn bà từ 1,25 phơrăng đến 1,5 phơrăng, trẻ em từ 8
đến 10 tuổi được lĩnh 0,75 phơrăng…công nhân phải làm việc từ 15 đến 16
giờ mỗi ngày, và được trả từ 1,2 đến 2,2 phơrăng mỗi ngày”. [18; tr. 298].
Nông dân cũng bị bần cùng hóa, phải chịu sưu cao, thuế nặng và là nạn nhân
của nạn cho vay nặng lãi. Giá sưu thuế ngày một tăng, một suất sưu năm 1929
bằng giá 50 kg gạo, đến năm 1932 là 100 kg gạo và đến năm 1933 là 300 kg
gạo. Theo điều tra của Phòng canh nông Bắc Kì trong tháng 5 – 1934, đời sống
của nông dân ở các tỉnh Bắc Giang, Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Nam
Định, Thái Bình rất thấp. Mức thu nhập là 12 xu cho 6 người trong một ngày.
Vì đói khổ, người nông dân phải vay của địa chủ với bất cứ tỉ lệ lãi nào để
17
sống qua ngày và sau đó phải bán mọi thứ tài sản nghèo nàn của mình, thậm
chí phải bán cả con để nộp sưu thuế và trả nợ. Tác giả Guru (P. Gourou) trong
tác phẩm “Nông dân Bắc Kì” đã viết: “Người ta có thể cầm chắc là nông dân
sống ở mức cùng cực của đói kèm và nghèo khổ” [18; tr. 299]. Các tầng lớp lao
động khác như tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, trí thức cũng
sống điêu đứng. Địa chủ nhỏ cũng bị sa sút. Một số tư sản dân tộc bị phá sản,
vỡ nợ.
Cùng với những biển đổi lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam thời
kì này cũng có nhiều thay đổi do sự giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương
Tây. Các giá trị văn hóa Tây phương du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX,
dẫn đến những chuyển biến lớn trong đời sống của nhân dân, trước hết ở nhận
thức. Sự phát triển của ý thức về cái tôi cá nhân, tự do cá nhân là một điểm mới
trong nhận thức của người Việt Nam. Nếu như ở thời kì trung đại, dưới tác
động, ảnh hưởng của Nho giáo, quan hệ họ hàng, gia tộc, quốc gia được đề
cao, cái tôi cá nhân bị lu mờ thì bước sang thế kỉ XX, quan hệ họ hàng gia tộc
lại mờ nhạt trước cái tôi cá nhân. Từ chỗ bị chìm trong cái Ta, cái Tôi đã trở
thành những cá thể độc lập, là bản vị của xã hội, có nghĩa vụ và lợi ích độc lập.
Đặc biệt, đến đầu thế kỉ XX, vấn đề “nữ quyền” đã được nhiều người quan tâm
và cổ vũ. Nếu như ở thời kì trung đại, người phụ nữ bị đối xử bất công, không
được đi học, không được thể hiện cái tôi, không được tham gia các hoạt động xã
hội, chính trị quốc gia đại sự… thì đến đầu thế kỉ XX, những người phụ nữ, nhất
là ở thành thị, đã nhận thức được giá trị bản thân, đấu tranh đòi nữ quyền, chống
lại những tập tục lạc hậu, luân lý Nho giáo lỗi thời, lên tiếng đòi quyền tự do,
dân chủ, bình đẳng cho giới mình. Phụ nữ cũng được đi học, cũng làm các công
việc như nam giới như công nhân, viên chức, công chức, buôn bán, kinh
doanh…, khẳng định mình trong tình yêu và hôn nhân, mạnh dạn trong giao tiếp
xã hội, tiếp cận các mẫu trang phục hiện đại, Âu hóa…
18
Cùng với những thay đổi trong nhận thức về cái tôi cá nhân, cách nhìn
nhận phong tục tập quán của con người đầu thế kỉ XX đã khác trước. Một mặt
tôn vinh bản sắc tinh tế riêng biệt của văn hóa dân tộc qua các lễ hội, sinh hoạt
gia đình, tình nghĩa làng xóm, đạo thầy trò, nghĩa cha con, vợ chồng, để cao
tình nghĩa thủy chung, nhân hậu. Mặt khác đã phê phán nhẹ nhàng các hủ tục
lạc hậu, xuất hiện những hành vi ứng xử mới trong phong tục như: thay đổi
cách đặt tên cho con, dùng tên của những loài hoa đẹp hoặc ước vọng của cha
mẹ để đặt tên cho con chứ không phải chỉ là “thằng cu”, “con hĩn” nữa; đem
hoa ra viếng mộ người đã khuất; ở thành thị thì đơn giản hóa ngày Tết. Trong
hôn nhân, con cái được quyền tự do yêu đương chứ không còn “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy”, cũng không nhất thiết phải môn đăng hộ đối, không phân
biệt giàu nghèo, không có hiện tượng cưỡng ép duyên con nặng nề như trước.
Nhận thức về nghề nghiệp của người Việt cũng khác xưa. Nếu xưa kia
người Việt say mê bia đá, bảng vàng, chăm lo dùi mài kinh sử nên coi thường
công nghệ thì đến đầu thế kỉ XX, giới sĩ phu đã viết “văn minh tân học sách”,
phê phán thái độ coi rẻ công thương, nhận thấy buôn bán giữ một vị trí quan
trọng đối với một quốc gia. Cũng từ đó, hàng quán, cơ sở kinh doanh buôn bán
mọc lên nhiều và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các đô thị. Kéo theo
đó là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân, những người buôn bán nhỏ,
những người làm thuê cho các cửa hàng, cơ sở kinh doanh. Họ là một bộ phận
của tầng lớp thị dân mới với những nhu cầu mới về văn hóa.
Nói tới những bước chuyển của văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX không
thể không nói tới sự xuất hiện và ngày càng phổ biến của chữ quốc ngữ. Từ
chỗ chỉ là một phương tiện truyền đạo của một số nhà truyền giáo phương Tây
tại Việt Nam ở thế kỉ XVII, đến đầu thế kỉ XX chữ quốc ngữ đã trở thành ngôn
ngữ phổ biến, một thứ ngôn ngữ phổ thông thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm
vốn giữ vị trí độc tôn từ hàng ngàn năm trước. Chữ quốc ngữ diễn tả được tâm
tư tình cảm, suy nghĩ, tư tưởng của người Việt. Các nhà văn đã sử dụng chữ
19
quốc ngữ để sáng tác văn học, dịch các tác phẩm văn học nghệ thuật, các công
trình nghiên cứu nước ngoài. Đồng thời, một số chữ nước ngoài cũng được du
nhập để làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ dân tộc, diễn tả những khái niệm
mới của thời đại.
Cùng với sự phát triển của chữ quốc ngữ, thể loại báo chí, dịch thuật đã ra
đời và phát triển. Các tờ báo Tiếng Việt như Nam Phong (1919), Thực nghiệp
dân báo (1920), Nam Kỳ kinh tế (1920), Thanh niên (1925), Tiếng dân (1927),
Phụ nữ tân văn (1929), Tiểu thuyết thứ bảy (1934), Phong Hóa (1932), Ngày
nay (1936)… lần lượt ra đời với hàng loạt bài viết phản ánh đời sống tư tưởng,
tình cảm, nếp suy nghĩ mới của con người Việt Nam. Phóng sự là một trong
những thể loại báo chí ra đời sau nhưng phát triển mạnh mẽ, đã phản ánh chân
thực muôn mặt đời thường, từ kinh tế, chính trị đến xã hội, văn hóa của con
người Việt Nam. Các cây bút phóng sự như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Trọng
Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Đình Lạp… với bút lực dồi
dào và tinh thần nhập cuộc đã “lăn lộn” với đời để đưa lên trang báo những bài
phóng sự phản ánh chân thực, sâu sắc đời sống của các tầng lớp nhân dân cùng
rất nhiều những góc khuất mà không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy được.
Như vậy, từ đầu thế kỉ XX, đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây. Phong trào Âu hóa diễn ra mạnh mẽ nhất ở các đô thị, nơi không
bị níu giữ bởi văn hóa làng xã. Thị dân sống ở thành thị không phụ thuộc vào
lề thói văn hóa cũ, ít bị ảnh hưởng bởi văn hóa làng xã, tách dần với nếp suy
nghĩ, nếp cảm của người nông dân, dễ thích nghi với những biến chuyển mới
của xã hội. Thị dân đã chấp nhận một lối sống văn hóa mới. Họ chọn cách sinh
hoạt của người phương Tây như mặc đồ Tây, ở nhà Tây, thích đi ô tô, xe điện,
chụp ảnh, xem phim, đọc sách báo, nhảy đầm… Thị dân tìm đến với văn hóa
phương Tây để thỏa mãn những nhu cầu của mình, thực hiện lối sống mới – tự
do, phóng khoáng, đề cao cái tôi cá nhân.
20
Văn hóa phương Tây có nhiều mặt tích cực, song cũng có những mặt trái
của nó. Ở xã hội mới này, sức mạnh của đồng tiền quá lớn. Vì tiền mà người ta
sẵn sàng chà đạp lên những phẩm chất đạo đức, luân lý và nhân phẩm con
người, ảnh hưởng tiêu cực đến các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt
Nam. Trong đời sống tinh thần của người Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, ở
thành thị, không khó để bắt gặp những cảnh tượng con khinh bố, vợ chửi chồng,
thanh niên ăn chơi trụy lạc, cờ bạc, lừa lọc, phụ nữ làm mãi dâm, làm vợ Tây để
kiếm tiền. Thân xác người phụ nữ đôi khi trở thành thứ đồ chơi để thỏa mãn thú
vui dâm dật của nhóm người nhiều tiền, lắm của, háo sắc. Trong giới thượng lưu
thành thị, do chịu ảnh hưởng của lối sống buông thả, phóng túng thái quá trong
hôn nhân, gia đình của phương Tây nên đã có không ít trường hợp cha không ra
cha, con không ra con, vợ ngoại tình, chồng ngoại tình…
Con người là sản phẩm của hoàn cảnh và chịu tác động của hoàn cảnh.
Các điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa ở nước ta từ đầu thế kỉ XX đến trước
Cách mạng tháng Tám 1945 đã tác động, ảnh hưởng đến đời sống con người
trong giai đoạn này, đặt ra nhiều vấn đề về con người. Ở đây chúng tôi tập
trung đến những con người sống ở thành thị: Trong khi một bộ phận quan trên
sống dư giả, thừa thãi thì đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân lao động
là vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nhất là tầng lớp thị dân nghèo – những con
người dưới đáy như phu kéo xe, người đi ở, gái nhà thổ, dân nghèo ngoại ô.
Con người điêu đứng, thậm chí trở nên tha hóa trước sức mạnh đồng tiền. Con
người đề cao cái tôi cá nhân, sống phóng túng, buông thả, trụy lạc, sẵn sàng
chà đạp lên luân thường đạo lý. Tất cả những hiện tượng nhức nhối đó đã được
các nhà văn, nhà báo đương thời khám phá, tìm hiểu và đưa lên trang báo bằng
các bài phóng sự đậm chất hiện thực, đầy máu và nước mắt. Tam Lang, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp là những cây bút phóng sự tiêu biểu, đã phản
ánh chân thực các vấn đề về con người ở đô thị trong giai đoạn 1930 – 1945.
21
1.2. Vài nét quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam (từ
đầu thế kỉ XX đến 1945)
1.2.1. Khái niệm quan niệm về con người trong văn học
Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Tác phẩm văn học dù viết
về đối tượng nào, là con người hay đồ vật, con vật, dù thần linh hay ma quỉ, dù
miêu tả thế giới nào, là thượng giới, âm giới hay trần gian thì đều hướng tới một
mục đích là thể hiện con người với tất cả sự đa dạng, phức tạp của nó.Thực
tế cho thấy, không có một tác phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ
đơn thuần nói về thiên nhiên, cảnh vật mà không liên quan đến con người. Mỗi
thể loại văn học có những cách diễn đạt, thể hiện khác nhau nhưng tựu chung lại
đều hướng đến thể hiện con người. Ví dụ: Truyện cổ tích, thần thoại miêu tả
thần linh, ma quỷ, địa ngục, đồ vật...là nói đến cái hiện thực tồn tại trong đầu óc
con người, góp phần thể hiện ước mơ, khát vọng con người. Ngay cả những
nhân vật không thực, ví như trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân (các
thần tiên, yêu quái) thì cũng hướng đến bóc trần hiện thực xã hội Trung
Quốc hỗn loạn thời bấy giờ, đồng thời thể hiện sự khái quát về triết lí làm
người. Hay những dòng thơ viết về thiên nhiên, cảnh vật không phải chỉ là miêu
tả, phác thảo bức tranh mà là sự gửi gắm những tâm tư, tình cảm của chủ thể trữ
tình. Nhìn chung, trong văn học, yếu tố con người được nói đến như một điều tất
yếu. Con người chính là nhân vật trung tâm của văn học. Tuy nhiên, mỗi nhà
văn ở mỗi thời đại lại có những quan niệm khác nhau về con người, chi phối đến
cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học.
Quan niệm về con người trong văn học là nội dung cơ bản nhằm thể
hiện khả năng khám phá, sáng tạo của nhà văn trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện
con người. Cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu,
song khái niệm quan niệm về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn
đạt khác nhau. Cụ thể như sau:
22
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người
là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn,
tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[5;
tr. 15]. Phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các
nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác
giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật
trong đó. Giáo sư Huỳnh Như Phương nhận xét bao quát: “Quan niệm nghệ
thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác
phẩm”. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ
thuật là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác
phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách
của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy
nghệ thuật.” [8; tr. 275]
Từ sự phân tích các quan điểm trên, chúng tôi đi đến khái quát cách hiểu
quan niệm về con người trong văn học như sau:
Quan niệm về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ,
cách cắt nghĩa lí giải của nhà văn về con người. Đó là quan niệm mà nhà văn
thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách
cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con
người giống hay không giống so với đối tượng. Con người cũng là đối tượng
thẫm mĩ chủ yếu để tác giả thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống. Chủ thể
sáng tác sẽ là người vận động và suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra
những tư tưởng mới để hiểu về con người. Từ việc hướng đến xác định khái
niệm quan niệm về con người trong văn học, có thể khẳng định rằng: Chúng ta
sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh cũng
như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động của
con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm của các tác giả về con
23
người trong văn học. Cho nên, tìm hiểu quan niệm về con người trong văn học
là điều hết sức quan trọng.
1.2.2. Con người trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách
mạng tháng Tám 1945
Cuộc sống luôn vận động theo từng giai đoạn lịch sử nên văn học ở mỗi
giai đoạn khác nhau sẽ thể hiện con người với những đặc điểm riêng biệt.Trước
khi trình bày chi tiết về con người trong Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
trước Cách mạng tháng Tám 1945, chúng tôi điểm qua một số nét cơ bản đáng
chú ý về con người trong văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.
Trong văn học dân gian, con người được thể hiện là sản phẩm của tự
nhiên (“Người ta là hoa đất”), nhưng là sản phẩm cao nhất, hoàn mỹ nhất của
tự nhiên, vừa có vẻ đẹp về thể xác, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ. Đó không
chỉ là thiên nhiên tự nó, mà còn là thiên nhiên cho nó. Con người chẳng những
có khả năng nhận thức thiên nhiên, mà còn có khả năng cải tạo thiên nhiên.
Con người là chúa tể của muôn loài vì có trí khôn (“Trí khôn của ta đây”).
Ngoài những nhu cầu bản năng, con người còn có ý thức, có khả năng thăng
hoa những nhu cầu ấy thành chất Người. Chẳng hạn, con người thăng hoa nhu
cầu ăn uống thành văn hoá ẩm thực, thăng hoa nhu cầu tình dục thành tình yêu.
Con người ham sống nhưng không sống bằng mọi giá. Họ hiểu sống phải có
vật chất nhưng còn hiểu sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh
thần, là tình thương và danh dự (“Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước
đục đau lòng cò con”. “Sống vì mồ mả, ai sống bằng cả bát cơm”...). Như vậy,
trong văn học dân gian, con người được thể hiện là con người tự nhiên, gồm cả
yếu tố bản năng và ý thức. Đặc điểm con người bản năng đã được kế thừa, phát
triển với những điểm mới trong văn học hiện đại Việt Nam.
Trong văn học trung đại Việt Nam, quan niệm về con người chi phối cả
một thời kì văn học là quan niệm con người vũ trụ, con người đạo đức, con
người đấng bậc. Vì thế, con người được thể hiện trong văn học là người anh
24
hùng đối diện đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ, sánh ngang tầm vũ trụ “Trí chủ
hữu hoài phù địa trục / Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” (Cảm Hoài – Đặng
Dung). Con người được thể hiện trong văn học trung đại còn là con người đạo
đức, luân lí, con người của chí khí và việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc trưng
của họ “Dù nội ngoại bên nào cũng vậy / Đừng tranh giành bên ấy, bên này /
Cù Lao đội đức cao dày /Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Gia huấn
ca – Nguyễn Trãi). Đó còn là con người đấng bậc, nhân vật được nói đến trong
tác phẩm văn học là những “đấng”, những “bậc” đáng kính trọng. Họ là “đấng
tài hoa” (Đạm Tiên); “bậc tài danh” (Kim Trọng); “bậc bố kinh” (Thúy Kiều);
“đấng anh hùng” (Từ Hải)... Đối với những nhân vật ấy, tác giả dành cho
những lời trang trọng, tượng trưng.
Trong văn học trung đại Việt Nam, con người cá nhân cũng được thể
hiện ở mức độ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau, đậm nét nhất trong
các sáng tác giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX. Ví như, con người cá
nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng (thơ Hồ Xuân Hương); con
người với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, tâm sự u uẩn (thơ Nôm Nguyễn
Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,...); con người thể hiện cảm hứng sống ẩn dật,
hành lạc (thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm); con người với tình yêu lứa đôi, hạnh phúc,
khát vọng nhu cầu trần thế (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái và Truyền kỳ
mạn lục); con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng tàn (Chinh phụ
ngâm); con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài khuôn khổ (thơ văn
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát); con người cá nhân giải thoát bằng hưởng
lạc (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX); con người cá nhân trống rỗng, mất hết ý nghĩa
(thơ Nguyễn Khuyến),… Đây là tiền đề cho sự thể hiện một cách mạnh mẽ, sâu
sắc con người cá nhân trong văn học hiện đại Việt Nam.
Đến thời kì hiện đại, từ đầu thế kỉ XX, khi điều kiện lịch sử, văn hóa, xã
hội có nhiều đổi khác thì quan niệm về con người trong văn học cũng thay đổi
theo. Con người tự nhiên, bản năng từng được thể hiện trong văn học dân gian,
25
bị kiềm tỏa bởi những quy định khắt khe của văn học Nho giáo thời trung đại,
đến thời kì hiện đại khi gặp được luồng gió Tây phương đã xuất hiện trở lại với
những biểu hiện mới mẻ hơn. Con người cá nhân từng được ghi dấu trong văn
học trung đại giai đoạn cuối đến thời kì hiện đại đã được khẳng định rõ nét. Sự
vận động nội tại của văn học gặp luồng gió văn hóa phương Tây đầu thế kỉ XX
đã tạo nên sự thể hiện con người cá nhân trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng
Tám 1945 có ba hiện tượng văn học lớn với những quan niệm về con người
đáng chú ý.
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mà tiêu biểu là các tác phẩm của Nhất Linh,
Khái Hưng, Hoàng Đạo đã thể hiện một quan niệm con người mới làm nền tảng
cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm. Đó là con
người cá nhân với khát vọng tìm cách thoát ly mọi quan hệ xã hội để thỏa mãn
tự do bản năng. Con người cá nhân không chịu gò mình trong khuôn khổ lễ giáo
phong kiến, muốn vượt ra ngoài vòng cương tỏa để hướng đến quyền tự do
quyết định hạnh phúc. Tình yêu đi theo nhịp đập của trái tim chứ không theo sự
xắp xếp của cha mẹ. Đó không phải là thứ tình yêu tài tử giai nhân Thúy Kiều –
Kim Trọng, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga… Đó là những mối tình lãng mạn
không theo thông lệ xã hội cũ như mối tình của Dũng và Loan trong Đoạn tuyệt,
Mai và Lộc trong Nửa chừng xuân, Trương và Tuyết trong Đời mưa gió, Nhung
và Nghĩa trong Lạnh lùng..vv.. Tất nhiên, để đến được với hạnh phúc họ gặp vô
vàn những cản trở của gia đình trọng phú quý, cổ hủ và từ phía chính bản thân
họ. Thế nhưng những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi nhân vật thì không
thể nào giấu nổi. Có thể nói một trong những cách tân quan trọng về nội dung
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là thay đổi cách nhìn về con người. Nhà văn đưa
con người ra đấu tranh trực diện với xã hội cũ. Kết thúc tác phẩm có thể là
những tương lai xán lạn cho nhân vật hoặc còn để lại nhiều trăn trở trong lòng