Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

thời cơ và thách thức của việt nam – lào khi gia nhập tổ chức asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.66 KB, 30 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển xã hội loại người đã chứng tỏ rằng: nền văn minh nhân
loại càng phát triển thì người ta nhận thức sâu sắc về việc nâng cao phát triển
hợp tác , phát triển trên mọi lĩnh vực. Trong những thập kỷ gần đây cuộc sống
cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã tác động sâu sắc đến tất cả các lĩnh
vực khi nước ta chuyển hướng mới vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đặc
biệt là từ khi phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa...
đặt ra đòi hỏi cần thiết như : đầu tư, đổi mới công nghệ và môi trường sản xuất
kinh doanh. đặc biệt là trong nghị quyết Đai Hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ đã chỉ rõ; tăng cường quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm định hướng ra chỉ
đạo của sự phát triển của toàn bộ kinh tế xã hội và muốn làm được như vậy thì
chúng ta phải có sự trao đổi, hợp tác kinh nghiệp giúp đỡ lớn nhau về mặt phát
triển kinh tế giữ vững ổn định chính trị, phát huy mặt tích cực , họ sẽ thấy được
khuôn mặt mới của đất nước ta một đất nước nhỏ bé , đổi mới, đưa đất nước ra
khỏi khuảng hoảng kinh tế xã hội. củng cố vị thế của dân tộc Việt Nam trên
trường quốc tế.
Hợp tác khu vực dựa trên tiền đề cho rằng các nước có thể dễ dàng đặt
được những mục tiêu nhất định thông qua nỗ lực tập thể hơn là nỗ lực riêng lẻ.
Cho nên, ASEAN cũng là một hợp tác của các nước nằm trong khu vực Đông
Nam A (Hiệp hội Đông Nam A), hiện tại bao gồm 10 nước thành viên. Ba mươi
sáu năm so với cả nghìn năm chỉ là một khoảnh khắc. Thế nhưng trong khoảnh
khắc đó, các dân tộc và các quốc gia Đông Nam Á đã ngày càng nhận rõ tính
thống nhất trong đa dạng của nền văn hoá hiện đại, của nền kinh tế phát triển,
của chế độ chính trị ổn định trong cả khu vực cũng như từng quốc gia, và điều
quan trọng hơn cả là thông qua tổ chức ASEAN các nước Đông Nam Á đã, đang
1


và sẽ làm cho khu vực thống nhất trong đa dạng này phát triển và thịnh vượng.
Hy vọng và tin tưởng rằng, với những bước khởi đầu vững chắc và tốt đẹp qua,


khu vực này sẽ tỏa sáng về mọi mặt cùng với các khu vực khác của thế giới. Với
ý nghĩa quan trọng như thế em xin chọn đề tài “Thời cơ và thách thức của Việt
Nam và Lào khi gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN” để đi sâu vào các lĩnh
vực sau:
1. Những đặc điểm về điều kiện từ nhiên, dân cư và xã hội của khu vực.
2. Quá trình hình thành và phát triển của tổ chức này.
3. Những thời cơ và thách thức của Việt Nam – Lào khi gia nhập tổ chức
này.

2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ ĐIỀU KIỆN TỪ NHIÊN XÃ HỘI VÀ DÂN
CƯ CỦA KHU VỰC.
1. điều kiện từ nhiên .
Đông Nam Á là khu vực nằm trong vùng Đông- Nam lục địa châu á; bao
gồm 10 quốc gia. Các nước nằm trong bán đảo Trung-Ấn gồm Việt Nam, Lào,
Miên Ma, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, xinhgapo, Brunây,
Cămpuchia. Tổng diện tích Đông Nam Á gần 4,5 triệu km2 .
Ưu thế nổi bật về điều kiện từ nhiên của khu vực này là hầu hết các nước
đều tiếp cận biển và đại dương (trừ Lào), nằm trấn giữ các đường hàng hải quốc
tế nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương và tiếp cận với các quốc gia thuộc
châu Đại Dương. Mặt khác, Đông Nam Á với vị trí chiến lược rất quan trọng,
nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, gần Nhật Bản, tiếp giáp với Ôxtrâylia. Trong
khu vực lại co những hải cảng quan trọng như: Malắcca, Xinhgapo, Đà Nẵng.
Với vị trí chiến lược của mình cùng với tiềm năng phát triển hải quân rất lớn
nhiều quốc gia trong khu vực, Đông Nam Á trở thành một vùng địa chính trị hết
sức nhạy cảm trong tòan tính chiến lược của các cường quốc.
Núi và đồng bằng là hai yếu tố địa hình chủ yếu tại khu vực này. Các dãy

núi Aracan (Tây Mianma), Trường Sơn (dọc biên giới Việt Nam – Lào) đều chạy
theo hướng Bắc – Nam; các dãy núi Inđônêxia chạy theo hình canh cung (cung
Xcôngđơ). Trên bán đảo Trung –Ấn có những đồng bằng khá rộng như: châu thổ
sông Hồng Hà, Cửu Long (Việt Nam), Mênam (Thái lan), Xaluen, Irauađi
(Mianma); ở Inđônêxia và Philíppin có các dải đồng bằng hẹp ven biển. Đông
Nam Á nổi tiếng là vùng giàu khoáng sản. Đáng kể nhất là thiếc, niken, côba và

3


dầu mỏ. Ngoài ra còn có than đá, quặng sắt, đồnh, chì, kẽm, bốit, vônphram,
mănggan, vàng, bạc…
- Khí hậu: Đông Nam Á nằm vắt ngang từ 28 độ bắc xuống 11 độ nam và
trải rộng từ 95 – 140 độ nên khí hậu bao trùm là nhiết đới – xích đạo; chịu ảnh
hưởng chủ yếu của hai gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: mùa khô lạnh,
mát và mùa mưa tương đối nóng ẩm. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho
vùng Đông Nam Á đáng lẽ phải khô cằn như một số khu vực lục địa có cung vĩ
độ, đã trở nên xanh tốt và trù phú. Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiết đới
đã cung cấp đủ nước cho con người trong đời sống, đặc biệt rất thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp và tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú.
Mạng lưới sông ngòi Đông Nam Á dày đặc, trữ lượng nước dồi dào, sông
ở đây có nước quanh năm, dòng chảy lớn có giá trị về giao thông, thuỷ điện và
bồi đắp phù sa lớn. Thực vật tự nhiên rất phong phú, phát triển nhanh và xanh tốt
quanh năm. Các khu rừng tạp, rừng thuần nhất, rừng ngập mặn đều có giá trị
kinh tế cao. Trong lịch sử, Đông Nam Á đã từng là nơi cung cấp nguồn nguyên
liệu quan trọng của thế giới. Vùng này chiếm 90% tổng sản lượng cao su, dừa,
đay, gai, … của thế giới và chiếm vị trí quan trọng về các nông sản khác như:
gạo, chè, cà phê, bông, hương liệu …
2. điều kiện dân cư và xã hội
- Dân cư: tổng dân số Đông Nam Á có khoảng trên 527 triệu người, 85%

dân số khu vực tập chung vào 4 nước như: Inđônêxia (gần 225 triệu người), Việt
Nam (trên76 triệu người), Philíppin ( trên 66 triệu người), Thái Lan (trên 60 triệu
người). Đó cũng là các nước nằm trong 22 quốc gia trên thế giới có dân số trên
50 triệu người. Nước có dân số ít nhất trong khu vực là Brunây, có khỏang 336
nghìn người. Mật độ trung bình của khu vực là 100 người/km 2 ; tuy nhiên, mật
độ phân bố dân cư giữa các nước không đồng đều: Xinhdapo cao nhất 4.647
người/ km2, trong khi Lào chỉ có 16,5 người/km 2, dưới mực trung bình của thế
4


giới. Bên cạnh đó tình hình đô thị hoá với tỷ trọng dân số thành thị cũng khác xa
nhau, thể hiện sự khác biệt về trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế. Có nước có tỷ
lệ thành thị vào loại cao nhất thế giới như: Xinhgapo 100%, có nước thấp nhất
thế giới như: Campuchia 11,3%, Lào 17,5%). Nhìn chung, phận đông dân cư
sống ở các dải đồng bằng. Tại các vùng trung du và miền núi, dân cư thưa thớt.
Có tới 70% dân số Đông Nam Á sống bằng nghề nông.
Ngôn ngữ: Mỗi tộc hình thành riêng cho mình một ngôn ngữ, trong quá
trình phát triển lịch sử ở các nước Đông Nam Á sinh sống nhiều dân tộc khác
nhau, do vậy mà ngôn ngữ ở đây vô cùng đa dạng. Nhìn chung, khu vực có hệ
ngôn ngữ Nam Á (hay ngôn ngữ Môn – Khơmê), Việt –Mường , Thái- Kađai,
Tạng- Miến và Nam Đảo. các hệ ngôn ngữ này lại chia ra thành nhiều nhóm
ngôn ngữ, các ngôn ngữ của từng tộc người.
Tôn giáo: Do có vị trí địa lý được ví như ngã tư đường của các nền văn
hoá lớn trên thế giới, Đông Nam Á trở thành nơi tiếp nhận gần như toàn bộ các
tôn giáo lớn trên thế giới. Cả ba tôn giáo lớn như: Phật giáo, Ấn Độ giáo và Hồi
giáo đã gặp nhau và cùng tồn tại ở nơi đây, và chúng đều có những biến đổi nhất
định phù hợp với văn hoá từng địa phương, tạo nên một nên văn hoá riêng của
khu vực Đông Nam Á . Hiện nay, Phật giáo là quốc giáo của Thái Lan, Lào,
Mianma, Campuchia (ở Thái Lan và Campuchia, khoảng 95% dân số theo đạo
Phật, ở Lào khoảng 60%). Nếu tính cả 11 nước trong khu vực thì Phật giáo

chiếm khoảng 40% dân số khu vực. Đạo Hồi là quốc giáo của Inđônêxia,
Malaixia và Brunây ( ở Inđônêxia chiếm 88%, Brunây chiếm 67% dân số).
Trung bình đạo Hồi trong khu vực khoảng hơn 23% dân số. Ngoài các tôn giáo
chiếm ưu thế trong khu vực kể trên, ở một số nước khác, Thiên chúa giáo cũng
phát triển như: Phllíppin chiếm đến 83% dân số.
Đông Nam Á là một thực thể lịch sử – văn hoá. Các quốc gia dân tộc trong
vùng có nhiều bản sắc, phong tục, tập quán, giá trị văn hoá. Trên cơ sở thống
5


nhất văn hoá bền chặt này, và tác động của hàng loạt nhân tố khác, Đông Nam Á
nổi lên như là một thực thể địa kinh tế và địa chính trị vừa thống nhất vừa đa
dạng trong lịch sử hiện đại.
Đặc điểm về xã hội của Đông Nam Á gắn với cội nguồn văn hoá, lịch sử
châu Á và thế giới. Nơi đây sớm diễn ra cao trào giải phóng dân tộc. Với vai trò
địa chiến lược và tốc độ phát triển kinh tế, Đông Nam Á có tầm quan trọng ngày
càng lớn trong chiến lược ảnh hưởng của các cường quốc thế giới. Thực tế cho
thấy, các cuộc chiến tranh và khủng hoảng diễn ra trong gần nửa thế kỷ qua tại
khu vực đều có nguyên nhân sâu xa là sự căn thiệp từ bên ngoài. Tình hình đó
kết hợp với cuộc đấu tranh chính trị- xã hội của mỗi nước đã dẫn đến những thay
đổi trong quan hệ giữa các nước. Hiện nay các nước trong khu vực đã chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
3. Về kinh tế .
Trước khi dành được độc lập phần lớn các nước Đông Nam Á đang ở thời
kỳ phong kiến và bị các nước thực dân phương Tây xâm lược. Từ cuối thế kỷ
XIX, Đông Nam Á là một trong những thị trường đầu tư quan trọng nhất của các
nước đế quốc với hai hình thức là đầu tư kinh doanh và đầu tư cho vay. Phần lớn
vốn đầu tư của tư bản nước ngoại tập trung vào hai ngành là nông nghiệp và
công nghiệp khai tác.
Sau khi dành được độc lập, các nước phát triển vẫn tìm mọi cách khống

chế nền kinh tế các nước này bằng nhiều thủ đoạn thực dân mới, nhằm tiếp túc
duy trì trong quỹ đạo của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới.
Trước tình hình đó, vào những năm 70, các nước Đông Nam Á đã đề ra
chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, có những biện pháp đẩy mạnh công
nghiệp hoá và thúc đẩy sự hoà nhập kinh tế dân tộc vào nền kinh tế khu vực và
thế giới , có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoại và thực hiện sự điều tiết vĩ
mô đối với nền kinh tế. Trong đố nổi bật là thực hiện một số chính sách sau:
6


-Kết hợp kinh tế thị trường tự do cạnh tranh với sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước . Để thực hiện cơ chế thị trường tự do, các nước Đông Nam Á đã áp dụng
rộng rãi chế độ tự do mậu dịch, tự do thuế quan, ngoại thương, hối đoái, tiền tệ,
ngân hàng. Bên cảnh đó nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua
các chương trình, kế hoạch, hệ thống pháp luật, các chính sách, công cụ và các
đòn bẩy kinh tế.
-Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm mục
đích khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong và ngoại nước.
-Dành phần lớn ngân sách nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như
giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ, thuỷ lợi vv …xây dựng khu vực
kinh tế nhà nước nhằm tăng khả năng sức mạnh điều tiết của nhà nước.
-Ưu tiên đặc biệt để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư bên ngoại. Các
nước Đông Nam Á đã sớm ban hành luật đầu tư nước ngoại và đáp ứng nhiều
chính sách ưu tiên thu hút đầu tư vào những ngành mũi nhọn, kỹ thuật hiện đại.

II: QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔ
CHỨC
1. Quá trình hình thành .
Hiệp hộp các quốc gia ĐÔNG NAM Á viềt tắt theo tiếng Anh là ASEAN
được thành lập từ ngày 8 .8.1967 với sự tuyên bố của bộ ngoại giao 5 nước

thành viên đầu tiên gồm : Inđônêxia, Tháilan, Malêxia, Pilipin, Xingapo ,năm
1984 kết nạp thêm Brunay, tháng 7.1995 Việt Nam trở thành thành viên thứ 7.
Tháng 7.1997 Lao,Miênma đượ công nhận là thành viên của tổ chức và tháng
4.1999 Campuchia gia nhâp ASEAN nâng tổng số thành viên thành 10 quốc.Từ
những nước nghèo nàn lạc hậu,các nước thành viên ASEAN đã có thành tựu
phát triển kinh tế quan trọng và ASEAN đã được nhiều thành quả đâng kể được
coi là tổ chức hợp tác khu vực trong các nước đang phát triển thành công nhất

7


trong một phần tư cuối cùng của thế kỷ xx . Trong quá trình xây dựng và phát
triển , ASEAN đã lần lượt kết nạp Brunay, Việt Nam , Lào, Miênmà và
Campuchia nâng tổng số thành viên lên 10 quốc gia.
Lịch sử phát triển của tổ chức ASEAN chia làm 2 thời kỳ,trươcvà sau năm
1975. Trong thời kỳ đầu,ASEAN còn non yếu ,hoạt động theo quy định của các
hội nghị cấp Bộ Trưởng,chưa đến nguyên thủ quốc gia. Giai đoạn này hoạt động
của tổ chức ASEAN mang đậm nét mầu sắc chính trị. Trong giai đoạn nay hoạt
động của tổ chức chủ yếu mới dừng lai ở các hình thức thăm dò,tìm hiểu khả
năng hợp tác.
Giai đoạn hai:ASEAN bắt đầu từ 2 hội nghị của các nước ASEAN được tổ
chức tại Bali (Inđônêxia) vào tháng 2 năm 1976 và tại Kuala lampua năm 1977
thông qua hai hội nghị này,thiết chế củaASEAN đã nâng lên cấp nguyên thủ
quốc gia. Các văn kiện của hai hội nghị đã khẳng định lại lập trưởng của ASEAN
về khu vực tự do và trung lập. Đồng thời đưa ra một chương trình hành động về
hợp tác kinh tế _xã hội .
Trong tuyên bố Bangkok 1967, những người sáng lập tổ chức hợp tác khu
vực này chỉ ra tôn chỉ, mục đích của ASEAN như sau:
Một là, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn
hoá trong khu vực thông qua nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác

nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á hoà bình
và thịnh vượng.
Hai là, thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lí
và nguyên tắc pháp luật trong quan hệ giữa các quốc gia trong vùng và tuân thủ
các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.
Ba là, thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề
cùng quan tâm trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và
hành chính.
8


Bốn là, giúp đỡ lẫn nhau giữa các hình thức đào tạo và cung cấp các
phương tiện nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và
hành chính.
Năm là, cộng tác có hiệu quả hơn để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và
các ngành công nghiệp của nhau, mở rộng mậu dịch kể cả việc nghiên cứu các
vấn đề về buôn bán hàng hoá quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông, liên
lạc và nâng cao đời sông của nhân dân.
Sáu là, thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á.
Bảy là, duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và
khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự và tìm kiếm các cách thức nhằm đạt
được một sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các tổ chức này.
Như vậy, về bản chất ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực được lập ra
nhằm thúc đẩy sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hoá giữa các
nước thành viên.
Cơ cấu tổ chức mới của ASEAN đã được thiết lập sau hai hội nghị cấp cao
này bao gồm: Ban thư ký ,uỷ bản thường trực ,uỷ ban về nước thứ 3 ,các uỷ ban
về kinh tế và phi kinh tế ...
2. Quá trình phát triển của khối ASEAN
ASEAN ra đời từ năm 1967(có năm nước thành viên), với mục đích ban

đầu nhằm ổn định môi trường an ninh và chính trị khu vực. Từ sau năm 1990,
các nước thành viên cảu ASEAN chuyển hướng sang các nội dung hợp tác kinh
tế. Đây là tổ chức hợp tác chặt chẽ theo nguyên tắc đồng thụân. Năm 1992, khu
vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) ra đời, thông qua việc các nước thành
viên ký kết hiệp định về Chương trình Ưu Thuế quan Hiệu lực chung (CEPT).
Năm 1998, Hiệp định khung về khu vực Đầu tư ASEAN được ký kết, đưa tới
việc thành lập Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA).
+ Quá trình phát triển từ năm 1996 trở xuống.
9


Khi mới thành lập, trình độ phát triển kinh tế của các nước ASEAN ở mức
thấp kém (trừ Xinhgapo), các nước con lại vẫn ở trong tình trạng sản suất nhỏ,
nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, về tiềm năng phát triển kinh tế thì các nước
ASEAN cũng có một số thuận lợi cơ bản. Khí hậu và đất đai phù hợp với việc
phát triển nông nghiệp, đặc biệt là các cây nhiệt đới. Inđônêxia, Tháilan,
Philíppin có diện tích đất nông nghiệp chiểm trên 30% tổng diện tích tự nhiên
của mỗi nước.
Một ưu thế khác của các nước này là biển. Tất cả các nước ASEAN đều có
điều kiện phát triển mạnh vận tải biển, nhờ tiến bộ kỹ thuật, vận tải biển đã có ưu
thế rất lớn. Ngoài ra, các nhà kinh doanh đánh giá cao tiềm năng lao động của
ASEAN. Năm 1990, dân số ASEAN có gần 320 triệu người. Như vậy, ASEAN
không chỉ hợp dẫn với tư cách là một thị trường tiêu dùng lý tưởng mà còn với
tư cách là nơi cung cấp lao động. Nhìn chung ASEAN có lực lượng lao động
đông đảo, đa dang. Trong đó có những người tay nghề cao nhất là lao đoọng
trong ngành thương mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến. Hơn nữa giá thuê
công nhân ở các nước này lại thấp, càng hấp dân các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên tiềm năng kinh tế ASEAN chỉ thực sự được khai thác một cách
có hiệu quả trong vòng vài thập kỷ gần đây, nhất là trong thập kỷ 80 khi mà các
nước trong Hiệp hội tìm ra được chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với điều

kiện của mình và tranh thủ được cơ hội của thế giới.
Nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm tính theo tổng sản
phẩm trong nước (GDP) của nền kinh tế thế giới từ sau chiến tranh lần thứ hai
đến năm1990, chỉ đạt được 3-5% thì liên tiếp trong hai thập kỷ qua các nước
ASEAN đã đạt tốc độ trên dưới 7%. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính theo
giá cố định năm 1990 so với năm 1970 . Inđônêxia đã gấp 3,66 lần, bình quân
mỗi năm tăng 6,7%. Tương tự, Xinhgapo gấp 4,69 lần, tăng 8,0%; Tháilan gấp
4,15 lần, tăng 7,4%. Những năm cuối thập kỷ 80, trong khi nền kinh tế thế giới
10


lâm vào tình trạng trì trệ, thậm chí một số nước bị giảm sút thì các nước ASEAN
lại đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đặc biết có Tháilan đạt tới tốc độ hai chữ số.
Thu nhập quốc gia (GDP) theo giá hiện hành của các nước ASEAN (chưa
kể Brunây) từ 31.784 triệu USD (năm 1970) tăng lên 168. 449 triệu USD (năm
1980) và 272. 551 triêu USD (năm 1990). Do vây, mặc dù dân số tăng với tốc độ
trên 2,2% mỗi năm nhưng GNP bình quân đầu người hàng năm vẫn không
ngừng tăng lên. Mức bình quân chung của cả Hiệp hội các nước Đông Nam Á từ
156 USD (năm 1970) tăng lên 650 USD(năm 1980) và 826 USD (năm 1990).
Do kinh tế tăng trưởng nhanh nên đời sống của dân cư tương đối khá. Số
calo cho mỗi người trong ngày tính bình quân năm 1990 đã đạt trên 2.200 calo:
Philíppin 2.255; Tháilan 2.287; Inđônêxia 2.670; Malaixia; Xinhgapo 2.892. Các
lĩnh vực kác như y tế, giáo dục, văn hoá cũng được chú ý phát triển. Được cung
cấp tốt hơn về vật chất, tinh thần và chăm sóc sức khoẻ nên tuổi thọ bình quân
của tất cả các nước ASEAN đã không ngừng tăng lên, Năm 1990, đã vượt con số
60 ( Inđônêxia : 61; tháilan: 66; Philíppin: 64; Malaixia 70; Xinhgapo: 74).
Ngoài ra, các nước ASEAN đã có dự trữ ngoại tệ tương đối khá, tính
chung năm 1990 là90 tỉ USD (Inđônêxia 8,5 tỉ USD; Malaixia 7,9 tỉ USD;
Philíppn 2,0 tỉ USD; Xinhgapo 27,7 tỷ USD; Tháilan 14,3 tỉ USD, Brunây
khoảng 30 tỉ USD).

Tình hình trong thời gian những năm 1993 , đa số các nước kể cả
cácASEAN, vẫn tiếp tục có tốc đọ tăng trưởng mạnh. Tổng sản lượng của khu
vực tính theo GDP đã tăng 6,6% so với 5,7% của năm 1992. Đây là lần đầu tiên
tốc độ tăng trưởng GDP tăng sau ba năm liên tục giảm, từ năm 1990-1992.
So với các nước đang phát triển khác thì tình hình kinh tế của ASEAN là
đầy ấn tượng. Mặc dù, các nước Nam Á đã thực hiện nhiều chương trình cải cách
nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở khu vực này vẫn cản trở bởi tình hình cán cân
thanh toán và tình hình tài chính khó khăn cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém. Năm
11


1993, người ta dự đoán tốc độ tăng trưởng của khu vực Nam Á là 4%, Mỹ Latih
là thấp hơn mức 3,3%, vùng Trung Đông đạt được 6,6%, chau Phi ( vùng Tiểu
Xahara) chỉ có 2-3%.
Trong vòng hai năm, chuyển vọng kinh tế của ASEAN sáng sủa hơn so
với nhiều nơi khác trên thế giới. Sau nhiều năm liên tục ở tình trạng trì trệ, vào
năm 1995 Philíppin có thể phục hội được nền kinh tế và Brunây có nền kinh tế
ổn định.
Nền kinh tế của Inđônêxia trong năm 1993 vẫn đang trong giai đoạn củng
cố với tốc độ tăng trưởng tổng sản lượng ước tính gần bằng con số năm 1992.
Tuy nhiên, vào giữa năm 1993, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng và nhờ đó
kinh tế đã tăng trưởng cao hơn trong vòng 2 năm sau. Để thấy rõ hơn ta có thể
xem qua bảng dưới đây.

1
989

1
990


1
991

1
992

1
993

1
994

1
995

GDPtăng
trưởng
ASEAN

8
,8

Brunây

8
,0

(
1,1)


Inđônêxia

3

7

Malaixia
,8

,8

,2

,7

,7

,7

0,5)
12

,1

6
,4

8
,2


1
,7

0,5)

,5

,5

(

6

8

0

,0

2,0)

,5

7

(

6

8


(

,8

4,1)

,3

6

(

6

8

2

,6

1,1)

,9

6

(

6


9

6

,7

,0

,2

5

4

7

8

Philíppin

,2

,0

,5

6

8

,0

4
,2

5
,4


Xinhgapo

9
,2

Tháilan

8
,3

1
2,3

Lạm phát
ASEAN

1

5

Brunây

,3

,1

,5
Malaixia

,4
2

,8
Philíppin

,4

2,7

,4

7,7

,5

,4

,7
,9
3

,4

6

,0

,3
5

,7

,1

,5

,9

,4

1
0,0

4
,7

3
,3

4

8


2

4

,1

,2

,6

7

4

7

2

,0

,0

,0

5

8

4


8

,0

,5

,7

6

4

9

4

1

3

5

,5

,2

,2

,3


8

6

4

7

4

1

2

Tháilan

,2

,1

0,6

,3

,8

,1

,1


6

8

6

1

9

3

1

Xinhgapo

,6

,0

,7

,9

7

7

5


1

7

,9

,6

,3

9

7

8

2

6

,8

,1

,8

5

8


6

1

Inđônêxia

,7

1,6

,8

6

3
,5

4
,1

3
,8

Nhập
khẩu hàng hóa
(tỉ USD)
ASEAN
-Chỉ

1


số 19,4

tăng trưởng

49,0
2

4,2
Brunây
-Chỉ

1
2

0

tăng trưởng

13

1
1,5

1
,3

6
,9


59,5

2,3

,2

2

1

1

(
0,9)

32,8

1,7

,2

2

1

1

1
5,8


07,4

,0

,2

2

8

1

1
5,2

85,6

5,3

,0

1

1

1

1
0,5


71,8

4,8

số ,9

1

1
,4

7
,7

5
,5


Inđônêxia
-Chỉ

1

số 6,4

tăng trưởng

0,4
2


3,5
Malaixia
-Chỉ

7,7

0,0

số 0,4

tăng trưởng

2,2
2

7,7
Xinhgapo
-Chỉ

-Chỉ

,1

2,6

,3

7,8

0,0

1

6,1

,8

9
,7

5
1,8

1
2,9

3,0

2,0

5,1

9

1

4

5

0,3


4,8

3,8

2

8

1

4

4,2

4,3

5,7

2

1

7

9

3

2

9,1

6,5

1,5

0,1

1,2

1

2

2

6

9

3

4
1,2

0,9

2,1

số 5,2


0,5

9,6

2,1

7,6

4

1

1

2

6

2

2

tăng trưởng

1,3)

5,8

3,3


4,5

0,4

4,5

0,0

1

4

1

1

(

5

1

Tháilan

2,1

7,2

số 5,7


,0

3,4

,1

9,7

3

8

3

6

1

1

4

tăng trưởng

6,0

0,2

,5


6,1

3

2

3

2

1

8,0

,5

4,1

2

5

3

3

1

7,3


6,9

7,0

2

2

2

3

Philíppin

5,9

4,5

số 0,8

2

2

2

tăng trưởng

-Chỉ


2

5
7,9

1
4,7

1
1,9

Nguồn bảng: ASEAN, các chỉ số kinh tế vĩ mô (trong cuốn triển vọng kinh
tế vĩ mô của các nước ASEAN. Tr 16,17,18)
Từ thập kỷ 1990, tình hình thế giới và khu vực đã có nhiều biến động
nhanh chóng và sâu sắc. Tronhg bối cạnh đó, các nước ASEAN đã tiến hành điều
chỉnh chính sách đối nội cũng như đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới ở
khu vực và thế giới. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV tại Singapore tháng

14


1/1992 đánh dấu một phát triển mới của ASEAN . Các nước thành viên Hiệp hội
chủ trương lấy sự hợp tác kinh tế làm trọng tâm nhưng đồng thời cũng mở rộng
sự hợp tác của ASEAN sang lĩnh vực an ninh phù hợp với Hiệp ước Bali năm
1976. Các nước đã ký một hiệp định về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN .
Hiệp định đã nêu lên những nội dung hợp tác để thúc đảy phát triển kinh tế
ASEAN . Cũng trong hội nghị cao cấp ASEAN lần nay, những người đứng đầu
Nhà nước hoặc chính phủ các nước ASEAN đã quyết định nâng kế hoạch hợp tác
trong ASEAN lên tầm cao mới, trong đó có sự hợp tác thương mại. Vấn đề mâu

chốt trong hiệp tác thương mại là xây dựng khu mậu dịch tự do (AFTA), với mục
tiêu là loại bỏ hoàn toàn hàng rào phi thuế quan, nâng cao cạnh tranh của hàng
hoá ASEAN trên thị trường quốc tế và tăng tính hớp dẫn đối với đầu tư nước
ngoài. Công cụ chủ yếu để thực hiện AFTA là chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung. Theo hiệp định này các nước ASEAN đã đưa ra lịch trình cắt
giảm thuế quan với 6 nước thành viên và sẽ hoàn thành kế hoạch cắt giảm thuế
nhập khẩu hàng hoá xuống từ 0-5% vào năm 2003.
Bảng biểu thị tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm
của một số nước Asean thời kỳ 1971-1999
Nước

1971
-1980

Indon
asia
Malay
sia
Philip
pines
Singa
pore

19801990

1990
-1999

7.9


5.1

4.7

8.0

5.3

6.3

6.2

1.0

3.2

9.0

6.7

8.0

9.9

7.6

4.7

-


-

4.8

-

3.7

6.4

-

0.6

6.3

15


Thai

-

4.6

8.1

lan
Camp
uchia

Lào
Myan
mar
Việt
Nam
+ Cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ nhưng còn
nhiều khắc biệt. Cơ cấu kinh tế của 5 nước thành viên ban đầu có sự chuyển dịch
rõ rệt theo hướng giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp , tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ.
+Có sự chênh lệch rõ rệt về thu nhập bình quân đầu người giữa các nước
Asean .
Bảng biểu thị GDP bình quân đầu
người theo giá hiện hành.
Đơn vị USD
Nươ
c/năm

1
990

Indo
nasia

6

Phili

16

7

28.1

1
054.8

1
528.1

000

037.7

14.1

2

1

7

TháI
lan

995

38.3

pines

1


9
53.3

2
832.4

1
957.6


Mal
aysia

2
478.8

Bru
nei

296.6
1

4349.3
Sing

apore
Cam
Lào
Việt


3494.5

2
3
27.5

2
98

5
87.7

3001.5

3

9

nmar

2

54.5

83.4

Mya 7.8

3673.7


3
05.1

70.5

1

2

2

Nam

484

7591.9

1
66.2

3

1

1
2156.7

puchia


4

4
05.6

7
00

7
00

+ Sự phát triển từ năm 1997 đến nay
Ngày nay, ASEAN đã trở thành một tổ chức lớn mạnh, bao gồm 10 nước
với dân số trên 500 triệu người, , diện tích 4 464 000 km 2, chiếm 14,15% diên
tích châu Á, tổng thu nhập quốc dân khoảng trên 500 tỉ USD (số liệu năm 2002).
Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX, ASEAN được coi là khu vực phát triển năng
động nhất thế giới. Từ năm 1990 đến 1997, tốc độ tăng trường hằng năm của
ASEAN đạt bình quân 7%; trong đó Xinhgapo đạt 8,75%, Malaixia đạt 8,5%,
Thailan đạt 6,8% …
Trong những năm 1997- 1999, các nước Đông Nam Á rơi vào cuộc khủng
hoảng tài chính, nhiều nước rơi vào mức tăng trương âm. Một trong những
nuyên nhân là đa số các nền kinh tế của ASEAN là phụ thuộc, dựa vào thị trường
thế giới. Hệ số giá trị xuất, nhập khẩu chiếm tỉ lệ rất cao trong tổng sản phẩm
17


quốc dân (GNP). Năm 1998, hệ số này của Xinhgapo là 250,41%, Malaixia là
184,79%, Philíppin là 93,57% và Việt Nam khoảng 81%. Tuy nhiên, từ năm
2000, kinh tế của các nước ASEAN bắt đầu phục hồi và năm 2003 cả khối đạt
mức tăng trương là 3,5%.

Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu toàn khối đạt khoảng 381,39 tỉ USD, tăng
2,9% so với 370,55 tỉ củ năm 2001. kim ngạch nhập khẩu so với xuất khẩu tăng,
nhưng tốc độ chậm hơn (2,5% từ 317,23 tỉ USD lên 325,31 tỉ USD). Bức tranh
xuất, nhập khẩu trong nội bộ khối sáng sủa hơn và tỷ trọng kim ngạch buôn bán
nọi bộ của ASEAN so với tổng kim ngạch thương mại của ASEAN tăng từ
22,12% (năm 2001) lên 22,56% (năm 2002). Mức xuất khẩu nội bộ của ASEAN
năm 2002 đạt 86,34 tỉ USD, tăng 2,2% so với 84,49 tỉ USD của năm 2001. Nhập
khẩu nội bộ tăng 8,1%, nhưng vẫn thấp hơn giá trị xuất khẩu. Mặc du tốc độ
nhập khẩu có xu hướng tăng trong vài năm gần đây, ASEAN vẫn luôn là thị
trường xuất siêu. Tuy nhiên, nếu đạt ASEAN vào bức tranh toàn cầu thì thương
mại mới chiếm xấp xỉ 4% thương mại toàn cầu, một con số quá nhỏ bé và khiêm
tốn.
Về thương mại năm 2002, ASEAN chiếm khoảng 18% kim ngạch xuất
khẩu và 29% kim ngạch nhập khẩu.
ASEAN đã trải qua thời kỳ phát triển 34 năm theo chiều hướng mở rộng
cả về số lượng thành viên và các lĩnh vực hợp tác. Ban đầu chỉ từ lĩnh vực
thương mại, sau đó mở rộng ra tài chính, ngân hàng, đầu tư, dịch vụ du lịch, giao
thông vận tải, khoa học – kỹ thuật … Hiện nay, hợp tác kinh tế của ASEAN rất
toàn diện, bao trùm tất cả lĩnh vực kinh tế, kể cả năg lượng, kết cấu hạ tầng, bưu
chính - viễn thông, e-ASEAN.
Hiện nay, ASEAN đang đứng trước nhiều tách thức khó khăn, như nền
kinh tế thế giới giảm sút, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN có
chiều xuống giảm. Mặt khác, thời hạn hoàn thành AFTA cũng đã đến gần (2002
18


với ASEAN –6 và 2006 với Việt Nam). Trước thực tế này, Hội nghị Bộ trưởng
kinh tế ASEAN lần tứ 34 (tháng 9-2002) đã nhất trí thành lập Nhóm Đặc trách
cao cấp về hội nhập kinh tế ASEAN (HLTF). Nhằm thảo luận về định hướng hội
nhập khu vực sau khi hoàn thành AFTA. Tiếp theo, Hội nghị Thượng đỉnh

ASEAN lần thứ 9 (tháng 11- 2002) đã giao cho các Bộ trưởng nghiên cứu về “ ý
tưởng Cộng đồng kinh tế ASEAN”.
Nhằm nâng cao tính cạnh tranh để hấp dẫn hơn nữa đầu tư nước ngoài,
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức (tháng 5 - 2002) đã nhất
trí thuê Công ty Mắc Kin – xây thực hiện đề tài “ Nghiên cứu Tính cạnh tranh
ASEAN” để đưa ra những đề xuất về những cụm ngành hàng có thể nâng cao
tính cạnh tranh, cũng như những cải cách về mặt thể chế cho ASEAN.
Theo tinh thần trên, ASEAN đã hoàn chỉnh một văn kiện về Chương trình
đẩy mạnh hội nhập kinh tế ( Cộng động kinh tế ASEAN) để trình các nhà lãnh
đạo tại Hội nghị Cấp cao 9, nhằm thể hiện ý trí cính trị của ASEAN trong việc
quết tâm đẩy mạnh hội nhập.
Tại Hội nghị Cấp cao lần 9 ở Bali- Inđônêxia (các ngày 7,8-10-2003), các
nhà lãnh đạo ASEAN đã ký kết tuyên bố hoà hợp Bali II, gồm ba trụ cột là: Cộng
đồng kinh tế, Cộng đồng chính trị và Cộng đồng văn hoá - xã hội. Việc ký kết
tuyên bố này đã khẳng địnhý sự quyết tâm của các quốc gia ASEAN trong việc
đưa hợp tác kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá và xã hội của ASEAN lên tầm
cao mới, vượt qua các thách thức mà ASEAN đã, đang và sẽ đương đầu, đề
ASEAN tiến tới hình thành Cộng đồng kinh tế và an ninh vào năm 2020, như
mục tiêu được để ra trong tầm nhìn 2020.
Bên cạnh đó, xu thế hình thành các quan hệ đối tác kinh tế mật thiết hơn
giữa ASEAN với các nước đối tác đã được thể hiện rõ nét thông qua việc ký kết
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN – Ấn Độ và thoả thuận khung đối
tấc kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản tại Hội nghị Cấp cao 9. Như vây, sau
19


ASEAN và Trung Quốc ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện tại
Phnôm pênh (các ngày 4,5-11-2002), ASEAN đã trở thành tâm điểm và chiếm
một vị trí quan trọng đối với các đối tác khác. Điểm quan trọng và nổi bật của
Hiệp định khung và thoả thuận này là chúng đều bao gồm việc hình thành khu

vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và các đối tác trên. xu hướng này đã thể hiện,
một mặt sự năng động và tính hấp dẫn của thị trường ASEAN; và mặt khác, càng
khẳng định vai trò, vị trí và sự cần thiết của ASEAN đối với các đối tác ngoài
khối. Điểm đáng lưu ý là, các Hiệp định trên đều bao gồm nội dung về khu vực
mậu dịch tự do. Như vây, vấn đề tự do hoá thương mại vẫn luôn là nền tảng cho
quá trình hội nhập kinh tế.
Mặc dù là thành viên mới nhưng Việt Nam –Lào đã từng bước khẳng định
được vị trí và vai trò của mình trong khu vực. Đối với Việt Nam qua sự kiện Việt
Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (2-1998)và Hội nghị Bộ
trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 33, họp từ ngày 12 đến 16 – 9 -2001 tại HàNội.
Hội nghị này đã giải quyết được một số vấn đề quan trọng, theo phương châm
đẩy nhanh hơn nữa quá trình hợp tác kinh tế, tự do hoá thương mại và đầu tư, thu
hẹp khoảng cách giữa các thành viên mới với các thành viên cũ với những cam
kết sau:
1. Để giúp thu hẹp khoảng cách giữa các nước thành viên mới với các
nước thành viên cũ, ngoài cam kết hỗ trợ 50 triệu USD cho công tác đào tạo
nguồn lực của Xinhgapo và 14 lớp đào tạo Tháilan, lần này các bộ trưởng đã
nhất trí cơ chế ưu đãi hỗ trợ hội nhập ASEAN (ASEAN Integration System of
Preferences - AISP), dành cho các nước thành viên mới gồm: Campuchia, Lào,
Mianma và Việt Nam, áp dụng từ 1-1-2002 và theo quy tắc xuất xứ Form D hiện
hành. Mức thuế ưu đãi AISP sẽ thấp hơn mức thuế CEPT hiện tại. Theo ước tính,
các nước thành viên mới, hằng năm sẽ được hưởng lợi khoảng 400 triệu USD
nhờ cơ chế này.
20


Cho đến nay, Malaixia đã cam kết đãi AISP cho Việt Nam 170 sản phẩm,
Inđônêxia 50 sản phẩm, Brunây 1 sản phẩm và Tháilan 19 sản phẩm.
2. Hội đồng AFTA đã họp phiên thứ 15 và quyết định đẩy nhanh việc thực
hiện AFTA. Sáu nước thành viên đầu tiên ký kết thực hiện Hiệp định CEPT đã

hoàn thành AFTA vào ngày 1-1-2002, vượt trước thời hạn 1 năm. tính đến nay, 6
nước thành viên này đã cắt giảm thuế quan ít nhất 90% số mặt hàng trong danh
mục cắt giảm (II) xuống còn từ 0 đến 5%. Tính chung lại, tổng số 40 911 dòng
thuế, chiếm 92,9% danh mục cắt giảm của 6 nước này, đã giảm xuống 3,21%.
Đến cuối năm 2003, có 42 377 dòng thuế, chiếm 96,42% danh mục cắt giảm của
6 nước thành viên cũ, có thuế xuất từ 0 đến 5% và tăng dòng thuế, có thuế suất
0%. Năm 2010, tất cả thuế nhập khẩu của 6 thành viên cũ sẽ là 0%. Đến năm
2015, thuế nhập khẩu từ ASEAN sẽ là 0%.
Các Bộ trưởng cũng nhất trí đầy nhanh hơn nữa việc thực hiên Hiệp định
khung e- ASEAN và thông qua danh mục các sản phẩm công nghệ thông tin
(ITC) theo ba nhóm thực hiện xoá bỏ thuế quan vào các năm 2003, 2004 và
2005 đối với 6 nước thành viên cũ và vào các năm 2008,2009,2010 đối với 4
nước thành viên mới.
3. Về vấn đề đầu tư, cuộc họp lần thứ tư Hội đồng AIA thấy rằng, do cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1997 và môi trường tài chính không ổn định ở một số
nước ASEAN, đầu tư nước ngoài vào ASEAN đã giảm đáng kể. Năm 1996, đầu
tư nước ngoài vào ASEAN là 29,5 tỉ USD; năm 1997 là 27,6 tỉ USD; năm 1998
là 20 tỉ USD; năm 1999 là 19 tỉ USD,và năm 2000 chỉ có 10,6 tỉ USD. Trong khi
đó các luồng vốn đầu tư đang chạy mạnh vào Trung Quốc(năm 2000 khoảng 40
tỉ USD). Để mở rộng lĩnh vực đầu tư trong ASEAN và tạo môi trường thuận lợi
nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, các Bộ trưởng đã nhất trí và ký Nghị định thư
AIA tới cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng, cũng như cả dịch
vụ gắn với các khu vực thuộc phạm vi Hiệp định.
21


Các Bộ trưởng cũng đồng ý đầy nhanh thời hạn cuối cùng cho việc mở
cửa và dành đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ASEAN,
từ năm 2020 xuống năm 2010 với 6 nước thành viên cũ và năm 2015 với 4 nước
thành viên mới.

4. Về hợp tác dịch vụ, đã thông qua Nghị định thư thực hiện gói cam kết
thứ 3 về dịc vụ trong các nước thành viên; đồng thời, nhất trí phá động vòng đàm
phán mới về tự do dịch vụ, bắt đầu từ năm 2002 và kéo dài trong 3 năm. Các Bộ
trưởng cũng thông qua Nghị định tư thảo thuận thừa nhận lẫn nhau về thiết bị
điện và điện tử.
5. Về hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp, đến tháng 7-2003 đã có 114 đơn
AICO được phê duyệt(Việt Nam có 3 đơn), với giá trị trao đổi thương mại xấp xỉ
1,4 tỉ USD và nhất trí bãi bỏ quy chế 30% yêu cầu cổ phần quốc gia đối với tất
cả đơn xin cấp AICO. Ngoài chương trình cụ thể, Hội nghị quan tâm đẩy mạnh
các chương trình hợp tác dài hạn, như hợp tác Tiểu vùng sông MêKông và hành
lang Đông- Tây.
III : NHỮNG THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨCĐỐI VỚI VIỆT NAM
VÀ LÀO
1. Những thời cơ.
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước ĐÔNG NAM á trở thành điều kiện
quan trọng do việc mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước của tổ
chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và các tổ
chức khu vực khác trong hiện tại và tương lai vì sự phát triển của Việt Nam.
Ngay từ khi mới thành lập, các nước trong tổ chức ASEAN đã thể hiện nguyện
vọng kết nạp thêm các thành viên mới nhằm mở rộng, nâng cao thể và lực của
mình, vì Việt Nam là một đất nướcgiữa tới nguyên thiên niên, ổn định về chính
trị, an ninh, quốc phòng, có sức lao động dồi dào vì các tư bản đã cạnh tranh
nhau để đầu tư vào Việt Nam. Và đẩy mạnh hợp tác kinh tế thương mại giữa Viẹt
22


Nam với ASEAN và các nước đối thoại của ASEAN. Quan hệ mậu dịch được
tăng cường, thị trường buôn bán được mở rộng, tăng cường các dự án mở rộng
sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, đẩy mạnh công nghiẹp hoá hiện đại hoá.
Tiếp càn và học tập được kinh nghiệm và phương pháp quán lý trên một số lĩnh

vực vốn là thể mạnh của một số nước ASEAN. Việt Nam có điều kiện nhanh
chóng hội nhập vào môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế.gia nhập
ASEAN; Việt Nam có thuận lợi hơn trong viec tiếp cận với các tổ chức, các lè
bạn hàng quốc tế ngoài khu vực, từ đó tranh thủ được vốn đầu tư khoa học công
nghệ, thị trường… cho việc phát triển đất nước.
Việt Nam gia nhập tham gia ASEAN là bước chuẩn bị, là một chứng minh
đày tính thuyết phục để WTO sớm kết nạp Việt Nam, tạo điều kiện choViệt Nam
hội nhập nhanh hơn vào tiên trình khu vực hoá, quốc tế hoá kinh tế và thương
mại.

Đối với Lào khi gia nhập ASEAN đây là cơ hội rất đặc biệt đối với đất

nước nhỏ bé của chung tôi. Vì đây là cơ hội để Lào được tiếp cận với các nước
trong khu vực, hợp tác khu vực mở ruộng kinh tế, hợp tác trong khu vực, mở
ruộng thị trường buôn bán và đổi kinh nghiệp với các nước trong khu vực và
ngoài khu vực .
+ Về chính trị
- Góp phần tích cực vào việc củng cố và tăng cường hoà bình, ổn định và
phát triển trong khu vức .
- Góp phần cho ASEAN lớn mạnh thêm về lực lượng và thị trường cũng
như uy tín trên diễn đàn quốc tế.
- Góp phần nâng cao vị thế của Việt nam – Lào trên trường quốc tế và là
bước đi quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong tiến trình hội nhập với khu vực
và thế giơí.
- ASEAN sẽ giúp Việt nam – Lào kinh nghiệm và thúc đẩy, tạo điều kiện
cho Việt nam – Lào rút ngắn tiến trình hội nhập quốc tế.
23


-Việt nam – Lào sẽ có điều kiện để học tập và chia sẻ những kinh nghiệm

phát triển của các nước trong khu vức .
-Việt nam – Lào sẽ tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ của ASEAN và
các nước thành viên cũng như các nước đối thoại với ASEAN .
+ Về kinh tế
Đẩy mạnh hợp tác kinh tế , thương mại giữa Việt nam – Lào với
ASEAN và các nước đối thoại của ASEAN .
-Quan hệ mậu dịch được tăng cường thị trường buôn bán được mở rộng,
-Tăng thêm các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo việc làm, tăng thu
nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
-Tiếp cận và học tập đựơc kinh nghiệm và phương pháp quản lí trên một
số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước ASEAN .
-Việt nam – Lào có điều kiện nhanh chóng hội nhập vào môi trường kinh
doanh khu vực và quốc tế.
-Gia nhập ASEAN , Việt nam – Lào có thuận lợi hơn trong việc tiếp cận
với các tổ chức, các bạn hàng quốc tế ngoài khu vức , từ đó tranh thủ được vốn
đầu tư, khoa học-công nghệ, thị trường vv… Cho việc phát triển kinh tế đất
nước.
Việtnam – Lào gia nhập ASEAN, tham gia AFTA là bước chuẩn bị, là một
chứng minh đầy tính thuyết phục để WTO sớm kết nạp, tạo điều kiện cho hội
nhập nhanh hơn vào tiến trình khu vức hoá quốc tế hoá kinh tế và thương mại.
2. Những khó khăn.
Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việtnam – Lào và ASEAN
còn lớn, hầu hết các ngành công nghiệp còn non yếu, xuất khẩu chủ yếu còn ở
dạng nguyên liệu thô, thuế nhập khẩu còn là nguồn thu quan trọng của ngân sách
nhà nước.

24


Những mặt hàng xuất khẩu của Viẹt nam cũng tương tự như của ASEAN ,

vì vây cạnh tranh để xuất khẩu rất khó khăn và quyết liệt.
Cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư cũng diễn ra gay gắt trong nội bộ
ASEAN và các nước trong khu vức .
Quan hệ mậu dịch giữa VIêtnam – Lào và ASEAN con giản đơn, mất cân
đối.
Lực lượng cán bộ có trình độ nhiệm vụ đầy đủ và khả năng giao tiếp ngoài
ngữ của Việtnam – Lào còn thiếu và bất cập.
3. Một số nhiệm vụ cần thực hiện.
Thứ nhất, bên cạnh sự tận dụng những nhân tố thuận lợi, khách quan,
chúng ta cần phải tạo ra những nhân tố chủ quan đó là thuân thù những quy luật
của nền kinh tế thị trường thực hiện cải cách kinh tế vĩ mô và vi mô, xác lập và
tăng cường hiệu lực quản lí của nhà nước, thực hiện các chính sách đòn bẩy kinh
tế như thuế, lãi suất, ngân hàng, giá cả, tỷ giá hối đoái nhằm tạo ra sự thay đổi cơ
cấu kinh tế thích ứng và hiệu quả.
Thứ hai, để có thể tham gia tích cực, có hiẹu quả vào AFTA, một mặt phải
đầu tư kỹ thuật thay đổi cơ cấu sản xuất dẫn đến thay đổi cơ cấu ngoại thương
tăng tỷ lệ sản xuất công nghiệp chế biến, giảm tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu thô. Mặt
khác cần đầu tư để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
Thứ ba, trong việc thu hút đầu tư nước ngoại , cần có chính sách ưu đẫi
riêng về đầu tư cho các nước ASEAN .
Thứ tư, ngoài hìh thức đa phương chúng ta nên tăng cường mở rộng quan
hệ song phương, các hình thức liên kêt ba, bốn bên nhằm tăng cường khai thác
tiềm năng, thế mạnh của các nước và nhóm nước để phát triển kinh tế .
Thứ năm, cần có sự dàn xếp, giải quyết những tranh chấp, bất đồng về
buôn bán hàng hoá, đặc biệt về sản phẩm gạo xuất khẩu giữa Thailan và Việt

25



×