Pháp luật quốc tế về chống khủng bố và việc hoàn thiện bộ luật hình sự Việt
Nam
CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG BỐ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ
CHỐNG
KHỦNG BỐ
1.1. KHÁI NIỆM KHỦNG BỐ
Trong mục “Khái niệm về khủng bố” luận văn đưa ra các quan điểm hiện nay
trên thế giới về khủng bố, đó là các quan điểm của những nhà nghiên cứu, quan điểm
lập pháp một số nước và định nghĩa khủng bố tại các công ước quốc tế hiện nay.
1.1.1. Các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế giới
1.1.1.1. Quan điểm của các nhà nghiên cứu
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khủng bố được các nhà nghiên cứu đưa ra,
trong đó có những định nghĩa trái ngược nhau và chưa định nghĩa nào được hoàn toàn
chấp nhận. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu cũng có sự thống nhất ở một số nội dung.
Thứ nhất, đều cho rằng khủng bố là nguy cơ đe doạ hoà bình và an ninh toàn cầu, dù
nguyên nhân của hiện tượng này là gì thì đều không thể biện minh; thứ hai, đấu tranh
với khủng bố bằng pháp luật, bằng cảnh sát chứ không phải bằng chiến tranh.
1.1.1.2. Về quan điểm lập pháp một số nước
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều ghi nhận tội khủng bố trong pháp luật hình
sự. Một số quốc gia thậm chí còn có đạo luật chống khủng bố riêng nhưng quan điểm
của các quốc gia về vấn đề này cũng không thống nhất. Tuy vậy, qua nghiên cứu pháp
luật của các quốc gia cho thấy cũng có một số điểm chung như sau: Thứ nhất, đều
định nghĩa khủng bố từ dấu hiệu hành vi bên cạnh các dấu hiệu khác có liên quan.
Đây là điều dễ hiểu xuất phát từ quan điểm chung coi khủng bố là một tội phạm nguy
hiểm cần loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội – mà việc định nghĩa một tội phạm bao giờ
cũng phải lấy dấu hiệu hành vi làm trung tâm. Hành vi khủng bố theo quy định của
pháp luật hầu hết các nước trên thế giới là hành vi bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực.
Thứ hai, về đối tượng tác động của các loại hành vi này có thể là con người hoặc tài
sản. Thứ ba, các hành vi khủng bố bao giờ cũng gắn liền với mục đích chính trị, tôn
giáo... được thực hiện nhằm gây hoảng sợ cho người chứng kiến từ đó ép buộc Chính
phủ hoặc bộ phận dân chúng phải hành động hoặc không hành động theo yêu cầu của
cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi.
1.1.1.3. Định nghĩa khủng bố theo quy định tại các điều ước quốc tế về đấu tranh
chống khủng bố
Các công ước quốc tế hiện nay chưa công ước nào đưa ra định nghĩa chung về
khủng bố một cách hoàn chỉnh. Công ước New York năm 1997 về trừng trị hành vi
tài trợ khủng bố là công ước đưa ra được định nghĩa chung về khủng bố toàn diện
nhất, các công ước còn lại chỉ đưa ra định nghĩa về từng hành vi khủng bố cụ thể
thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước. Các công ước quốc tế khu vực hầu hết trong
phạm vi điều chỉnh đều dẫn lại những hành vi quy định tại các công ước quốc tế đa
phương thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về chống khủng bố.
1.1.2. Xây dựng định nghĩa chung về khủng bố
Việc xây dựng định nghĩa chung về khủng bố là vấn đề cấp thiết hiện nay để
nâng cao hiệu quả đấu tranh chống khủng bố. Định nghĩa về khủng bố đã có nhiều
học giả đưa ra, thậm chí đã được đưa ra trong Dự thảo Công ước chung về chống
khủng bố, tuy nhiên vẫn chưa có được nhiều ý kiến đồng thuận. Để xây dựng được
định nghĩa về khủng bố cần xuất phát từ những vấn đề mang tính lý luận từ lâu được
thừa nhận trong công pháp quốc tế, đó là xem xét khủng bố dưới giác độ tội phạm
hình sự có tính quốc tế.
1.1.2.1. Về hành vi
Trên thực tiễn cũng như qua nghiên cứu cho thấy hành vi khủng bố rất đa dạng,
bao gồm các loại hành vi như xâm hại tính mạng, thân thể con người, tài sản hay tổng
hợp các loại hành vi đó (như vụ khủng bố 11/9 tại Hoa Kỳ năm 2001). Phần lớn hành
vi khủng bố là các hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực. Tuy nhiên,
hiện nay với sự phát triển của khoa học công nghệ hành vi khủng bố đã lan sang cả
các hình thức không mang tính vũ lực như chống phá bằng công nghệ thông tin (tin
tặc); làm ô nhiễm nguồn nước, phát tán mầm bệnh... Tội khủng bố, xét về biểu hiện
của hành vi rất giống với các tội phạm thông thường khác như tội giết người, tội huỷ
hoại tài sản, bắt cóc đòi tiền chuộc nhưng khác nhau ở các dấu hiệu như mục đích,
đối tượng tác động...
Hiện nay, theo quy định của các công ước quốc tế về chống khủng bố, hành vi
khủng bố bao gồm: các hành vi chống lại an toàn hàng không dân dụng, chống lại an
toàn hành trình hàng hải và những công trình cố định trên thềm lục địa, tài trợ khủng
bố, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người, tài sản bằng các thiết bị gây nổ; chống
lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế bao gồm viên chức ngoại giao, bắt cóc
con tin, xâm phạm an toàn sức khoẻ, tính mạng, tài sản con người bằng thiết bị hạt
nhân.
1.2.2.2. Về mục đích
Lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội khủng bố là cơ sở để có thể
khẳng định rằng, mục đích là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội khủng bố vì nếu không
có dấu hiệu mục đích thì tội khủng bố sẽ có cấu thành giống các tội phạm khác như
tội giết người, cướp biển hay huỷ hoại tài sản... Không thể đánh đồng việc sát hại
quan chức ngoại giao nhằm cướp tài sản với việc sát hại nhằm mục đích chính trị,
cũng không thể đồng nhất việc bắt cóc vì động cơ vụ lợi (đòi tiền chuộc) với bắt cóc
nhằm gây sức ép với chính phủ phải có hành động hoặc không được có hành động
nào đó.
1.2.2.3. Về chủ thế
Dưới góc độ pháp luật quốc tế cần phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế của chủ thể Luật quốc tế với hành vi vi phạm được xác định là tội phạm có
tính chất quốc tế. Tội phạm có tính chất quốc tế là tội phạm hình sự do các cá nhân
thực hiện xâm phạm tới trật tự pháp lý quốc tế hoặc quốc gia và có tính nguy hiểm
trên phạm vi quốc tế mà tội khủng bố nằm trong nhóm này. Các hành vi xâm phạm
pháp luật quốc tế của quốc gia sẽ được giải quyết theo chế định trách nhiệm pháp lý
quốc tế bao gồm hai loại là tội ác quốc tế và các vi phạm pháp lý thông thường khác.
Chính vì lẽ đó mà chủ thể của tội phạm khủng bố chỉ có thể là cá nhân và các tổ
chức tội phạm (các băng, nhóm phạm tội).
1.1.2.4. Về khách thể
Tội khủng bố xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội do vậy khách thể của tội phạm
này rất đa dạng bao gồm: quyền, tự do cơ bản của con người, trật tự an toàn công
cộng, hoà bình và an ninh quốc tế, mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia vv... Tuy
xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội nhưng khách thể trực tiếp, thể hiện đầy đủ nhất
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khủng bố quốc tế chính là hoà bình và an
ninh quốc tế. Để xâm hại quan hệ xã hội này thì hành vi khủng bố phải thông qua
những đối tượng tác động nhất định. đối tượng tác động của hành vi cấu thành tội
khủng bố là các mục tiêu dân sự, cộng đồng dân cư hoặc những người không trực
tiếp tham gia chiến sự, những người được hưởng bảo hộ quốc tế. Trong thực tế có
trường hợp sự tấn công nhằm vào mục tiêu hỗn hợp, có cả quân sự và dân sự, ví dụ
toà nhà có cả cơ quan quân sự và các tổ chức thương mại hoặc tàu bay có cả các nhân
viên quân sự và dân thường thì việc cố ý mở cuộc tấn công mặc dù biết rằng cuộc tấn
công đó có khả năng gây thương vong cho thường dân hoặc gây hư hại cho các mục
tiêu dân sự là hành vi khủng bố.
Từ sự phân tích ở trên đây, có thể đưa ra định nghĩa: Khủng bố là hành vi gây
thiệt hại (hoặc đe doạ gây thiệt hại) nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản
của người dân và các mục tiêu dân sự khác gây hoảng loạn trong cộng đồng dân cư
nhằm đạt được mục đích chính trị (ép buộc Chính phủ, tổ chức, cá nhân hành động
hoặc không được thực hiện hành động nào đó; vì lý do tôn giáo; tư tưởng…) do các
cá nhân hoặc tổ chức thực hiện, trái với pháp luật hình sự quốc gia và pháp luật quốc
tế.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ VÀ PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1.2.1. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa khủng bố
Khủng bố xuất hiện từ rất sớm. Những kẻ khủng bố xa xưa nhất là những chiến
binh giết dân thường trong các cuộc thánh chiến. Chủ nghĩa khủng bố hiện đại được
các nhà khoa học cho rằng bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX với những tổ chức như
Narodnaya Volya chống lại Sa hoàng tại Nga. Từ thế kỷ XIX đến nay, khủng bố ngày
càng phát triển với đỉnh điểm là cuộc tấn công ngày 11/9/2001 vào Hoa Kỳ.
Như vậy, từ một tội phạm quốc gia, khủng bố hiện nay là tội phạm có tính chất
quốc tế - nguy cơ đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế.
1.2.2. Sự phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố
1.2.2.1. Khái niệm pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố
Pháp luật quốc tế về chống khủng bố là một bộ phận của Luật hình sự quốc tế,
bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý điều chỉnh các vấn đề phát sinh
trong hoạt động hợp tác đấu tranh chống khủng bố của các quốc gia và các chủ thể
khác của luật quốc tế. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay mới chỉ là tập
hợp các nguyên tắc, quy phạm rất đa dạng, nhiều cấp bậc điều chỉnh các vấn đề phát
sinh trong hoạt động hợp tác đấu tranh chống khủng bố của các quốc gia và các chủ
thể khác của luật quốc tế và đang trong quá trình hoàn thiện.
1.2.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh
chống khủng bố
Lịch sử phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố hình thành
và phát triển gắn liền với tiến trình phát triển của khủng bố trên phạm vi toàn thế giới.
Bắt đầu từ những tập quán về dẫn độ tội phạm hình thành trong quan hệ giữa các
quốc gia về tương trợ tư pháp, dần dần những nỗ lực nhằm pháp điển hóa pháp luật
quốc tế về chống khủng bố đã được tiến hành trên quy mô đa phương và toàn cầu với
13 điều ước quốc tế đa phương thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc, 8 điều ước quốc tế
khu vực cùng rất nhiều các điều ước quốc tế song phương.
Như vậy, hiện nay trên thế giới tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về khủng
bố và chưa có định nghĩa về khủng bố nào đưa ra nhận được sự đồng thuận của tất cả
các quốc gia. Vấn đề phân biệt giữa khủng bố và các tội phạm khác, vấn đề chủ thể
của hành vi khủng bố… vẫn là chủ đề tranh cãi giữa các quốc gia. Mặc dù, thông qua
các biểu hiện của hành vi khủng bố trên thực tế cũng như qua lý luận chung của pháp
luật hình sự quốc tế không khó khăn để đưa ra định nghĩa khách quan về khủng bố,
tuy nhiên các quốc gia sẽ chỉ đạt được định nghĩa thống nhất khi có sự tách bạch giữa
các vấn đề chính trị và pháp lý. Bởi lợi ích chính trị là một trong những rào cản của
một định nghĩa chung về khủng bố. Thiết nghĩ, để đạt được định nghĩa thống nhất,
các quốc gia cần đặt lợi ích chung của nhân loại, mục tiêu bảo vệ con người lên trên
hết.
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ
CHỐNG KHỦNG BỐ
2.1. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Có thể phân chia nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống
khủng bố làm 2 nhóm đó là nhóm các nguyên tắc chung và nhóm các nguyên tắc đặc
thù. Nhóm nguyên tắc chung gồm có các nguyên tắc:
- Bình đẳng chủ quyền của các quốc gia
- Không sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực
- Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
- Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế
- Dân tộc tự quyết
- Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
Nhóm các nguyên tắc đặc thù bao gồm:
- Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không được xâm
phạm chủ quyền quốc gia khác.
- Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không được vi
phạm các quyền con người cơ bản.
- Mọi hành vi khủng bố quốc tế đều phải bị ngăn chặn và trừng trị, không được
viện dẫn lý do chính trị để từ chối hợp tác chống khủng bố.
Trong phạm vi luận văn chỉ phân tích nhóm nguyên tắc đặc thù.
2.2. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CÁC CÔNG ƯỚC
Các hành vi khủng bố thuộc phạm vi áp dụng của các công ước quốc tế về chống
khủng bố, bao gồm:
- Hành vi chống lại an toàn hàng không dân dụng;
- Hành vi chống lại an toàn hàng hải;
- Hành vi chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức
ngoại giao;
- Hành vi bắt cóc con tin;
- Hành vi khủng bố bằng vũ khí hạt nhân;
- Hành vi khủng bố bằng bom;
- Hành vi tài trợ khủng bố;
Nhìn chung, các công ước đều chỉ áp dụng đối với các hành vi tấn công vào mục
tiêu dân sự, ví dụ: tàu biển, tàu bay dân sự, còn các loại tàu ngầm, tàu thuộc lực
lượng quân đội, hải quan, cảnh sát không thuộc phạm vi áp dụng của các công ước.
2.3. XÁC ĐỊNH QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA THEO QUY ĐỊNH
TẠI CÁC CÔNG ƯỚC
Theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố, quyền tài phán được
trao cho quốc gia nào đó phải dựa trên 1 trong 5 căn cứ, đó là: quyền tài phán theo
lãnh thổ, quyền tài phán theo quốc tịch của người bị tình nghi là phạm tội, quyền tài
phán theo quốc tịch của nạn nhân, quyền tài phán bảo vệ và quyền tài phán phổ quát
2.4. NGHĨA VỤ CỦA CÁC QUỐC GIA TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG TỘI KHỦNG BỐ THEO QUY ĐỊNH TẠI CÁC CÔNG ƯỚC
2.4.1. Nghĩa vụ lập pháp
Đây là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên công ước. Khi là thành viên của các
công ước quốc tế về chống khủng bố, để giúp cho việc đấu tranh có hiệu quả chống
lại tội phạm này và cũng là một trong các hình thức thực hiện công ước, quốc gia
phải có nghĩa vụ nội luật hóa các quy định của công ước mà quan trọng nhất là phải
tội phạm hóa các hành vi được nêu ra trong ước.
Bên cạnh việc tội phạm hóa các hành vi được nêu trong công ước, các quốc gia
còn phải nội luật hóa các quy định có tính chất phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm được
nêu ra tại các công ước và các quy định giúp cho việc dễ dàng hợp tác giữa các quốc
gia.
2.4.2. Nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia
2.4.2.1. Hợp tác ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm
Hợp tác nhằm ngăn chặn tội phạm là biện pháp được thực hiện trước khi tội
phạm xảy ra hoặc trong khi đang diễn ra hành vi phạm tội nhằm làm giảm bớt hậu
quả của tội phạm. Để ngăn chặn tội phạm, các công ước quy định các quốc gia phải
có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhằm phát hiện và ngăn chặn mọi hành vi chuẩn bị trên
lãnh thổ của mình nhằm thực hiện tội phạm trong và ngoài nước.
Các biện pháp hợp tác được quy định trong các công ước là trao đổi thông tin,
phối hợp với nhau để tiến hành các biện pháp phù hợp, ví dụ: kiểm tra người, tài sản
tại sân bay, cửa khẩu…
2.4.2.2. Tương trợ tư pháp về hình sự
Các công ước quốc tế về chống khủng bố quy định về nghĩa vụ của các quốc
gia trong việc tương trợ tư pháp về hình sự. Cụ thể như sau:
- Trao đổi thông tin, tài liệu về tội phạm;
- Bắt giữ tội phạm;
- Tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội phạm;
- Dẫn độ tội phạm.
2.5. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
Trước sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố, sự gia tăng các hành vi khủng bố
cùng mức độ tàn ác của nó thì các quy định của pháp luật quốc tế hiện hành đang bộc
lộ rõ những bất cập, tập trung chủ yếu ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay được quy định tại nhiều
công ước, mỗi công ước có phạm vi điều chỉnh là các hành vi phạm tội khác nhau
(mà việc thực hiện tội phạm đó được coi là biểu hiện của khủng bố quốc tế) nên gây
khó khăn cho việc nghiên cứu cũng như thực thi.
Thứ hai, một số quy định tại các công ước không thống nhất.
Thứ ba, tuy có tới hơn mười công ước quốc tế về chống khủng bố trong khuôn
khổ Liên hợp quốc tuy nhiên chưa công ước nào đưa ra được định nghĩa chung về
khủng bố.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay được xây
dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, tuy nhiên bên cạnh đó cũng
có những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc này là tư tưởng chính trị - pháp lý định
hướng toàn bộ hoạt động đấu tranh chống khủng bố trên phạm vi quốc gia cũng như
toàn thế giới. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay cũng đã có những quy
định cụ thể về các vấn đề như: xác định quyền tài phán của các quốc gia đối với cá
nhân phạm tội, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tội phạm hoá các hành vi quy
định tại các công ước, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tao đổi thông tin về tội
phạm, dẫn độ… Tuy nhiên, các quy định này hiện đang nằm rải rác ở các văn bản
khác nhau tạo ra việc không thống nhất, gây khó khăn cho việc áp dụng. Đây chính là
điểm hạn chế lớn nhất của pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay cần sớm
được hoàn thiện trong tương lai nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống tội
phạm này.
CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
3.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ TẠI VIỆT NAM
Khủng bố hiện nay là một trong những nguy cơ đe dọa nghiêm trọng hòa bình và
an ninh quốc tế. Nhằm chung tay cùng cộng đồng quốc tế đấu tranh chống lại tội
phạm này, Việt Nam đã tích cực tham gia các công ước quốc tế về chống khủng bố,
đồng thời nghiên cứu và thực hiện khuyến nghị của các tổ chức quốc tế về vấn đề
này.
Cụ thể, Việt Nam là thành viên của 8/13 điều ước quốc tế đa phương thuộc
khuôn khổ Liên hợp quốc về chống khủng bố:
- Nghị định thư Montreal về ngăn chặn hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các sân
bay phục vụ công dân quốc tế (1988)
- Công ước New York về phòng chống tội ác đối với những người được hưởng
quy chế bảo vệ quốc tế, bao gồm cả nhà ngoại giao (1873)
- Nghị định thư Rome về ngăn chặn hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn các
công trình xây dựng đáy biển (1988)
- Công ước quốc tế về ngăn chặn tài trợ cho khủng bố (1999)
- Công ước Liên hiệp quốc (LHQ) về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
(2000)
- Công ước LHQ về chống tham nhũng (2003)
- Công ước ASEAN về chống khủng bố (2007).
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ký kết 10 hiệp định tương trợ tư pháp với các nước
và nhiều hiệp định, thỏa thuận hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm có liên quan
đến khủng bố. Việt Nam cũng đang nghiên cứu và từng bước tiếp tục ký kết và tham
gia các công ước quốc tế khác có liên quan đến vấn đề chống khủng bố và tài trợ cho
khủng bố.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, các quy định quan trọng nhất nhằm đấu
tranh trừng trị tội khủng bố nằm trong Bộ luật hình sự. Bên cạnh Bộ luật hình sự,
Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp lý giúp cho việc phòng ngừa, phát
hiện và hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống khủng bố. Trước tiên, phải kể đến đó là
các quy định về quản lý và kiểm soát vũ khí, chất nổ, chất độc hóa học, chất phóng
xạ… đây là những công cụ, phương tiện thường được sử dụng trong các vụ khủng bố.
Bên cạnh các quy định về quản lý vật liệu nổ, chúng ta cũng ban hành các quy định
về quản lý biên giới, chống lại các hoạt động vận chuyển vũ khí, chất cháy, chất nổ
qua biên giới, vượt biên và kiểm soát các đối tượng xuất nhập cảnh…
3.2. TỘI KHỦNG BỐ VÀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN KHỦNG BỐ
THEO QUY ĐỊNH TẠI BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ quan trọng trong cuộc đấu tranh
chống khủng bố mà hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng, bởi việc ghi nhận một
hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó vào luật hình sự đồng nghĩa với thái độ nghiêm
khắc và quyết tâm cao nhất của nhà nước trong việc loại trừ hành vi đó ra khỏi đời
sống xã hội.
3.2.1. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình
sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999
Ở Việt Nam, tội khủng bố lần đầu tiên được ghi nhận tại Bộ luật hình sự năm
1985, nằm trong Chương I – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia và được xếp vào
mục A – Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Bên cạnh tội khủng
bố, Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định các tội phạm khác có liên quan như tội
chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 87); tội phá hủy công trình, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia (Điều 94); tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ (Điều 96), đây là các tội
phạm được ghi nhận tại các công ước quốc tế về chống khủng bố và yêu cầu các quốc
gia thành viên phải nội luật hóa.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ra đời thay thế Bộ luật năm 1985 vẫn xếp
khủng bố vào Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, là một trong các tội phạm
nghiêm trọng nhất tại phần Các tội phạm. Về cơ bản quy định này không có gì khác
so với Bộ luật hình sự năm 1985, tội khủng bố theo quy định tại Bộ luật năm 1999
là hành vi xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của
cán bộ, công chức hoặc công dân nhằm chống chính quyền nhân dân. Khách thể của
tội phạm vẫn là tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của người và dấu hiệu mục đích
là bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, so với quy định của Bộ luật
hình sự năm 1985 thì Bộ luật năm 1999 có mở rộng phạm vi khách thể hơn, không
chỉ là tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của công nhân viên chức nhà nước, người
nước ngoài mà còn bao gồm cả công dân Việt Nam nói chung.
Tuy chưa khắc phục được nhiều những hạn chế tại Bộ luật năm 1985 nhưng Bộ
luật hình sự năm 1999 cũng đã bổ sung nhiều quy định góp phần đấu tranh chống
khủng bố theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố, đó là tội chiếm
đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều
230)…
3.2.2. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung)
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành
ngày 29/6/2009 là bước tiến lớn trong quy định về khủng bố và các tội phạm liên
quan. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những sửa đổi cơ bản về
tội khủng bố và các tội phạm liên quan theo hướng khách quan hơn, phù hợp với xu
thế chung của luật hình sự các nước trên thế giới đồng thời đã tội phạm hóa một số
hành vi khác liên quan đến khủng bố theo yêu cầu của các công ước quốc tế về
chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên.
Về tội khủng bố, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) quy định 2 tội: Tội khủng
bố nhằm chống chính quyền nhân dân nằm trong Chương XI – Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia và tội khủng bố nằm trong Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng. Cụ thể hơn, Điều 84 Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định về tội khủng bố có nội dung không thay đổi, Luật sửa đổi chỉ bổ sung tên Điều
luật bằng cách thêm cụm từ “nhằm chống chính quyền nhân dân”. Việc thêm cụm từ
này nhằm phân biệt với tội khủng bố mới được tội phạm hóa tại Điều 230a. Tội
khủng bố quy định tại Điều 230a là quy định hoàn toàn mới so với các văn bản pháp
luật hình sự trước đây, phù hợp với xu hướng chung của luật hình sự các nước trên
thế giới.
Bên cạnh những bổ sung về tội khủng bố đã nêu trên, Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi) còn tội phạm hóa một số hành vi liên quan đến khủng bố theo yêu cầu tại
các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đó là Điều 230b: Tội tài trợ khủng
bố; Điều 251: Tội rửa tiền. Tài trợ khủng bố theo quy định tại Bộ luật hình sự năm
1999 (sửa đổi) là hành vi huy động, hỗ trợ tiền, tài sản dưới mọi hình thức cho tổ
chức, cá nhân khủng bố.
3.2.3. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình
sự năm 2015
Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành ngày 27/11/2015 là bước tiến lớn trong
quy định về khủng bố và các tội phạm liên quan. Tuy nhiên, nội dung không có thay
đổi gì so với Bộ luật hình sự năm 2009. Chỉ có thay đổi cụm từ “khủng bố người
nước ngoài” bằng cụm từ “khủng bố cá nhân, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức
quốc tế”.
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI
KHỦNG BỐ VÀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN
Quy định tại Bộ luật hình sự về tội phạm này vẫn còn một số bất cập sau đây:
Thứ nhất, tội khủng bố tại Điều 113 luật hình sự quy định “người nào nhằm
chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc
công dân” và “khủng bố cá nhân, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế”. Như
vậy, đối tượng tác động của hành vi ở đây là cán bộ, hoặc công chức hoặc công dân
hoặc người nước ngoài. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì chỉ cần quy định
công dân và người nước ngoài đã đủ bao gồm hết tất cả các đối tượng trên.
Thứ hai, ngay trong Bộ luật hình sự còn tồn tại hai quy định khác nhau về tội
khủng bố: Điều 113 - Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và Điều 299:
Tội khủng bố. Hai tội phạm này có cấu thành rất khác nhau thể hiện chính sách xử lý
riêng biệt của Nhà nước ta đối với hai loại hành vi phạm tội này gây khó khăn cho
việc xử lý và hợp tác quốc tế đấu tranh chống khủng bố.
Theo quan điểm của chúng tôi, để giải quyết vấn đề này cần bỏ tội khủng bố
nhằm chống chính quyền nhân dân tại Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
hành vi khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân sẽ bổ sung và xử về tội hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 Bộ luật hình sự năm 2015). Hiện
nay, tội này chỉ xét xử người có hành vi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức
nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Thiết nghĩ, từ “hoạt động” ở Điều luật này cần
được giải thích mở rộng hơn chứ không chỉ là “hoạt động thành lập hay “tham gia tổ
chức”.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật một số nước trên thế giới và quy định tại
các công ước quốc tế về chống khủng bố (ví dụ Công ước New York 1999 về tài trợ
khủng bố, Công ước New York 1997 về chống khủng bố bằng bom…) thì hành vi
khủng bố được thực hiện nhằm ba mục đích:
Một là, gây hoảng loạn trong công chúng;
Hai là, ép buộc chính quyền làm hoặc không làm một việc nhất định theo yêu
cầu của bọn khủng bố;
Ba là, ép buộc tổ chức quốc tế làm hoặc không làm công việc nhất định theo
yêu cầu của những kẻ khủng bố. Tuy nhiên, tội khủng bố theo quy định tại Điều 299
Bộ luật hình sự năm 2015 mới chỉ ghi nhận một mục đích của hành vi khủng bố, đó
là hành vi nhằm gây hoảng loạn trong công chúng. Chính vì thế, thiết nghĩ Bộ luật
hình sự cần tiếp tục sửa đổi theo hướng ghi nhận các mục đích trên vào tội khủng bố
quy định tại Điều 299. Nếu giữ nguyên quy định như hiện nay có nghĩa là hành vi có
mục đích gây hoảng loạn trong công chúng thì sẽ xử lý về tội khủng bố còn hành vi
có một trong 2 mục đích còn lại sẽ xử về các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều
này không phù hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật các nước trên thế giới đồng thời
chưa ghi nhận hết các dấu hiệu cấu thành tội khủng bố tại Điều 299.
Thứ tư, về các tội liên quan đến khủng bố, Bộ luật hình sự Việt Nam đã ghi nhận
tương đối đầy đủ các hành vi theo yêu cầu của các công ước quốc tế về chống khủng
bố mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ghi nhận các hành vi
khủng bố thực tế đã diễn ra trên thế giới như hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm cho người (Điều 240), hành vi phát tán chương trình tin học gây hại
cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286)
… Tuy nhiên, các điều luật này được sắp xếp chưa hợp lý, chưa đúng với tính chất
của hành vi. Ví dụ, hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người
(Điều 240) là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho cộng đồng lại xếp vào các tội phạm về
môi trường. Hành vi này nên xếp vào Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng
như các tội phạm cùng tính chất khác như tội khủng bố, tội phát tán chương trình máy
tính, chiếm đoạt tàu bay…
Thứ năm, việc quy định tội khủng bố và các tội liên quan tại Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện nay làm xuất hiện vấn đề sau:
Khi xuất hiện một hành vi ví dụ như chiếm đoạt tàu bay, tàu biển, khi nào thì bị
truy tố, xét xử về tội khủng bố (Điều 299 Bộ luật hình sự), khi nào bị truy tố xét xử
về các tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 282 Bộ luật hình sự). Đây là vấn đề cần
được hướng dẫn cụ thể.
Như vậy, nhìn chung pháp luật hình sự Việt Nam đang ngày càng hoàn thiên và
tương thích hơn với pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia khác trên thế giới cũng
như ghi nhận một cách khách quan biểu hiện của hành vi khủng bố trên thực tế. Điều
này giúp nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam và các
quốc gia khác. Tuy nhiên, các quy định về tội khủng bố cũng như các tội phạm liên
quan trong luật hình sự Việt Nam còn một số bất cập như trên đã trình bày, điều này
cần sớm được khác phục để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động hợp tác
đấu tranh chống khủng bố.
Hoàn thiện pháp luật về chống khủng bố và chống tài trợ khủng bố theo những
chuẩn mực quốc tế chung
Trong bối cảnh Việt Nam tích cực mở rộng, hội nhập quốc tế trên tất cả các
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực phòng chống tội phạm, có thể thấy, nhiều quy
phạm pháp luật quốc tế đã được nghiên cứu nội luật hóa trong pháp luật Việt
Nam. Điển hình là trong lĩnh vực chống khủng bố và chống tài trợ cho khủng bố
(CFT), nhiều quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã được rà soát, sửa
đổi, ban hành có tính tương thích cao với các quy phạm pháp luật trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập.
Nghị định thư Montreal về ngăn chặn hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các sân
bay phục vụ công dân quốc tế (1988), Công ước New York về phòng chống tội ác đối
với những người được hưởng quy chế bảo vệ quốc tế, bao gồm cả nhà ngoại giao
(1873), Nghị định thư Rome về ngăn chặn hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn các
công trình xây dựng đáy biển (1988), Công ước quốc tế về ngăn chặn tài trợ cho
khủng bố (1999), Công ước Liên hiệp quốc (LHQ) về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia (2000), Công ước LHQ về chống tham nhũng (2003), và gần đây nhất
là Công ước ASEAN về chống khủng bố (2007). Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tham
gia Hiệp định chống khủng bố của ASEAN và Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình
sự giữa các nước ASEAN, ký kết 10 hiệp định tương trợ tư pháp với các nước và
nhiều hiệp định, thỏa thuận hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm có liên quan đến
khủng bố. Việt Nam cũng đang nghiên cứu và từng bước tiếp tục ký kết và tham gia
các công ước quốc tế khác có liên quan đến vấn đề chống khủng bố và tài trợ cho
khủng bố.
Trên khía cạnh pháp luật hình sự, trước năm 2009, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm
1999 mới chỉ có duy nhất một điều luật quy định về tội khủng bố (Điều 84). Theo đó,
nếu đối chiếu với các quy phạm pháp luật về chống khủng bố quốc tế và của một số
nước trên thế giới sẽ thấy có độ vênh rất lớn. Cụ thể là:
- Tội khủng bố quy định tại Điều 84 BLHS có dấu hiệu bắt buộc là nhằm mục
đích “chống chính quyền nhân dân”. Tuy nhiên, pháp luật quốc tế và pháp luật của
nhiều nước không quy định mục đích của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc, hoặc chỉ
quy định về mục đích một cách tương đối rộng như làm cho nhân dân hoảng sợ.
- Đối tượng xâm hại của tội phạm khủng bố theo quy định tại Điều 84 BLHS chỉ
có thể là con người (tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, tinh thần). Nhưng theo luật
quốc tế, ngoài đối tượng xâm hại chủ yếu là con người, tội phạm khủng bố còn có thể
tấn công vào các mục tiêu khác mà không bắt buộc phải nhằm vào con người, có thể
là các cơ sở kinh tế chiến lược, các cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt của các quốc gia.
- Ngoài những hành vi khách quan được quy định tại Điều 84 BLHS, pháp luật
Việt Nam coi hành vi tài trợ cho khủng bố là đồng phạm về tội này (với vai trò giúp
sức). Trong pháp luật quốc tế, hành vi tài trợ cho khủng bố cũng là một trong các
hành vi trực tiếp khủng bố. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, tài trợ cho khủng
bố có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động khủng bố, vì nếu không có sự tài trợ thì
các hoạt động khủng bố khó có thể hoặc không thể thực hiện được. Do đó cần thiết
phải có những quy định cụ thể nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi tài trợ cho
khủng bố. Điều này được thể hiện rõ trong Công ước năm 1999 về trừng trị việc tài
trợ cho khủng bố: "Các quốc gia thành viên của Công ước này... nhận thức được nhu
cầu cấp thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế giữa các quốc gia nhằm tìm ra và áp
dụng các biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa hành vi tài trợ cho khủng bố cũng như
trấn áp các hành vi đó bằng việc truy tố và trừng trị những kẻ thủ phạm, đã thỏa thuận
như sau:..." [1]
- Nếu như khủng bố là một tội độc lập trong BLHS, thì cộng đồng quốc tế luôn
đặt khủng bố trong mối liên hệ không thể tách rời với nhiều loại tội phạm nguy hiểm
hoặc các hành vi bất hợp pháp khác, như tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, buôn
bán ma túy, rửa tiền, buôn bán vũ khí bất hợp pháp…
- Việc quy định khủng bố trong chương Các tội phạm xâm phạm an ninh quốc
gia đã dẫn đến vướng mắc trong các trường hợp Việt Nam có yêu cầu dẫn độ đối
tượng bị khởi tố về tội này. Theo quy định tại Điều 3 Hiệp định mẫu của LHQ về dẫn
độ tội phạm thì việc dẫn độ sẽ không được chấp nhận nếu tội phạm yêu cầu dẫn độ bị
nước được yêu cầu coi là tội phạm “mang tính chất chính trị”. Hiện nay, hầu hết các
nước coi các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia trong BLHS nước ta là tội phạm
“mang tính chất chính trị” và không được chấp nhận dẫn độ.
Thực hiện các chuẩn mực quốc tế về chống khủng bố, chống tài trợ cho khủng
bố, đồng thời cũng là để hạn chế những bất cập nêu trên, trong lần sửa đổi bổ sung
BLHS năm 2009, các nhà lập pháp Việt Nam đã bổ sung thêm hai điều luật về vấn đề
này, đó là Điều 230a tội khủng bố và Điều 230b tội tài trợ cho khủng bố. Trong đó,
Điều 230a vấn đề cơ bản được đổi mới trong tội khủng bố là đã xác định đối tượng
tác động của tội phạm không chỉ là con người mà có thể là tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, xác định mục đích là gây hoảng sợ trong công chúng chứ không chỉ
dừng lại ở mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân; Điều 230b đã xác định rõ về
cấu thành độc lập của loại tội phạm tài trợ cho khủng bố chứ không chỉ xử về đồng
phạm trong đối với tội khủng bố như trước.
Thực tiễn cho thấy, kể từ sau khi chính thức có hiệu lực đến nay, số lượng các vụ
án khủng bố theo Điều 230a được các cơ quan điều tra trên toàn quốc khởi tố, điều tra
là rất hạn chế, mới chỉ có một số vụ như: vụ Phạm Văn Lâm, Phạm Mạnh Hùng đặt
mìn để khủng bố ở Bình Dương; vụ Nguyễn Thị Thu Thảo gọi điện khủng bố bệnh
viện Gia Định ở TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa phát hiện, khởi tố vụ
nào về tội tài trợ cho khủng bố theo Điều 230b. Một trong những nguyên nhân là do
chưa có văn bản pháp lý hướng dẫn áp dụng pháp luật một cách đầy đủ. Để khắc
phục vấn đề trên, nhằm đấu tranh, xử lý triệt để hành vi tài trợ cho khủng bố, ngày
5/5/2012, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Viện kiểm sát nhân dân tối cáo, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên
tịch hướng dẫn áp dụng hai điều luật này.
Xét thấy sự cần thiết phải ban hành một văn bản luật có hiệu lực đủ mạnh trong
lĩnh vực phòng chống khủng bố (thực tế nhiều nước như Mỹ, Nga, Pháp cũng đã xây
dựng luật chống khủng bố riêng), ngày 12/6/2013, Quốc hội đã thông qua Luật
Phòng, chống khủng bố với 51 điều, 8 chương. Trong đó, hành vi tài trợ cho khủng
bố đã được quy định khá cụ thể và có sự tham khảo theo chuẩn mực quốc tế về chống
tài trợ cho khủng bố quốc tế.
Ngày 18/6/2012, Luật Phòng, chống rửa tiền cũng đã được Quốc hội thông qua,
trong đó, một trong những đối tượng điều chỉnh của luật này là việc chống rửa tiền
nhằm tài trợ cho khủng bố. Cụ thể khoản 2, Điều 1 Luật này ghi rõ: "Việc phòng,
chống hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố được thực hiện theo quy định của Luật
này, quy định của BLHS và pháp luật về phòng, chống khủng bố"[2].
Ngoài ra, nhiều văn bản dưới luật cũng đã được ban hành nhằm thể chế hóa,
hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực quốc tế về chống khủng bố và chống tài trợ cho
khủng bố như: Chỉ thị số 25/2007/CT-TTg ngày 15/11/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về công tác phòng, chống khủng bố ở trong tình hình mới; Quyết định số
1953/2006/QĐ-BCA ngày 12/12/2006 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định tạm thời
về phương án xử lý tình huống khủng bố thường xảy ra...
Những văn bản pháp luật nêu trên cho thấy, Chính phủ và các cơ quan, các nhà
lập pháp Việt Nam đã tuân thủ nghiêm chỉnh, đầy đủ các cam kết quốc tế về chống
khủng bố và tài trợ cho khủng bố trong các điều ước quốc tế đã ký kết, tham gia.
Trong áp dụng pháp luật, Việt Nam cũng đã nỗ lực hợp tác toàn diện với quốc tế về
chống khủng bố và chống tài trợ cho khủng bố, góp phần không nhỏ vào cuộc chiến
chống tội phạm khủng bố và tài trợ cho khủng bố của cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật liên quan đến phòng chống khủng bố, tài trợ
khủng bố ở nước ta - tuy đã được quan tâm xây dựng, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề
bất cập, thiếu đồng bộ, thiếu tính hệ thống, đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ
sung, sửa đổi cho phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế về chống khủng bố và
chống tài trợ cho khủng bố, như:
- Một số hành vi nguy hiểm cho xã hội mà các công ước quốc tế và luật pháp
một số nước quy định là khủng bố nhưng ở Việt Nam không quy định là khủng bố,
mặc dù những hành vi đó đều đã được pháp luật hình sự điều chỉnh bởi những loại tội
phạm khác như: nhóm hành vi có liên quan đến tàu bay và xâm phạm sự an toàn hàng
không dân dụng; nhóm hành vi xâm phạm đến an toàn hàng hải và các công trình cố
định trên thềm lục địa; nhóm hành vi sử dụng trái phép các loại vũ khí, vật liệu nổ
nguy hiểm...
- Nhiều quy phạm pháp luật về chống khủng bố chưa có tính tương thích cao,
chưa hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về chống khủng bố và chống tài
trợ cho khủng bố do xuất phát từ thực tiễn hoạt động khủng bố và chống khủng bố ở
Việt Nam như: chưa có khái niệm cụ thể về hành vi khủng bố trong các điều luật nên
việc định tội rất khó khăn bởi giữa Điều 84 và Điều 230a chỉ khác khác nhau cơ bản
về mục đích phạm tội mà mục đích phạm tội là vấn đề rất khó chứng minh; hành vi
khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân vẫn chỉ giới hạn đối tượng tác động là
con người cụ thể là thiếu tính bao quát, bởi các mục tiêu khác cũng có thể là đối
tượng tác động của loại tội phạm này; hành vi tuyển mộ, huấn luyện, chứa chấp các
phần tử khủng bố cũng chưa được hình sự hóa... Điều này đòi hỏi khi nghiên cứu bổ
sung, chỉnh sửa, cần có sự tham khảo pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước
khác về chống khủng bố, bởi nguy cơ khủng bố mang tính quốc tế vẫn luôn tiềm ẩn.
- Một số quy định về hợp tác quốc tế trong điều tra tội phạm khủng bố còn có sự
bất cập, quan điểm về khủng bố và chống khủng bố cũng như tài trợ cho khủng bố
giữa Việt Nam và một số nước vẫn chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả hợp tác chưa
cao. Một số trường hợp, việc dẫn độ tội phạm không thực hiện được như trường hợp
của Nguyễn Hữu Chánh cầm đầu tổ chức "Chính phủ Việt Nam tự do" đã nhiều lần
khủng bố ở Việt Nam; trường hợp của Lý Tống, đối tượng đã nhiều lần cướp máy
bay, đe dọa an ninh hàng không để tiến hành khủng bố ở Việt Nam...
Trong thời gian tới, trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, khu
vực cũng như những nguy cơ của tội phạm khủng bố, việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam về phòng chống khủng bố, chống hoạt động tài trợ cho khủng bố nhằm
khắc phục những khó khăn, vướng mắc bất cập đã nêu ở trên là hết sức cần thiết, tạo
cơ sở pháp lý đồng bộ, hiệu quả cho công tác đấu tranh phòng chống khủng bố, tài trợ
cho khủng bố. Việc hoàn thiện pháp luật về chống khủng bố và chống tài trợ khủng
bố một mặt phải đảm bảo theo những chuẩn mực quốc tế chung mà Việt Nam đã ký
kết, song mặt khác, cũng cần phải xuất phát từ thực tiễn công tác phòng chống tội
phạm khủng bố ở Việt Nam./.