ĐỀ CƯƠNG MÔN KỸ NĂNG KIỂM TRA VÀ SOẠN THẢO VĂN BẢN TRONG
CÔNG TÁC DÂN VẬN
Câu 1. Hãy trình bày các bước tiến hành kiểm tra chủ trương CTDV của Đảng?
Câu 2. Hãy phân tích vai trò của thông tin, báo cáo trong công tác dân vận?
Câu 3. Hãy phân tích yêu cầu về nội dung của báo cáo công tác dân vận?
BÀI LÀM
Câu 1: Hãy trình bày các bước tiến hành kiểm tra chủ trương CTDV của Đảng?
Công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động của mọi tổ chức Đảng và đảng viên hướng
vào việc xây dựng và thực hiện các quyết định, giải quyết các vấn đề trong sinh hoạt nội bộ
Đảng, hoàn thiện quy trình lãnh đạo, giữ vững kỷ luật Đảng, nhằm bảo đảm cho các quyết
định của Đảng luôn được thực hiện nghiêm túc và có kết quả cao. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền, công tác kiểm tra có ý nghĩa quyết dịnhđến chất lượng lãnh đạo của các tổ chức
Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công
hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và nơi
kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy củng vô ích”. Người còn nhắc nhở:
“Làm mà không kiểm tra thì không biết kết quả ra sao, không hiểu sai lệch thế nào để kịp
thời sửa chữa”
Với tư cách là cơ quan tham mưu, giúp việc cho cấp ủy trong lĩnh vực dân vận, ban dân
vận các cấp có nhiệm vụ tham mưu , đề xuất với cấp ủy, tổ chức Đảng trong việc xây dựng
các chủ trương, nghị quyết lien quan đến công tác dân vận, đồng thời giúp cấp ủy kiểm tra
việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của đảng về công tác dân vận. Nhiệm vụ đó được xác
định trong các văn bản của Trung ương quy định về chức năng, nhiệm vụ của các ban đảng
trong đó có ban dân vận.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình, ban dân vận các cấp có trách nhiệm kiểm tra
việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng thuộc lĩnh
vực công tác do ban mình phụ trách, kiểm tra những nội dung do cấp ủy giao. Tham gia các
cuộc kiểm tra của cấp ủy và của các ban khi có yêu cầu, giúp cấp ủy kết luận các nội dung
kiểm tra thuộc lĩnh vực do ban mình phụ trách.
Công tác kiểm tra chủ trương công tác dân vận gồm các bước sau:
1. Tham mưu cho cấp ủy về chủ trương kiểm tra
Trên cơ sở chương trình, kế hoạch làm việc của cấp ủy và tình hình thực tế ở địa
phương, đơn vị lãnh đạo ban dân vận xây dựng chương trình công tác của ban mình, trong
1
đó có nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy kiểm tra việc thực hiện chủ trương công tác dân vận
đối với các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc.
Trước tiên lãnh đạo ban họp thống nhất kế hoạch tham mưu, sau đó đăng ký lịch làm việc
với thường trực, ban thường vụ cấp ủy. Tại buổi làm việc đại diện lãnh đạo ban trình bày kế
hoạch của mình, báo cáo thường trực, ban thường vụ cấp ủy cho chủ trương kiểm tra, báo cáo
dự kiến nội dung, mục đích, hình thức, thời gian, địa điểm, thành phần đoàn kiểm tra.
Để thực hiện tốt phương châm “Kiểm tra có chương trình, kế hoạch” “kiểm tra có trọng
tâm, trọng điểm”, công tác tham mưu của ban dân vận các cấp cần chú ý: Khi xác định nội
dung kiểm tra cần hướng về những nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy đảng các cấp trên lĩnh
vực dân vận (ví dụ việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; việc thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí…). Xác định mục đích của công tác kiểm tra là nhằm xem xét, đánh giá
chính xác, sát thực quá trình thực hiện chủ trương, nghị quyết của cấp ủy về công tác dân
vận, phát hiện cái hay, cái điển hình, cái sang tạo, cũng như những khó khăn, bất cập, hạn
chế, khuyết điểm của tổ chức đảng và các cán bộ, đảng viên của đảng trong thực hiện nhiệm
vụ lãnh đạo của mình, từ đó có cơ sở tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo phát huy, nhân rộng
những yếu tố tích cực, nhân rộng những yếu tố tích cực; điều chỉnh, xử lý những cá nhân, tập
thể thực hiện sai, kém hiệu quả, hoặc điều chỉnh, hoàn thiện những nội dung chưa hợp lý
trong chủ trương, nghị quyết của cấp ủy.
Hình thức kiểm tra là trực tiếp hay gián tiếp cần lựa chọn cho phù hợp. Ví dụ, nếu thời
điểm kiểm tra là định kỳ tháng, quý và trong điều kiện các địa phương, địa phương, đơn vị
không có vấn đề gì nổi cộm thì có thể tham mưu cho cấp ủy chọn phương án kiểm tra gián
tiếp (qua báo cáo bằng văn bản của đối tượng được kiểm tra). Nếu nhằm sơ kết, tổng kết chủ
trương, nghị quyết, hoặc khi nghe thông tin có vấn đề gì nổi cộm nảy sinh ở một địa phương,
đơn vị nào đó cần kiểm tra đột xuất thì phải tham mưu với cấp ủy chọn hình thức kiểm tra
trực tiếp (lập đoàn xuống kiểm tra), hoặc kiểm tra gián tiếp trước, sau đó kiểm tra trực tiếp
để kết luận chính xác nhất.
Việc tham mưu lập tổ (đoàn) kiểm tra cần hướng dẫn đến những cán bộ chuyên trách,
có năng lực công tác dân vận, có nghiệp vụ kiểm tra, có khả năng làm việc tốt trong điều
kiện cường độ cao, áp lực nặng nề, có thể đi công tác xa, dài ngày, có bản lĩnh vững vàng,
trung thực, có trách nhiệm, làm việc có lý có tình.
2. Xây dựng các văn bản cho đợt kiểm tra
2
Văn bản phục vụ cho đợt kiểm tra thực hiện chủ trương công tác dân vận là tài liệu do
cấp ủy đảng hoặc cơ quan tham mưu cho cấp ủy đảng là ban dân vận ban hành theo quy định
của Điều lệ Đảng và quy định của trung ương. Văn bản là công cụ, phương tiện chủ yếu và
phổ biến phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể và đối tượng trong quá trình kiểm tra. Văn
bản đòi hỏi tính chính trị (phù hợp với đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
phù hợp với sự lãnh đạo của cấp ủy và hướng dẫn của ban dân vận), tính khoa học (trung
thực, chính xác, cụ thể, hệ thống, theo những thể thức nhất định của loại văn bản), tính pháp
lý, tính hiệu lực và thống nhất…
Việc soạn thảo văn bản cần tuân thủ các bước cơ bản sau:
- Bước chuẩn bị: Xác định mục đích, yêu cầu của văn bản; xác định nội dung văn bản;
xác định đối tượng đọc và xử lý văn bản; thu thập, chọn lọc tài liệu, thông tin cần thiết để
đưa vào văn bản.
- Bước xây dựng đề cương văn bản: Người soạn thảo dự kiến sáp xếp, trình bày những
vấn đề chính sẽ thể hiện trong văn bản; tham khảo ý kiến của tổ chức, cá nhân có lien quan
(về hình thức, nội dung văn bản) rồi đối chiếu, hoàn thiện đề cương văn bản.
- Bước dự thảo và hoàn chỉnh văn bản: Do người được phân công saonj thảo tiến hành,
sau đó lấy ý kiến của tổ chức và cá nhân lien quan và thông qua cấp có thẩm quyền để hoàn
thiện văn bản.
- Bước cuối cùng: Duyệt và trình ký, đóng dấu văn bản.
Để đợt kiểm tra đạt kết quả tốt, ngay từ đầu việc xây dựng các văn bản phục vụ công
tác kiểm tra phải được chú trọng, tránh sơ sài, qua loa. Văn bản phải phản ánh được mục
đích, yêu cầu, nội dung, thể loại, phạm vi, đối tượng thời gian, hiệu lực của đợt kiểm tra. Các
văn chính bản phục vụ cho đợt kiểm tra bao gồm quyết định của cấp ủy về việc thành lập
đoàn kiểm tra, quyết định kiểm tra tổ chức đảng, cá nhân đảng viên cụ thể; kế hoạch và
hướng dẫn việc thực hiện kế hoạch kiểm tra của đoàn kiểm…
Quyết định kiểm tra nêu rõ căn cứ, lý do liên quan đến nội dung quyết định (thông
thường là theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định của Trung ương về chức năng, nhiệm vụ
của chủ thể ra quyết định; ý kiến của chủ thể; tham mưu của Ban Dân vận; báo cáo, đề nghị
của tổ chức đảng, cấp ủy cấp dưới). Nội dung của quyết định gồm hai điều: Điều 1 ghi
những vấn đề tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định, điều 2 ghi những tổ chức đảng và
đảng viên phải chấp hành quyết định.
3
Kế hoạch kiểm tra xác định mục đích, yêu cầu, chỉ tiêu của nhiệm vụ kiểm tra cần hoàn
thành trong một khoảng thời gian nhất định và các biện pháp về tổ chức, nhân sự, cơ sở vật
chất cần thiết thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
Hướng dẫn kiểm tra là văn bản giải thích, chỉ dẫn cụ thể việc tổ chức thực hiện văn bản,
kế hoạch kiểm tra của cấp ủy, do ban dân vận soạn thảo và gửi về cho các tổ chức, cá nhân
được kiểm tra. Hướng dẫn càng cụ thể, chi tiết thì công tác kiểm tra càng thuận lợi.
3. Các hình thức kiểm tra
Kiểm tra gián tiếp: Là hình thức tổ (đoàn) kiểm tra hướng dẫn đơn vị được kiểm tra tự
kiểm tra và báo cáo kết quả về cơ quan yêu cầu kiểm tra. Quy trình kiểm tra gián tiếp bao
gồm các bước sau:
- Tổ (đoàn) kiểm tra gửi quyết định kiểm tra, kế hoạch kiểm tra và văn bản hướng dẫn
việc tự kiểm tra cho đơn vị được kiểm tra;
- Đơn vị được kiểm tra xây dựng báo cáo bằng văn bản theo nội dung yêu cầu, kế
hoạch đề ra, sau đó gửi văn bản báo cáo cho tổ (đoàn) kiểm tra;
- Tổ (đoàn) kiểm tra nhận văn bản, nghiên cứu nội dung báo cáo. Nếu có vấn đề chưa
rõ thì gặp đơn vị để nghe báo cáo thêm;
- Tổ (đoàn) kiểm tra thẩm định lại những vấn đề đơn vị báo cáo (nếu có dư luận phản ánh);
- Tổ (đoàn) kiểm tra họp và thống nhất những nội dung cần kết luận;
- Tổ (đoàn) kiểm tra xuống hoặc gửi văn bản kết luận xuống đơn vị được kiểm tra để
thống nhất những nội dung nêu trong kết luận ở tổ (đoàn kiểm tra)
- Tổ đoàn kiểm tra chỉnh sửa và báo cáo lãnh đạo cấp có thẩm quyền cho ý kiến kết luận
- Sau khi lãnh đạo cho ý kiến tổ (đoàn) kiểm tra hoàn thiện văn bản kết luận, trình ký,
đóng dấu và gửi văn bản về đơn vị được kiểm tra thực hiện.
Kiểm tra trực tiếp: Là hình thức tổ chức đoàn đi xuống đơn vị để trực tiếp kiểm tra.
Quy trình tổ chức kiểm tra trực tiếp tiến hành theo những bước cụ thể sau:
- Họp tổ (đoàn) kiểm tra (do cấp có thẩm quyền thành lập), thống nhất nội dung,
phương pháp, phân công nội dung cụ thể…
- Chuẩn bị tài liệu, điều kiện cho tổ (đoàn) kiểm tra
- Phát hành các văn bản (quyết đinh, kế hoạch làm việc của đoàn, yêu cầu chuẩn bị,
phối hợp) đến các đơn vị được kiểm tra;
- Tổ chức đoàn đi xuống đơn vị để kiểm tra;
- Tiến hành kiểm tra tại đơn vị theo trình tự:
4
Đại diện tổ (đoàn) kiểm tra đọc quyết định của cấp có thẩm quyền về việc kiểm tra
đơn vị thực hiện chủ trương công tác dân vận, giới thiệu thành phần đoàn kiểm tra
Thống nhất lại nội dung, phương pháp, thời gian, địa điểm kiểm tra như trong kế
hoạch đã gửi từ trước
Nêu những yêu cầu đối với đơn vị được kiểm tra
Công bố phân công công việc cho các thành viên của đoàn và yêu cầu cán bộ của đơn
vị được kiểm tra phối hợp thực hiện
Tổ (đoàn) kiểm tra nghe báo cáo của đơn vị
Tiến hành kiểm tra hồ sơ, sổ sách và những tài liệu, chứng cứ liên quan (đối chiếu với
thực tế)
Tổng hợp , đối chiếu kết quả giữa các thành viên trong đoàn, hội ý đoàn. Dự thảo nhận
xét, đánh giá kiến nghị về những vấn đề cần thực hiện.
Gửi văn bản dự thảo cho đơn vị được kiểm tra để thống nhất nội dung được kiểm tra.
Hoàn thiện văn bản kiểm tra, báo cáo đề xuất cấp ủy có thẩm quyền quyết định. Tổ
( đoàn) kiểm tra báo cáo kết quả kiểm tra với cấp ủy có thẩm quyền, trình bày đầy đủ ý kiến
mà đối tượng kiểm tra không đồng ý hoặc có ý kiến khác với tổ kiểm tra. Tập thể cấp có
thẩm quyền thảo luận và kết luận nội dung kiểm tra và những đề xuất của tổ kiểm tra.
- Họp công bố kết quả kiểm tra, thành phần tham dự gồm đại diện cấp ủy có thẩm
quyền ra quyết định kiểm tra; đại diện tổ (đoàn) kiểm tra; đại diện lãnh đạo đơn vị hoặc cá
nhân đảng viên được kiểm tra.
- Phát hành văn bản kết luận kiểm tra đến đơn vị được kiểm tra.
Tóm lại: Kiểm tra thực hiện các chủ trương công tác dân vận là việc làm thường xuyên,
là một khâu quan trọng của công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng cấp trên đối với cấp
dưới; của Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp hành đoàn thể cấp trên với cấp dưới. Chủ trương
công tác phải được hướng dẫn để việc thực hiện được đồng bộ, thống nhất, thông suốt tới cơ
sở. Qua kiểm tra đơn vị, cấp ủy, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ xem xét rút kinh nghiệm và
có thể ra thông báo rộng hơn về những bài học qua đợt kiểm tra được tiến hành; nhằm giúp
cho nhiều đơn vị điều chỉnh các chủ trương, biện pháp chỉ đạo ngày càng sát hợp hơn. Như
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ
thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra
lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”.
5
6
Câu 2: Hãy phân tích vai trò của thông tin, báo cáo trong công tác dân vận?
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định: Dân vận và công tác dân
vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều
kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn
bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; là công việc cốt tử của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Bởi vậy, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn
đặc biệt coi trọng và quan tâm công tác này.
Bước vào thời kỳ mới, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế thế giới, đẩy mạnh toàn
diện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp cách mạng nước ta cũng
như công tác dân vận của Đảng đứng trước những thuận lợi và khó khăn. Để làm tròn vai trò
và sứ mệnh lịch sử, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thắng lợi, đưa đất nước vững bước đi lên,
Đảng cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác dân vận, tăng cường mối quan
hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức mạnh
to lớn của toàn dân tộc phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị Trung ương
7 khóa XI đã ban hành Nghị quyết “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới”. Đây là một nghị quyết có giá trị lịch sử, mang ý nghĩa
sâu sắc và toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận.
Quán triệt sâu sắc và thấm nhuần những vấn đề nêu trên, để tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới, đòi hỏi hệ thống ban dân vận các
cấp cần tăng cường chủ động phát huy tốt vai trò của thông tin, báo cáo trong công tác dân
vận, tiến hành đồng bộ nhiều nội dung để tham mưu giúp cấp ủy có định hướng lãnh đạo, chỉ
đạo sâu sát, kịp thời. Để làm rõ thêm về vai trò của thông tin, báo cáo trong công tác dân
vận, cần thực hiện nội dung sau:
1- Khái niệm về thông tin, báo cáo trong công tác dân vận
Thông tin công tác dân vận: Là việc cung cấp những chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước, cấp ủy cấp trên có liên quan đến mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ hoạt động
công tác dân vận của từng cơ quan, đơn vị, tổ chức làm công tác này. Đồng thời là sự nắm
bắt tình hình thực hiện công tác dân vận của quần chúng nhân dân, của các tổ chức, đơn vị,
cơ quan được giao nhiệm vụ.
Báo cáo công tác dân vận: Là một loại văn bản của một tổ chức đảng được thể hiện
bằng ngôn ngữ viết, ghi lại hoạt động lãnh đạo và xây dựng công tác dân vận của Đảng do
7
cấp ủy hoặc cơ quan dân vận ban hành theo thẩm quyền, trình tự và thể thức đã định, nhằm
báo cáo với cấp trên hoặc thông tin cho các chủ thể khác theo các chủ đề, các yêu cầu định
trước để đề ra các yêu cầu, phục vụ các quan hệ công tác, trao đổi thông tin, phối hợp giải
quyết một vấn đề cụ thể (như các yêu cầu tổng kết rút kinh nghiệm, cá nhân điển hình…).
Báo cáo công tác dân vận chính là một loại văn bản mang tính phương tiện, thể chế hóa
các chủ trương, chính sách của Đảng, của cấp ủy cấp trên, đảm bảo tính triển khai sự lãnh
đạo của Đảng, của Nhà nước, của cấp ủy cấp ủy cấp trên vào thực tiễn hoạt động dân vận
của cấp ủy, các tổ chức đoàn thể cơ sở nơi báo cáo. Đồng thời, báo cáo công tác dân vận phải
phản ánh đúng đắn và đầy đủ những lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân ở cơ sở
nơi tiến hành triển khai công tác dân vận.
2- Vai trò của thông tin, báo cáo trong công tác dân vận
Xác định rõ tầm quan trọng của thông tin, báo cáo công tác dân vận vốn là nhu cầu của
mỗi cơ quan, mỗi cấp lãnh đạo, chỉ đạo, mỗi tổ chức. Do đó, vai trò của thông tin, báo cáo
trong công tác dân vận của Đảng được thể hiện những nội dung sau:
a) Thông tin, báo cáo là nhu cầu tự thân của mỗi tổ chức, cơ quan, mỗi cấp lãnh đạo,
chỉ đạo:
Trong xã hội hiện tại, mọi hoạt động điều không thể thiếu thông tin, đặc biệt trong lãnh
đạo, quản lý xã hội, vận động nhân dân thì thông tin là yếu tố quyết định, là cơ sở cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, các quyết định của cấp ủy cấp trên,
của cơ quan dân vận sẽ sát và phù hợp với thực tế. Từ việc hoạch định đến triển khai đường
lối, chủ trương; việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy lãnh đạo đến việc xây dựng và bố trí
đội ngũ cán bộ… thực chất là sự chuẩn bị, thông qua và thực hiện một chuỗi những quyết
định kế tiếp nhau từ những cơ sở thông tin đã được xử lý.
Về nội dung, thông tin, báo cáo công tác dân vận thường đề cập:
- Sự nhìn nhận, đánh giá hoạt động của tổ chức, cơ quan trong việc triển khai các hoạt
động về dân vận; tổng kết, đánh giá một giai đoạn hoạt động về công tác dân vận của tổ
chức, cơ quan đó.
- Sự ghi nhận và phản ánh những vấn đề nảy sinh trong hoạt động dân vận của tổ chức và
những vấn đề vướng mắc nảy sinh trong đời sống của nhân dân và quá trình chỉ đạo giải quyết…
- Tư liệu lưu trữ để các giai đoạn lịch sử sau nghiên cứu, tổng kết bài học kinh nghiệm
của các giai đoạn trước đó.
8
Về hình thức, thông tin, báo cáo công tác dân vận thường thể hiện dưới hình dạng văn
bản, tài liệu: báo cáo của cấp ủy (ban chấp hành, ban thường vụ) về công tác dân vận của
Đảng ở cấp đó; báo cáo của các cơ quan giúp việc cấp ủy về các vấn đề có tính nghiệp vụ
liên quan đến công tác dân vận; báo cáo của cấp ủy do cơ quan giúp việc chuẩn bị, đưa ra tập
thể cấp ủy thảo luận, kết luận…
b) Thông tin, báo cáo là chế độ quy định trong công tác dân vận:
Trong công tác dân vận, việc nắm bắt các thông tin từ cơ sở, từ nhân dân và trên cơ sở
đó thu thập, xử lý thông tin là công việc hết sức quan trọng và tất yếu. Do đó, việc xây dựng
chế độ báo cáo trong công tác dân vận là yêu cầu khách quan được quy định thành văn bản,
có nhiều loại chế độ báo cáo trong công tác dân vận:
- Báo cáo của cấp dưới với cấp trên;
- Báo cáo của cơ quan tham mưu, văn phòng với cấp ủy;
- Báo cáo của các ban giúp việc với ban chấp hành, ban thường vụ;
- Báo cáo trao đổi thông tin về hoạt động dân vận giữa các cơ quan, đơn vị liên quan;
- Báo cáo cung cấp tài liệu về công tác dân vận cho các cơ quan nghiên cứu, đào tạo,
gắn lý luận với thực tiễn cuộc sống xã hội.
Tùy theo nội dung công việc, đối tượng tiến hành công tác dân vận và yêu cầu khách
quan của tình hình thực tế mà các cơ quan, tổ chức làm công tác dân vận sẽ làm báo cáo
công tác dân vận theo đúng chức năng, nhiệm vụ, công việc được phân công.
c) Thông tin, báo cáo đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động dân vận của các tổ
chức, cơ quan, đặc biệt là đối với công tác lãnh đạo và chỉ đạo:
Báo cáo công tác dân vận sẽ trình bày những kết quả (đã đạt được, chưa đạt được, chỉ ra
những nguyên nhân hạn chế của một đơn vị làm công tác dân vận…), cung cấp thông tin
chính xác, đầy đủ, kịp thời sẽ giúp cho cấp ủy làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhanh nhạy,
chủ động, kịp thời và sát đối tượng; là cơ sở để cấp ủy đánh giá đúng hoạt động thực tế, hiệu
quả quản lý, lãnh đạo, tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch của công tác dân vận đã đề
ra, là căn cứ để cấp ủy dự báo, đề xuất chủ trương, chính sách mới trong công tác của Đảng
nói chung và công tác dân vận nói riêng một cách phù hợp, sát thực tế.
Báo cáo công tác dân vận đưa ra những thông tin chính xác, đúng đắn sẽ là tài liệu lưu
trữ phục vụ cho công tác nghiên cứu, tham mưu của các cấp ủy đảng, các cơ quan chuyên
trách công tác dân vận, là căn cứ để các cơ quan làm công tác dân vận bám sát và áp dụng
trong xử lý các tình huống tương tự xảy ra trong thực tế.
9
Tóm lại, nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm quan trọng của đội ngũ cán bộ chuyên trách
công tác dân vận, việc thông tin, báo cáo trong công tác dân vận giúp cho các cấp ủy đảng
lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, chính xác, góp phần quan trọng tạo sự đồng thuận trong xã hội,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới,
chúng ta tin tưởng rằng, công tác dân vận của Đảng ta sẽ không ngừng phát triển vững chắc,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ theo yêu cầu mới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3- Thực tiễn đề cương mẫu thông tin, báo cáo tổng kết trong công tác dân vận hằng
năm của ban dân vận cấp tỉnh, cấp huyện
Để nhìn nhận, đánh giá, rút kinh nghiệm chỉ đạo của cấp ủy về một chủ trương, hoặc
một hoạt động lớn đã diễn ra qua một giai đoạn. Thông qua việc tổng kết để kết luận và kinh
nghiệm chỉ đạo, đề ra chủ trương mới trong thời gian tới sát hợp với tình hình nhiệm vụ thực
tế của từng địa phương, đơn vị hơn. Do đó, nội dung chính của thông tin, báo cáo tổng kết
công tác dân vận hằng năm của cấp tỉnh, cấp huyện cần tập trung vào các nội dung cụ thể
như sau:
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN NĂM QUA
I- Khái quát tình hình (kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh)
1- Tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh (rất khái quát).
2- Tình hình các tầng lớp nhân dân (tâm trạng các tầng lớp nhân dân, nguyện vọng và
nhu cầu bức xúc của các (một số) đối tượng quần chúng).
II- Công tác dân vận của hệ thống chính trị
1- Công tác dân vận của các cấp ủy đảng.
2- Công tác dân vận của các ngành, các cấp chính quyền.
3- Hoạt động của Mặt trận, đoàn thể và các hội quần chúng.
4- Công tác dân tộc, tôn giáo và một số đối tượng khác (dân tộc).
5- Một số mặt công tác khác (phong trào thi đua “Dân vận khéo”; công tác thông tin
tuyên truyền hoạt động dân vận; nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về công tác dân vận…).
III- Hoạt động của ban dân vận cấp ủy
1- Công tác nghiên cứu, đề xuất.
2- Công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát.
10
3- Công tác phối hợp.
IV- Những kiến nghị, đề xuất về công tác dân vận
1- Đánh giá chung về công tác dân vận qua năm; tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, bài học
kinh nghiệm (nếu có).
2- Kiến nghị, đề xuất chủ trương chỉ đạo.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC NĂM TỚI
I- Dự báo tình hình (nếu có)
II- Định hướng chung, công tác trọng tâm của cấp ủy đảng (nếu có)
III- Nhiệm vụ công tác dân vận năm tới
Căn cứ vào sự chỉ đạo của cấp ủy địa phương và hướng dẫn của ban dân vận cấp trên,
nhiệm vụ công tác dân vận cần thể hiện tập trung, rõ việc, có thời điểm triển khai, yêu cầu và
các giải pháp thực hiện, để làm tốt việc tham mưu chỉ đạo của cấp ủy về công tác dân vận
gắn chặt với các chủ trương được tiến hành ở địa phương, cơ sở. Kèm theo báo cáo có phụ
lục số liệu thống kê phản ánh các mặt hoạt động được nêu trong báo cáo tổng kết.
11
Câu 3: Hãy phân tích yêu cầu về nội dung của báo cáo công tác dân vận?
“Báo cáo công tác dân vận là một loại văn bản của một tổ chức Đảng được thể hiện
bằng ngôn ngữ viết, ghi lại hoạt động lãnh đạo và xây dựng công tác dân vận của Đảng do
cấp ủy hoặc cơ quan dân vận ban hành theo thẫm quyền, trình tự và thể thức đã định. Nhằm
báo cáo với cấp trên hoặc thông tin cho các chủ thể khác theo chủ đề. Các yêu cầu định trước
để đề ra các yêu cầu, phục vụ các quan hệ công tác, trao đổi thông tin, phối hợp giải quyết
một vấn đề cụ thể”.
Như chúng ta đã biết, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công
tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là
điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.Công tác dân vận thời gian qua đã góp phần tạo
sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Việc thông tin, báo cáo công tác dân vận được hiểu dưới
dạng viết, trong báo cáo chứa đựng những nội dung liên quan trực tiếp đến tình hình đời
sống của quần chúng nhân dân. Vì vậy việc soạn thảo báo cáo công tác dân vận là một khâu
rất quan trọng cho việc định hình, đánh giá kết quả để giúp cho Đảng, Nhà nước đưa ra
những đường lối, chủ trương đúng đắn sát với tình hình thực tế của nhân dân.
Trước tình hình nói trên, việc báo cáo công tác dân vận là một trong những việc làm rất
quan trọng trong việc triển khai, thực hiện công tác dân vận của Đảng ta. Báo cáo như thế
nào, báo cáo cái gì, ra sao, người soạn thảo báo cáo tình hình công tác dân vận cần nắm rõ,
hiểu rõ để báo cáo. Hiện nay, công tác thông tin, báo cáo công tác dân vận ở một số cơ sở
còn nhiều hạn chế về nội dung còn chưa đảm bảo, chưa kịp thời, đánh giá không đúng vị trí,
tầm quan trọng của sự việc, hiện tượng, báo cáo không đúng sự thất, không sát, không khách
quan, làm sai lệch đi các vấn đề. Một số báo cáo còn mang nặng hình thức và thành tích nên
việc báo cáo tình hình thực tế công tác dân vận tham mưu cho cấp ủy còn nhiều bất cập. Để
hiểu thêm báo cáo nội dung công tác dân vận, cần thực hiện các nội dung sau:
Yêu cầu nội dung của báo cáo công tác dân vận:
1. Báo cáo công tác dân vận phải bảo đảm trung thực, chính xác, khoa học.
- Nội dung báo cáo dân vận thường mang tính mô tả các kết quả của sự việc, hiện tượng
đã diễn ra, những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân, phương hướng, nhiệm vụ cũng như
những dự báo về công tác dân vận về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng
12
trên địa bàn; tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, đời sống của quần chúng nhân dân…
Vì vậy, trong báo cáo công tác dân vận cần phản ánh đúng sự thật khách quan, nêu đúng ưu
điểm, khuyết điểm, thuận lợi, khó khăn, việc đã giải quyết, việc còn tồn đọng, không được
hư cấu, sáng tạo hoặc chủ quan duy ý chí. Phải dựa trên những thông tin trung thực, khoa
học, rõ ràng. Phải tuân thủ theo điều lệ Đảng, đúng pháp luật của Nhà nước, không được trái
với nghị quyết của tổ chức Đảng cấp trên.
- Người trực tiếp soạn thảo không được thiên vị, không thêm bớt hiện tượng nhằm bóp
méo sự thật, phải trung thực và khách quan toàn diện trong cách đưa tin và đánh giá trong
báo cáo. Cần phải theo dõi, nghiên cứu sâu sát quá trình diễn biến sự việc, hiện tượng để tìm
nguyên nhân phản ánh và báo cáo. Nếu sự thật bị cắt xén, xác định sai nguyên nhân, đưa ra
những nguồn tin không chính xác, không toàn diện, sẽ làm cho cấp ủy đưa ra giải pháp
không đúng, xử lý thiếu kịp thời và không triệt để, ảnh hưởng đến quá trình xử lý, làm mất
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
- Báo cáo công tác dân vận phải mang tính khoa học, logic về nội dung, bố cục chặt
chẽ, rõ ràng, có sự nhất quán về chủ thể. Có vậy mới tránh được sự chồng chéo về nội dung,
sự trùng lặp, dài dòng, khó hiểu.
2. Báo cáo công tác dân vận phải cụ thể, trọng tâm, trọng điểm
Người soạn thảo phải đầu tư thời gian, chọn lọc các số liệu và sự kiện về các vấn đề
nhiệm vụ công tác dân vận được giao để đưa vào báo cáo, không nên báo cáo tràn lan mọi sự
việc, hiện tượng xảy ra trong xã hội. Tập hợp được số liệu chính xác, ăn khớp với nhau là việc
làm cần thiết, song đòi hỏi phải biết lập luận để thấy được ưu khuyết điểm thông qua những
con số đó. Cần tránh những con số ma hoặc những sự kiện chung chung không chứng minh, lý
giải được điều gì. Trường hợp cần giải thích kỹ hơn thì có thể đính kèm theo báo cáo các bản
phụ lục ghi các số liệu làm phương tiện minh chứng cho các kết luận trong báo cáo.
- Một bản báo cáo chỉ thuần túy thống kê sự việc mà không rút ra được những kinh
nghiệm, bài học gì thì đó là báo cáo kém chất lượng, hiệu quả. Cần xuất phát từ mục đích,
yêu cầu của từng loại báo cáo, xuất phát từ đối tượng đọc báo cáo mà có phương pháp viết
báo cáo cho cụ thể, mạch lạc, hợp với người nghiên cứu. Tránh báo cáo tràn lan, vụn vặt, sa
vào chi tiết rườm rà, sa vào các số liệu rắc rối mà phải chọn đúng trọng tâm, trọng điểm.
Trong báo cáo công tác dân vận có nhiều loại báo cáo khác nhau như báo cáo trực tiếp;
báo cáo nhanh; báo cáo tháng, quý; báo cáo sơ kết; báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề. Vì
13
vậy người soạn thảo báo cáo cần nhìn nhận, nắm thông tin chính xác, đầy đủ, và biết cách
báo cáo các nội dung có trọng tâm, trọng điểm cho người đọc dễ hiểu, dễ nhận ra vấn đề.
3. Báo cáo công tác dân vận phải kịp thời, có tính mới, không lặp lại
- Báo cáo kịp thời thể hiện ý thức, kỷ luật, ý thức tôn trọng tổ chức, tôn trọng cấp trên,
có trách nhiệm với công việc. Báo cáo chậm trễ, sai sót làm cho lãnh đạo không nắm được
thông tin từ cấp dưới, dẫn đến hậu quả không thể ứng phó kịp thời, nhanh nhạy với tình hình
để có những quyết định và mệnh lệnh chính xác, nhiều trường hợp gây ra hậu quả lớn trong
lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước về công tác dân vận. Hậu quả nghiệm
trọng việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác
dân vận không kịp thời, kém hiệu quả; dẫn đến đánh giá và dự báo không chính xác
những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân... để có chủ trương, chính sách phù hợp. Ở đây báo cáo kịp thời, nhanh
chóng, không có nghĩa là báo cáo sơ sài, qua loa, không đúng sự thật, cần có chủ đề nội
dung cụ thể, chi tiết tình hình thực tế của nhân dân, đánh giá được thực trạng hiện tại để
giải quyết, người báo cáo công tác dân vận cần chú ý đến vấn đề này.
Báo cáo công tác dân vận phải có tính mới, chọn lọc những thông tin mới, chính xác
từ những kênh thông tin đáng tin cậy. Biết chọn lọc những phản ánh của nhân dân từ tình
hình diễn biến thực tế hàng ngày của nhân dân. Không được báo cáo lập lại những cái cũ,
đã qua, không mang giá trị, dù có lập lại cũng nên chọn lọc những nội dung, thông tin
đang được đông đảo người dân chú ý, quan tâm, chưa được giải quyết kịp thời, đúng đắng
Tóm lại,trước yêu cầu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay. Người Cán bộ phụ
trách báo cáo công tác dân vận cần thu thập chính xác, đầy đủ thông tin từ nhiều kênh đáng
tin cậy khác nhau, chắc lọc thông tin, các nội dung báo cáo cần chính xác, kịp thời, đúng lúc,
khách quan, không chủ quan duy ý chí. Đặc biệt cần nắm được tâm tư, nguyện vọng, đời
sống kinh tế, xã hội của quần chúng nhân dân. Báo cáo cần vạch ra những khó khăn, thách
thức, những diễn biến tình hình xã hội, dự báo được những tình huống có thể xảy ra. Từ đó,
giúp cho cấp ủy nhận định tình hình đúng, đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, đáp
ứng được yêu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần xây dựng đảng trong
sạch vững mạnh, tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
14