Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản trong quan hệ Việt Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.38 KB, 11 trang )

BÀI DỰ THI
Cuộc thi viết “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào,
Lào – Việt Nam - năm 2017”
(Vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ tịch Cay-xỏn)
Cùng sinh sống trên Bán

đảo

cùng dựa lưng vào dãy

Trường Sơn và uống

chung



Công, hai dân tộc

Việt – Lào có nhiều nét

tương đồng về kinh

dòng

nước

Đông

Dương,

tế, văn hóa. Người Việt và người Lào từ lâu đời đã am hiểu về nhau và có mối


quan hệ gần gũi trong đời sống. Từ cội nguồn liên kết tự nhiên, trải cùng thời
gian, quan hệ hai quốc gia được thiết lập và ngày càng gắn kết. Quan hệ Việt –
Lào càng được thắt chặt hơn khi hai dân tộc cùng bị ngoại xâm đe dọa hoặc xâm
chiếm. Do có sự gắn bó về điều kiện tự nhiên, lại phải thường xuyên đương đầu
với các thế lực lớn mạnh hơn nhiều, hai dân tộc đã tìm đến nhau, cùng dựa vào
nhau chống trả kẻ thù, bảo vệ đất nước. Tình đoàn kết Việt – Lào đã được hình
thành như một sự tất yếu và ngày càng bền chặt qua thời gian.
Quan hệ Việt – Lào đạt tới tầm đặc biệt và nhân lên khi được Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản kính mến cùng các thế hệ lãnh
đạo, nhân dân hai nước dày công vun đắp, được tôi luyện và thử thách qua cuộc
đấu tranh cách mạng. Lịch sử mãi khắc ghi công ơn những người bạn, người
đồng chí, anh em Lào luôn kề vai sát cánh cùng Cách mạng Việt Nam trong mọi
điều kiện, hoàn cảnh, cũng như những đoàn quân tình nguyện, chuyên gia Việt
Nam sẵn lòng cống hiến, hy sinh xương máu, tuổi thanh xuân vì sự nghiệp Cách
mạng Lào. Trải qua chặng đường chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tiền thân của hai Đảng là Đảng
Cộng sản Đông Dương), chung một lý tưởng, nhân dân hai nước Việt Nam và
Lào đã giành được độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc để bước sang thời kỳ
1


xây dựng cuộc sống mới hòa bình, ấm no
và hạnh phúc.

Trong lịch sử quan hệ giữa các quốc giadân tộc từ xưa đến nay, ít thấy có mối
quan hệ nào đặc biệt như quan hệ hai
nước Việt Nam - Lào. Đây là mối quan hệ bắt nguồn từ vị trí địa - chiến lược
của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước là những
người xây dựng nền móng và dày công vun đắp…

Với quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, với thiện chí chân
tình, thông cảm nhau sâu sắc trên tình đồng chí anh em, giúp bạn là tự giúp
mình, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã cử hàng chục vạn con em yêu
quý của mình sang công tác và phối hợp với quân và dân Lào chiến đấu tại các
chiến trường của Lào, máu của biết bao anh hùng, liệt sĩ Việt Nam hòa quyện
với máu của quân và dân Lào để đem lại thắng lợi vẻ vang cho hai dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc Việt - Lào, đó vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là lợi
ích sống còn của mỗi nước. Người rất chăm chú theo dõi và dìu dắt, giúp đỡ
phong trào cách mạng ở Lào với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”. Từ khi
mới ra đời, tại Hội nghị Trung ương tháng 10/1930, Đảng Cộng sản Đông
Dương đã xác định đường lối cách mạng của ba nước Đông Dương: ba nước đều
là thuộc địa của Pháp... nên cần đoàn kết chống ách thống trị của bọn thực dân
Pháp, giành độc lập dân tộc...

2


Bên cạnh đó, trong tư tưởng chỉ đạo và hoạt động thực tiễn, Người luôn luôn
phát huy cao độ tính độc lập và chủ động của đồng bào các bộ tộc Lào. Theo
Người “kháng chiến Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của
chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công thì kháng chiến Miên, Lào mới
thắng lợi và kháng chiến Miên, Lào có thắng lợi thì kháng chiến Việt Nam mới
hoàn toàn thắng lợi”. Người khẳng định “Chính phủ, Mặt trận và nhân dân Việt
Nam ra sức hết lòng, thành thực giúp đỡ Mặt trận nhân dân Lào, Miên một cách
không có điều kiện”; “Mà giúp nước bạn tức là tự giúp mình” nên “phải ra sức
giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”. Trong quá trình giúp cách mạng Lào,
Người chỉ rõ, khi giúp bạn, phải nắm vững nguyên tắc dân tộc tự quyết. Việc gì
cũng phải đựơc Đảng và nhân dân Lào đồng ý rồi mới làm. Bởi vì, người làm
nên lịch sử Lào không ai khác chính là nhân dân Lào, cách mạng Lào phải do

nhân dân Lào tự làm lấy, sự nghiệp cách mạng Lào phải do Đảng Nhân dân cách
mạng Lào lãnh đạo. Tại Hội nghị Trung ương III (khóa II), Hồ Chủ tịch nêu rõ:
“cho đến nay chúng ta phải cố gắng giúp đỡ hơn nữa” và cũng từ đó, nhiệm vụ
giúp đỡ cách mạng Lào ngày càng được tăng cường, quan hệ đoàn kết Việt - Lào
càng thêm gắn bó, mật thiết.
3


Gắn kết cách mạng hai nước
Được Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản

cho phép

trở về Đông Dương theo nguyện vọng,

năm

1928, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm

đến

Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh

Khăm

Muộn trực tiếp truyền bá cách mạng tại

Lào nhằm

đưa cách mạng Việt Nam và Lào hòa


quyện,

nương tựa vào nhau, cùng đấu tranh

giành độc

bản

lập, tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, phong trào cách mạng Việt Nam-Lào những năm 1930-1931 đã có sự
phối hợp ngày càng gắn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn mối quan hệ giữa cách mạng hai nước Việt Nam
và Lào, kịp thời xây dựng và phát huy sức mạnh nhân dân hai nước. Thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở
Lào. Quán triệt chủ trương và những lời căn dặn của đồng chí Hồ Chí Minh tại
Hội nghị Tân Trào, Ban chỉ đạo khởi nghĩa ở Viêng Chăn vận động các lực
lượng yêu nước và tiến bộ Lào xúc tiến thành lập Chính phủ Lào Ít-xa-la.
Xuất phát từ nhu cầu hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, ngày 14-10-1945, Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa là Chính phủ đầu tiên trên thế giới chính thức công
nhận Chính phủ độc lập Lào và cử phái viên của Chính phủ Việt Nam tại Lào.
Từ đây, quan hệ Việt Nam-Lào chuyển sang giai đoạn mới không chỉ trong quan
hệ giữa nhân dân hai nước, mà nâng lên tầm quan hệ gắn bó giữa hai Nhà nước,
quyết tâm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Nhân dịp năm mới, tháng 11946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết Việt kiều ở Lào, trong đó nêu rõ:
“Lào và Việt Nam là hai nước anh em. Mối quan hệ giữa hai dân tộc rất là mật
thiết”. Người cũng khẳng định: “Bây giờ, hai dân tộc ta tuy còn phải khó nhọc,
nhưng tương lai của chúng ta rất là vẻ vang”.
4



Nhằm giúp Lào xây dựng căn cứ địa kháng chiến của Trung ương làm chỗ dựa
cho cơ quan lãnh đạo kháng chiến cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho
đồng chí Võ Nguyên Giáp nghiên cứu xây dựng Sầm Nưa thuộc tỉnh Hủa Phăn
thành căn cứ chiến lược cho cách mạng Lào. Ngày 16-5-1948, Ban xung phong
Lào Bắc được thành lập, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản làm chỉ huy trưởng.
Sầm Nưa đã trở thành trung tâm căn cứ địa Trung ương cách mạng Lào, nơi ra
đời Quân đội Lào Ít-xa-la, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản trực tiếp chỉ huy.
Tuyên Quang là nơi đã diễn ra Đại hội bầu Ủy ban Trung ương Neo Lào Ítxalạ
do Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch và ra bản Đề án về chương trình
chính trị 12 điểm xác định nhiều nội dung quan trọng về đường lối cách mạng
Lào và tăng cường đoàn kết với Việt Nam, Campuchia đánh đuổi thực dân Pháp
Cùng chiến đấu chống kẻ thù chung
Trước tình hình quốc tế, khu vực và Đông Dương có những chuyển biến sâu sắc,
đọc Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương (21951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải ra sức giúp đỡ cuộc kháng
chiến của nhân dân Lào, vì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam có
liên hệ mật thiết với cuộc chiến tranh giải phóng Lào”. Đại hội cũng quyết định
thành lập ở mỗi nước một chính đảng riêng, ở Việt Nam là Đảng Lao động Việt
Nam và ở Lào là Đảng Nhân dân Lào. Từ đây, mối quan hệ giữa Việt Nam và
Lào được nâng lên tầm cao mới trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung vì độc
lập, tự do của mỗi quốc gia.

5


Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là
mình tự giúp mình” và thực hiện chủ trương của lãnh đạo hai nước, quân và dân
Việt Nam-Lào đã phối hợp chiến đấu giành nhiều thắng lợi. Đặc biệt là phối hợp
giành thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là
Chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954,

kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Chiến thắng Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người
cộng sản Lào đã tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào (1955) để lãnh
6


đạo nhân dân Lào đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống kẻ thù chung. Ngay
sau khi thành lập, Đảng Nhân dân Lào (năm 1972 đổi tên là Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào) đã gửi điện cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện có đoạn: “Chúng tôi thành
công trong việc thành lập Đảng Nhân dân Lào là nhờ công ơn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã theo dõi, dìu dắt và sự giúp đỡ vô điều kiện của Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam trong thời gian qua”.
Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ
Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đây, quan hệ đoàn
kết đặc biệt Việt Nam – Lào được xây dựng phát triển lên tầm cao mới, thống
nhất chủ trương, sách lược đấu tranh trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao,
xây dựng lực lượng kháng chiến, tăng cường giúp đỡ lẫn nhau trong tác chiến,
trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo cán bộ…
Quân đội và nhân dân hai nước cũng đã sát cánh bên nhau chiến đấu đánh bại
các chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh đặc biệt tăng cường” của
đế quốc Mỹ, tạo ra thế và lực mới, bảo đảm cho quân đội và nhân dân Lào thực
hiện “ba đòn chiến lược” và mũi giáp công pháp lý năm 1975 thắng lợi, kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
vô sản; luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ mật thiết cách mạng hai nước Lào Việt Nam, nuôi dưỡng và phát huy sáng tạo sức mạnh chung của nhân dân hai
nước để cùng tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám ở Lào cũng như thắng

lợi Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam, giành độc lập cho nhân dân mỗi nước
năm 1945. Ngày 30/10/1945, hai nước đã ký Hiệp ước Hợp tác tương trợ Việt Lào. Với Hiệp ước này, quan hệ Việt - Lào đã chuyển sang một giai đoạn mới,
giai đoạn phát triển quan hệ đoàn kết giữa hai dân tộc anh em không chỉ trong
quan hệ giữa nhân dân hai nước, mà còn trên tầm quan hệ gắn bó giữa hai nhà
nước.
7


Chủ tịch Xuphanuvông đã khái quát ý nghĩa trọng đại của sự kiện này: “Quan hệ
Lào-Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới”, kỷ nguyên của mối quan hệ đoàn
kết đặc biệt Lào-Việt Nam giúp đỡ nhau vì mục tiêu chung của hai dân tộc.
Cũng ngày 30/10/1945, Chính phủ hai nước quyết định thành lập Liên quân Lào
- Việt Nam.
Thắng lợi đó dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương là thắng lợi của
nhân dân hai nước cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu, đoàn kết gắn bó
với nhau, cùng đấu tranh giành thắng lợi. Đó là bài học lịch sử đầu tiên vô cùng
quý giá trong lịch sử cách mạng giải phóng của hai dân tộc anh em.
Bằng việc xây dựng hệ thống quan điểm và chỉ đạo thực tiễn thực hiện liên minh
đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa Việt Nam và Lào, cũng như sự quan tâm, phát
hiện và xây dựng nhân tố bên trong cho cách mạng Lào, đã dẫn tới việc thành
lập Đảng Nhân dân Lào ngày 22/3/1955, sau này là Đảng Nhân dân cách mạng
Lào (tháng 2/1972), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thật sự đã đặt nền móng
cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Đó là mối quan hệ vừa bảo đảm lợi ích dân tộc, vừa bảo đảm kết hợp hài hòa
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để cùng hướng tới mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Đúng như Chủ tịch Cay xỏn Phômvihản đánh giá: “Năm 1930, Đảng Cộng sản
Đông Dương do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập đã ra đời, là bước ngoặt lịch sử
của cách mạng ba nước Đông Dương. Từ đó trở đi, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mác-Lênin chân chính và với ngọn cờ cách mạng dân tộc, dân chủ cuộc đấu

tranh cách mạng của nhân dân các bộ tộc Lào đã bước vào thời kỳ mới và với
chất lượng mới hoàn toàn.”
Điều đó càng chứng tỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đóng góp về lý luận,
đường lối, phương hướng cách mạng mà Người còn quan tâm đến cả việc tổ
chức, chỉ đạo thực tiễn cách mạng Lào.
8


Sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào trong suốt nhiều thập kỉ qua
gắn liền với tên tuổi, công lao to lớn của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản. Sự cống
hiến suốt cả cuộc đời mình cho dân, cho nước, cho Đảng thể hiện phẩm chất
tuyệt vời của Chủ tịch. Công lao và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản mãi mãi được ghi vào sử sách của Lào.
Chủ tịch Cayxỏn luôn nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, đóng góp nhiệt tình
vào sự nghiệp hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, nhất là các quốc
gia trong khu vực. Trong quan hệ quốc tế đó, đoàn kết với Việt Nam luôn là
nhân tố quan trọng và được Chủ tịch dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt,
liên minh chiến đấu thủy chung son sắt giữa Lào và Việt Nam. Chính từ khói lửa
của chiến tranh ác liệt vì độc lập tự do cho dân tộc mình đã làm cho nhân dân
hai nước, các chiến sĩ cách mạng và các nhà lãnh tụ cao nhất của hai dân tộc gắn
bó, kề vai sát cánh bên nhau và cùng nhau làm cách mạng, đánh bại các lực
lượng thù địch và tiến lên theo con đường đã lựa chọn.
Trong suốt thời gian lãnh đạo cách mạng Lào, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản luôn
đánh giá cao vai trò của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào. Trong các
cuốn sách, trong các bài phát biểu của mình, Chủ tịch luôn khẳng định chính
sách trước sau như một của Đảng, Nhà nước, nhân dân Lào đối với Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị rút kinh nghiệm công tác tác
chiến tại Lào, ngày 21/9/1965, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đã nói: “Nhìn lại
lịch sử 20 đấu tranh vừa qua, bất kể trong hoàn cảnh nào, ở đâu, hai dân tộc anh
em Lào - Việt Nam chúng ta luôn luôn sống chết có nhau, cùng nhau làm cách

mạng. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi chung của chúng ta. Hai
anh em chúng ta đồng cam cộng khổ, bát cơm chia đôi, cọng rau bẻ nửa, sướng
khổ có nhau, quan hệ giữa hai dân tộc là quan hệ đặc biệt”.
Đưa quan hệ đặc biệt Việt-Lào lên tầm cao mới
Sau khi hai nước hoàn toàn được giải phóng năm 1975, quan hệ hai nước
chuyển sang giai đoạn mới. Trong bài phát biểu chào mừng Đại hội lần thứ IV
9


Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 15/12/1976, Chủ tịch Cayxỏn đã nói: “Trong
lịch sử cách mạng thế giới có nhiều tấm gương sáng về tình cảm quốc tế vô sản,
nhưng chưa có khi nào, chưa có ở nơi đâu có mối quan hệ đoàn kết chiến đấu
đặc biệt lâu dài, toàn diện như mối quan hệ Lào - Việt Nam. Mối quan hệ đó đã
trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng, mẫu mực, hiếm có và
ngày càng được củng cố, phát triển vững chắc. Chúng tôi nguyện hết lòng vun
đắp cho tình hữu nghị Lào - Việt Nam ngày một xanh tươi, đời đời bền vững”.
Về phía Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào đã dành phần đất của mình để giúp
Việt Nam xây dựng “Đường Hồ Chí Minh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,”
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 và tạo điều kiện cho cách
mạng Lào giành thắng lợi hoàn toàn và thiết lập nên nước Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào ngày 2/12/1975.
Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam là kết quả của việc vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và Lào, là một trong những thành
quả cách mạng của hai dân tộc, do nhân dân hai nước cùng nhau xây dựng nên
và được xây đắp bằng công sức, xương máu của nhân dân hai nước.
Trước yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam và Lào trong thời kỳ mới,
ngày 18-7-1977, hai nước đã thỏa thuận ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
Việt Nam-Lào. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng mang tính chiến lược lâu dài,
đánh dấu mốc phát triển mới của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt

và hợp tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.
Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân hai nước Việt
Nam và Lào diễn ra trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến đổi
to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những khó khăn, thách thức khó lường.
Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào sẽ nỗ lực đoàn kết phấn
đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giữ trọn mối quan hệ đặc biệt ViệtLào.
10


Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn và
các thế hệ lãnh đạo hai nước xây dựng nền móng và có công vun đắp là một tài
sản vô cùng quý báu, mãi mãi được giữ gìn, không ngừng nâng cao chất lượng
và hiệu quả hợp tác toàn diện, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, độc
lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Thongloun Sisoulith phát động Năm Đoàn kết
hữu nghị Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam 2017

Kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (5/9/1962-5/9/2017) và 40
năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị Việt Nam-Lào (18/7/1977-18/7/2017). Đây là
mốc son sáng chói, khắc sâu tình đoàn kết đặc biệt, hữu nghị và truyền thống
giữa hai nước. Trong 55 năm qua, kể từ ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại
giao, mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
giữa hai nước đang ngày càng được củng cố và phát triển sâu rộng trên tất cả các
lĩnh vực. Tiếp nối truyền thống tốt đẹp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ
thịch Cay - xỏn Phôm - vi - hản và các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun
đắp.

11




×